1.-
NGƯỜI HẦU CẬN BUỔI ĐẦU CỦA ĐỨC PHẬT: Ngày
nay, mỗi khi bước vào chánh điện của các chùa, viện, chúng ta thường
thấy trên bàn thờ trung ương, tượng đức Phật Thích Ca (Sakya) ngự trên
tòa sen ngay chính giữa, còn đứng hầu hai bên bên đức Phật thì bên phải
là tượng tôn giả A Nan (Ananda) và bên trái là tượng tôn giả Đại Ca Diếp
(Mahakasyapa - Maha-kassapa); nhưng trong những năm đầu hoằng hóa của
đức Phật thì không phải như vậy. Xá
Lợi Phất (Sariputra - Sariputta) và Mục Kiền Liên đã xuất gia theo Phật
ngay trong thời gian hai năm đầu tiên sau ngày Phật thành đạo. Từ ngày
qui y theo Phật, Xá Lợi Phất luôn luôn đứng hầu bên phải đức Phật, và
Mục Kiền Liên thì hầu bên trái. Ngoại trừ những lúc phải đi du phương bố
giáo, còn thì không lúc nào họ rời đức Phật. Xá
Lợi Phất xuất gia được nửa tháng, đã dứt trừ mọi phiền não, nhưng Mục
Kiền Liên thì chỉ bảy ngày sau khi xuất gia là dứt hết mọi lậu hoặc,
hiển lộ thần thông, chứng quả A la hán. Tôn
giả Mục Kiền Liên, người cao lớn, mặt vuông, tai to, nét mặt luôn luôn
lộ vẻ cương nghị, lạc quan, tính tình dũng cảm, lúc nào cũng vì chính
nghĩa mà can thiệp những chuyện bất bình. Trong
giáo đoàn của đức Phật, số người chứng được thần thông có rất nhiều,
nhưng chỉ có Mục Kiền Liên được suy tôn là vị có thần thông rộng lớn
nhất. 2.-
NGUYỆN CHỨNG THẦN THÔNG: Vì
sao tôn giả Mục Kiền Liên có được thần thông như vậy? Điều đó có liên
quan tới câu chuyện của một tiền kiếp của tôn giả như sau: Trong
một kiếp thời quá khứ, Mục Kiền Liên làm nghê chài lưới, thường bắt tôm
cá ở biển làm kế sinh nhai. Một hôm, bỗng nhiên tâm niệm lành phát khởi,
ông tự biết rằng, sinh nhai bằng cách đó thật không chánh đáng, người
sống ở đời này phải biết tạo công đức cho đời sau. Ông bèn quyết định
thay đổi nghề nghiệp. Sau đó không bao lâu, ông để ý thấy có một đức
Phật Bích Chi thường lui tới trong thành phố. Phong độ an nhiên, oai đức
tự tại của Phật đã làm cho ông sinh tâm cung kính. Một hôm, ông thỉnh
Ngài về nhà để cúng dường cơm trưa. Nguyên đức Phật Bích Chi này không
hề dùng pháp thoại mà chỉ sử dụng thần thông để hóa độ, cho nên sau khi
thọ trai xong, Ngài bèn nhảy lên hư không, hoặc trái hoặc phải, hoặc
trước hoặc sau, hoặc trên hoặc dưới tùy theo ý muốn. Ông thấy thế rất
lấy làm thích thú, bèn phát nguyện kiếp sau thế nào cũng cầu tu chứng
được thần thông. Có ý
chí thì sẽ thành công. Tôn giả Mục Kiền Liên, do sự phát nguyện ấy mà
trong đời này được qui y với đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), đã chứng
thần thông mà lại còn được coi là bậc thần thông số một trong hàng cao
đệ của Phật. 3.-
BẮC CẦU ĐƯA PHẬT QUA SÔNG: Nói
về thần thông của Mục Kiền Liên thì tai nghe âm thanh, dù âm thanh ở gần
hay ở thật xa cũng đều nghe rõ ràng; mắt nhìn vật thì dù vật có bị che
khuất cũng nhìn thấy thấu suốt; đường đi dù xa vạn dặm, nhưng chỉ trong
một khoảnh khắc là đi tới nơi ... Tôn giả thường dùng thần thông ấy để
giúp đức Phật trong việc hành hóa. Có
một lần dân chúng trong toàn thành Xá Vệ (Sravasti - Savatthi) họp nhau
bày tiệc cúng dường cho toàn thể quí vị đạo sĩ của 96 giáo phái khác
nhau. Họ cũng mời cả vua Ba Tư Nặc (Prasenajit - Pasenadi), thái tử và
các vị đại thần trong triều cùng tham dự. Tiệc được dọn trên một quảng
trường rộng lớn bên kia bờ sông A Kì. Hôm dó, Mục Kiền Liên là người
thượng khách đến đầu tiên. Một lát sau, đồ chúng của các giáo phái khác
cũng lần lượt tụ tập; nhưng vào lúc ấy bỗng nước sông dâng cao, làm cho
họ không thể lội qua sông được. Họ bảo nhau: “Nước sông hôm nay bỗng
nhiên dâng cao, chúng ta, không làm sao sang thọ thực được. Thôi thì hãy
cố đợi chốc nữa sa môn Cồ Đàm (Gautama - Gotama) đến xem có cách nào
không ...” Đúng vào lúc ấy, Mục Kiền Liên vừa trông thấy đức Phật
dẫn chúng tăng đang đi tới từ đằng xa. Tôn giả bèn dùng thần lực hóa ra
một cây cầu bắc qua sông để đức Phật và chúng tăng có thể đi qua. Vừa
thấy có cây cầu bỗng dưng xuất hiện, chúng tu sĩ ngoại đạo kia vô cùng
hớn hở, lại bảo nhau: “Ông sa môn ấy chắc là tới trễ rồi! Trời đã làm
cầu giúp chúng ta qua sông trước. Chúng ta phải là thượng khách của bữa
tiệc này. Chúng ta phải được ngồi ở chỗ tốt nhất ...” Vừa nói, họ
tranh nhau qua cầu, nhưng khi đến giữa cầu thì bỗng nghe “rầm” một
tiếng, cây cầu đã gãy. Mọi người rớt cả xuống nước, tiếng la kêu cứu
thất thanh, chấn động cả một vùng. Khi ấy đức Phật và chúng tăng cũng
vừa đến bờ sông, chiếc cầu lại hiện ra như trước. Phật và chúng tăng
cùng bước lên cầu. Thấy tình trạng những người dưới sông có thể bị nguy
hiểm, đức Phật thương cảm, bèn vận dụng thần lực cứu hết mọi người lên
cầu và cùng họ sang sông. Khi đã tới bờ, ai nấy nhìn lại thì chiếc cầu
đã biến mất. Khi Phật và chúng tăng đã an tọa thọ thực thì các chúng tu
sĩ ngoại đạo vẫn còn đang hong phơi y phục dưới ánh nắng mặt trời buổi
trưa. Nhân đó mà họ đã tự tỉnh ngộ, biết rằng mình chỉ như cái ánh sáng
yếu ớt của ngọn đèn dầu, không thể nào so sánh với ánh sáng tỏ rạng như
mặt trời của Phật và tăng chúng. 4.-
CÙNG PHẬT TƯƠNG KIẾN TRONG THIỀN ĐỊNH: Một
lần nọ, đức Phật trú tại tu viện Kì Viên (Jetavana) ở thành Xá Vệ, còn
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thì trú tại tu viện Trúc Lâm (Venuvana) ở
thành Vương Xá (Rajagrha - Rajagaha). Hai vị cùng thiền tọa trong một
tịnh thất. Đêm
ấy là một đêm vô cùng yên tĩnh. Bên ngoài thiền thất, ánh trăng giăng
tỏa mông lung; bên trong thì chỉ một ngọn đèn dầu loe lét. Không hề có
một tiếng động. Đầu
hôm đã qua đi. Giữa đêm cũng qua đi. Đến cuối đêm, bỗng Xá Lợi Phất lên
tiếng phá tan cái không khí yên tĩnh đó. Tôn giả hỏi: - Này
sư huynh Mục Kiền Liên! Xin thứ lỗi cho tôi được đường đột hỏi câu này
nhé; Có phải suốt đêm nay sư huynh an trú trong chánh định không? - Tại
sao sư huynh lại hỏi tôi như vậy? Mục Kiền Liên nho nhỏ hỏi lại. - Tại
vì tôi không nghe thấy hơi thở của sư huynh. Sư huynh cũng không hề trở
mình hay có bất cứ một cử động nhẹ nào. Trong phòng hầu như đã không có
sư huynh trong suốt thời gian từ đầu hôm tới giờ. - Thì
ra vậy! Đêm nay vì sực nghĩ đến vấn đề chuyên cần tinh tấn trong sự tu
học nên tôi đã tức tốc đến xin đức Thế Tôn chỉ dạy. Suốt đêm tôi đã ở
bên Người để hầu chuyện. - Sư
huynh nói thật khó hiểu. Hiện giờ đức Thé Tôn ở tại Kì Viên nơi phương
Bắc, còn chúng ta thì đang ở Trúc Lâm nơi phương Nam, hai nơi cách nhau
quá xa, làm sao sư huynh có thể vừa ở đây vừa ở nơi Người để hầu chuyện!
Hay là sư huynh đã dùng thần túc thông để đến với Người, hoặc giả là
Người đã dùng thần túc thông đến nơi đây? -
Không đâu! Đức Thế Tôn và tôi đều không dùng thần túc thông để đi đâu
cả. - Vậy
thì sư huynh đến hầu chuyện đức Thế Tôn bằng cách gì? - Sư
huynh Xá Lợi Phất ạ! Điều này chẳng có gì là lạ lùng cả. Đức Thế Tôn có
thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Những thứ thần thông này sư huynh
và tôi cũng đã chứng được chút ít rồi đó. Bây giờ chỉ cần gia công vận
dụng là chúng ta có thể được cùng hầu chuyện với Người bất cứ ở đâu và
lúc nào. Xá
Lợi Phất không phải là không biết điều đó, nhưng chỉ vì tôn giả thường
hay lấy thái độ khiêm cung để đối xử với mọi người mà thôi. Khi nghe Mục
Kiền Liên nói thế, tôn giả hết sức hoan hỉ khen ngợi: - Sư
huynh có thần thông rộng lớn, công đức cao dầy. Tôi được cùng sư huynh
tu học, cùng thờ một thầy, thật là vinh hạnh vô cùng. Sư huynh sách như
ngọn núi cao, nguy nga đồ sộ, còn tôi như hòn đá nhỏ được đặt bên cạnh
sư huynh, thật là cái nhân duyên khó gặp. Trên thế gian này, nếu có
người nào được quen biết và tới lui gần gũi, được cung kính cúng dường
sư huynh, thì người ấy nhất định sẽ có phước lành rất lớn! Nghe
Xá Lợi Phất nói vậy, Mục Kiền Liên cũng khiêm cung đáp lại: - Tôi
cũng vậy. Ngày nay tôi được cùng ngồi một chỗ với vị trưởng lão phước
trí vẹn toàn Xá Lợi Phất, cũng ví như hòn đá nhỏ mà được đặt bên cạnh
ngọn núi cao, tôi cảm thấy được yên ổn, phấn khởi và vinh hạnh vô cùng! Mục
Kiền Liên và Xá Lợi Phất là hai người bạn học vừa là bạn đạo đã lâu năm.
Họ tộn kính nhau, khen ngợi nhau từ đầu đến cuối, tình bạn và tình đạo
khắng khít trên đời hiếm có. 5.-
AI THẦN THÔNG BẬC NHẤT: Người
bạn lâu năm của Mục Kiền Liên là Xá Lợi Phất không những là người có đại
trí tuệ mà còn là người có đại thần thông. Khi làm giám đốc công trường
xây cất tu viện Kì Viên ở thành Xá Vệ, tôn giả đã từng vận dụng 18 phép
thần thông để tranh tài và đã thắng các nhà thủ lãnh ngoại đạo. Vì vậy,
đối với dân chúng thành Xá Vệ, tôn giả được biết tới như một người vừa
có trí tuệ lớn và vừa có thần thông lớn. Một
lần nọ, đúng vào ngày Rằm, đức Phật thuyết giới cho chư tăng bên hồ A
Nậu Đạt. Thấy thiếu Xá Lợi Phất, Phật bảo Mục Kiền Liên: -
Thầy hãy đến thành Xá Vệ mời thầy Xá Lợi Phất về đây. - Đức
Thế Tôn mời sư huynh đến hồ A Nậu Đạt, chỗ Người sắp thuyết giới. Xá
Lợi Phất đáp: - Xin
cám ơn sư huynh đã đem mệnh lệnh lại cho tôi. Một chốc nữa chúng ta cùng
đi. Bây giờ chúng ta cùng chơi trò này một tí nhé! -
Chơi trò gì vậy? -
Này, sư huynh! Sư huynh là một vị trưởng lão có thần thông lớn. Vậy đây
là một cái dải áo, sin sư huynh hãy kết nó thành một cây diêm phù đề! Xá
Lợi Phất nói xong liền ném cái dải áo xuống đất. Mục Kiền Liên lượm lên
nhưng không thể nào lay động nó được. Mục Kiền Liên phải vận dụng đến
thần thông, và khi lấy được cái dải áo thì đã làm cho mặt đất rung động.
Xá Lợi Phất bèn giật cái dải áo đem cột vào núi Tu Di, Mục Kiền Liên
cũng nhanh nhẹn dở hỗng núi Tu Di lên. Xá Lợi Phất lại đem dải áo cột
vào pháp tòa của đức Phật, và lần này, dù Mục Kiền Liên đã đem hết thần
lực ra cũng không thể nào lay chuyển được cái pháp tòa ấy. Xá Lợi Phất
cười, nói với Mục Kiền Liên: - Sư
huynh! Những điều chúng ta học được và tu chứng được, nếu đem so sánh
với đức Thế Tôn vạn đức vạn năng thì thật cách xa một trời một vực. Thần
lực của chúng ta có thể lay chuyển núi Tu Di, làm rung động trời đất,
nhưng với cái pháp tòa của Người thì không thể làm cho nhúc nhích được.
Hôm nay vì tôi nghi ngờ với chính thần lực của tôi cho nên tôi đã mời sư
huynh thử nghiệm để xem có đúng như vậy không. Thôi bây giờ chúng ta hãy
mau mau đi bái kiến Người. Xin sư huynh đi trước, tôi sẽ theo sau liền. Nghe
mấy lời của Xá Lợi Phất. Mục Kiền Liên rất lấy làm kính phục. Sau khi
gật đầu với Xá Lợi Phất, tôn giả liền vận dụng thần túc thông trở về hồ
A Nậu Đạt. Nhưng khi tôn giả về đến nơi thì đã thấy Xá Lợi Phất tự lúc
nào rồi! Tôn giả đảnh lễ đức Phật và bày tỏ nổi thắc mắc, thưa rằng: -
Bạch Thế Tôn! Có lẽ con đã mất thần túc thông rồi hay sao? Từ tu viện Kì
Viên về đây, con đã đi trước sư huynh con, sao bây giờ sư huynh con lại
đến trước con? Thế Tôn thường bảo rằng con là người có thần thông bậc
nhất, nhưng tôn hiệu ấy bây giờ nên dùng cho sư huynh con thì đúng hơn. Đức
Phật từ hòa an ủi: -
Thầy Mục Kiền Liên! Thầy là người có thần thông lớn, trừ Như Lai ra,
không ai có thể so sánh được. Thầy cũng không hề mất thần túc thông.
Thầy nên biết rằng, thầy Xá Lợi Phất chỉ là người có trí tuệ lớn. Sau
khi thuyết giới ở hồ Na Nậu Đạt, đức Phật dẫn chúng tăng trở về thành Xá
Vệ. Đại chúng ở thành Xá Vệ, sau khi biết được câu chuyện trên đều xôn
xao bàn tán, cho rằng thần thông của Xá Lợi Phất trội hơn Mục Kiền Liên.
Nghe lời bình phẩm ấy của mọi người mà Mục Kiền Liên không hề cảm thấy
bất mãn. Với tấm lòng khoáng đạt, khiêm cung, tôn giả biết rằng Xá Lợi
Phất đã vượt trội hơn mình. Nghe đại chúng khen ngợi Xá Lợi Phất, tôn
giả cũng cảm thấy rất vinh hạnh như chính mình được khen ngợi. Nhưng
riêng Xá Lợi Phất thì lại cảm thấy không yên lòng. Tôn giả cho rằng sự
việc vừa rồi đã làm cho Mục Kiền Liên mất thể diện. Tôn giả liền bạch
Phật: -
Bạch Thế Tôn! Sư huynh Mục Kiền Liên con là người có thần lực lớn, có
công hạnh lớn. Vừa rồi con đã đến hồ A Nậu Đạt sớm hơn là tại vì con quá
vội muốn nghe Thế Tôn thuyết giới, còn sư huynh con thì tuy có vận dụng
thần lực nhưng lại không muốn vội vàng. Hiện giờ đại chúng đều xôn xao
bàn tán, biết rằng thần lực của con vượt trội hơn sư huynh con; điều đó
con không dám nhận. Xin Thế Tôn dùng cách nào để xóa bỏ lời bình phẩm
không công bằng của đại chúng đi. Đức
Phật mỉm cười gật đầu. Ngài biết hai người này đều vô cùng khiêm tốn,
yêu bạn. Một hôm, sau thời giảng kinh, Phật bảo Mục Kiền Liên: - Này
thầy Mục Kiền Liên! Thầy là người có thần thông lớn, trong đại chúng
không ai có thể so sánh được. Thầy cũng không hề mất thần túc thông. Bây
giờ ở trước đại chúng, thầy hãy diễn bày oai lực thần thông để gây lòng
tin cho những kẻ sơ học. Mục
Kiền Liên vâng lời Phật dạy, bước ra khỏi chỗ ngồi, một chân thì đạp
trên trái đất này, một chân thì đạp trên cõi trời Phạm Thiên, làm cho
cõi đất chấn động sáu lần. Tôn giả lại từ không trung dùng Phạm âm để
nói kệ, khiến cho chu vị tì kheo có mặt trong giảng đường trừ hết lậu
hoặc, trí tuệ bừng sáng. Từ đó, mọi người đều tôn xưng tôn giả là người
có thần thông bậc nhất. 6.-
DỜI NÚI HÓA ĐỘ CÁC VỊ PHẠM CHÍ: - Này
Mục Kiền Liên! Tại một vương quốc lớn kia ở vùng biên giới, từ vua quan
cho đến dân chúng đều tôn phụng các vị phạm chí mà không hề biết Phật
pháp. Rất nhiều các vị phạm chí ở đó đã chứng được thần thông, có thể
dời núi, ngăn sông, phân thân, biến hóa. Thầy nên đến đó, tùy tiện mà
dùng oai đức hoặc thần lực để điều phục họ, khiến họ tin phục Phật pháp,
bỏ con đường tà để trở về nẻo chánh. Tôn
giả vâng mạng, bay lên hư không mà đi. Đến nơi, tôn giả thấy rất nhiều
vị phạm chí đang ngồi vòng quanh một quả núi lớn. Xem tình hình thì có
vẻ như họ đang vận dụng thần lực để di chuyển quả núi ấy. Tôn giả bèn
treo cáo quả núi ấy lên hư không và làm cho nó không thể nào di động
được nữa. Chúng ngoại đạo rất lấy làm kinh dị, một vị bảo: “Quả núi
này đã nhích lên được rồi, sao ai lại làm cho nó bị bất động như thế
này! Hay là trong chúng ta có người nào bất tịnh chăng?” Bỗng họ
nhìn lên không trung thì thấy có người đang đứng giữa hư không, ngay
trên đỉnh núi. Họ bèn lớn tiếng cự nự: - Ông
là ai, sao dám tới đây buông lung? Quả núi này làm cản trở lưu thông,
quốc vương sai chúng tôi dời nó đi chỗ khác. Đó là chúng tôi vì dân
chúng mà trừ đi việc bất lợi, sao ông lại đè chặt không cho nó di
chuyển? Mục
Kiền Liên cười đáp: - Rõ
ràng là tôi đang đứng giữa hư không đây, sao quí vị lại bảo tôi đè chặt
quả núi của quí vị? Các
vị phạm chí lại gia tăng phát động thần lực, đã ba lần cố đẩy quả núi
đi, nhưng núi cao vẫn y nhiên bất động, Trong lúc họ đang lo lắng không
biết làm cách nào thì tôn giả gọi họ, bảo: -
Này! Xin quí vị hãy chú ý, xem quả núi này đi mất nhé! Tôn
giả vừa nói xong thì cả quả núi cao đồ sộ kia bỗng biến đi đâu mất,
trước mặt họ chỉ còn là bình địa. Họ thấy thế thì lại càng kinh dị, chỉ
biết cúi đầu nói lớn: -
Thưa đại đức! Đại đức từ đâu đến? Nếu không phải là bậc có trí tuệ cao
cả, đạo hạnh sâu dầy thì làm sao làm được việc vừa rồi! Vậy xin đại đức
hãy thu nhận chúng tôi làm đồ đệ và xin chỉ bày cho chỗ tăm tối của
chúng tôi. Bấy
giò tôn giả mới từ trên không trung hạ xuống, nói với họ một cách từ
hòa: - Tôi
đã rõ thấu tấm lòng chân thành của quí vị. Quí vị đã muốn từ bỏ chỗ tối
tăm để tìm về nơi sáng sủa, thì tôi xin giới thiệu bậc tôn sư của tôi,
đó là đức Phật. Ngài là vị Trời trên hết các vị Trời, là vị Thánh trên
hết các vị Thánh, đầy đủ trí tuệ cao diệu, vạn đức vạn năng. Xin quí vị
theo tôi cùng đến với Người để xin qui y, nhất định Người sẽ từ bi thu
nhận. Các
vị phạm chí lại hỏi: Tôn
giả nghiêm trang đáp: Đức
Phật như núi Tu Di, còn chúng tôi thì chỉ như hạt cải; hạt cải thì đâu
có thể nào so sánh với núi Tu Di! Đức Phật như biển cả, còn chúng tôi
thì chỉ như một dòng sông con, một dòng sông con thì đâu có thể nào so
sanh với biển cả! Gặp Phật xuất thế là việc rất khó, cho nên qui y với
Người thì quí vị sẽ được hóa độ. Các
vị phạm chí nghe nói hết sức vui mừng, đều nguyện theo Mục Kiền Liên đi
về chỗ Phật ngự, xin qui y thọ giáo. 7.-
HÀNG PHỤC ÁC MA: Mục
Kiền Liên tuy thường dùng thần thông để hàng phục ác ma, ngoại đạo,
nhưng rồi chính tôn giả cũng thường hay bị họ tìm đến quấy nhiễu. Một
ngày kia, tôn giả vâng mạng đức Phật, một mình đi đến nước Bạt Già để
giáo hóa. Trong lúc tôn giả đang thiền hành trên con đường vắng thì một
con ác quỉ trông thấy. Nó bèn dùng thần thông chui vào bụng tôn giả.
Bỗng dưng tôn giả cảm thấy bụng đau dữ dội. Trong bụng dường như có một
cục gì to bằng cái chén, lại có tiếng động lớn như tiếng sấm. Tôn giả
lập tức quay về tịnh thất. Sau một lúc tĩnh tọa và quán sát, tôn giả
biết ngay đó là ác ma muốn quấy phá mình. Tôn giả bảo: - Này
ác ma! Hãy mau ra đây! Tốt hơn hết là người không nên xâm phạm đến đức
Phật cũng như các đệ tử của Người, vì chắc chắn là ngươi không thể nào
nhiễu hại được họ; chỉ trừ phi người nào nghiệp lực chưa dứt hẳn, còn
không thì ngươi vĩnh viễn không làm gì được đâu. Ác
quỉ nghĩ thầm: “Quái lạ thật! Ta dù có thế nào đức Phật cũng không
biết được, Mục Kiền Liên dù có thần thông đến đâu đi nữa, làm sao biết
được ta?” Tôn
giả lại bảo: - Này
ác quỉ! Ngươi đừng lấy làm lạ! Ngươi vừa nghĩ rằng, dù có đức Phật đi
nữa cũng không thể biết ngươi là gì huống hồ là ta, dù có thần thông,
làm sao lại biết được ngươi, có phải không? Ngươi lầm rồi! Ác
quỉ nghe thế thì lấy làm kinh hãi vô cùng, liền hóa làm nước bọt mà chui
ra ngoài. Từ đó nó không bao giờ còn dám trở lại trêu ghẹo tôn giả nữa. 8.-
SẮC ĐẸP MĨ NHÂN KHÔNG ĐỊCH NỔI VỚI THẦN THÔNG: Mục
Kiền Liên không những không bị ma lực làm hại, mà cho đến sắp đẹp của mĩ
nữ cũng không thể làm hoen ố đạo hạnh của tôn giả. Một
ngày kia, trên đường khất thực trở về khi đi qua một khu rừng, tôn giả
trông thấy một thiếu phụ tuổi chừng trung niên, ngồi bên đường như đang
chờ đợi. Khi tôn giả đi vùa đến trước mặt thì nàng liền đứng lên chận
lại, mắt liếc đưa tình, miệng nở nụ cười duyên dáng, thỏ thẻ nói: - Tôn
giả ơi! Ngài đi đâu mà quên em vậy? Có rảnh rỗi thì nói chuyện với em
một chốc nha! Tôn
giả đứng hẳn lại, mắt chăm chú nhìn thiếu phụ. Dù tuổi nàng đã trên ba
mươi, nhưng nét đẹp kiều diễm và quyến rũ của nàng vẫn đầy sức hấp dẫn
đối với những chàng trai trẻ si tình. Không những tôn giả nhìn kĩ vào
nét mặt và vóc dáng nàng mà con nhìn thấu trong tâm ý của nàng. Với thái
độ an nhiên tự tại, tôn giả dùng lời lẽ thật oai nghiêm nói với thiếu
phụ: -
Thật đáng thương cho bà! Thân xác bà đã không trong sạch mà tâm hồn bà
thì lại càng mờ tối. Bà tưởng có thể đem tâm niệm bất chánh của bà để
lung lạc được ta ư? Người
đàn bà khựng lại, thất sắc: - Tôn
giả! Tôn giả! Ngài ... Ngài nói gì vậy? Em không hiểu! - Bà
đừng mong che dấu được tư tưởng mờ ám của bà. Bà đợi ở đây với dụng ý
gì, ta đã thấy rõ tất cả. Ba đang bị mê lạc trong một thứ sắc đẹp dối
trá và chính nó lại đang giúp bà nhiều cơ hội để tạo tội lỗi; cũng như
con voi già bị lún trong bãi sình lầy, càng cố ngoi lên càng bị chìm sâu
xuống. Thiếu
phụ như sực tỉnh cơn mê: -
Thưa tôn giả! Ngài đã thấy được tâm ý của con thì con cũng biết là không
thể dối gạt được ngài nữa rồi! Từ lâu con đã nghe người ta nói rằng ngài
là vị đệ tử thần thông bậc nhất của đức Phật, nhưng con không tin là
thần thông lại có thể đánh bại được sắc đẹp của mĩ nhân. Bây giờ con mới
biết con là một người đàn bà có nhiều tội lỗi sâu nặng. Con muốn hồi tâm
hướng thiện chứ không như bao nhiêu người ngoan cố khác, nhưng con lại
nghĩ rằng, có lẽ con là một người không còn xứng đáng để được cứu vớt.
Con có một quá khứ thật ghê sợ, trong tương lai thế nào cũng bị quả báo
trói buộc. Tình
cảm của người đàn bà cuối cùng rồi cũng trở nên yếu đuối. Nàng vừa nói
vừa khóc rấm rứt, nước mắt chảy ràn rụa. Tôn giả phải an ủi: - Bà
đừng buồn nữa, và cũng đừng thất vọng. Dù trong dĩ vãng bà đã tạo tội
lỗi sâu nặng thế nào đi nữa, chỉ cần bà biết ăn năn sám hối thì bà vẫn
là người có thể cứu vớt được. Áo quần dơ bẩn có thể dùng nước giặt sạch;
khi tâm ý dơ bẩn thì chúng ta dùng giáo pháp của đức Phật để gột rửa.
Nước từ trăm dòng sông dù có ô trược, một khi đã chảy vào biển cả thì
tức khắc trở nên trong sạch. Giáo pháp của đấng Đại Giác Thế Tôn cũng
vậy, có thể rửa sạch tất cả sự ô uế của tâm ý con người, làm tiêu trừ
mọi lầm lỗi của quá khứ. Lời
dạy của tôn giả đã làm cho thiếu phụ tươi hẳn nét mặt. Nàng cảm thấy tâm
ý được bình tĩnh thêm, ánh mắt sáng ngời và dâng lên niềm hi vọng tràn
trề. Nàng kính cẩn: -
Kính thưa tôn giả! Giáo pháp của đức Phật thật từ bi, vĩ đại vậy sao?
Nhưng cái quá khứ của con thì xấu xa quá lắm! Đời con gặp toàn chuyện
bất hạnh, con mà nói ra chắc ngài phải bịt tai, che mắt! -
Không sao đâu! Bà cứ kể hết cho tôi nghe. À tên bà là gì nhỉ? -
Thưa tôn giả! Con tên là Liên Hoa Sắc (Utpalavarna - Upplavanna), vốn là
con của một vị trưởng giả ở thành Đức Xoa Thi La. Năm mười sáu tuổi con
lập gia đình. Chẳng bao lâu thì cha con qua đời, và mẹ con lại tư thông
với chồng con. Khi con biết được thì ruột gan đau như đứt khúc. Lúc đó
con vừa sinh được một cháu gái, trong cơn tức giận con bèn đem ném nó
trong bụi, rồi bỏ nhà ra đi. Sau đó con lấy một người chồng khác, Người
chồng này thường hay đi làm ăn xa. Một hôm y từ thành Đức Xoa Thi La trở
về, đã dối gạt con lấy mấy ngàn lưọng vàng để mua một cô gái làm vợ bé.
Y gởi cô vợ bé này ở nhà bạn bè, giữ hết sức bí mật, sợ con biết; nhưng
về sau thì con cũng biết được chuyện ấy. Khi biết chuyện, con khóc la ầm
ĩ, đòi y phải để cho con được thấy mặt cô ta để xem cô ấy là người thế
nào và làm sao mà chiếm được tình yêu của chồng con. Khi đã thấy và biết
rõ cô ta rồi, thì, tôn giả ơi, lòng con đau đón đến chết ngất! Tôn giả
biết không? Nàng ấy không phải ai xa lạ, mà chính là đứa con gái của con
với người chồng trước! Nói
đến đây, Liên Hoa Sắc xúc động quá, khóc nấc lên. Mục Kiền Liên lại an
ủi: - Bà
Liên Hoa Sắc! Bà đừng quá đau buồn như vậy! Khi một người trông thấy rõ
quá khứ, hiện tại, vị lai thì cũng thấy rõ được những mối dây nhân quả
chằng chịt quấn nhau. Nói một cách xác thực thì cuộc đời chỉ là một vũng
sâu của tội lỗi. Câu chuyện về sau của bà như thế nào, bà cứ bình tĩnh
kể tiếp đi! -
Thưa tôn giả! Con làm sao chịu đựng nổi những trận đòn dồn dập này! Nghĩ
đến lúc trước đã bị mẹ cướp mất một người chồng, rồi bây giờ con gái của
con lại cùng với con giành nhau một người chồng, thì con còn mặt mũi nào
mà nhìn thiên hạ! Cho nên con lại bỏ nhà ra đi. Con chán ghét cái thế
gian này. Chán ghét cả loài người. Con bèn biến mình thành một dâm nữ để
lấy thế gian này, nhân loại này làm trò vui; và như tôn giả thấy đó, con
đang sống một cuộc sống đầy tội lỗi, bẩn thỉu như thế này đây. Thưa tôn
giả, bất cứ tội lỗi xấu xa nào con cũng làm được, miễn là có tiền và gây
khổ lụy cho người khác. Con không cần nói nhưng tôn giả cũng đã biết
được tại sao hôm nay con cố chờ đợi ở dây, cũng may là gặp phải một bậc
thần thông, có giới hạnh toàn vẹn như tôn giả; nhưng con phải làm thế
nào để sám hối với tôn giả bây giờ? Nge
xong câu chuyện của cuộc đời Liên Hoa Sắc, Mục Kiền Liên không hề có ý
tưởng khinh rẻ nàng, trái lại, trong giờ phút ấy, tôn giả đã nhìn thấy
nơi nàng cái tâm rất chân, rất thiện, rất mĩ. Để cho nàng yên tâm, tôn
giả đến gần nàng hơn, dùng lời lẽ hết sức từ hòa để khuyến khích: - Bà
Liên Hoa Sắc! Quả thật bà đã có một thân thế quá đau thương, tủi nhục,
nhưng nếu bà quyết tâm tu học theo giáo pháp của đức Phật thì cái đoạn
nhân duyên ấy cũng có lúc phải chấm dứt, bà sẽ được hoàn toàn giải
thoát, an lạc, tự tại. Xin bà hãy theo tôi về yết kiến đức Phật. Liên
Hoa Sắc cảm thấy mừng vui vô hạn. Sở dĩ nàng được cứu vớt, được thay đổi
từ một cuộc sống đầy tai họa trở thành một cuộc sống đầy phúc lạc là nhờ
ở tôn giả Mục Kiền Liên, một người vừa có thần thông lại vừa biết dùng
phương tiện khéo léo để hóa độ. 9.-
PHÁP ÂM CỦA PHẬT NGHE ĐƯỢC BAO XA?: Trong
giáo đoàn của đức Phật thi Mục Kiền Liên là người có nếp sống sinh động
nhất. Việc gì không ai làm được thì tôn giả làm; nơi nào không ai đi tới
được thì tôn giả đi tới. Một
ngày nọ ở thành Vương Xá, khi đức Phật đang nói pháp trong giảng đường
tu viện Trúc Lâm thì Mục Kiền Liên ngồi trong thiền thất của mình. Tuy
thiền thất cách khá xa giảng đường, nhưng tôn giả vẫn nghe rõ mồn một
pháp âm của Phật. Sự việc ấy đã làm cho tôn giả hết sức lạ lùng. Nhân
đó, tôn giả đã nảy sinh ra ý tưởng là hãy thí nghiệm xem pháp âm của
Phật có thể nghe được đến bao xa. Tôn giả liền vận dụng thần túc thông,
đi ra khỏi thế giới Ta Bà đến vài mươi ức Phật độ, tới quốc độ của đức
Phật Thế Tự Tại Vương (Lokesvararaja) đang nói pháp. Mục
Kiền Liên vẫn thường hay du hành đến các Phật độ khác, và giống như một
người lữ hành đầy kinh nghiệm, mỗi khi đi đến đâu tôn giả cũng xem nơi
đó như chính là quê hương của mình. Bây giờ tôn giả đang ở tại quốc độ
xa xôi này, vừa gặp lúc đức Phật Thế Tự Tại Vương đang nói pháp, nên hết
sức vui mừng, bèn nhẹ nhàng đến trước pháp tòa, tìm một nơi ngồi xuống
để nghe pháp. Có
một sự việc mà nói ra thì không thể nào lấy sự suy nghĩ hay bàn luận mà
có thể hiểu được. Mục Kiền Liên đang ngồi đây nghe Phật Thế Tự Tại Vương
nói pháp, nhưng ngoài tiếng nói của đức Phật này, tôn giả vẫn còn nghe
rất rõ tiếng nói pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tận thế giới Ta Bà!
Ngay lúc ấy, Phật Thế Tự Tại Vương ngưng nói pháp. Một vị Bồ Tát tiến
đến trước pháp tòa đảnh lễ đức Phật, rồi chỉ về phía Mục Kiền Liên thưa
rằng: -
Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn đang nói pháp thì chẳng biết con vật kia từ
đâu chạy vào đây, trông thật quái lạ. Để chúng con đuổi nó đi! Phật
Thế Tự Tại Vương liền ngăn lại bảo: - Ông
đừng nói như vậy! Vị đó là Mục Kiền Liên, đệ tử thần thông bậc nhất của
đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà. Chúng
Bồ Tát lại nói: -
Bạch Thế Tôn! Sao thân hình ông ta lại quá bé nhỏ như thế? Sở dĩ
chúng Bồ Tát hỏi như vậy là vì thân thể của người ở thế giới đó so với
người ở thế giới Ta Bà thì cao lớn hơn đến mấy trăm lần. Đức Phật Thế Tự
Tại Vương giải thích: - Các
ông không nên coi thường vị tôn giả này. Ông ấy có thần thông lớn, oai
đức lớn, thường hay du hành đến các quốc độ, hành hóa một cách tự tại,
còn thân thể lớn nhỏ khác nhau là do nghiệp lực của chúng sinh ở các thế
giới không giống nhau mà cảm ra. Nói
xong đức Phật quay sang bảo Mục Kiền Liên: - Này
Mục Kiền Liên! Ông từ thế giới khác đến đây, hãy hiển lộng các thứ thần
hóa cho chúng Bồ Tát đệ tử của ta xem để giải trừ mối nghi hoặc của họ
đối với ông! Mục
Kiền Liên liền nương oai thần của Phật, hiển lộng thần thông biến hóa,
rồi trở về chỗ cũ ngồi xuống. Chúng Bồ Tát thấy vậy bèn tỏ lòng cung
kính, Đức Phật lại hỏi tiếp: - Này
Mục Kiền Liên! Có phải ông đến quốc độ của ta để thử xem pháp âm của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni nghe được bao xa phải không? -
Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Dụng tâm của con chính thực như vậy. Mục Kiền
Liên cung kính trả lời. - Này
Mục Kiền Liên! Ông không nên có ý tưởng đó, vì đối với với oai lực của
chư Phật trong mười phương, hàng nhị thừa không thể nào thấu rõ trọn vẹn
được. Pháp âm của chư Phật đầy khắp hư không. Đối với căn duyên của
chúng sinh thì các cảnh giới có xa có gần, cho nên không thể lấy cái tâm
phân biệt gần xa ấy mà thí nghiệm pháp âm của chư Phật. Nghe
xong lới dạy của đức Phật Thế Tự Tại Vương, tôn giả tự lấy làm hổ thẹn.
Từ đó, trong tăng đoàn của đức Phật, tôn giả dù vẫn là người sinh động
nhất, nhưng không còn dám dùng thần thông của mình để làm việc vô ích
nữa. 10.-
CHÚNG QUỈ HỎI VỀ NHÂN DUYÊN NGHIỆP BÁO: Không
những thường hay du hành đến các Phật độ, Mục Kiền Liên còn thường hay
đến các cảnh giới địa ngục để quán sát như thế nào. Trên
đường hành hóa, một ngày nọ đến bờ sông Hằng thì trời vừa tối, Mục Kiền
Liên bèn dừng bước, ngồi nhập định bên bờ sông để chờ trời sáng. Gió
đêm thổi nhẹ, bầu trời trong vắt đầy sao. Bỗng đâu, chúng quỉ đói tụ tập
tới bờ sông thật đông để lấy nước uống, nhưng lại bị bị con quỉ thật
hung ác có nhiệm vụ canh giữ nước sông ở đó, cầm gậy sắt xua đuổi, khiến
cho chúng không dám xuống sông lấy nước. Lúc đó, trong lúc thiền định,
Mục Kiền Liên đã quán sát và thấy rõ tội nghiệp của chúng đều không
giống nhau, bèn gọi chúng lại ngồi chung quanh, nhân đó mà chúng được
dịp hỏi tôn giả về nhân quả nghiệp báo của mình. Con
quỉ đầu tiên hỏi: -
Thưa tôn giả! Kiếp xưa con làm người, nhưng bây giờ phải đọa lạc vào
chốn Ngạ quỉ, thường bị đói khát. Nghe nói nưóc sông Hằng trong mát,
nhưng khi con múc nước uống thì thấy nước nóng vô cùng, chỉ cần uống vào
một ngụm thôi, là lục phủ ngũ tạng đều bị bỏng, đã thế lại còn bị con
quỉ hung ác kia xua đuổi. Vậy xin tôn giả cho biết lúc xưa con đã tạo
nghiệp gì mà phải chịu quả báo như hôm nay? Sau
một giây lát dùng thần lực quán sát, tôn giả trả lời: - Đời
trước ngươi làm nghề bói toán. Trong lúc nói về sự kiết hung của người,
ngươi thường tùy ý khen chê, nói dối nhiều hơn nói thật, tự cho mình
biết rõ mọi việc nhưng sự thật chỉ là lừa đảo, chỉ vì kiếm lợi cho mình
mà đang tâm mê hoặc chúng sinh; bởi vậy ngươi mới phải chịu quả báo đau
khổ như ngày hôm nay. Con
quỉ thứ nhì hỏi: -
Thưa tôn giả! Con thường bị một con chó thật lớn, thật mạnh ăn thịt. Khi
thịt con hết rồi thì một cơn gió thổi qua xương, tức thì thịt có ra trở
lại để cho con chó ấy ăn nữa. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà con phải
chịu quả báo như vậy? - Tại
vì kiếp trước người thường hay giết hại các loài heo, dê, gà, vịt để lấy
thịt cúng thần tế trời, cho nên ngày nay phải chịu quả báo như vậy. Con
quỉ thứ ba hỏi: -
Thưa tôn giả! Bụng con thì to như cái vại mà tay chân và cổ họng thì nhỏ
như cây kim, thấy đồ ăn thức uống gì cũng thèm mà không thể nào ăn được.
Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà con phải chịu quả báo như vậy. - Đời
trước ngươi làm quan đến chức tể tướng, nhưng vì tự ỷ mình giàu có quyền
cao mà khinh khi hiếp đáp người, cưỡng chiếm tài sản do mồ hôì nước mắt
người làm ra, mặc ý tư tình hưởng lạc, cho nên ngày nay phải chịu quả
báo như vậy. Con
quỉ thứ tư hỏi: -
Thưa tôn giả! Đầu con thì to như cái đấu, miệng lưỡi của con thì to lớn
chiếm đầy cả nửa thân trên, trong khi đó thì máu cứ từ ở nửa thân dưới
phun lên, các huyết quản lúc nào cũng như muốn bể ra, mạng sống mỏng
manh như chỉ mành. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà con phải chịu quả báo
như vậy? -
Kiếp xưa ngươi chỉ thích bàn luận chuyện thị phi, hay nói tới cái xấu
cái tốt của người, những điều ngươi nói ra không bao giờ đem lai lợi lạc
cho người mà chỉ làm cho người đau khổ, cho nên ngày ngay ngươi phải
chịu quả báo như vậy. Còn
rất nhiều câu hỏi như thế nữa, và mỗi mỗi đều được tôn giả trả lời thỏa
đáng. 11.-
NGUYÊN DO NGÀY HỘI VU LAN: Một
ngày nọ, Mục Kiền Liên bỗng nhớ đến thân mẫu đã qua đời. Trong lúc thiền
định, tôn giả đã quán chiếu thấy mẹ mình đang phải chịu quả báo đau khổ
trong chốn Ngạ quỉ. Thân hình bà khô héo tiều tụy, chỉ còn da dính
xương, cổ thì nhỏ như cây kim may, trông tình trạng thì có vẻ đang đói
khát lắm. Tôn giả thương cảm vô cùng, bèn lấy bình bát đựng đầy cơm đem
dâng cho mẹ. Thấy cơm bà mừng lắm, lấy cơm bỏ vào miệng ăn, nhưng đau
khổ thay, cơm chưa tới miệng thì đã biến thành lửa đỏ, không thể nào ăn
được! Thấy mẹ như thế, tôn giả thương quá, buồn quá đau đớn quá! Tôn
giả biết là tội nghiệp của mẹ rất nặng, nhưng sức mình không làm gì được
để cứu mẹ, bèn đi bái kiến đức Phật, kể rõ câu chuyện vừa rồi và xin
Phật dạy cho phương pháp cứu mẹ. Đức Phật dạy: - Này
Mục Kiền Liên! Vì gốc tội của mẹ thầy quá sâu dầy, cho nên dù thần lực
của thầy có rộng lớn, và dù cho lòng hiếu thảo của thầy có làm cảm động
đến trời đất, nhưng chỉ có sức một mình thầy thì không thể nào cứu nổi
bà thoát khỏi cảnh giới đau khổ. Muốn cứu được bà, thầy phải nhờ đến
thần lực của toàn thể tăng chúng mới được. Chỉ có sức chú nguyện của
toàn thể tăng chúng mới tạo nên thần lực lớn, làm cho nghiệp chướng của
mẹ thầy tiêu trừ và bà sẽ thoát khỏi các quả báo đau khổ. Vậy,
mỗi năm cứ đến ngày Rằm tháng Bảy, là ngày “tự tứ” của chư tăng khi mãn
khóa an cư, những người làm con nên xin chư tăng tổ chức cho lễ chú
nguyện để hộ niệm cho các bậc cha mẹ đã qua đời cũng như hiện còn sống.
Những người con hiếu thảo, đến ngày ấy phải sắm sửa trai phạn, hương hoa
trà quả để cúng dường chư tăng; bởi vì, chư tăng trong mười phương, hoặc
đang thiền định nơi hang núi hay bên bờ sông, hoặc đang kinh hành ở dưới
gốc cây, hoặc đang tu tập và chứng bốn quả vị Thanh Văn, hoặc đã chứng
được sáu phép thần thông và đang giáo hóa đó một cách tự tại, hoặc là
các vị Bồ Tát đang phương tiện hành hóa bằng thân tướng tì kheo, những
bậc thánh chúng như vậy rất nhiều, giới hạnh của họ thật thanh tịnh,
phước đức của họ như biển lớn, cho nên sức chú nguyện của họ hợp lại sẽ
hùng mạnh vô cùng, làm cho cha mẹ và người người thân thuộc đã quá vãng
trong nhiều đời trước được tiêu tan nghiệp chướng, thoát li các quả báo
đau khổ trong các chốn tối tăm, và đồng thời cũng làm cho cha mẹ và
những người thân thuộc đang còn sống được nhiều phước lạc. Đó là phương
pháp mầu nhiệm và hữu hiệu để thực hiện lòng hiếu thảo. Được
Phật chỉ dạy cặn kẽ, Mục Kiền Liên vui mừng lạy tạ. Đến ngày tự tứ, tôn
giả y lời Phật dạy, cung thỉnh đại chúng chú nguyện cho mẫu thân; quả
nhiên, nhờ thế mà bà giải thoát được cảnh khổ đau nơi chốn Ngạ quỉ, Để
đền ơn đức Phật, tôn giả nhân đó đã đem lời Phật dạy mà hướng dẫn cho
Phật tử thực hiện ngày hội Vu Lan hằng năm để đáp đền công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ. Và cũng bởi nguyên do này, ngoài tôn hiệu “thần
thông bậc nhất’, tôn giả Mục Kiền Liên còn được tôn xưng là bậc “đại
hiếu”. 12.-
BÀI KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT: Với
thần thông rộng lớn, Mục Kiền Liên có thể thấy biết mọi sự việc xảy ra
trong cả ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai. Tôn giả cũng lại là người
thường hay thay thế Phật nói pháp. Một
hôm, vì có sự khẩn cầu của đại chúng, đức Phật đã bảo tôn giả nói về
những sự việc đời quá khứ của dòng họ Thích Ca. Tôn giả đã vận dụng túc
mạng thông quán sát lịch sử của dòng họ này từ nhiều kiếp xa xưa, rồi
tuần tự thuật lại tỉ mỉ. Đại chúng nghe xong đều nhận thấy rằng, đức
Phật đã đản sanh vào dòng họ Thích Ca rồi thành tựu đạo quả giác ngộ,
không phải là không có nhân duyên. Rối
một hôm khác, nhân đại chúng tập hợp để cùng nhau trình bày những kiến
giải của mình trong việc tu học, tôn giả đã đọc cho đại chúng nghe bài
kệ của bảy đức Phật như sau:
Mọi việc xấu nên tránh
Mọi việc tốt nên làm
Giữ tâm ý thanh tịnh
Đó là lời Phật dạy Huấn
thị của chư Phật ra sao? Cứ nghe bài kệ đơn giản Mục Kiền Liên vừa nói
ra, dù là kẻ sơ học cũng thấy rõ được mục đích của Phật giáo. Bởi vậy,
tôn giả cùng với bài kệ đều được đại chúng ghi khắc trong lòng. 13.-
THẦN THÔNG KHÔNG CHỐNG LẠI ĐƯỢC NGHIỆP LỰC: Thần
thông của Mục Kiền Liên, quả thật trong tất cả các đệ tử của đức Phật,
không ai có thể so sánh được. Bất cứ việc gì, dù khó khăn đến đâu, hễ
tôn giả vận dụng đến thần thông thì không có việc gì là không thành. Mặc
dù vậy, việc sử dụng thần thông chỉ hữu hiệu đối với việc cứu độ chúng
sinh hay giúp thêm phương tiện cho việc tuyên dương Phật pháp, chứ không
thể sử dụng nó để làm những việc trái ngược lại với các luật tắc nhân
quả. Thần thông không giúp thắng được nghiệp báo, cũng không thể giúp
giải thoát được phiền não, sinh tử; đó là sự thật. Một
ngày kia, quê hương Ca Tì La Vệ của đức Phật bị vua Lưu Li (Virudhaka -
Vidudabha) của nước Kiều Tát La dẫn đại quân xâm lược. Nghe được tin ấy,
lúc đầu đức Phật cũng nghĩ đến việc phải bảo vệ tổ quốc. Ngài bên ngồi
ngay trên đường tiến quân của vua Lưu Li cốt ý cảm trở viếc tiến quân
này. Đã ba lần như vậy, cứ trông thấy đức Phật thì vua cho lui quân,
nhưng cái tâm xâm lược cũng như cái ý chí muốn trả một mối cựu thù gì đó
của nhà vua thì không chấm dứt được. Đức Phật quán chiếu và biết rõ là
cái mối nhân quả nghiệp báo ràng buộc giữa hai bộ tộc từ lâu đã đến lúc
phải được kết thúc, nếu không thì không thể nào giải trừ được. Bởi vậy,
dù rất yêu mến quê hương, dù đã ba lần xả thân cản trở đạo quân xâm
lăng, nhưng cuối cùng thì Ngài cũng đành phải để cho vua Lưu Li tấn công
thành Ca Tì La Vệ. Nhưng
Mục Kiền Liên thì không chịu như vậy. Khi biết tin thành Ca Tì La Vệ đã
bị đại quân của vua Lưu Li Bao vây, tôn giả bạch Phật: -
Bạch Thế Tôn! Thành Ca Tì La Vệ đang bị tấn công, con nghĩ là mình phải
ra sức cứu giúp nhân dân trong thành. Phật
nhìn Mục Kiền Liên, giọng từ ái bảo: - Này
thầy Mục Kiền Liên! Bộ tộc Thích Ca đã đến đến lúc phải chịu quả báo của
những tội nghiệp đã gây từ bao đời trước. Đó là cộng nghiệp của họ chiêu
cảm nên, thầy không thể nào chịu thế cho họ được. Họ đã không biết sám
hối tội lỗi, không chịu sửa đổi những sai lầm cũ và ngăn ngừa những
nghiệp xấu mới, mà vẫn cứ một mực kiêu ngạo, ngang tàng. Dĩ nhiên, ngôi
nhà đã bị mối mọt đục nát thì phải bị sụp đổ!. Nghe
lời Phật dạy của đức Phật, Mục Kiền Liên biết đó là sự thật, nhưng tôn
giả vẫn nghĩ là có thể sử dụng thần thông của mình để cứu nhân dân trong
thành được. Vua
Lưu Li dùng hàng trăm ngàn quân để bao vây thành, một giọt nước cũng khó
lọt qua, huống nữa là người; cho nên Mục Kiền Liên phải dùng thần thông
bay vào bên trong thành Ca Tì La Vệ. Vào
thành rồi, tôn giả bèn chọn lấy năm trăm nhân vật ưu tú của bộ tộc Thích
Ca, bỏ họ vào trong bình bát, đậy nắp lại và bay ra khỏi thành. Đến một
nơi thật an toàn, tôn giả mở nắp bình bát ra, tưởng là đã cứu thoát được
năm trăm người này, nhưng khi nhìn vào bình bát thì hỡi ôi! Tôn giả
hoảng kinh thất sắc, tất cả năm trăm người trong bình bát đều biến thành
máu! Lúc bấy giờ tôn giả mới sực tỉnh ngộ, lời Phật dạy quả không sai,
dù thần thông có quảng đại đến thế nào đi nữa, cũng không thể thắng được
nghiệp lực cùng những luật tắc nhân quả. 14.-
TUẪN GIÁO: Mục
Kiền Liên thường sử dụng thần thông để trợ lực đức Phật trong việc hoằng
dương chánh pháp, công đức thật lớn lao. Mặc dù vậy, từ lâu đức Phật vẫn
thường lưu ý đại chúng rằng, thần thông không phải pháp môn rốt ráo. Sự
thật rất rõ ràng, như tôn giả Mục Kiền Liên đó, là bậc thần thông quảng
đại như vậy đó, và đã từng dùng thần thông làm phương tiện hành đạo hữu
hiệu như vậy đó, nhưng rốt cuộc, thần thông ấy đã không giúp tôn giả
thắng được nghiệp báo của chính mình. Đức Phật muốn dùng sự thật điển
hình này để răn dạy người sau. Tuy
tuổi tác mỗi ngày một cao, nhưng tinh thần bố giáo của tôn giả Mục Kiền
Liên vẫn càng lúc càng sung mãn, bước chân hành hóa cứ như nước chảy mây
trôi, không bao giờ ngưng nghỉ. Tôn giả không biết rằng, chính vì cái
nhiệt tâm truyền bá Phật pháp ấy mà tôn giả đã bị rất nhiều tu sĩ ngoại
đạo hiềm khích, đố kị, Những tu sĩ ngoại đạo ấy rất nhiều lần muốn hại
đức Phật, nhưng không làm cách nào được, bèn hướng mục tiêu vào Mục
Kiền Liên. Một
ngày kia trên đường hoàng hóa, khi đi ngang qua một ngọn núi thì tôn giả
bị một đám tu sĩ ngoại đạo phái Lõa Hình phục kích. Họ đã xô đá từ trên
núi xuống. Đá lăn xuống như mưa vào người tôn giả, cho đến khi nhục thân
của tôn giả nhừ nát, ngã gục, Tôn giả đã phải chết dưới bàn tay họ, vây
mà trong ba ngày liên tiếp họ vẫn không dám trở lại gần nơi đó, vì vẫn
còn sợ thần lực của tôn giả. Mục
Kiền Liên đã vì công việc truyền bá hạt giống bồ đề mà bị ngoại đạo hãm
hại, đã vì hậu thế mà nêu lên tấm gương hi sinh vì đạo, thì nhục thân
của tôn giả quả thực đã trở thành một tuyên ngôn bất hủ để lại cho thế
gian! Máu của tôn giả đã không đổ ra một cách vô ích, mà dưới ánh từ
quang của đức Phật, bao nhiêu vị tiên hiền thánh triết, cũng vì công
cuộc hoằng pháp lợi sinh, đã noi dấu vết tôn giả mà từng dâng hiến thân
mạng, dâng hiến tất cả để cho ánh sáng chân lí vẫn bất diệt ở thế gian.
Ôi cao cả thay! Tin
tức tôn giả Mục Kiền Liên bị ngoại đạo ám hại chẳng mấy chốc được truyền
đến hoàng cung, vua A Xà Thế bị chấn động mạnh. Nhà vua nổi giận tột
cùng, liền hạ lệnh tức tốc tìm bắt hung thủ, và hậu quả tàn khốc đã xảy
ra - dưới cơn giận mãnh liệt của nhà vua, đã có đến mấy ngàn tu sĩ phái
Lõa Hình bị bắt ném vào hầm lửa! Trong
tăng đoàn thì toàn thể đại chúng không ai là không than khóc tiếc
thương. Ai cũng bảo là trên đời sao có nhiều việc quá bất công, một vị
đại thần thông như Mục Kiền Liên mà đã không tránh được cuộc tập kích
của ngoại đạo! Lòng họ cứ ray rứt mà không giải tỏa được. Họ bèn cùng
nhau đến bái kiến đức Phật để xin chỉ dạy: -
Bạch Thế Tôn! Sư huynh Mục Kiền Liên của chúng con là vị đệ tử lớn của
Thế Tôn, Khi Thế Tôn lên thiên cung nói pháp cho lệnh bà Ma Da
(Mahamaya), sư huynh chúng con đã từng đáp ứng lời thỉnh cầu của chúng
con mà lên thiên cung vấn an Thế Tôn; sư huynh chúng con cũng đã từng
vào chốn địa ngục để cứu mẹ thoát khỏi đau khổ. Sư huynh chúng con oanh
liệt là thế, thần thông quảng đại là thế, vì sao mà đã không dùng thần
thông để chống lại ngoại đạo, thậm chí cũng không trốn tránh sự ám toán
của họ? Vì đã
quán triệt được mọi việc xảy ra, đức Phật đã không quá bị khích động như
các vị tì kheo, Ngài bảo đại chúng: - Này
quí thầy! Đại đức Mục Kiền Liên là người đệ tử có thần thông số một của
Như Lai, không phải là đại đức không thể kháng cự nổi quí vị tu sĩ ngoại
đạo, nhưng vì lúc trước, khi vua Lưu Li dẫn đại quân xâm lăng thành Ca
Tì La Vệ, đại đức đã từng dùng thần thông tưởng có thể cứu được nhân dân
trong thành, nhưng rồi đã tỉnh ngộ rằng thần thông không thể nào chống
trả được nghiệp lực, nhục thể chỉ là vô thường, và nghiệp báo phải có
lúc được kết thúc. Trong tiền kiếp đại đức đã từng làm nghề bắt cá để
nuôi thân, chẳng biết đã có bao nhiêu mạng sống bị chết oan bởi bàn tay
của đại đức! Nhưng này quí thầy! Quí thầy cũng không nên đau buồn, đại
đức Mục Kiền Liên tuy đã nhập diệt, nhưng chân lí thì vẫn không bao giờ
bị tiêu diệt. Một
số đông quí vị ti kheo vẫn không dằn được bi thương: -
Nhưng sư huynh chúng con bị hại thảm thiết quá, bạch Thế Tôn! Chúng con
không an tâm được! - Này
quí thầy! Quí thầy nên biết, đối với bậc giác ngộ thì việc sinh tử không
là vấn đế gì cả. Có sinh thì có tử, cho nên cái chết không làm cho ta
kinh hoàng sợ sệt. Điều cần yếu là chúng ta xem có thể học hỏi gì từ cái
chết đó. Đối với đại đức Mục Kiền Liên, trong phút lâm chung, thần trí
không hôn mê mà đã an nhiên nhập niết bàn, đó là điều rất quí báu; đến
như tinh thần hi sinh thân mạng vì công cuộc hoằng dương Phật pháp của
đại đức thì quả thật là cao đẹp cực cùng! Dù
Phật dạy như vậy, trong đại chúng vẫn còn một số vị tì kheo lắc đầu than
thở, lòng thương cảm chưa nguôi, lại bộc bạch: -
Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng biết tinh thần hi sinh vì đạo cao cả, nhưng
sự hi sinh của sư huynh chúng con vào lúc này thật là quá sớm. Sự nghiệp
hoằng pháp còn dài và còn nhiều việc phải làm, chúng con đang cần sự
lãnh đạo của sư huynh. Còn nữa, bạch Thế Tôn, về tai nạn này, sao Thế
Tôn đã không bảo trước cho sư huynh chúng con biết mà đề phòng? Những
lời bộc bạch của quí vị tì kheo vừa dâng lên đức Phật, đã chứng tỏ lòng
kính yêu của họ đối với tôn giả Mục Kiền Liên. Họ đã bị xúc động mãnh
liệt đối với tai nạn thảm khốc của tôn giả. Đức Phật cũng rất thương cảm,
cho nên lại phải an ủi họ: - Này
quí thầy! Khi đại đức Mục Kiền Liên tuẫn giáo, không phải là đại đức đã
không biết trước để đề phòng. Đại đức có thần thông lớn có thể tự bảo vệ
được mình, nhưng đó không phải là biện pháp rốt ráo. Người tu hành không
thể cưỡng lại các luật tắc nhân quả; quả báo của nghiệp nhân bắt cá làm
kế sinh nhai ở đời trước của đại đức nay đã đến lúc phải được kết liễu.
Vả lại, từ buổi đầu xuất gia, đại đức đã phát nguyện sẽ đem sinh mạng
mình cống hiến cho việc phụng sự chân lí, nay đại đức dã được mãn nguyện
và hoan hỉ nhập niết bàn, tất cả đệ tử của Như Lai cũng nên có cái tinh
thần tuẫn giáo như Mục Kiền Liên vậy, thì Phật pháp mới được quảng bá
rộng rãi ở thế gian. Này quí thầy! Quí thầy hãy học lấy cái tinh thần
cao quí ấy của đại đức Mục Kiền Liên! Lời
khai thị của đức Phật đã làm cho toàn thể đại chúng vô cùng cảm động.
Cái chết vì đạo của một Mục Kiền Liên đã làm nảy sinh vô số các Mục Kiền
Liên khác. Tất cả đại chúng đều vì sự trường tồn của chánh pháp mà phát
nguyện học theo tinh thần tuẫn đạo cao quí của tôn giả Mục Kiền Liên.
Vi tính: Cao
Thân
(Vị thượng thủ có thần thông quảng đại nhất)
Thời đức Phật còn tại thế, tại Ấn Độ, số tu sĩ ngoại đạo, chứng được
thần thông cũng không phải là ít, nhưng rất tiếc là họ không giác ngộ
được chân lí rốt ráo, không tu các đức hạnh từ bi, trí tuệ, cho nên họ
đã không thoát được vòng sinh tử mà vẫn bị trầm luân trong sáu nẻo luân
hồi. Đối với quí vị ngoại đạo có thần thông này, để lấy độc trị độc, đức
Phật thường bảo Mục Kiền Liên dùng thần thông để hóa độ cho họ. Một hôm
Ngài bảo:
- Đạo hạnh của đức Phật còn vượt quá cả đại đức nữa sao?
Trình bày: Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com