Ngài
Huyền Trang rời Tràng An với một nhà sư là Hiếu Ðạt. Vị
sư này quê ở Tần Châu, trở về làng sau một thời gian lưu
học tại Tràng An. Huyền Trang đến Tần châu (nay là huyện
Thiên Thủ thuộc Cam Túc) trọ lại một đêm, rồi theo một
người bạn khác đến Lan Châu (nay là huyện Cao Lan thuộc Cam
Túc). Ðến đây, Ngài cũng chỉ trọ lại một đêm. Sáng
sớm, nhân có người giữ ngựa của quan cai trị Lương Châu
(này là huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc) dắt ngựa trở về
huyện, Ngài theo người này đến Lương Châu. Lương Châu là
đô thị lớn đất Hà Tây, yếu địa quốc phòng miền Tây
của triều Ðường. Quan đô đốc Lý Ðại Lượng trấn thủ
vùng ấy vâng sắc lệnh nghiêm cấm nhân dân đi về phía Tây.
Huyền Trang ở lại Lương Châu đến một tháng, chưa biết làm
thế nào để trốn ra khỏi cửa thành. Một buổi sáng, thừa
cơ lính giữ cửa thành lơ đễnh. Ngài lẩn ra khỏi thành đi
về phía Tây. Không rõ vì ai báo tin, sự trốn thoát của
Huyền Trang bị Lý Ðại lượng biết được; viên quan có cái
tên Ðại Lượng, mà lại không đại lượng chút nào này,
lập tức ra lệnh cho vệ binh đuổi theo để bắt lại. May
thay, một pháp sư tên là Tuyệt Uy, nghe thấy Huyền Trang có
chí lớn đi Tây du cầu pháp, rất lấy làm khâm phục, mật
sai hai đệ tử là Tuệ Lâm và Ðạo Chỉnh dẫn đường cho
Ngài đi. Bấy giờ, ba nguời, ban ngày phải lẩn lút, ẩn núp,
ban đêm mới dám đi. Họ ngủ trong cỏ rác, nằm dưới sương
lạnh, chịu đựng bao nhiêu khó nhọc mới lần hồi đi đến
được Trường Dịch, ra khỏi cửa Gia Cốc, đến Qua Châu
(huyện Tây An tỉnh Cam Túc bây giờ). Khi nghe tin Ngài đến,
quan Thứ sử Qua Châu là Ðộc Cô Ðạt, một tín đồ Phật
giáo, không làm khó khăn gì đối với Ngài. Ông ta cho Ngài
biết con đường đi về phía Tây khó khăn như thế nào: Từ
Qua Châu đi về phía Bắc 50 dặm, có con sông Qua Lô, phía dưới
rộng, lòng sông sâu, nước chảy xiết không thể qua được;
phía trên hẹp, nhưng lại có đồn trấn thủ đóng, gọi là
đồn Ngọc Môn Quan. Muốn đi về phía Tây, tất phải qua đó.
Ra khỏi Ngọc Môn Quan, lại phải đi qua năm tòa phong hỏa đài,
mỗi đài cách nhau vào khoảng 100 dặm, có quân đội canh
giữ. Những đài này xây bằng đá, chỉ phụ cận đồn mới
có nước và một ít cây cỏ, ngoài ra là những bãi cát mênh
mông. Qua Phong hỏa đài thứ năm là đến địa phận nước Y
Ngô (hay là huyện Cáp Mật, xứ Tân Cương).
Ngài Huyền Trang không
may con ngựa của mình vừa bị chết, trong hai đồ đệ đi
theo thì Ðạo Chỉnh đã trở về Ðôn Hoàng, còn Tuệ Lâm thì
cũng tự nhận thấy không thể đi xa hơn được nữa. Nay
lại nghe quan Thứ sử Qua Châu cho biết con đường đi khó khăn,
trở ngại như thế, Ngài đau xót vô cùng. Thêm vào nỗi đau
xót ấy, tờ truy nã của Ðô đốc Lý Ðại Lượng ở Lương
Châu lại đến nơi! Tờ trát viết: "Nghe có thầy tăng là
Huyền Trang muốn sang Tây phương. Vậy sức cho châu, huyện các
nơi phải nghiêm nhặt xét hỏi mà bắt giữ lại".
Người lại thuộc ở
Qua Châu là Lý Xương lén đem tờ truy nã ấy đến hỏi Ngài:
–Thầy có phải là
Huyền Trang không?
Ngài lo ngại bất trắc,
chưa trả lời, thì Lý Xương lại nói tiếp:
–Thầy phải nói thực,
nếu mà đúng là thầy, đệ tử sẽ liệu cho.
Ngài đành phải nhận mình
là Huyền Trang. Lý Xương lấy làm thán phục khen ngợi Ngài
rối rít và nói:
–Pháp sư đã có chí
nguyện lớn lao, đi được như thế này thì tôi xin vì Pháp sư
bỏ tờ điệp này đi.
Nói xong, Lý Xương xé
ngay tờ điệp trước mặt Ngài và giục:
–Pháp sư liệu mà đi
cho sớm.
Nhưng Huyền Trang chưa đi
ngay được! Con ngựa Ngài đã chết, chưa mua lại được, và
cũng chưa tìm ra được người dẫn đường.
Một hôm, Ngài đang đi
qua đi lại trước cửa chùa, lòng bồn chồn lo nghĩ về
việc ra đi, thì có một tín đồ người giống Hồ ( dân
bản xứ) đến chùa lễ Phật. Người này họ Thạch tên Bàn
Ðà. Trong lúc trò chuyện Thạch Bàn Ðà tình nguyện thụ
giới làm đệ tử Ngài. Huyền Trang ưng cho. Bàn Ðà mừng
rỡ ra về, chốc lát trở lại đem quà bánh dâng cúng Ngài.
Thấy người đệ tử mới thân hình tráng kiện, cử chỉ
cung kính, Huyền Trang ngỏ ý sắp đi cho người ấy biết, Bàn-đà
sốt sắng tình nguyện xin hộ tống Ngài đi. Huyền Trang quá
đỗi mừng rở, sắm áo quần hành trang cho Bàn Ðà và mua hai
con ngựa cùng hẹn ngày lên đường.
Ngày hôm sau, chú tiểu
Hồ ấy lại cùng một ông già người Hồ cưỡi một con
ngựa hồng, già và gầy đến. Bàn Ðà nói:
–Ông già này rất
thuộc đường đi Tây phương, kể ra đã đi lại nước Y Ngô
trên ba chục lần. Vậy nên đệ tử mời lão đến đây để
hầu chuyện với thầy.
Ông lão lấy tình thật,
khuyên Huyền Trang đừng đi. Ông nói:
–Ðường sá đi về phía
tây rất hiểm ác, trong bãi sa mạc dài tám trăm dặm ở nước
Y Ngô, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy; rủi
gặp bảo cát thì không thể còn tánh mạng. Người ta kết đoàn,
kết lũ, còn lo lạc nhau, huống chi nhà Sư đi có một mình,
thì làm sao đi được? Xin tự liệu trước chớ để hoài
mất tánh mạng.
Huyền Trang trả lời:
–Cám ơn ông đã chỉ
bảo. Nhưng chí tôi đã quyết sang Tây phương để cầu Phật
Pháp, nếu không đến được Aán Ðộ, thì nhất định không
trở về đây nữa. Túng sử chết ở giữa đường tôi cũng
không ân hận.
Ông già thấy sự kiên
quyết của Huyền Trang, biết không thể lay chuyển được lòng
Ngài, nên đề nghị đổi con ngựa già của mình đang cưỡi
cho Ngài:
–Nhà sư đã nhất
quyết ra đi, thì tôi không cản nữa, nhưng hãy lấy con ngựa
già này của tôi mà cưỡi. Tuy nó già, nhưng nó khỏe, giai
sức và lanh lẹ. Nó đi qua lại nước Ý Ngô này hơn mười
lần rồi nên nó thuộc đường lắm. Còn ngựa của nhà sư
không kinh nghiệm, sợ không đi được.
Huyền Trang nghe theo, đổi
ngựa của mình cho ông lão. Ông già mừng rỡ kính chào từ
biệt.
Chiều ấy hai thầy trò
sửa soạn hành lý, đến tối thì ra đi. Ðến canh ba Huyền
Trang và Bàn Ðà đi đến bờ sông Qua Lô. Trông xa đã thấy
Ngọc Môn Quan. Ở thượng lưu, cách phía trên cửa quan độ mười
dặm, hai bờ sông hẹp lại chỉ còn độ một trượng, trên
bờ có mấy cây ngô đồng thẳng vút. Hai thầy trò đến đấy,
chặt cây làm cầu, trải cỏ rác lên trên để dắt ngựa
qua. Người ngựa qua sông được bình yên. Huyền Trang khoan
khoái mở yên ngựa và trải đệm ra nằm nghĩ. Tiểu Hồ
nằm cách Ngài độ năm chục bước. Hừng sáng, nó rút dao đi
nhè nhẹ đến phía Huyền Trang. Còn cách độ mười bước nó
dừng lại, rồi quay trở lui, nằm xuống ngủ lại.
Huyền Trang nhận thấy,
nhưng làm ra vẻ thản nhiên không hay biết gì cả. Ðến sáng,
Ngài thức nó dậy, bảo đi lấy nước súc miệng, rửa mặt
để sửa soạn lên đường. Nó làm một cách miễn cưỡng. Lúc
gần ra đi, nó nói:
–Ðệ tử thấy đường
đi còn xa mà hiểm nghèo lắm; lại không có nước cỏ gì
cả. Nếu muốn có nước và cỏ thì phải đến gần các
vọng canh lấy trộm. Nhưng nếu lính gác vọng canh mà biết
được thì tánh mạng thầy trò chúng ta cũng không còn. Chi
bằng trở về là yên ổn hơn cả.
Huyền Trang nhất định
không nghe. Bàn Ðà nói:
–Nếu thế thì đệ
tử không đi theo được vì việc nhà còn bận nhiều, mà phép
vua đệ tử cũng không dám xúc phạm.
Huyền Trang thuận cho nó
trở về Qua Châu một mình, nhưng nó trù trừ không chịu
trở lui. Hồi lâu nó nói:
–Sư phụ đi, nếu bị
người ta bắt được mà cung xưng thật họ tên tôi ra, thì
vợ con và cả nhà tôi ra thế nào?
Huyền Trang chỉ lên
trời mà thề rằng:
–Nếu chẳng may ta bị
bắt, người ta băm vằm ta ra làm muôn mảnh, ta cũng nhất
thiết không nói rõ họ tên người ra, người hãy yên tâm.
Ðược lời cam kết
ấy, Bàn-đà mới yên tâm vỗ ngựa quay về.
*
* *
IV. QUA NĂM
PHONG HỎA ÐÀI VÀ SA MẠC QUA-BÍCH (GOBI)
Từ
đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang bắt đầu đi vào
sa mạc mênh mông: một bể cát rộng lớn, không biết đâu là
bờ bến, sóng cát nhấp nhô, lỗi lõm, không có lối đi,
chỉ lần theo những đống xương khô cùng phân ngựa, lạc đà
mà tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp khó khăn
trong gió cát. Từng hồi, Ngài thấy hiện ra trước mắt mình
hàng trăm ngàn binh mã ở phía chân trời, khi thì tiến lên,
khi thì dừng lại. Những binh lính ấy ăn mặc theo rợ Qua Bích;
lạc đà và ngựa trang bị lộng lẫy, giáo mác sáng lòa.
Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu mất cả, rồi những
hình tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng khi đến gần
lại không thấy đâu nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang
bị đạo quân của Ma vương khuấy rối. Nhưng không, đây
chỉ là những ảo ảnh của sa mạc, do hơi nóng gây ra. Trước
những cảnh tượng ấy, Ngài không chút sợ hãi, tự bảo:
"Chết ta chẳng sợ, còn sợ cái gì?"
Ði được tám chục
dặm, Ngài trông thấy từ xa tòa phong hỏa đài thứ nhất
hiện ra. Sợ đi giữa ban ngày lộ tông tích, Ngài ẩn núp ven
một cái khe cát, đợi tối mới tiếp tục đi.
Khi hoàng hôn xuống, Ngài
dò lần đến bên phong hỏa đài, thấy có một ao nước
trong. Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước,
thì một mũi tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác
gần trúng đầu gối. Nhận thấy hành tung mình đã bị bại
lộ, Ngài kêu to:
–Xin đừng bắn tôi!
Xin đừng bắn tôi! Tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây.
Nói xong Ngài dắt ngựa
đến bên cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn Ngài vào
hội kiến với quan Hiệu úy là Vương Tường.
Vương Tường cũng là
một Phật tử. Sau khi xét hỏi xong, biết được chí nguyện
cao cả của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng
nhận thấy đường đi khó khăn, Vương Tường có ý mời Ngài
về trụ trì tại một ngôi chùa ở Ðôn Hoàng, là quê hương
của mình. Ngài trả lời:
–Từ nhỏ, bần tăng đã
dốc lòng theo đạo Phật. Trong hai kinh đô Lạc Dương và Trường
An những cao tăng, đại đức không nề hà khó nhọc để khai
thị cho bần tăng nghiên tầm giáo pháp. Bần tăng đã khổ công
tu học đến nay, thật không dám dối gì Hiệu úy, bần tăng
cũng là một danh tăng của Trung Hoa. Nay để trau dồi thêm trí
đức, có lý nào bần tăng lại đến Ðôn Hoàng để chôn
lấp cuộc đời ở một ngôi chùa nhỏ hay sao?
Sau khi đã viện lý lẽ
vững chắc ấy, Huyền Trang lại tấn công viên Hiệu úy về
mặt tình cảm và gợi lên mối ưu tư của một Phật tử đối
với tiền đồ của Phật giáo nước nhà:
–Từ lâu, bần tăng đã
xót xa cho sự thiếu sót về kinh điển và sự phiên dịch kém
khuyết của kinh sách Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã
nguyện hy sinh thân mạng, không quản ngại gian nguy để sang
Ấn Ðộ thỉnh kinh mà đức Bổn Sư đã để lại. Ðáng lẽ
ngài phải khuyến khích bần tăng mới phải, có lý nào ngài
khuyên bần tăng trở lại nước nhà?
"Ngài bảo là ngài cũng
chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng sinh đang
lặn hụp trong bể sinh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng
để tìm phương thuốc giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài
còn buộc bần tăng phải ở lại hay trở lui về Tràng An?
Nếu ngài nhất quyết không cho đi, thì bần tăng xin nhận
hết hình phạt, chứ nhất quyết không lùi một bước nào
về phía đông".
Hiệu úy Vương Tường
vừa đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đá ấy,
giữ ngài lại một đêm. Ðến sáng hôm sau, Vương Tường
biếu Ngài nước uống, lương khô và thân hành tiễn Ngài ra
ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã, Vương Tường còn căn dặn:
–Pháp sư cứ theo đường
tắt này mà đi thì sẽ đến tòa phong hỏa đài thứ tư. Quan
Hiệu úy giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm
địa lương thiện. Pháp sư đến đó, nói là tôi đưa đến,
chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ cho pháp sư.
Hai người rơi lệ từ
giã nhau. Ðến chiều, Huyền Trang đến được phong hỏa đài
thứ tư. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài
định lén lấy trộm nước rồi trốn đi. Trong khi đang lấy
nước, một mũi tên ở đâu bay ngang đầu, Ngài đành phải kêu
lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến yết kiến quan
Hiệu úy là Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể sự tự, Vương
Bá Lung biếu Ngài một túi da đựng đầy nước, lương khô,
cỏ cho ngựa, và dặn Ngài:
–Quan Hiệu úy đồn
thứ năm tánh khí hung bạo, khó lường được sự bất
trắc, vậy Pháp sư nên tránh đồn thứ năm, đi đường khác,
thẳng đến suối Dã Mã. Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây
là đến Mạc Hạ Duyên Tích. Ðường này dài 800 dặm, tên là
Sa Hà (Sông Cát, tức là sa mạc Qua Bích – hay là Gobi ngày
nay). Ðường này rất nguy hiểm, không một giọt nước, một
ngọn cỏ, cát nóng như lửa, Pháp sư phải nên muôn ngàn
lần cẩn thận.
Ngài Huyền Trang từ
biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối Dã Mã
và Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự
sống chết lịm ở nơi đây: không một bóng chim, một vết
thú, một ngọn cỏ, một giọt nước! Bão cát rơi xuống như
mưa giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào rào. Từng đám
mây cát bay lại, mờ mờ mịt mịt, che lấp cả chân trời.
Ngài đi suốt ngày gần được một trăm dặm, nhưng không tìm
được suối Dã Mã. Thì ra Ngài đã lạc đường! Ngài mệt
nhừ, xuống ngựa, lấy túi nước ra uống. Nhưng túi nước
của Vương Bá Lung mới tặng to nặng quá, mà Ngài thì đuối
sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay, đánh
đổ túi nước xuống cát! Thật là một tai họa lớn lao
nhất của người đi qua sa mạc. Mỗi giọt nước là một
giọt máu. Ngài thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao nhiêu
hy vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy
mắt theo với túi nước! Ngài buồn rầu, lên ngựa quay lui,
định bụng trở về tòa phong hỏa đài thứ tư để lấy nước.
Ngài theo phương Ðông đi được 10 dặm, bỗng hồi tâm nghĩ
lại:
"Ta đã phát nguyện
nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về đông một
bước nào. Nay sao ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà
chết, còn hơn là quay về hướng Ðông mà sống".
Lập tức Ngài quay ngựa
nhắm về phương Tây thẳng tiến. Trời đã tối hẳn. Bốn
bề mù mịt; những đốm lửa ma trơi lập lòe đây đó. Gió
bão vẫn chưa ngừng. Trận mưa cát vẫn tiếp tục xối
xuống. Nhưng Huyền Trang lòng vẫn vững vàng như bàn thạch,
không chút sợ hãi, nao núng. Ngài vừa đi vừa đọc kinh Bát
Nhã. Ngài đi suốt bốn đêm năm ngày, một giọt nước cũng
không có ở trong cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô
khan, sau cảm thấy toàn thân nóng rát, thở ra hít vào đều
đau đớn khó chịu. Mồm khô ruột cháy, đến mắt cũng khô
ráo, không mở ra được. Con ngựa cũng cứng đờ, không bước
nổi. Người và ngựa nằm vật ra trên một phiến đá. Nhưng
mặc dù đã kiệt lực. Ngài không ngớt niệm danh hiệu đức
Quán Thế Âm Bồ-tát. Ngài khấn:
"Lạy đức Quán Âm!
Trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước. Con
chỉ đi cầu Pháp, độ sanh. Ngài hãy thương xót con, như đã
thương xót bao nhiêu quần sanh chìm đắm trong biển khổ, rủ
lòng từ bi cứu vớt con ra khỏi bước cùng này".
Ngài cầu nguyện như
thế cho đến nửa đêm thứ năm. Bỗng một trận gió mát tê
người thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn
thân, Ngài dần dần hồi phục, mắt mở ra được, con ngựa
cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu trong mình, Ngài nằm
thiu thiu ngủ. Ðược một chốc, bỗng Ngài mộng thấy một
người cao lớn dị thường, tay nắm cờ, tay nắm giáo đứng
trước mặt Ngài, nạt lớn:
–Tại sao không mau mau
tinh tấn lên đường mà còn nằm ngủ nữa!.
Ngài vùng đứng dậy,
hối hả lên đường. Con ngựa gắng gượng đi được năm sáu
dặm đường, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng lên, Ngài
không làm sao cản lại được. Biết chắc con ngựa đã nhận
ra đường cũ, Ngài cứ để cho nó đưa đi. Một chốc, Ngài
nhận thấy một khoảnh đất có cỏ xanh biếc. Giữa đám
cỏ ấy có một giòng suối ngọt, trong vắt. Ngài mừng quá,
vội nhảy ùm từ trên mình ngựa xuống khe nước, người và
ngựa uống no nê, chê chán rồi nằm trên cỏ ngủ suốt một
ngày. Hôm sau, Ngài lại tiếp tục đi. Sau hai ngày nữa, Ngài
mới ra khỏi sa mạc Mạc Hạ Duyên Tích (Qua Bích) và đến địa
giới nước Y Ngô.
Tính ra Ngài đã đi qua tám
trăm dặm trên sa mạc Qua Bích (Gobi).
Vào nước Y Ngô, Ngài
Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa cổ. Trong chùa có ba
vị sư Trung Hoa. Vị già nhất, nghe tin Ngài đến, không kịp
đắp y, chạy chân không ra đón Ngài, nghẹn ngào nói giọng
đầy nước mắt:
–Nào ngờ ở chốn này
mà còn gặp được người cố hương".
Huyền Trang cũng không
cầm được lệ.
-oOo-
Mục
lục | Phần
1
| Phần
2 |
Phần
3 |
Phần
4
| Phần
5
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục