Ngài
Huyền Trang ở nước Y Ngô được hơn mười ngày, một hôm,
được tin sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc
vương Y Ngô mời Ngài sang nước ấy.
Nước Cao Xương, tức là
thành Nhã Nhi, phụ cận Tây Nhã Hồ, thuộc xứ Tân Cương ngày
nay. Cao Xương dựng nước vào khoảng giữa đời Nguyên Ngụy,
tuy ở xa về phía Tây, nhưng cũng là giòng Hán, và theo Phật
giáo. Vua nước ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành
của đạo Phật.
Ngài Huyền Trang, trước
kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía bắc Thiên Sơn đến
thẳng Aán Ðộ. Nhưng nay có lời khẩn khoản mời của vua nước
Cao Xương nên buộc lòng phải rẽ sang nước ấy. Ngài theo sứ
thần đi về hướng Tây Nam, lặn lội sáu ngày trong vùng sỏi
đá, đến tối ngày thứ sáu mới đến địa giới Cao
Xương, vào thành Bạch Lực (nay là đất thành Hòa Thiên). Vua
cùng các quan thị vệ đèn đuốc trước sau, tự ra khỏi
cung, long trọng đón rước Ngài vào hậu cung, mời Ngài ngồi
trong bảo trướng tầng lầu trong. Quốc vương nói:
–Sư phụ một mình một
bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Ðệ tử, xưa
có cùng đấng tiên Vương sang chơi bên Ðại Quốc, theo vua
Tùy đi du lịch đông tây hai kinh, và các nơi đất Yên, Ðại,
Phần, Tấn, có gặp nhiều vị danh tăng, mà đệ tử không
hâm mộ vị nào cả. Chỉ từ khi nghe đại danh Pháp sư, vui mừng
quên cả ăn ngủ. Ðệ tử tính hành trình biết rằng hôm nay
Pháp sư có thể đến được, cho nên cả vợ con chưa dám đi
ngủ, chỉ ngồi xem sách để đợi Pháp sư đến nghe kinh.
Một lúc sau, Vương phi và
cung nữ trên mấy chục người đến bái chào. Khúc Văn Thái
ngồi chuyện vãn với Ngài cho đến gần sáng. Ngài mệt nhừ,
gần sáng mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong
lúc Ngài Huyền Trang đang nằm trên giường chưa dậy được,
Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng hỏi thăm sức khỏe
và nói:
–Ðệ tử kính mếân sư
phụ, giận không được trọn đời cung phụng, mong rằng sư
phụ đừng nghĩ gì đến việc Tây du nữa, hoan hỉ ở lại
đây để cho dân nước đệ tử đều được chịu sự giáo
hóa của sư phụ.
–Tâu Ðại vương, bần
tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú quý vinh
hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, lý nghĩa
Phật pháp đang còn hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu
sót, nên mới phát nguyện Tây du để nghiên tầm kinh điển,
không quản ngại đường sá gian lao có thể tổn hại đến tánh
mạng. Bần tăng mong rằng rồi đây mưa pháp sẽ nhuần thấm
không phải chỉ ở Ấn Ðộ, mà cả toàn cõi Trung Quốc bao
la. Vì thế, xin Ðại vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở
cuộc hành trình. Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp
đãi ân cần của Ðại vương, nhưng không thể nghĩ chuyện
ở lại đây được. Xin Ðại vương hiểu thấu cho.
Nhưng vua Cao Xương vẫn
không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:
–Ðệ tử một lòng quy
kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để
đệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã
quyết thì mặc dù núi Tu Di có dời đổi, ý nguyện của đệ
tử cũng không đổi thay.
Huyền Trang vẫn một mức
chối từ. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng dậy
vung tay áo nói to:
–Ðệ tử đã hết lời
cầu khẩn mà Pháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách
khác đối xử với Pháp sư. Pháp sư không thể đi được. Hoặc
Pháp sư lưu lại đây, hoặc đệ tử đưa Pháp sư trở về
nước, xin Pháp sư hãy lựa một trong hai điều.
Nói xong, Khúc Văn Thái bỏ
đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể nói ra lời.
Từ đó, Khúc Văn Thái lại
tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu tất, cung cấp
từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi
ngày, đến bữa ăn, Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng
lên, chấp tay đứng hầu bên cạnh.
Huyền Trang không thể
không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn Thái, nhưng
nhận thấy nếu cứ như thế này mãi thì khó bề đi đến
Ấn Ðộ được. Một hôm Ngài nói với Khúc Văn Thái:
–Bần tăng lặn lội xa
xôi, cốt là cầu lấy kinh Phật, hiện giờ bị Ðại vương
ngăn giữ. Ðại vương chỉ giữ được hài cốt của bần tăng
thôi, chứ tinh thần, ý chí của bần tăng thì Ðại vương không
giữ được.
Từ đấy, Ngài thề nhịn
đói, không ăn uống nữa để cảm động lòng vua. Ngài xếp
bằng ngồi yên, ba ngày không có một hột cơm, một giọt nước
vào miệng. Hơi thở Ngài yếu dần, thân hình Ngài không còn
ngồi thẳng được, xem chừng nguy kịch. Ðến ngày thứ tư,
Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắng và hối hận, cúi đầu lạy và
nói rằng:
–Thôi đệ tử xin tạ
tội với Pháp sư. Ðệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư
muốn sang Tây Trúc thì cứ sang, những xin hãy xơi cơm cho. Ðệ
tử chỉ xin phép Pháp sư hai điều: Một là giảng cho một
tháng kinh Nhân Vương Bát Nhã, hai là xin được cùng Pháp sư
kết nghĩa anh em.
Ngài Huyền Trang sợ
Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu cầu vua thề trước bàn
Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo. Và Ngài Huyền Trang lại
ăn uống như cũ.
Theo lời yêu cầu của
vua, Ngài ở thêm một tháng để giảng kinh Nhân Vương Bát
Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều bằng vải có
thể chứa được 300 thính giả. Bà Hoàng thái hậu, vua, các
trưởng lão Hòa thượng, đình thần đều đến nghe giảng một
cách kính cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua thân hành bưng
một lư hương đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn.
Ðến đấy, vua quỳ xuống và đỡ chân Ngài lên ngồi vào
pháp tọa.
Trước khi Ngài lên đường,
Khúc Văn Thái sắm sửa các thứ cần dùng cho Ngài không thiếu
một thứ gì, và có thể dùng đi xa trong khoảng 20 năm. Vua
truyền cho bốn vị sa di và hai mươi lăm thủ hạ lực lưỡng
theo hầu Ngài, chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm,
lại biếu Ngài 100 lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm
lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều quý nhất cho Ngài trong chuyến
đi này là 24 bức thư cho 24 quốc vương mà Ngài sắp đi qua
để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm
theo một tấm lãnh để làm tin. Riêng đối với vua nước Ðột
Quyết là nước mạnh nhất trong miền Trung Á, vua sai quan Ðiện
trung thị ngự sử là Hoan Tín đưa Ngài sang với 500 tấm lụa
và lãnh, hai xe các thứ quả quý báu và một bức thư giới
thiệu Ngài Huyền Trang với vua nước ấy là Diệp Hộ. Trong
thư viết: "Hòa thượng pháp sư này là em tôi, muốn sang
cầu pháp bên nước Bà-la-môn, xin Ngài rộng thương Pháp sư
cũng như tôi và xin Ngài sắc cho các nước phương Tây cấp
cho Pháp sư ngựa Ô lạc (ngựa trạm) để đưa ra khỏi bờ cõi".
Những sự gởi gấm này
thật vô cùng quý báu. Ngài Huyền Trang khi ra đi là một kẻ
phạm pháp triều đình, đêm ngày trốn lánh, như một tên tù
vượt ngục, từ đây, do lòng cương quyết của mình và lòng
thành của vua Cao Xương, nghiễm nhiên trở thành một quốc
khách của các nước Trung Á và được họ giúp đỡ đưa đến
tận biên giới xứ Ấn Ðộ.
Ngày Ngài lên đường,
Khúc Văn Thái cùng quần thần, tăng lữ và dân chúng gần cả
nước tiễn đưa Ngài ra phía Tây kinh thành. Vua nắm chặt tay
Ngài và khóc to. Mọi người đều không cầm được giọt lệ.
Nhưng dù cảm tình có sâu đậm bao nhiêu, cũng không thể bịn
rịn mãi được, Ngài xây lưng ra đi, Khúc Văn Thái đứng nhìn
theo cho đến khi cát bụi và nước mắt làm mờ hẳn hình
bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung.
Dưới dây là bài biểu
của Ngài Huyền Trang làm trước khi ra đi để cảm tạ lòng
hậu đãi của vua Cao Xương đối với Ngài.
Tạ Cao Xương Quốc
Vương Khải
"Trang nghe rằng: Sông
bể sâu xa, vượt qua được phải nhờ tay lái; dân sinh mê hoặc,
dẫn cho đi, phải mượn lời thiêng. Bởi vậy đức Như Lai,
do lòng đại bi cao rộng, hiện sinh cõi dục; lòng lóng trí tuệ
sáng lòa, soi khắp chốn mù. Mây từ rợp tuyệt đỉnh trời
cao, mưa pháp nhuần ba nghìn cõi rộng. Ðã cùng yên lợi, lại
thỏa y quy. Truyền giáo sang Ðông 600 năm lẻ, cuộc thắng hội
đã lẫy lừng nơi Ngô, Lạc; lời sấm Thập từng ung đúc đất
Tần, Lương. Chẳng trụy thói huyền, đều khuôn nghiệp
thành trong; người xa lại dịch, ân nghĩa bất đồng. Ðời
cách tánh xa, nghĩa càng sai suyển, khiến cho cái ý chỉ
"song lâm nhất vị", rẽ ra là hai phái hiện đương;
cái tôn thống "nhị thường bất nhị", tách ra làm
hai dòng Nam, Bắc. Phân vân đôi ngả, trải vài trăm năm; suốt
cõi nghi ngờ, nào ai quyết định!
"Huyền Trang vốn nhờ
phúc cũ, sớm dự cửa thiền, đội tráp theo thầy, năm hầu
hai kỷ. Danh hiền các bạn, đã khắp hỏi han; đại, tiểu
hai thừa đã từng nghiệm xét. Thường lắm lúc mở kinh ngần
ngại, cầm quyển tần ngần. Trông vườn Cấp (Cấp Cô Ðộc)
mà kiễng chân, ngóng đỉnh Thứu (Linh Thứu) mà tưởng mến,
muốn những bái lâm một chuyến, may ra túc hoặc khỏi ngờ.
Vẫn biết rằng ống tre nhỏ không thể dòm được trời, cái
bầu con khó lòng tát được bể. Nhưng lòng vi thành không thể
bỏ được, nên mới thúc Trang lên đường; thấm thoát dăm
trăng vừa đi tới nước Y Ngô.
"Nép thấy Ðại vương,
bẩm thụ cái khí thuần hòa của nhị nghi trời đất. Rủ
áo làm vua, vỗ về dân chúng; phía Ðông ví bằng phong đại
quốc, phía Tây yên cổ tục bách nhung. Những nước lân bang
Nhục Chi, nào nơi xa sư Lương Vọng, đều nhờ ơn sâu, đã
nhuần đức hậu. Lại nay kính hiền, yêu sĩ, hiếu thiện
lưu từ; thương xót kẻ xa xôi đi lại ân cần cho tiếp đãi
đến nơi, đã được vào chầu, nhuần ơn càng hậu; tiếp đãi
chuyện trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được nhờ Ngài
giáng kết làm kẻ anh em và còn đưa thư cho hơn 20 nước Phiên
cõi Tây vức; giới sức ân càn, sai bảo tiễn tống. Lại thương
tôi Tây du vò võ, đường tuyết lạnh lùng, bèn xuống lời
minh sắc, độ cho bốn chú tiểu sa di, để làm người hầu hạ.
Nào là pháp phục, mũ bông, đệm cừu, giày nịt, hơn năm
mươi thứ, và lãnh lụa, vàng bạc, tiền nong để khiến cho
sung cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông thẹn
thùng, sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước
Giao Hà, ví ơn kia còn sút kém, cân hòn non Thống Lĩnh, đo
nghĩa nọ còn nặng hơn. Thông cái hiểm cầu treo, khe thẳm,
chẳng cần phải lo; kìa cái hàng cây đạo thang trời, âu cũng
sắp tới. Nếu được toại chí thỏa lòng thì cũng là nhờ
ơn nhà vua vậy.
"Sau này được bái
yết chúng sư, bẩm vâng chính pháp, đem về phiên dịch, truyền
bá những điều chưa từng nghe, phá tan cái rừng rậm rạp của
những tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối
dị đoan; bồi cái sự di khuyết cho nền tượng giáo, định
cái kim chỉ nam cho chốn huyền môn. May ra cái công nhỏ ấy
đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không thể lưu
ở lâu được. Ngày mai từ biệt, thắm thiết bùi ngùi;
không xiết đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ"
*
* *
VI. QUA
HAI MƯƠI BỐN NƯỚC TRUNG Á VÀ VƯỢT QUA TUYẾT SƠN
Từ
Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về phía Tây, sang nước A Kỳ
Ni (huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Mặc dù Cao Xương và A Kỳ
Ni là hai nước láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm vì
có nhiều bọn cướp hoành hành.
Giữa đường, Ngài nhận
thấy có nhiều thi hài của bọn lái buôn giàu có, vì muốn vượt
đi trước toán đồng hành của mình để bán cho được giá,
nên đã bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp
đón đường mãi lộ.
Khi đến kinh đô A Kỳ
Ni, vua nước ấy, cũng là một tín đồ nhiệt thành, đem cả
đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào cung. Vua truyền cung
cấp cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp
đãi rất chu đáo. Nhưng vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà
thôi, còn những người nước Cao Xương đi hộ tống, đều
không được tá túc và cũng không được cung cấp ngựa trạm,
vì giữa hai nước này thường hay có những vụ xung đột về
biên giới. Ngài Huyền Trang chỉ nghỉ lại đây một đêm,
và sáng hôm sau lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
Ngài vượt qua con sông lớn
Giao Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào nước Khuất Chi
(hay Nhục Chi hoặc Quy Tư) nay là huyện Khố Xá, khu tự trị
Duy Ngô Nhỉ.
Khuất Chi là một nước
phồn thịnh, có một nền văn hóa tiến bộ. Dân nước này
theo Tiểu thừa Phật giáo. Chính ở đây, hai thế kỷ trước
đã xuất hiện một vị Tổ sư danh tiếng là Ngài Cưu Ma La
Thập. Vị Tổ sư này, thân phụ là người Aán Ðộ, thân mẫu
là bà công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang học
đạo ở Ấn Ðộ, đến hai mươi tuổi Ngài trở về Khuất
Chi. Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước
này và bắt Ngài về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Ðại
thừa và phiên dịch kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán.
Trong số các kinh dịch này, có bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Ngài Huyền Trang đến đây
chắc không khỏi thành kính gợi lại kỷ niệm của vị Tổ
sư đã cùng một chí nguyện như mình là du nhập và phiên dịch
kinh điển từ Aán Ðộ sang Trung Hoa.
Vua nước này, cũng là một
tín đồ Phật giáo theo phái Tiểu thừa. Nghe tin Ngài đến,
vua cùng đình thần và tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất
trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị tăng già dâng
cho Ngài một liễn hoa tươi, để Ngài rải trước tượng Phật
và làm lễ bái yết.
Ðến bữa yến tiệc,
vua Khuất Chi vì theo phái Tiểu thừa, dọn các thức mặn,
Ngài Huyền Trang đã nhã nhặn từ chối không thọ lãnh. Do đấy,
đã xảy ra sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa Ngài và
vị trưởng lão Hòa thượng rất có danh tiếng ở đây là
Ngài Mộc Xoa Cúc Ða (Mokshagupta). Vị danh sư này theo phải Tiểu
thừa, đã du học ở Ấn Ðộ 20 năm, hiện là quốc sư của
vua Khuất Chi.
Vị trưởng lão Tiểu thừa
này dựa vào bộ Câu Xá Luận (Abhidharmakoca castra) để dẫn
chứng cho lý luận của mình. Nhưng Ngài Huyền Trang trả lời:
–Ở nước tôi cũng có
bộ luận ấy, nhưng tôi nhận thấy cũng chẳng có gì sâu sắc,
nên tôi mới bỏ nước lặn lội sang Ấn Ðộ để nghiên tầm
những kinh luận Ðại thừa như bộ Du Dà (Yoga castra) chẳng hạn.
Vị trưởng lão trả lời:
– Ðại thừa là một
phái mới, trái với phái nguyên thủy là phái theo đúng giáo
lý của đức Bổn Sư Thích Ca. Ngài sang Ấn Ðộ để nghiên
cứu những kinh điển Ðại thừa thì thật là vô ích. Những
đệ tử chân chính của Phật không ai học những bộ kinh luận
ấy.
Ngài Huyền Trang nói lớn:
"Bộ Du Dà (Yoga
castra) do một đai đệ tử hiện thân của đức Di Lặc nói
ra mà Ngài bảo là sai lầm, thì Ngài không sợ đọa xuống hỏa
ngục sao?
Tuy thế, sự cãi vả về
giáo lý ấy không làm cho hai vị cao tăng đại đức ấy mất
lòng trọng nể nhau. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi
60 ngày, vì tuyết đang còn bao phủ núi Thống Lĩnh chưa thể
đi được. Trong thời gian ấy, hai vị thường lui tới đàm
đạo giáo lý với nhau. Ngài Huyền Trang mặc dù không đồng
ý về giáo lý Tiểu thừa mà các vị sư ở Khuất Chi đang tu
hành, cũng phải thành thật công nhận sự tinh thông các kinh
điển Tiểu thừa và sự nghiêm trì giới luật của các vị
này. Và vị trưởng lão Mộc Xoa Cúc Ða cũng thường nói với
các đệ tử mình: "Vị Hòa thượng Trung Quốc này học
thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở
Ấn Ðộ, vị tất đã có vị học giả uyên bác nào sánh kịp".
Khi Ngài Huyền Trang từ
giã Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những bộ hạ theo
hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữ và
tín đồ, tiễn Ngài ra xa ngoài kinh thành.
Ngài Huyền Trang từ Khuất
Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua một sa mạc nhỏ, đến nước
Bạt Lộc Già (hay Cô Mặc, tức Bái Thành và A Khắc Tố thuộc
Tân Cương). Ngài trọ ở đấy một đêm, rồi lại đi tiếp
về phía Tây, đến núi Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn).
Ðường đi qua núi này rất là cheo leo, nguy hiểm, núi cao như
chọc trời, quanh năm đều có tuyết phủ, băng tuyết trùng
điệp chạy dài đến chân trời và lẫn với mây. Có nhiều
phiến đá khổng lồ chặn cả lối đi, muốn vượt qua, thật
là nguy hiểm. Suốt ngày, chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết
theo gió, đổ xuống từng trận. Giá rét căm căm mặc bao nhiêu
lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương tủy. Lữ hành
phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo
leo, khi thì đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá
khác.
Không có một chỗ nào
khô ráo, muốn nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng giữa hư
không, muốn nằm ngủ thì phải trải chiếu trên băng tuyết.
Ðoàn lữ hành của Ngài phải đi trong bảy ngày bảy đêm mới
ra khỏi dãy núi ấy. Ðoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ
không chịu nổi khổ sở, nửa đường đã bỏ trốn về, có
người chết rét ở giữa núi; lừa và ngựa lại càng chết
nhiều hơn. Kiểm điểm lại, chỉ còn mấy người theo Ngài.
Ra khỏi Lăng Sơn, Ngài
theo dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khách Lạt Côn
Luân, đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải (tức là
Issik-kol, thuộc Liên Xô cũ). Hồ này được gọi tên như thế,
vì tương đối ít lạnh hơn các vùng lân cận và không bao giờ
có băng giá. Hồ rộng, chu vi có trên ngàn dặm, xung quanh bao
bọc toàn núi, có nhiều sông, suối, đổ vào. Nước mặn và
màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn luôn rạt rào sóng cả.
Ngài Huyền Trang đi theo bờ hồ về phía Tây bắc độ 500 dặm,
đến thành Tô Ðiệp (Tokmak, thuộc Liên Xô cũ). Ngài gặp Ðại
vương nước Ðột Quyết là Diệp Hộ đang đi săn ở đấy.
Diệp Hộ là một Ðại vương (Khan) có rất nhiều uy quyền
và nhiều chư hầu trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái
đã ân cần dâng thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với Diệp
Hộ.
Khi Ngài Huyền Trang đến
thì gặp Diệp Hộ đang cùng triều thần cưỡi ngựa đi săn
về. Vị vua này, đầu quấn khăn lụa, để thòng hai giải
dài ra sau, mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt
ngồi trên ngựa, quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu.
Những người này để tóc búi, mặc áo choàng bằng gấm.
Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà, mặc áo bằng
lông thú hay bằng nỉ, mang giáo mác, cung, tên, đi thành đoàn
dài tưởng không bao giờ hết.
Diệp Hộ sau khi được
giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền Trang về
doanh trại của mình ở Tô Ðiệp.Vua ở trong một cái lều bằng
nỉ rất lớn, có kết hoa bằng vàng. Vua ngồi ở giữa và
trong cùng, trước mặt là hai hàng dũng tướng, ngồi xếp bằng
trên những chiếc chiếu; sau lưng các vị tướng này là hai
hàng ngự lâm quân, khí giới sáng lòa, nghiêm chỉnh đứng hầu.
Vua thiết tiệc khoản đãi
Ngài Huyền Trang và các sứ giả của vua Cao Xương. Chỉ riêng
Ngài Huyền Trang được ngồi trên một chiếc ghế bành có
tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với các tướng
lĩnh. Rượu và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt
chồng chất trước mặt các tân khách. Riêng Ngài Huyền Trang
thì vua truyền dọn những thức chay, như bánh bột gạo, sữa,
đường, mật ong, nho. Trong lúc ăn, có ca nhạc.
Sau buổi tiệc, vua kính
cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời Phật pháp.
Ngài giảng về thuyết Từ bi và những phương pháp tu hành để
được giải thoát và giác ngộ.
Nghe xong, vua đứng dậy,
đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ, cam kết xin thọ
lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước
Cao Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục
cuộc hành trình sang Tây Trúc nữa. Ông nói:
–Bạch Pháp sư, đệ tử
khuyên Ngài đừng sang Tây Trúc nữa, xứ ấy mùa đông cũng
như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Ðệ tử sợ rằng Pháp sư
sang đến đấy thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra nước mất. Dân cư
ở đấy đen đúa và phần nhiều trần truồng như nhộng, không
biết lễ nghĩa là gì. Thật không đáng cho Ngài phải mệt sức
đi đến xứ ấy.
Ngài Huyền Trang trả lời
một cách nhẹ nhàng:
–Tâu Ðại vương, bần
tăng chỉ muốn sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh kinh
Phật, chứ không có mục đích gì khác. Bần tăng nóng lòng
muốn đi tìm dấu vết của đức Bổn Sư, xin Ðại vương hãy
cho bần tăng được như nguyện.
Vua Diệp Hộ không cản
trở nữa, và sai quan biên thư gửi gắm Ngài với các nước
chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho người thông ngôn đi theo
Ngài nữa.
Ngài Huyền Trang từ tạ
vua Diệp Hộ ra đi không ngờ lần ấy cũng là lần vĩnh biệt,
vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát, và nước Ðột
Quyết hùng mạnh bị chia phân thành nhiều mãnh.
Từ giã nước Ðột Quyết,
Ngài đi tiếp sang phía Tây, đến Thiên Toàn (Binggol) là một
xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng, chỉ phía nam là
giáp giới với núi Tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước
(nên mới gọi là Thiên Toàn), khí hậu điều hòa, đến mùa
xuân, cây cỏ đơm hoa, toàn xứ trông như một bức gấm dệt
đủ màu; vua chúa trong vùng này thường ngự đến đây nghỉ
mát. Hươu nai ở đây rất nhiều và được thảnh thơi rong
chơi, vì vua đã có sắc lệnh cấm dân chúng giết hại
chúng, ai trái lệnh sẽ bị xử tử.
Ngài đi tiếp đến nước
Chữ Thì (Tản Mã Nhĩ Hàn hay Samarcand thuộc Liên Xô cũ). Dân
nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc
Ngài mới vào nước, một số dân chúng nắm những thanh củi
đỏ đuổi theo Ngài. Vua cũng tiếp Ngài một cách lạnh nhạt.
Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền Trang xin phép giảng một thời
kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái độ, tỏ ra rất niềm
nở đối với Ngài, và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa
đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay chân. Nhưng Ngài
Huyền Trang, động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách
đánh mỗi người mấy trượng thôi. Sau vụ trừng phạt ấy,
dân chúng đủ các hạng, vừa sợ vừa cảm phục lòng đại
độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài rất nhiều.
Ngài liền triệu tập một hội nghị các tăng già, sắp đặt
lại ngôi thứ trong Giáo hội và chấn chỉnh lại những ngôi
chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.
Từ giã nước này, Ngài
đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm trở. Dọc
đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường
mỗi lúc một tăng thêm khó khăn, nguy hiểm, vì là sắp đến
gần dãy núi đồ sộ và cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
Trước tiên, Ngài phải
vượt nốt cái đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba Ðạt
Khắc là đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao
đến nghìn trượng, giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp
quanh co, hiểm hóc. Nếu vô ý trật chân, là rơi xuống hố sâu
và thân hình nát như cám. Sắc đá đen xanh như sắt; ở lối
đi vào hang núi ấy có một cái cửa có hai cánh bằng sắt,
ở phía trên cửa có treo nhiều chuông nhỏ. Ra khỏi núi này,
là đến nước Thổ Hòa La (địa giới nước Apganixtan ngày
nay). Ðáng lẽ đi thẳng về phía Nam để sang Ấn Ðộ, Ngài
rẽ về phía nước Tát Già Thì (thuộc xứ Batriane, nước
Apganixtan). Ngài muốn đến thăm vị vua nước này, là con ruột
của vua Diệp Hộ nước Ðột Quyết và là con rể của vua
Khúc Văn Thái, nước Cao Xương. Ngài đem tin tức và thư từ
của hai vị vua này đến cho tiểu vương Tất Gìa Thì Nhưng,
khi Ngài đến đây thì nội biến trong hoàng cung đang xảy ra.
Nguyên là bà vợ của vị vua này tức là con gái của vua Cao
Xương, vừa mất thì vị tiểu vương này liền lấy một người
vợ kế. Bà sau này trước kia là tình nhân của vị hoàng tử
con bà vợ trước, vì thế bà sau này đã âm mưu giết vua và
đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi. Vị tiểu vương
mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang. Vua mời Ngài
đi đến thành Tiểu Vương Xá là một nơi có rất nhiều di
tích Phật giáo. Thành này bây giờ đã hoang phế điêu tàn.
Nhưng trong thời gian Ngài Huyền Trang đi qua, thì đây là một
thành phố phồn thịnh có trên một trăm tịnh xá, chứa gần
ba ngàn tăng đồ thuộc phái Tiểu thừa. Trong các chùa có rất
nhiều di tích của đức Phật Thích Ca. Trong số các vị sư
ở đây có nhiều người rất tinh thông giáo lý Tiểu thừa.
Chính ở tại đây, Ngài Huyền Trang đã học hỏi được rất
nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo phái này.
Ở đây, Ngài gặp được
một vị sư trẻ tuổi và thông thái là Tuệ Tịnh người nước
Thổ Hòa La. Vị này tôn Ngài làm sư phụ và tình nguyện
cùng đi theo Ngài sang Aán Ðộ. Ðây cũng là mọt điều may mắn
cho Ngài, vì Ngài sắp vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những người
theo hộ tống Ngài từ nước Ðột Quyết thì đã quay về hết
cả rồi.
Hai thầy trò đi về phía
đông nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn. Con đường núi này thật
muôn ngàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi
luôn luôn có tuyết phủ, vì thế nên người Trung Hoa gọi là
Tuyết Sơn. Sương tuyết phủ mờ tất cả, người ta có cảm
tưởng đi trong trăng mờ; thỉnh thoảng may ra mới có được
một khoảng bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi lởm chởm
nằm ngang lưng trời, mất hút trong mây. Lạnh thấm đến cốt
tủy. Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết
bao gian khổ mới đến được Ba-mi-dăng (Bamiyan) là một xứ
nằm cheo leo trên đỉnh núi, giữa con đường đi qua Hy Mã Lạp
Sơn. Xứ này cũng theo Phật giáo Tiểu thừa, có độ mười
ngôi chùa và mấy ngàn tăng đồ.
Ðến đây, Tuệ Tịnh người
đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hòa La cho người
đến thỉnh về. Tuệ Tịnh đành phải luyến tiếc từ giã
Ngài trở lui.
Từ đây, Ngài chỉ một
mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi Tuyết, đi 600 dặm về
phía đông nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ
có những người đi săn đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt
qua Tuyết Sơn, Ngài bắt đầu đặt chân lên Hắc Lĩnh, tức
là những ngọn núi về phía nam Hy Mã Lạp Sơn, sát biên giới
Bắc Ấn Ðộ. Người ta gọi là Hắc Lĩnh vì đến mùa hạ,
tuyết ở trên các ngọn núi này tan ra, để lộ màu đen của
đá, trái với Tuyết Sơn là những ngọn núi cao luôn có tuyết
đóng ở phía Bắc dãy Hy Mã Lạp Sơn sau khi vượt qua. Hắc
Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới Bắc Aán Ðộ.
Kể ra từ Cao Xương đến
đây, Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở Trung
Á, giữa hai biên giới Trung Hoa và Ấn Ðộ; và đã vượt qua
dãy núi cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
-oOo-
Mục
lục | Phần
1
| Phần
2 |
Phần
3 |
Phần
4
| Phần
5
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục