--- o0o ---
B. NỘI DUNG
II.- NĂM ĐỨC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA:
Qua phần khảo sát trên (phần I),
chúng ta đã nắm được phần nào những điểm đặc trưng cho đời sống xuất gia cũng
như biết được một số điều đắc-thất trong các lối hành xử của người mặc pháp
phục. Bước sang phần II này, chúng ta sẽ khảo sát về “Năm đức của người xuất
gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối
hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục mà mình đang mặc.
Theo tự điển
Thiều Chữu, chữ ĐỨC có nghĩa là đạo đức, là cái đạo để lập thân, là thiện, là
ân, là cái khí tốt (vượng) trong 4 mùa. Nho gia thì cho rằng: đức là cái gốc
của muôn hạnh cũng là cái gốc để con người lập thân (Đức gỉ bổn dã). Theo đó mà
suy: Năm đức của người xuất gia chính là một trong những nền tảng để lập công
hạnh xuất thế. Kinh Phước Điền còn gọi NĂM ĐỨC này là NĂM TỊNH ĐỨC, ý nói đây
là năm hạnh thanh tịnh của người mặc pháp y. Nhờ hành xử ứng hợp với năm đức
này mà người xuất gia được xưng tán là bậc mô phạm của trời người, là ruộng
phước của nhân gian…
Lời ký trong
Sa di luật giải có chép: “Người xuất gia chẳng bị thế lực nhà vua ép bức, chẳng
vì tham cầu mạng sống, chẳng vì lánh nạn, chẳng vì thiếu nợ, vốn vì mong cầu
chánh pháp, vì lòng chánh tín mà vào trong của Phật Pháp nên gọi là HẢO TÂM XUẤT
GIA”.
Người hảo tâm
xuất gia như vậy có 5 tịnh đức:
• Phát tâm
xuất gia, hoài bội đạo cố.
• Huỷ kỳ hình
hảo, ứng pháp phục cố.
• Cát ái từ
thân, vô thích mạc cố.
(Vĩnh cát thân
ái, vô thích mạc cố)
• Uỷ khí thân
mạng, tôn sung đạo cố.
• Chí cầu Đại
thừa, vị độ nhân cố.
Chúng ta hãy
lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của 5 tịnh đức này:
1)
– PHÁT TÂM XUẤT GIA HOÀI BỘI ĐẠO CỐ:
(Phát tâm xuất
gia vì thiết tha với đạo pháp)
Bàn về sự phát
tâm trong Khuyến Phát Bồ Đề tâm văn có chép “Thường văn :
Nhập đạo yếu
môn phát tâm vi thủ, tu hành cấp vụ lập nguyện cư tiên. Nguyện lập tắc chúng
sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành. Cẩu bất phát quảng đại tâm lập
kiên cố nguyện, tắc túng kinh trấn kiếp y nhiên hườn tại luân hồi; tuy hữu tu
hành tổng thị đồ lao tân khổ”
(Từng nghe:
cửa thiết yếu vào đạo lấy sự phát tâm làm đầu, việc cấp thiết tu hành đặt sự lập
nguyện ở trước. Nguyện có lập thì chúng sanh có thể độ; tâm có phát thì Phật
đạo mới kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập nguyện kiên cố thì dẫu
trải qua trăm ngàn muôn kiếp vẫn mãi quanh quẩn trong vòng luân hồi. Dù có tu
hành cũng chỉ luống công khổ sở)
Trải xem: các
ngôi Phật tổ đều nhờ “phát quảng đại tâm lập kiên cố nguyện” mà thành tựu Diệu
quả Vô thượng Bồ Đề (như Phật Di Đà với 48 lời nguyện, Phật Dược Sư với 12 lời
nguyện v.v…) và gần gũi nhất là Đức Bổn Sư Thích Ca, trong kiếp cuối cùng làm
thái tử Tất Đạt Đa nhân phát tâm “tìm con đường thoát khổ cho muôn loài” mà vượt
thành xuất gia, dưới cội Bồ Đề lập nguyện kiên cố mà chiến thắng ma quân thành
tựu đạo quả giác ngộ.
Xem thế đủ
biết: với người Xuất gia, việc phát tâm lập nguyện rất là quan trọng. Vào rừng
bắt cọp hẳn phải là người có “lá gan to”, xuống đầm bắt rắn không thể là người
có “túi mật nhỏ”. Thế thì, muốn thành tựu được đại sự, đều tiên quyết là phải
phát khởi đại tâm. Đặc biệt, với người hảo tâm xuất gia, thì đại tâm ấy được
phát khởi như thế nào? Theo Tỉnh Am đại sư, đại tâm ấy tức là 4 loại tâm
nguyện: chánh, chân, đại, viên mà chúng ta đã khảo sát ở phần trên (“Các loại
học đạo”). Lại nữa, theo Khởi Tín Luận, có 3 loại phát tâm:
1)
Trực tâm: tâm thường chất trực, lìa các sự gièm xiệm dày vò, hay
thực hành
chánh pháp,
thẳng tiến đến đạo giác ngộ.
2)
Thâm Tâm: tâm sanh lòng tin sâu vào chánh pháp, vui với tất cả
hạnh lành.
3)
Đại bi tâm: tâm từ bi thương xót tất cả nỗi khổ đau của chúng
sanh, thường
nghĩ tìm
phương pháp cứu độ khiến cho chúng sanh được an vui.
Người hảo tâm
xuất gia là người phát tâm ứng hợp với các loại tâm này. Tại đây, duyên do để
phát khởi các tâm này là “lòng thiết tha mộ đạo và thiết tha được nắm giữ giềng
mối đạo”.
Phu
chú: Theo tự điển Thiều Chữu, chữ BỘI
có 2 nghĩa : 1. Đeo, mang; 2. Nhớ mãi- Do đây mà có 2 thuyết dịch về nhóm từ
“Hoài bội đạo”:
1)- Cảm mến đạo pháp.
2)- Gánh vác diệu đạo.
Để dung hợp 2 thuyết này, xin tạm dịch “Hoài bội
đạo” là “thiết tha với đạo pháp”. Vì trong “thiết tha” tức đã có cảm mến; và vì
đã thiết tha hẳn phải lo gánh vác.
Chữ ĐẠO ở đây chỉ cho DIỆU ĐẠO (đạo
mầu), ĐẠI ĐẠO (đạo cả), đạo Giác ngộ, đạo giải thoát…, là con đường chân chánh
hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả
hư vọng phân biệt. Đi theo đạo này phải là người lập công hạnh tự giác, giác
tha và tiến tới giác hạnh viên mãn (noi theo con đường chư Phật đã đi). Lại
nữa, cũng có thể hiểu chữ ĐẠO này là “ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng”. Trong
kinh Phât thường nói Tam Bảo là phước điền là chỗ qui ngưỡng của tất cả chúng
sanh. Chỉ có Tam Bảo mới đủ năng lực giúp chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử
luân hồi. Giữa đêm trường tăm tối, người ta mơ ước có được ánh đèn soi đường;
nổi chìm chới với giữa bể khơi, người ta mong đợi chếc bè cứu mình khỏi chết
đuối. Cũng vậy, được về nương tựa ngôi Tam Bảo, nương tựa cửa Thiền để tấn tu
đạo nghiệp giải thoát là niềm hoài vọng, khát khao của người hảo tâm xuất gia.
Với niềm hoài vọng thiết tha ấy, sau khi xuất gia, vị này dốc hết tâm chí học
đạo, hành đạo và làm hưng thạnh đạo pháp.
Cũng vì thiết
tha với diệu đạo này mà xưa kia thái tử Tất Đạt Đa khi còn ở hoàng cung đã bao
đem thức trắng”suy tư tìm mối đạo”, khi vượt thành xuất gia thì chẳng quảng khó
nhọc “tầm sư học đạo” và khi đã giác ngộ rồi thì không từ chối nhọc mệt để “ban
rải ánh đạo”. Ánh đạo mà ngài ban rải cho nhân gian đến nay đã hơn 25 thế kỷ mà
vẫn còn tỏa sáng và lại càng lan rộng trên khắp toàn cầu. Tiếp nhận ánh đạo ấy
cũng tức là tiếp nhận thông điêp “từ bi và trí tuệ”.
Là người lãnh
thọ đạo pháp của Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta có trách nhiệm lưu truyền
rộng rãi thông điệp ấy. Đặc biết, để xứng đáng là “người lãnh thọ đạo pháp của
Phật” chúng ta phải tâm tâm niệm niệm lời giáo huấu sau đây của ngài:
“Bác văn ái đạo, đạo tất nan hội
Thủ chí phụng đạo, kỳ đạo thậm đại”[3]
(Học rộng mến đạo, đạo ắt khó gặp
Thủ chí hành đạo thì đạo kia rất lớn)
Ở thế gian,
người học rộng là người thông suốt nhiều môn học, có kiến thức rộng rãi đối với
các khoa: tâm lý học, thiên văn học, ngôn ngữ học, đạo đức học v.v…Trong đạo,
người học rộng là người quảng kiến tam tạng giáo điển (như Bát Đại Nhân Giác
chép: “…quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tự biện tài…”). Tuy nhiên,
nếu học rộng nghe nhiều mà không thực nghiệm tâm linh, không ứng dụng vào việc
làm, tri hành không hợp nhất, hạnh giải không tương ưng thì khó mà đến được chỗ
cao tốt của đạo. Người xưa thường nói: “Tu mà kh ông học là tu mù, học mà
không tu thì chẳng khác nào cái đãy đựng sách”. Kẻ nào vì mến đạo mà chuyên
trau giồi kiến thức, ứng dụng sở tri vào việc ngôn tránh hý luận, dựa nương vào
đạo để vun bồi lợi ích cá nhân (danh vị, lợi dưỡng), không khéo kẻ ấy sẽ trở
thành người phá đạo, làm hoen ố đạo và dần dần sẽ cách xa đạo. Quảng học đa văn
mà không lập chí hướng thượng thì chỉ làm mồi cho ngũ dục (chay theo dục lạc thế
gian) đôi lúc lại sa vào chỗ cao tâm (tăng thượng mạn) như con thiêu thân vì ham
ánh sáng mà bay tấp vào ngọn đèn khó lòng tránh khỏi cái họa bị lửa đốt. Tiếc
thay cho những kẻ mãi vẩn vơ hái hoa bắt bướm ở hai bên vệ dường mà quên rằng
mình định đi đâu, đâu là chổ đến, làm uổng phí công la những người dọn đường và
chỉ lối!
Người phát tâm
xuát gia vì lòng “hoài bội đạo” quyết không thể là hạng người như trên mà phải
là người “thủ chí phụng đạo”. Người thủ chí phụng đạo là người biết an trú vào
hạnh viễn ly, vượt khỏi phàm tình, không đám say lạc thú ở đời, hằng sống trong
chánh niệm tỉnh giác, an bần thủ đạo. Gian khổ không làm cho họ sờn lòng, thử
thách không làm cho họ nản chí. Ngày cũng như đêm, người “thủ chí phụng đạo”
chuyên tâm hành trì thiện pháp, tự lợi tha, luôn bảo hộ đạo và sẵn sàng dâng hết
thân tâm cho đạo.
“Dầu phải chịu muôn ngày gian khổ
Con dốc long vì đạo hy sinh”
Được vậy mới
thực sự là người “hoài bội đạo”, là người dõng mãnh phát tâm xuất gia, xứng đáng
với tịnh đức đầu tiên này.
2)- HUỶ
KỲ HÌNH HẢO ỨNG PHÁP PHỤC CỐ:
(Xả bỏ hình
tướng tốt đẹp để xứng hợp với pháp phục)
Pháp phục của
người xuất gia chính là pháp y là giải thoát phục, là phước điền y.
• Giải
thoát phục là y mặc của người cầu đạo giải thoát. Người mặc áo giải thoát
là người lìa sự rang buộc của hoặc nghiệp, thong dong vô ngại, xa lìa quả khổ 3
cõi, không bị câu thúc bởi những hệ luỵ thế gian, tuỳ duyên biến hóa, tự tại đối
với các pháp.
• Phước
điền y là đức danh của ca sa bởi vì những điều tướng của ca sa giống những
mảnh ruộng phì nhiêu. Ruộng có ý nghĩa “sanh trưởng” khiến cho mình và người
đều được lợi ích. Như người nông phu gieo giống thì việc thu hoạch có hy vọng.
Tăng Huy ký
chép: “Bờ đê giữ nước làm tăng trưởng mạ xanh để nuôi sống con người, rộng pháp
y thấm nhuần bốn thứ nước lợi ích làm tăng trưởng gốc mạ ba thiện căn, nuôi lớn
pháp thân tuệ mang”
Với những ý
nghĩa trên, 2 chữ pháp phục là từ dùng để chỉ cho pháp y mà người xuất gia mặc
khi hành lễ (theo Bắc tông) hoặc mặc cả khi đi đường (theo khất sĩ). Bất luận
là y 5 điều (An-đà-hôi) hay 7 điều (Uất-đa-la-tăng) hay 9 điều (Tăng-già-lê) thì
2 câu đầu của bài kệ trước pháp y vẫn là:
“Thiện tai giải thoát phục
Vô thượng phước điều y”
(Lành thay áo giải thoát
Áo ruộng phước vôthượng)
Điều này nhắc
nhở chúng ta rằng: người mặc pháp y phải là người ly triền thoát phược, xứng
đáng là ruộng phước cho chúng sanh gieo giống lành gặt quả tốt.
Không riêng gì
pháp y (mặc khi hành lễ), ngay cả trang phục bình thường, người xuất gia khi mặc
đều hướng tâm đến việc tăng trưởng các thiện căn (vô tham, vô sân, vô si):
• “ Nhược trưóc thượng y - Đương nguyện chúng sanh
Hoạch thắng thiện căn - chí pháp bỉ ngạn
• “ Trước hạ quần thời - Đương nguyện chúng sanh
Phục chư thiện căn - Cụ túc tàm quý”
( * Bằng mặc áo trên - Cầu cho chúng sanh
Đặng căn lành tốt - Đến pháp bờ kia
* Khi mặc quần dưới - Cầu cho chúng sanh
Mặc các căn lành - Khẳm đủ xấu hổ)
Theo đó mà
suy: áo pháp của Phật hình thức tuy thô sơ, đạm bạc, nhưng kẻ tầm thường đâu dễ
mặc được!
Lại nữa, trong
một ý nghĩa sâu xa, thì “pháp phục” của Phật là một chiếc áo vô hình không được
may bằng vải. Giả như có may bằng vải thì vải ấy không hề được dệt bằng chỉ
bằng tơ mà là lại dệt bằng các “thiện công đức”. Áo pháp ấy tức là áo thiện
pháp: áo nhẫn nhục, áo tàm quy.
• Trong kinh
Pháp Hoa, khi nhắc đến việc “người hoằng pháp phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như
Lai, ngồi toà Như Lai”, Đức Phật đã tuyên bố “nhẫn nhục” là Pháp y của ngài qua
đoạn kệ:
“Từ bi lớn làm nhà
Y nhu hoà nhẫn nhục
Các pháp không làm tòa “
[5]
• Trong kinh
Di Giáo, khi thuyết minh thắng hạnh của “tàm quý” Đức Phật đã nói:
“Tàm sỉ chi phục ư chư trang nghiêm tối vi đệ nhất.
Tàm như thiết câu năng chế nhân phi pháp”[6]
(Áo mặc hổ thẹn, đối với các thứ trang sức rất là hơn hết
Hổ thẹn ví như móc sắt có thể ngăn ngừa sự phi pháp của người)
Qua đây, chúng
thấy rằng: Pháp phục của người xuất gia có hai loại:
1-Pháp phục
là Thiên Pháp y: tức chỉ cho y cắt rọc, vải thôi
sơ, nhuộm màu
hoại sắc có những đường viền như những thửa ruộng. Mặc y này là người sống với
hạnh thiểu dục tri túc, chuyên tu tạo pháp lành hầu xứng đáng là ruộng phước
cho nhân gian.
2-Pháp phục
là Thiên Pháp: áo pháp này giúp người học đạo trang nghiêm pháp thân, đi
theo khuynh hướng “bội trần hiệp giác”.
Chính vì muốn
làm ruộng phước cho nhân gian, tăng trưởng các thiện pháp, nuôi lớn giới thân
tuệ mang, ngược dòng sanh tử thuận bờ Niết Bàn, người xuất gia huỷ bỏ những hình
thức trang sức tốt đẹp ở thế gian, cạo tóc nhuộm áo, theo thầy học đạo.
Kinh Di Giáo
có đoạn chép:
“ Nhữ đẳng
Tỳ kheo đương tự ma đầu, dĩ xả sức hảo, trước hoại sắc y, chấp trì ứng khí, dĩ
khất tự hoạt, tự kiến như thị, nhược khởi kiêu mạn, đương tật diệt chi”.
(Tỳ
kheo các ông! Hãy tự xoa đầu, đã bỏ những đồ trang sức tốt đẹp, mặc áo hoại sắc,
mang bình bát để khất thực nuôi mình, tự thấy như vậy, nếu còn khởi kiêu mạn
phải mau diệt nó đi)
Đoạn kinh trên
cho thấy: người xuất gia sở dĩ “huỷ kỳ hình hảo” chính là để làm người “tâm
hình dị tục” (thân và tâm đều khác với người đời). Thân khác tục nhắc nhở ta
phải sống một nếp sống “bạt tục siêu quần”. Tâm khác tực không cho phép ta vọng
khởi những pháp uế nhiễm, hạ liệt như phàm tình. Đây chính là nếp sống hướng
thượng tuyệt vời mà Tổ Qui Sơn cũng đã từng đề cập trong Cảnh sách văn:
“Phù xuất gia
giả, pháp túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiệp
ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”.
(Luận người
xuất gia là người cất bước đến cõi siêu việt, thân tâm khác tục, nối thạnh dòng
Phật, nhiếp phục ma quân, mong đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi).
Huống nữa,
những hình thức trau tria trang sức của thế gian dễ khiến con người đắm đuối
trần cảnh, tăng trưởng tham dục, khó lòng tấn tu đạo giải thoát. Loại bỏ những
thú ấy, ta mới an an nhiên với những nếp sống phạm hạnh hướng thượng ly dục của
người con họ Thích, xứng hợp với áo pháp mà mình đang mặc.
Xưa kia, đức
Bổn Sư từ phụ sau khi vượt hoàng thành đến bời sông Anoma thì hoàng bào, ngọc
đái, bảo kiếm v.v… trở thành những thứ thừa thãi. Từ địa vị cao quý của một vì
vương giả, ngài hạ mình xuống làm một kẻ khất sĩ lang bạt không nhà. Đệ tử phó
pháp của ngài, trưởng lão Ca Diếp từng là con nhà cự phú sống trong nhung gấm
lụa là thế mà khi theo Ngài xuất gia lại tự vui long với nếp sống khổ hạnh “mặc
y chàm vá”, chuyên khất thực ở những nhà nghèo và nơi trú ngụ thường là nhũng
bãi tha ma.
Những người y
cứ vào hình thức thường cho rằng đệ tử Phật là những kẻ nghèo. Họ đâu biết rằng
“bên trong những chiếc áo chằm và” ấy là cả một kho châu báu vô giá mà kẻ phàm
phu không sao có được. Hãy theo chân Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đến mà tham quan
kho báu ấy:
“Cùng Thích tử khẩu xưng bần
Thật thị thân bần đạo bất bần
Bần tắc thân thường phi lũ hạt
Đạo tắc tâm tàng vô giá trân
Vô giá trân dụng bất tận
Lợi vật ứng cơ chung bất lận
Tam thân tứ trí thể trung viên
Bát giải lục thong tâm địa ấn”[8]
(Cùng Thích tử miệng xưng nghèo
Rõ thực thân nghèo, đạo chẳng nghèo
Nghèo ắt thân thường manh áo chắp
Đạo ắt tâm hằng châu báu đeo
Châu báu đeo dùng chẳng hết
Ba thân bốn trí, thể tròn viên
Tám giải sáu thông, tâm ấn hiệp)
Đấy! Kho báu
của người xuất gia là như thế đấy. Nó không phải là ngọc ngà châu báu mà người
thế gian có thể làm đồ trang sức hay dùng làm vật đổi chác nhưng lại có thể làm
chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân (giới) khiến cho người xuất gia thân tuy
mặc áo vải thôi sơ mà vẫn rạng rỡ bởi “đường đường tăng tướng dung mạo khả
quan”. Kho báu của thế gian thường được bảo quản kỹ càng, đêm ngày người ta lo
âu sợ kẻ trộm; nhưng kho báu “Thất thánh tài” của người xuất gia thì cửa mở
quanh năm luôn được ban rải để cứu tế cho nhựng kẻ nghèo phước đức, nghèo trí
tuệ. Đây cũng chính là kho báu mà Đức Phật hứa sẽ ban cho chú bé La Hầu La khi
chú ấy nghe lời mẹ đến vòi vĩnh “xin cha cho thừa kế gia tài”. Ôi! Gia tài
Thánh pháp của đấng pháp vương đâu riêng gì La Hầu La (trưởng tử của Ngài) được
hưởng. Bất cứ người nào hễ đi theo con đường tam vô lậu học mà Ngài hướng dẫn,
đến được “bảo sở” thì mặc tình “sử dụng của báu”.
Tuy nghiên,
như Kinh Pháp Hoa nói “muốn đến Bảo sở” phải vượt qua 500 do tuần đường hiểm.
con đường hiểm nạn sanh tử này đầy những : gai độc “tham ái”, hố sâu “dục vọng”,
giặc cướp “phiền não”… muốn vượt khỏi chốn đó đâu phải dễ dàng. bởi vậy, Phật
dạy người xuất gia trong bước đầu học đạo phải sống một nếp sống đơn giản, ly
khai ngũ dục lạc của thế gian, dồn hết tâm trí để “cứu lửa cháy đầu”. Như con
cá biết tránh né nôm lờ, như con ruồi lánh xa hũ mật mới thoát khỏi cái họa mất
mạng. Loại bỏ những lạc thú tạm bợ của phàm tình mới có thể thong dong đến “Bảo
sở”. Đây là ý ngĩa của việc “Huỷ kỳ hình hảo”.
Đặc biệt, chữ
HÌNH HẢO còn có nghĩa là: hình vóc tốt đẹp (vẻ đẹp thuộc hình hài). Việc “cạo
tóc” vừa biểu ý “đoạn trừ trần lao phiền não” vừa để giảm bớt cái vẻ đẹp hình
hài. Không trang điểm thêm thì còn dễ chấp nhận chứ làm bớt đi cái vẻ đẹp thì
người thế tục khó mà cam tâm. Ấy vậy mà người hảo tâm xuất gia lại là người sẵn
lòng làm việc khó làm này. Đọc “Góp nhặt cát đá”, ta không không khỏi cảm động
và nể phục trước tấm gương “huỷ kỳ hình hảo” của Ryonen. Ryonen (một cô gái
Nhật) đã đi khắp các Thiền Viện xin được xuất gia nhưng đều bị từ chối với ly do
“sắc đẹp của nàng chỉ gây them phiền”. Để đạt chí nguyện, Ryonen đã không ngần
ngại đặt bàn ủi nóng lên mặt mình khiến nhang sắc mỹ miều ấy mất đi vĩnh viễn.
Thiền sư Hakuo đã nhận nàng làm đệ tử. Phía sau tấm gương soi, Ryonen đã ghi
lại những dòng hồi tưởng:
“Trong
khi hầu hạ hoàng hậu yêu quí, ta đã đốt hương để ướp thơm những áo quần tuyệt
đẹp của ta.
Bây giờ
muốn làm một tên ăn mày không nhà, ta đốt mặt ta để được bước vào Thiền viện”
Làm
việc này, Ryonen đã chứng tỏ hảo tâm xuất gia của mình: sẵn sàng “huỷ bỏ hình
tướng tốt đẹp” (đức thứ hai) để nhập pháp môn, đồng thời cũng cho thấy nàng đã
“xem thướng thân mình vì tôn sùng” (đức thứ tư).
Qua đây, chúng
ta thấy rằng: người xuất gia đã chấp nhận việc “xả bỏ hình tướng tốt đẹp” để họ
đạo giải thoát thì phải sống sao cho ứng hợp với áo pháp mà mình đang mặc. Đừng
chạy theo văn minh thời đại mà để cho áo pháp giải thoát của mình phải nhuốm
“bụi trần lao”.
3.- CÁT
ÁI TỪ THÂN, VÔ THÍCH MẠC CỐ:
(Cắt đứt sợi
dây thân ái, vì không còn thân sơ)
Thế gian có
nhiêu người cho rằng:
“Tu đâu bằng tu tại gia
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”.
Phật Giáo
không hoàn toàn bác bỏ điều này bởi lẽ Đức Phật cũng đã từng nói: “Hiếu tâm
tức thị Phật tâm, hiếu hạnh vô phi Phật hạnh” (tâm hiếu là tâm Phật, hạnh
hiếu là hạnh của Phật). Xưa kia, đức Phật từng khuyến khích đệ tử của Ngài (tôn
giả Mục Kiền Liên) thiết Vu Lan bồn hội cứu vong mẫu thoát cảnh u đồ. Bản thân
Ngài từng về Ca-Tỳ-La-Vệ thuyết pháp độ hoàng thân. Vua cha ngài trước khi băng
hà đã chứng được sơ quả. Ma-ha-ba-xa-ba-đề, Da-du-đà-la, La-hầu-la, Na-đà,
A-Nan…những người thân của Ngài cũng được ngài độ cho xuất gia và lần lượt dự
vào dòng Thánh (“nhất nhân thành đạo cửu huyền thăng” đích thực là nghĩa như
vậy). “Đại phương tiện Phật báo ân kinh”, “Vu Lan Bồn kinh”, “Báo hiếu phụ mẫu
ân kinh” là những chứng minh hùng hồn: đạo Phật cũng là đạo hiếu. Người học
Phật tu theo Phật phải là người con chí hiếu. Việc thờ cha kính mẹ cũng là một
trong những hạnh tu. Tuy nhiên, nếu cho “tu tại gia” là tuyệt hảo thì quả là
chưa thấy được chân giá trị của đời sống xuất gia.
Hãy thử đọc
dòng suy tưởng của một vị sơ tâm nhập đạo qua đoạn kinh như sau:
“Đời sống
gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người ở gia đinh có thể sống
theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đáp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đinh”
Kinh
Tâm Địa Quán, Phẩm Yếm Xả, đức Phật cũng có nói:
“Tại gia bức bách như lao ngục
Muốn cầu giải thoát rất là khó
Xuất gia thư thái như hư không
Tự tại vô vi k hỏi ràng buộc”
Gia đinh quyến
thuộc là xiềng xích giam hãm ta trong ngục tù “vị thân vị kỷ”. Phá tan xiềng
xích đó, vượt khỏi ngục tù đó mới thấy rõ được bầu trời chân tánh rộng lớn như
thế nào. Việc “Cát ái từ thân” của người xuất gia chính là hình thức phá xiềng
xích, vượt ngục tù.
Chữ THÂN nếu
hiểu theo nghĩa hẹp thì là: song thân (cha mẹ), lục thân (cha, mẹ, anh, em, vợ,
con), còn nghĩa rộng của nó là chỉ chung thân bằng quyến thuộc.
Chữ ÁI tức là
ái hệ, ái phược, ái kết, là sợi dây ái n hiễm của phàm tình. Đó là sự trói buộc
của lòng thương, nó ràng rịt con người vào vòng ưu bi khổ não, nó thắt buộc lấy
thân tâm con người không cho được tự do tự tại. Trong một nghĩa sâu hơn thì Ái
là một chi phần trong Thập nhị nhân duyên, là đầu mối của sanh tử. Kinh Tứ thập
nhị chương, Đức Phật từng khẳng định: “Sử nhân ngu tệ giả, ái dữ dục dã”. (Cái
khiến cho người ta ngu tối và khuất lấp là ái và dục). Ái và dục là nguyên nhân
làm xáo trộn làm rối ren, khiến những chất uế trược trong lòng hưng khởi lên.
Người tu hành nếu chưa đoạn được ái và dục thì không sao thấy được đạo. Chính
vì muốn chặt đứt vòng quay sanh tử, vượt khỏi nhà lửa tam giới mà người xuất gia
“cát ái từ thân”. Tuy nhiên, đừng vội y cứ vào đây mà cho ngươì xuất gia là
người hoàn toàn không gia đình, không quyến thuộc, không tình cảm. Hãy nghe một
du tăng nói về đời sống xuất gia của mình:
“Đời tu sĩ bốn phương trời rảo bước
Cõi ta bà đâu cũng là nhà ta.
Một mình đi với bình bát ca sa.
Trong khắp chốn, muôn loài là quyến thuộc”.
Ôi! Nếu từ bỏ
gia đình quyến thuộc chỉ vì một lẽ duy nhất “sống cho riêng mình” thì còn gì là
ý nghĩa “vô ngã vị tha” của đạo Phật? Nếu nói người xuất gia là người không
tình cảm thì sao có câu “Phật thương chúng sanh như mẹ hiền thương con”? Kinh
Thập Địa có chép: “Vào gia đình chư Phật là nhận lấy và giáo hóa hết thảy muôn
loài làm quyến thuộc của mình”. Trên cơ sở này, chúng ta thấy rằng: người xuất
gia từ bỏ gia đình quyến thuộc hạn hẹp là để trải lòng sống với đại gia đình,
đại quyến thuộc. Không lập gia đình vì phải phụ trách một đại gia đình gồm toàn
thể chúng sanh như con chim từ bỏ tổ ấm nhỏ bé là để tung đôi cánh rộng xông
lướt trên nền trời bao la. Giam mình trong “vành đai kiềm tỏa” của gia đình thì
khó lòng thực hiện chí cao hạnh cả. Tình yêu gia đình làm chướng ngại tình
thương rộng lớn.
Khi đã khư khư
cố chấp: đây là cha mẹ mình, là anh chị em mình, là con cháu mình… ta dễ dàng
thờ ơ trước nổi khổ của những người xung quanh. Cái gia đình như thế, cái tình
thương như thế làm sao xứng hợp với tâm lượng lợi tha quảng đại của người xuất
gia? Bởi vậy, trong quyển Tăng già Việt Nam, Hòa thượng Trí Quang đã khẳng
định: “Người xuất gia chỉ rộng lớn được khi không còn phân chia muôn loài là
phải hay không phải thân thuộc của mình. Tình thương của người xuất gia không
có điều kiện, không hướng về một chỗ, tình thương ấy ở trong phát ra chứ không
phải ở ngoài sinh vào. Trước mắt người xuất gia, tất cả muôn loài đều bình đảng
trong đau khổ mà bổn phận của họ là phải cô thân độc ảnh để nhiếp hóa tất cả”.
Cũng chính vì
thấy “muôn loài đều bình đẳng trong đau khổ”, vì muốn “cô thân độc ảnh để nhiếp
hóa tất cả” nên thái tử Tất Đạt Đa đã thực hiện “một chuyến đi vĩ đại”. thành
Ca-Tỳ-La lúc nữa đêm cách đây hơn 2500 năm đã chứng kiến chuyến đi lịch sử
thiêng liêng này, cuộc chia ly đầy cảm động này. Không gian cô tịch như chuển
mình xúc cảm trước những lời tha thiết của đấng Đại Hùng Lực, Đại Từ Bi:
“Hỡi nhân
loại đang quằn quại đau thương, hởi cõi đời sầu khổ! Vì các ngươi mà ta dành bỏ
tuổi măng tơ, bỏ ngôi báu, bỏ những ngày vàng và đêm ngọc, gỡi cánh tay bám víu
của người vợ hiền, cắt ngang tình yêu mãnh liệc của phụ vương và xa lánh đứa con
thơ đang nằm trong bụng mẹ. Hỡi phụ hoàng, hiền thê, bào nhi và xã tắc! Xin
hãy gắng chịu đựng sự chia ly này cho đến ngày tôi tìm ra ánh đạo”
Ôi ! Ánh đạo
vàng mà ngài ban rải cho nhân loại sau bao năm khổ hạnh chốn rừng sâu há chẳng
đã được đổi bằng cả một sự hy sinh to lớn? Thế nhân nếu đã ca ngợi những anh
hùng “vì nhục nước quên thù nhà” thì cũng nên trân quý đối trước người xuất gia,
những bậc “xuất thế anh hùng” vì hạnh phúc an lạc của muôn vạn nhà mà không thể
cột chân trong một ngôi nhà (dẫu rằng đó là ngôi nhà thân thương trìu mến
nhất!) Ôi! Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay đã từng là cha mẹ, anh chị em
thân thuộc của nhau, vậy thì tình thương yêu đâu thể chỉ gói gọn trong một gia
đình mà đủ!
Qua đây, chúng
ta thấy rằng: trong một ý nghĩa rộng lớn, người xuất gia là người cắt đứt mọi
sợi dây trói buộc của phàm tình, phá vỡ bức tường thành vọng chấp ngã và ngã
sở. Người ấy không còn là sở hữu của quốc gia nào, giai cấp nào, gia đình nào
hay của riêng một người nào. Người xuất gia là người trải lòng sống với bốn tâm
vô lượng (từ, bi, hỷ, xả) của bậc Thánh, lấy “tam thiên đại thiên thế giới” làm
nhà, “tứ thánh lục phàm” thảy là quyến thuộc. Tình thương của người xuất gia
không phải là thứ tình uỷ mị mà người ta có thể đong đầy hay phong kính trong
một trái tim, một tâm hồn mà là thứ tình trong sáng, lan tỏa, trải rộng không
bến bờ. Đúng như Hòa thượng Nhất Hạnh đã viết:
“Hiến tặng
niềm vui mà không gây khổ luỵlà TỪ. chuyển hóa khổ đau là BI. Tình thương mà
không hệ luỵ, tình thương mà trong đó tự do còn được bảo trì nguyên vẹn là XẢ.
Trong tình thương naỳ, những người thương chỉ hiến tặng cho nhau niềm vui mà
không bao giờ kéo nhau vào vòng bi luỵ, đó là HỶ Chính vì muốn thương với tình
thương mầu nhiệm ấy mà ta đã phát nguyện sống đời xuất gia”.
4.- ỦY
KHÍ THÂN MẠNG, TÔN SÙNG ĐẠO CỐ:
(Xả bỏ thân
mạng vì tôn sùng đạo pháp)
Thân mạng là
cái mà người đời yêu quý vô cùng. Người ta chẳng ngại bận rộn nhọc nhằn để cung
phụng cho thân được “mặc đẹp ăn sang’, thường bôn ba vất vả để cầu cạnh cho thân
có được chỗ ngồi cao quý. Mải mê nâng niu chìu chuộng vóc huyễn người ta hầu
như quên bẵng: “mình sống để làm gì?” và đôi khi lại tỏ thái độ “tham sanh uý
tử” (ham sống sợ chết).
Ôi! Con người
ta sinh ra trên đời đâu phải chỉ để ăn để ngủ rồi già rồi chết. Con người còn
phải sống như thế nào đó có để cuộc sống này có ý nghĩa, có giá trị. Văn Thiên
Tường, một triết gia Trung quốc đã từng bày tỏ quan điểm sống tích cực của
mình.
“Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử?
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người đời từ trước ai không chết?
Cốt để long son rọi sử xanh)
Với ông, cái
chết đã là một qui luật tất yếu không ai tránh khỏi, thế thì: hãy tranh thủ làm
điều tốt đẹp trước khi chết để có thể lưu lại chút gì tốt đẹp sau khi chết. Quan
điểm này đã vạch ra hướng sống cao đẹp cho kẻ sĩ. Quả thật, con người sống trên
đời không ai có thể lẩn tránh được cái chết. Tuy nhiên, có những cái chết âm
thầm vô danh như cây cỏ, có những cái chết để lại tiếng nhơ nghìn đời, có những
cái chết lưu lại danh thơm muôn thuở. Người có tinh thần thượng võ của kẻ sĩ,
khi phải chọn lựa, sẽ không ngần ngại để chọn cái chết loại thứ ba; và bằng mọi
giá họ luôn bảo trì triết tháo của mình. Đối với những người này thì: “Chết
đứng hơn sống quỳ, chết vinh hơn sống nhục” và họ sẵn sàng “Sát thân thành nhân,
xả sanh thủ nghĩa”. (Xả bỏ thân mạng để giữ tròn nhân nghĩa).
Vượt lên trên
phàm tình thế gian, người hảo tâm xuất gia là người “xả phú cầu bần, xả thân cầu
đạo”. Thú vui vật chất không ràng buộc được thân họ, danh thơm tiếng tốt không
phải là mục đích sống của đời họ. Cái mà họ tôn sùng, ngưỡng vọng là cái đạo vô
vi, đạo giải thoát - một cái đạo “không dựng xây mà vẫn sừng sững nguy nga”,
“không tô điểm mà vẫn rỡ ràng xán lạn.” Con đường để đi đến cái đạo mầu nhiệm
này chính là con đường trung đạo “không bất cập cũng không thái quá”. Đức Phật
Thích Ca, bậc đạo sư của họ đã từng chỉ dạy: từ nơi thân này có ra sự sanh khởi
thế giới (khổ) thì cũng chính từ thân này mà có ra sự đoạn diệt thế giới (khổ
diệt). Ngay nơi thân sanh tử này tiềm tàng thể tánh giác ngộ. Bởi vậy, Đức
Phật không chủ trương “hành thân hoại thể” theo lối tu ép xác khổ hạnh mà khuyến
khích hộ trì xác thân để tăng tiến đời sống phạm hạnh. Người xuất gia học đạo
“trên xin giáo pháp của Phật để trưởng dưỡng giới thân tuệ mạng; dưới xin cơm
đàn việt để duy trì huyễn thân, mượn nó làm phương tiện để tu hành. Thấu được
thân ngủ uẩn là pháp duyên sinh như huyễn: “Sống chết là việc đi về”, “sanh như
đáp chăn Đông, tử như cởi áo Hạ”, “sanh tử khứ lai đô thị mộng”…nên người xuất
gia đối với thân này, tuỳ duyên tuỳ thời mà có cách ứng xử hài hòa thích nghi.
Đặc biệt, khi cần thiết phải bỏ thân mạng để thủ trì phạm hạnh, để bảo toàn giới
thể thì họ cũng chẳng do dự để mà “cởi trả chiếc áo Hạ” ấy.
Lật lại những
trang sử Phật Giáo, chúng ta không khỏi cảm phục trước gương xả thân cầu đạo của
chư vị tiền bối đứng đầu là đức Bổn sư từ phụ. Từ bỏ điện ngọc cung vàng, trên
con đường tìm đạo, bước chân vương giả của Ngài đã đạp bằng mọi “hiểm trở gai
góc”; tấm thân ngày ngọc của ngài từng phải chịu đựng “những ngọn nắng cháy
thịt, những trận mưa rách da của xứ Ấn Độ”. Sau bao năm trời khổ hạnh gối tuyết
nằm sương chịu đói chịu khát mà mục đích chưa đạt, nơi cội Bồ Đề, ngài đã trải
tòa cỏ lập kiên cố nguyện: “Nếu không đắc đạo thì dù thịt xa nát xương tan
quyết không rời khỏi tòa này” (Ngã kim nhược bất chứng đắc vô thượng Bồ Đề,
mình khả toái thị thân chung bất khởi thử tọa)
Chư vị cao
tăng ở Trung quốc trên đường “nhập Trúc cầu pháp” đã trải qua biết bao gian khổ
hiểm nguy. Nhiều vị phải bỏ mình khi chưa thỉnh được kinh về Đông độ. Thử đọc
mộ đoạn trong “Phật Quốc Ký” của ngài Pháp Hiển để hình dung phần nào nỗi gia
khổ của tiền nhân:
“Sa hà
trung hữu ác quỷ, nhiệt phong, ngộ tắc gia tử vô nhất toàn giả; thượng vô phi
điểu, hạ vô tẩu thú, biến vọng cực mục, dục cầu độ xứ tắc mạc tri sở nghĩ, duy
dĩ tử nhân khô cốt vi tiêu xí nhĩ”
(Trong
sông cát (sa mạc) có nhiều quỷ dữ, gió nóng, gặp phải thì đều chết, không một
người toàn tánh mạng. Sa mạc đó, trên không có chim bay, dưới không có thú
chạy, nhìn mỏi mắt cũng không suốt, muốn tìm nẻo đi thật vô phương suy tính, chỉ
còn biết nương vào xương cốt người chết làm cờ nêu để tiến bước).
Pháp Sư Huyền
Trang đời Đường trong chuyến Tây du cũng đã từng trải qua những đoạn đường cam
go nguy hiểm tương tự như thế.
Đó là đoạn
đường “Sa mạc mênh mông, ngày chỉ có ánh nắng gay gắt của mặt trời, đêm chỉ
có ánh mờ mờ của các vì sao, cảnh cô độc thật ghê gớm…”
Đó là đoạn
đường “Cát bụi mù mịt, chạm vào da thịt chỗ nào thì muốn cháy chỗ đó”
Đó là đoạn
đường có núi ca nguy hiểm: “ngọn đụng trời, tuyết phủ”, băng đóng quanh
năm, những cơn going tuyết luôn chầu chực sẵn.
Đó là đoạn
đường vòng Đại Tuyết Sơn “mây như đạc lại, tuyết bay loạn suốt ngày, không
bao giờ thấy ánh mặt trời, đường cheo leo không có chỗ nào phẳng…Có khi nào phải
qua những chiếc cầu kết bằng mây đong đưa ở trên không, chỉ vô ý một chút là té
xuống vực thẳn thác đổ ào ào”
Chỉ nghe kể
lại thôi mà chúng ta đã cảm thấy khiếp sợ, lo ngại biết dường nào. Thế mà, Pháp
Sư Huyền Trang đã vượt qua những đoạn đường hiểm nguy như thế cũng như khắc
phục mọi chướng ngại khác để hoàn thành “một công cuộc thỉnh kinh vô tiền
khoáng hậu của nhân loại”. Đã có lúc, ngài chịu khát bốn năm ngày liền
“không một giọt nước thâm môi, lưỡi sưng, môi nứt, mắt mờ sức kiệt”. Đã có
lúc ngài chịu đói chịu lạnh, leo núi trèo đèo, mạng sống gần như “nghìn cân treo
sợi tóc”. Với nghị lực phi thường, ngài đã bất chấp tất cả và quyết định “Thà
đi về phương Tây mà chết còn hơn là trở về hướng Đông mà sống”. Tinh thần
“cần cầu đạo pháp chẳng quí tiếc thân mạng” của Ngài cổ kim hiếm ai bì kịp.
Xem thế đủ
thấy ngưòi xưa vì trọng đạo pháp nào có tiếc gì tấm thân. Chẳng những thế,
trường hợp bức bách không còn cách nào khác, có vị đã sẵn sàng tự huỷ thân để
bảo trì giới thân tuệ mạng. Trong sơ Đẳng Phật học giáo khoa thư, bài “Trinh
khiết nhi tử” có chép câu chuyện: một chú Sa di tướng hảo trang nghiêm nhân khi
đến nhà thí chủ khất thực gặp phải nạn “Ma Đăng Già” (bị thiếu nữ nài ép làm
điều bất chính); không còn cách thoát còn cách thoát thân, chú đã tự đâm cổ mà
chết. Thi thể của chú sau đó được đưa về kinh đô hỏa táng trọng hậu. Mọi người
hết long quí kính chú chính vì câu di ngôn được viết bằng máu của chú còn lưu
lại trên vách: “Ngã ninh xả mạng, bất hủy Phật giới” (Ta bà xả bỏ
thân mạng, quyết không hủy phạm giới của Phật).
Trên đây đã
nói về các gương “vì đạo pháp quên thân mình” của tiền nhân. Theo đó mà suy:
Đối trước sự nghiệp thiêng liêng, lý tưởng cao cả thì thân mạng trở thành một
thứ nhỏ nhoi không đáng kể. Người đời từng nói: trong hoàn cảnh bất đắc dĩ,
phải biết bỏ ngón tay để cứu bàn tay, bỏ bàn tay để cứu cánh tay, bỏ cánh tay để
cứu thân mình; thậm chí phải biết bỏ thân mình để giữ lấy đạo nghĩa. Vẫn biết
“được thân người là khó” nhưng “gặp Phật Pháp” lại là điều khó hơn. Người trí,
khi cần thiết phải biết hy sinh tiểu tiết để thành tựu đại sự. Kẻ sĩ ở đời còn
biết quên mình vì tiết tháo. Bậc “xuất thế anh hùng” há lại vì quí chuộng thân
mạng mà xem nhẹ đạo pháp hay sao?
5.- CHÍ
CẦU ĐẠI THỪA VI ĐO NHÂN CỐ:
(Chí cầu Đại
thừa, vì cứu độ chúng sanh)
Trong văn Sám
hối có đoạn chép: “Ngã kim phát tâm bất vị tự cầu nhân thien phư1ơc báo,
Thanh Văn, Duyên Giác, nãi chí Quyền thừa chư vị Bồ Tát, duy y Tối thượng thừa
Bồ Đề tâm. Nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đác
A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-Đề” (con nay phát tâm không vì riêng cầu cho
mình phước trời người, các quả vị: Thanh Văn, Duyên Giác nhẫn đến Quyền thừa Bồ
Tát. Chỉ hướng về Tối thượng thừa mà phát tâm Bồ Đề. Nguyện cùng pháp giới
chúng sanh đồng một lúc chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Tối thượng
thừa ở đây tức chỉ cho Phật Thừa, Đại thừa.
ĐẠI THỪA:
tiếng Phạn là Mahayana, Trung hoa dịch âm là Ma ha diễn, dịch nghĩa là Đại thừa.
Đại thừa là
pháp rộng lớn, siêu việt cả thời gian và không gian (thụ cùng tam tế, hoành
biến thập phương), có khả năng lợi ích nhiều ngưới, giúp chúng sanh và Bồ Tát
thành tựu Phật quả (ví như cỗ xe lớn có thể chuyên chở được nhiều người). Theo
quan điểm của ngài Đức Thanh, Đại thừa có 5 nghĩa:
1)- Vì đối với
TIỂU nên gọi là ĐẠI
• Tiểu
tâm đối với Đại Tâm
• Tiểu
trí đối với Đại trí
• Tiểu
Pháp đối với Đại pháp.
• Tiểu
hạnh đối với Đại hạnh
• Tiểu
nguyện đối với Đại nguyện.
• Tiểu
quả đối với Đại quả
2)- Có khả
năng đưa đến Phật quả.
3)- Là chỗ y
cứ của chư Phật
4)- Là chỗ y
cứ của chư Bồ Tát, Đại sĩ
5)- Là pháp
rộng lớn cao siêu.
Cũng vì cầu
Đại thừa này mà xưa kia khi vượt thành xuất gia, thái tử Tất Đạt Đa dã phát 4
đại nguyện:
• Nguyện tế
độ chúng sanh khỏi nguy đốn tai ách.
• Nguyện trừ
hoặc chướng cho chúng sanh
• Nguyện đoạn
trừ tà kiến giúp chúng sanh
• Nguyện độ
chúng sanh khỏi vòng khổ hải.
Giáo pháp của
các đạo sĩ: Bạt-Già, A-La-Lã, Uất-đầu-lam-phất v.v… không sao làm thỏa mãn chí
nguyện của Ngài. Bởi vì: chí của Ngài là chí cầu Đại thừa, nguyện của Ngài là
nguyện “cứu độ quần sanh”, và quả của Ngài chứng phải là quả vô thượng Bồ Đề.
Sau Phật diệt
độ, cũng với cái chí ấy, một hàn sĩ từ đất Lãnh Nam đã lặn lội 30 dặm đường đến
gõ cửa thất Huỳnh Mai để trình bày sở nguyện: “Chỉ cầu là Phật, không cầu việc
gì khác”. Hàn sĩ đó không phải ai xa lạ, chính là lục tổ Huệ Năng, một người
danh chấn sơn môn với kỳ tích “Một chữ không biết viết mà thuyết pháp độ sanh
lợi ích vô số kể”. Đệ tử của Ngài, những vị như: Thanh Nguyên, Nam Nhạc Hoài
Thượng, Thần Hội, Huyền Giác v.v…đều là những bậc pháp khí, long tượng chốn
Thiền Môn
Đạo nghiệp của
Phật tổ sở dĩ huy hoàng xán lạn chính là nhờ ở chí cao nguyện rộng, nghị lực phi
thường. Đọc Bát Đại Nhân Giác Kinh, chúng ta không khỏi cảm phục trước đại
nguyện “vào đời độ sanh” của chư vị Bồ Tát..
“Sanh tử xí nhiêu |
Khổ não vô lượng |
Phát Đại thừa tâm |
Phổ tế nhất thiết |
Nguyện đại chúng sanh |
Thọ vô lượng khổ |
Linh chư chúng sanh |
Tất cánh đại lạc” |
(Đệ bát giác
tri)
(Sinh tử thiêu
đốt, khổ não vô lượng, phát tâm Đại thừa, độ khắp tất cả, nguyện thay chúng
sanh, chịu vô lượng khổ, khiến các chúng sanh, được an lạc rốt ráo)
Noi theo công
hạnh của Phật Tổ và Bồ Tát Đại sĩ, người hảo tâm xuất gia là người có chí nguyện
hướng thượng tuyệt vời.
“Phù xuất
gia giả, phát túc siêu phương tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn
nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”
(Luận người
xuất gia là người cất bước đến cõi siêu việt, thân tâm khác tục, nối thạnh dòng
Phật, nhiếp phục ma quân, mong đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi).
Với chí nguyện
hướng thượng tuyệt vời này, người xuất gia như một viên dũng tướng tự trang bị
cho mình “áo giáp tinh tấn” và “thanh gươm trí tuệ”, xông xáo vào trận địa phiền
não, đối đầu với những đại tặc “tam, sân, si”. Người đời vì đền ơn Vua mà chẳng
ngại trải thân ngoài trận mạc để diệt giặc an dân. Người xuất gia vì báo ân
Phật mà mở lòng bi mẫn bạt tế tam đồ. Càng nhớ đến công ơn khai sáng đạo mầu
của đức Bổn Su từ phụ, người xuất gia càng tâm tâm niệm niệm “Phụng sự chúng
sanh là cúng dường chư Phật”. Bởi lẽ:
“Giả sử đãnh đới kinh trần kiếp
Thân vi sàng tòa biến tam thiên
Nhược bất hoằng pháp độ chúng sanh,
Tất cánh vô năng báo ân dã”
(Giả sử đầu đội trăm ngàn kiếp
Thân làm giường tòa khắp(cõi) tam thiên
Nếu không hoằng pháp độ chúng sanh
Rốt chẳng báo được ân của chư Phật)
Vì sứ mệnh
thiêng liêng, vì trách nhiệm trọng đại, người xuất gia quyết chí cầu thắng pháp,
dốc lòng nắm giữ giềng mối Thánh Đạo, tiếp nối công hạnh của Phật tổ khơi sáng
đèn thiền, truyền bá chánh pháp, lợi lạc quần sanh. Đây chính là ý nghĩa của
tịnh đức thứ năm đồng thời cũng là lý do mỗi khi làm việc gì, người xuất gia
thường đọc lời kệ phát nguyện hồi hướng:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”
C.
KẾT LUẬN
Trong lời tựa Hợp chú sách Thiên lâm bảo huấn, Tịnh
Tuệ cư sĩ có dẫn một câu nói của cổ đức: “Xuất gia nãi đại trượng phu chi
sự, phi tướng chi sở năng vi”. Nghĩa là: “Xuất gia là việc làm của bậc đại
trượng phu, chẳng phải là việc mà hàng quan tướng (văn võ trong triều) có
thể làm được”. Điều này cho thấy: xuất gia là việc làm vô cùng trọng
đại. Và, không thể xem thường người hảo tâm xuất gia, người tự nguyện bắt
tay vào việc làm trọng đại. Thử xem: văn quan nơi triều nội, nhiều người
tinh tường “thiên kinh vạn điển”, thông thạo “chước quỷ mưu thần”
nhưng đã có được mấy ai chịu khó quán sát thực tướng vạn pháp, cứu xét nguồn
cội tự tâm để được “siêu phàm nhập thánh”. Võ tướng ngoài trận mạc,
lắm vị xông xáo giữa rừng gươm biển giáo, phá lũy đoạt thành nhưng dễ gì tìm
được người hùng lực: dập tắt lửa dữ sân hận, chặn đứng nước lũ dục tham,
phá vỡ hảo luỹ vọng chấp để vào thành trì Niết Bàn ! Thảo nào, đối trước
những vị dục chí “xuất thế anh hùng phóng hạ vạn duyên tục luỵ”, Tổ
đức đã không ngớt lời tán thán:
“Thiện tai! Đại trượng phu
Năng liễu thế vô thường
Xả tục thú Nê-hoàn
Công đức nan tư nghì”
(Lành thay ! Đại trượng phu
Rõ được đời vô thường,
Bỏ tục hướng Niết Bàn,
Công đức khôn suy lường)
Ôi ! Việc
xuất gia đã được xem là việc làm trọng đại như vậy thì người hảo tâm xuất
gia, người được xưng tán là bậc Đại trượng phu hẳn phải là người có lối hành
xử cao thượng tuyệt vời.
Phần khảo
sát trên tuy chỉ là những nét phác họa sơ sài nhưng qua đó chúng ta không
thể không thừa nhận: năm đức của người hảo tâm xuất gia chính là một trong
những chất liệu cấu thành tính cao thượng tuyệt vời đó. Dĩ nhiên, vẫn còn
nhiều chất liệu khác nữa mà ở đây chúng ta chưa bàn đến; song điều quan
trọng không phải là ở số nhiều mà là ở chỗ: biết và làm ứng hợp. Chỉ với
năm đức này thôi mà chúng ta biết và hành trì ứng hợp cũng đủ để làm bậc mô
phạm của người, làm ruộng phước cho nhân gian. Trong Tuy Môn Cảnh Huấn có
chép: “Năm đức này là phần trọng yếu của người xuất gia. Năm chúng đều
phải kính phụng chứ không phải chỉ dành riêng cho tiểu chúng, suốt đời làm
theo chứ không chỉ cho người mới thọ giới mà thôi”. Chúng ta thường có
thói quen thích làm những chuyện cao siêu của bậc Đai Sa môn mà ít khi đoái
hoài đến những việc của Sadi, cho đó là điều tiểu tiết của kẻ ấu trĩ. Sao
không nhớ rằng: “Người đi được ngàn dặm vẩn không lìa cái bước ban đầu”,
“Đại bàng càng lớn thì đôi cánh càng phải dài rộng hơn”. Năm đức của
người xuất gia chính là “cái bước ban đầu “ của hành trình Giác Ngộ
Giải thoát, là “đôi cánh” cần phải lớn mạnh để xông lướt đến cõi Đại
Phương. Ôi ! Nếu như với người sinh viên, ngày thành đạt công danh (tốt
nghiệp ra trường) là ngày cụ thể hóa những ước mơ của ngưỡng cửa đại học thì
với người học đạo, ngày viên mãn công hạnh tự lợi lợi tha mới là ngày hiện
thực hóa hoài bão của cái thuở “sơ tâm xuất gia”. Hiện tại,
cái ngày ấy với chúng ta hầu như vẫn còn là cái ngày mong đợi. Vậy thì,
trong khoảng thời gian mong đợi ấy, hãy nên nỗ lực tăng tấn hạnh giải… và
lúc nào cũng phải nhớ rằng:
“Trần lao vượt khỏi, việc phi thường
Nắm chặt đầu dây, giữ lập trường
Nếu chẳng một phen xương thấu lạnh
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương!” (*)
PHỤ LỤC
Cảm phục trước những gương “vì đạo pháp quên thân mình”
của tiền nhân, người viết xin trân trọng chép lại bài thơ của Nghĩa Tịnh Đại Sư
kèm theo phần phỏng dịch và lời kết khuyến do chính người viết biên soạn để tự
nhắc nhở sách tấn lấy mình cũng là để tặng chư pháp lữ hành trang trên bướnc
đường “hoằng pháp lợi sinh”
● Phiên âm:
Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường đại gian
Cao tăng cầu pháp ly Trường An
Khứ nhân thành bách, quy vô thập
Hậu giả an tri tiền giả nan
Lộ viễn bích thien duy lãnh kết
Sa hà già nhật lực bì đan
Hậu hiền như vị am tư chỉ
Vãng vãng tương kinh dung dị khan
● Tạm dịch:
Trong khoảng các triều đại: Tấn, Tống, Tề, Lương,
Đường
Chư vị Cao Tăng cầu pháp xa lìa đất Trường An
Ra đi đủ một trăm, trở về không được mười
Người sau nào biết sự gian nan khổ cực của người
trưóc
Đường xa trời thảm, duy có “cái rét của băng tuyết”
Sông cát (sa mạc) nắng thiêu, sức mỏi mòn
Hậu hiền như ai chưa am tường ý chỉ cầu pháp của tiền
bối
Thường thường đem kinh ra đọc một cách dễ duôi!
● Phỏng
dịch theo văn vần:
Trải suốt bao triều: Tấn, Tống, Lương…
Cao tăng cầu pháp, biệt quê hương
Trăm đi, chưa được mười quay lại
Gian khổ, hậu lai mấy kẻ tường?
Thăm thẳm đường xa, thân rét buốt
Mịt mù cát nóng, sức khôn đương
Hậu hiền chưa tỏ Cao Tăng ý
Hời hợt xem kinh như sách thường !
●
Kết khuyến:
Tiền nhân cầu pháp gian lao
Hậu sanh thừa nghiệp, lẽ nào dễ duôi ?
THƯ MỤC THAM KHẢO
1)- KINH TRUNG BỘ
TẬP I, HT. Thích Minh Châu dịch, Viện Nghiên Cứu Phậ Học
Việt Nam ấn hành, 1992.
2)- KINH TRƯỜNG BỘ
TẬP I, HT. Thích Minh Châu dịch, Viện Nghiên Cứu Phậ Học
Việt Nam ấn hành, 1992.
3)- KINH TÂM ĐỊA
QUÁN, HT. Thích Tâm Châu dịch, Saigon 1959.
4)- KINH PHẬT DI
GIÁO, HT. Thích Hoàn Quan dịch, Hoa Đạo Saigon 1970
5)- KINH TỨ THẬP NHỊ
CHƯƠNG, HT. Thích Hoàn Quan dịch, Hoa Đạo Saigon 1971
6)- KINH DIỆU PHÁP LIÊN
HOA, HT. Thích Trí Tịnh, Sen Vàng 1972
7)- THANH TỊNH ĐẠO LUẬN
TOẢN YẾU, HT Thích Phước Sơn, Trường Cao Cấp Phật học Việt Nam, 1996
8)- PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
KHÓA I & II, HT. Thích Thiện Hoa, Thành hội Phật Giáo TP. HCM, 1990
9)- SADI LUẬT GIẢI,
HT. Thích Hành Trụ dịch, Thành hội Phật Giáo TP. HCM 1992
10)- BẢN ĐỒ TU PHẬT,
HT. Thích Thiện Hoa, Thành hội Phật Giáo TP. HCM 1990
11)- TÁM QUYỂN SÁCH QUÝ,
HT. Thích Thiện Hoa, Thành hội Phật Giáo TP. HCM 1990
12)- TĂNG GIÀ VIỆT NAM,
HT. Thích Trí Quang, Đuốc Tuệ, 1952
13)- CẢNH SÁCH NGHĨA CHÚ,
HT. Thích Hoàn Quan dịch, Hoa Đạo xb. 1971
14)- THOÁT VÒNG TỤC LUỴ,
Tịnh Vân Đại Sư, dịch giả Thích Quảng Độ, Saigon 1974
15)- NÓI VỚI NGƯỜI XUẤT
GIA TRẺ TUỔI, Thích Nhất Hạnh, Lá Bối xb. 1994
16)- CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI,
Thích Nhất Hạnh
17)- CHỨNG ĐẠO CA,
Thiền Sư Huyền Giác, Trúc Thiên giới thiệu, Lá Bối xb. 1970
18)- GÓP NHẶT CÁT ĐÁ,
Thiền Sư Muju, dịch giả Đỗ Đình Đồng, Lá Bối xb 1971
19)- KHUYẾN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
VĂN (bản Hán), Tỉnh Am Đại Sư, Hương Cảng 1964
20)- TỲ NI NHẬT DỤNG THIẾT
YẾU GIẢI (bản Hán), Phật Oánh Ni Sư soạn thuật, Hương Cảng xb.
21)- TỲ NI NHẬT DỤNG THIẾT
YẾU (bản Việt), Phật Oánh Ni Su soạn thuật, Thích Nữ Tuệ Đăng dịch, Trường
Cơ Bản Phậ Học Long An, 1993
22)- SƠ ĐẲNG PHẬT HỌC GIÁO
KHOA THƯ, bản chữ Hán
23)- THIỀN LÂM BẢO HUẤN,
bản chữ Hán
24)- TRUY MÔN CẢNH HUẤN,
bản chữ Hán
25)- GIỚI ĐỨC KIÊM ƯU,
Chơn Tịnh, 1973
26)- ÁNH ĐẠO VÀNG, Võ
Đình Cường, Minh Đức xb 1962.
27)- THIÊN THẦN QUÉT LÁ,
Vĩnh Hảo, 1993
28)- HUYỀN TRANG VÀ CÔNG
CUỘC THỈNH KINH VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU CủaA NHÂN LOẠI, Nguyễn Hiến Lê.
29)- TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC HÁN
VIỆT, HT. Kim Cương Tử chủ biên, Hà Nội 1994
30)- PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN,
Đoàn Trung còn, TP. HCM 1992.
31)- HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN,
Thiều Chữu, Khai Trí xb 1942
--- o0o ---
Mục
Lục | Phần
I |
Phần
II
--- o0o ---
Vi tính: Đồng Thanh
Phước Liên
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-05-2004