--o0o--
CHƯƠNG
IX
VUA TRẦN
NHÂN TÔNG VỚI THIỀN PHÁI
TRÚC LÂM
Thiền phái
Trúc Lâm lâu nay trong các sách lịch sử đều ghi nhận là
do vua Trần Nhân Tông thành lập. Đến nửa cuối thế kỷ
thứ 18 khi Tính Quảng và Hải Lượng tập hợp các tư liệu
để cho ra đời tác phẩm Tam tổ thực lục, thì từ đó cho
đến ngày nay, người ta thường cho rằng phái thiền này chỉ
truyền được ba đời là chấm dứt. Nhất là sau ba vị
này, người ta quan niệm dòng thiền Trúc Lâm không có người
kế thừa kiệt xuất nữa. Và có người đã coi như hết một
thời thịnh vượng của Phật giáo, trong đó tất nhiên có
dòng thiền Trúc Lâm. Sự thật, ta đã thấy, sau cái chết
của thiền sư Huyền Quang năm 1334, Phật giáo vẫn tiếp tục
phát triển mạnh mẽ và còn có nhiều nhân vật xuất sắc
kế thừa dòng thiền này, mà ta sẽ gặp dưới đây. Cho nên,
đúng ra vấn đề vua Trần Nhân Tông với dòng thiền Trúc
Lâm không đáng để bàn cãi trong tác phẩm này. Nhưng vì những
ngộ nhận vừa nêu, nên phải nói sơ một ít về dòng thiền
Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông thành lập. Ta đã bàn về một
số vấn đề tư tưởng của vua Trần Nhân Tông, đặc biệt
là tư tưởng Cư trần lạc đạo với chủ trương:
Trần tục
mà nên, phúc ấy càng yêu hết sức,
Sơn lâm
chẳng cốc, họa kia thật khá đồ công
Và coi chủ
trương này là cột trụ của học thuyết thiền Trúc Lâm.
Vì thế, việc trình bày thiền phái Trúc Lâm như một dòng
thiền của các thiền sư, nhất là các thiền sư xuất gia,
mà trước đây các nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt
Nam thường hay làm, phải chăng đã thỏa đáng. Tất nhiên,
trong quá khứ cũng có những người đã trình bày lại lịch
sử thiền phái này như một dòng tu không phân biệt tại gia
hay xuất gia. Cụ thể là tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên
thanh của Ngô Thời Nhiệm trong phần mở đầu của tác phẩm
ấy. Tuy nhiên, cách trình bày của Ngô Thời Nhiệm vẫn chưa
được tiếp thu và phổ biến rộng rãi. Thậm chí có người
coi cách trình bày của Ngô Thời Nhiệm là không phản ảnh
đúng truyền thống Phật giáo, thậm chí là một xuyên tạc.
Tuy vậy,
những trình bày của Ngô Thời Nhiệm không phải là không
có cơ sở, nhất là khi ta đã trình bày giai đoạn vua Trần
Nhân Tông xuất gia là một giai đoạn đầy những hoạt động
chính trị và quân sự, trong đó gồm cả việc tiếp các phái
bộ ngoại giao Trung Quốc, việc chỉ đạo quan hệ với Chiêm
Thành và mở mang bờ cõi về phương Nam cũng như việc cầm
quân bình định nước Ai Lao quấy rối biên giới phía Tây
Bắc. Giai đoạn xuất gia của cuộc đời vua Trần Nhân Tông,
do thế, không phải là một giai đoạn tĩnh tu, như nhiều người
còn quan niệm và đã mô tả. Ngược lại, đó là một
giai đoạn đầy ắp những công việc của dân của nước.
Vì vậy, không phải không có lý do và cơ sở cho việc trình
bày “hành trạng của ba tổ” Trúc Lâm theo hướng mà Ngô
Thời Nhiệm đã đưa ra.
Phải nói
đây là một hướng trình bày đúng, dù rằng ngày nay do nhận
thức lệch lạc ở cả giới tăng sĩ Phật giáo cũng như giới
nghiên cứu, sự đúng đắn của lối trình bày vừa nói đã
không được thừa nhận và phát huy. Người ta cứ quan
niệm vua xuất gia đi tu là rũ bỏ hết mọi việc liên quan
với đời, để dồn tâm dồn sức cho việc tu đạo.
Nếu vậy, thì làm gì có chuyện gả công chúa Huyền Trân
và sáp nhập hai châu Ô Mã và Việt Lý vào bản đồ Đại
Việt ? Nếu vậy, thì làm gì có việc vua Trần Nhân Tông
đã ngăn việc phong tước quá nhiều của vua Trần Anh Tông?
Nhìn vào cuộc đời vua Trần Nhân Tông trong những năm tháng
xuất gia, chưa bao giờ ta thấy nhà vua lơi là việc nước
việc dân, chưa bao giờ nhà vua không quan tâm đến các hoạt
động của chính quyền do con mình là vua Anh Tông điều khiển.
Tuy nhiên,
từ lâu trong giới xuất gia của Phật giáo đã hình thành
một quan niệm là khi vua Trần Nhân Tông xuất gia cũng là lúc
nhà vua “bỏ ngôi báu, vào cửa thiền, quên mình vì đạo,
vừa khi cơ thiền đáp ứng, thì quả nhiên gương sáng chẳng
nhọc”, như Diệu Trạm đã viết trong lời tựa in lại Tam
tổ thực lục tờ 1a5-6 vào năm Thành Thái thứ 9 (1897). Quan
điểm nhìn nhận vua Trần Nhân Tông như thế, sau này, đã
được các sách sử tiếp tục lặp lại, coi giai đoạn xuất
gia của nhà vua là một giai đoạn dồn hết tâm lực cho việc
đạo. Có người đã viết:
“Nhưng
thắng giặc không lâu, Nhân Tông nhường ngôi cho Anh Tông để
đi tìm một cuộc sống tĩnh tại trong cảnh tu hành, trở thành
ông tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm và gửi hơi thở cuối
cùng ở am Ngọa Vân trên núi Yên Tử tĩnh mịch, lúc mới
51 tuổi”. Không chỉ viết vua Trần Nhân Tông xuất gia là
để tìm một cuộc sống tĩnh tại, họ còn nói: “Ông muốn
dứt bỏ những bận rộn thường tình của xã hội để đi
tìm lẽ huyền vi chi phối cuộc sống con người”1.
Rõ ràng một
quan điểm nhìn nhận như thế là không thỏa đáng và phù
hợp với sự thật lịch sử, mà ta đã biết về cuộc đời
vua Trần Nhân Tông, như sử sách ghi lại, cụ thể là ĐVSKTT
và Thánh đăng ngữ lục. Hơn thế nữa, nếu phân tích buổi
lễ trao truyền vị thế kế thừa dòng thiền Trúc Lâm cho
Pháp Loa, như chính văn bia của Pháp Loa ghi lại trong Tam tổ
thực lục tờ 18b3 -19a8, ta thấy nổi bật một sự kiện rất
khác thường, không tìm thấy ở bất cứ một trường hợp
truyền trao nào khác dù ở Trung Quốc hay Việt Nam. Bài văn
bia này cho ta biết trước hết “vào tháng 5 Điều Ngự lên
ở am tại đỉnh núi Ngọa Vân. Ngày rằm bố tát xong, đuổi
tả hữu ra, đem y bát và viết tâm kệ giao cho sư, bảo phải
giữ gìn. Ngày mồng một tháng giêng năm Mậu Thân Hưng Long
thứ 16 (1308), sư vâng lệnh làm trụ trì nối dòng pháp ở
Cam Lộ đường chùa Siêu Loại. Để khai đường và làm lễ
trao truyền, vua cho đặt bài vị của liệt tổ, tấu Đại
nhạc, đốt hương thơm. Điều Ngự dẫn sư lên lễ tổ đường
xong. Sau khi ăn cháo, sai tấu nhạc, đánh trống pháp, tập
hợp đại chúng lên pháp đường. Bấy giờ Anh Tông xa giá
đến chùa. Sau khi đặt ngôi chủ khách xong, vua Anh Tông vì
là đại thí chủ của Phật pháp đứng vào ngôi khách ở
pháp đường, thượng tể đem bá quan đứng ở dưới sân.
Điều Ngự
lên tòa thuyết pháp. Giảng xong, bèn đi xuống, đỡ sư lên
tòa. Điều Ngự đứng đối diện chắp tay hỏi han. Sư đáp
lễ xong, nhận pháp y mặc vào. Điều Ngự bèn bước sang một
bên, ngồi trên giường khúc lục, nghe sư thuyết pháp.
Đem chùa
Siêu Loại của sơn môn Yên Tử sai sư kế thế trụ trì làm
đời thứ hai của dòng Trúc Lâm. Lại đem ngoại thư kinh sử
100 hộp và Đại Tạng 20 hộp nhỏ chép bằng máu chích ra,
để mở rộng việc học nội và ngoại điển”.
Căn cứ vào
lời thuật của văn bia về việc truyền y bát cho Pháp Loa,
ta thấy có mấy điểm đáng chú ý. Thứ nhất, vào tháng
5 năm Hưng Long thứ 15 (1307), Pháp Loa đã được gọi lên am
Ngọa Vân ở núi Kỳ Đặc để được trao y bát và tâm kệ.
Bài kệ này ngày nay đã mất, nên ta không biết có nội dung
gì. Tuy nhiên, bảy tháng sau, vào ngày mồng một tết năm Mậu
Thân Hưng Long thứ 16 (1308) vua Trần Nhân Tông đã chính thức
hóa việc truyền y ở Cam Lộ đường của chùa Siêu Loại
thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay với sự chứng kiến của chính
vua Trần Anh Tông và thượng tể Trần Quốc Trấn. Thứ hai,
tại buổi lễ này, sau việc trao y và nghe Pháp Loa thuyết pháp,
vua Trần Nhân Tông còn đem ngoài 20 hộp nhỏ kinh điển Phật
giáo, còn đem 100 hộp “kinh sử ngoại thư” giao cho Pháp
Loa và dặn dò “mở rộng việc học bên trong và bên ngoài”.
Chỉ một
việc giao sách kinh sử ngoại thư này thôi trong buổi lễ truyền
y bát chính thức tại Cam Lộ đường của chùa Siêu Loại,
ta thấy phản ảnh rất rõ mẫu người Phật GIÁO lý tưởng,
mà vua Trần Nhân Tông nhằm tới trong Cư trần lạc đạo phú:
Sạch giới
lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại
nên bồ tát trang nghiêm.
Ngay thờ
chúa, thảo thờ cha,
đi đỗ
mới trượng phu trung hiếu
Thế rõ ràng
con người trượng phu và con người bồ tát phải kết hợp
với nhau để thành một con người Phật giáo của thiền Trúc
Lâm. Học Phật giáo không loại bỏ những cái học bên ngoài
Phật giáo. Và những môn học bên ngoài Phật giáo không loại
bỏ cái học Phật giáo. Dĩ nhiên, quan điểm giáo dục này
đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Ta biết nó hiện diện tối thiểu là từ thời Mâu Tử (160
-220 ?) và Khương Tăng Hội (?-280), rồi vẫn được kế thừa
một cách mạnh mẽ sau thời Trần Nhân Tông với những tên
tuổi lẫy lừng như Hương Chân Pháp Tính (1470-1550?), Minh Châu
Hương Hải (1628 -1715) và đặc biệt là Hải Lượng Ngô Thời
Nhiệm (1746 -1803) v.v..
Mẫu người
lý tưởng của thiền phái Trúc Lâm như thế rất khác xa những
mẫu người của Phật giáo thiền Trung Quốc.
Trước khi
trao truyền y bát, Pháp Loa cũng trãi qua một tiến trình tham
vấn có vẻ giống như bất cứ thiền sinh nào trong các thiền
viện Trung Quốc, như văn bia của sư đã chép lại trong Tam
tổ thực lục tờ 17b1 -8:
“Một
hôm sư từ chỗ Tín Giác trở về tham yết, gặp lúc Điều
Ngự đang thuyết pháp, nêu lên bài tụng ‘Thái dương ô kê’.
Sư như có tỉnh ngộ. Điều Ngự biết điều đó, bèn sai
theo hấu hai bên. Một đêm nhân khi trình bài tụng Tam yếu,
bị Điều Ngự một bút sổ toẹt. Sư bốn lần thỉnh ích.
Điều Ngự chỉ dạỵ nên tự tham cứu. Bèn vào phòng trong
lòng rất xao xuyến. Đến nửa đêm, nhân thấy hoa đèn rơi,
bỗng nhiên đại ngộ, bèn đem điều sở ngộ trình lên Điều
Ngự. Điều Ngự rất bằng lòng. Từ đó sư thề tu hạnh
12 đầu đà”.
Quá trình
tham cứu để giác ngộ của thiền Trúc Lâm như vậy có những
nét trông có vẻ như tương tự với quá trình giác ngộ của
các thiền sinh ở Trung Quốc cũng như Việt Nam trước thời
Trần Nhân Tông. Và thực tế các bài giảng của vua Trần
Nhân Tông tại chùa Sùng Nghiêm năm Hưng Long thứ 7 (1299) do
Thánh đăng ngữ lục tờ 18b6 -20b8 ghi lại và tại viện Kỳ
Lân của chùa này do Tam tổ thực lục tờ 36a2 -39b6 trích chép
đã một phần nào cho thấy cách diễn giảng về thiền của
nước ta vào thời vua Trần Nhân Tông. Chúng có những nét
giống hao hao với những buổi giảng thiền tại các thiền
viện Trung Quốc và Việt Nam trước đó, mà ta có dịp đọc
qua ở Cảnh đức truyền đăng lục hay Thiền uyển tập anh.
Tuy nhiên,
qua buổi lễ truyền trao của ngày mồng một tết của năm
Mậu Thân Hưng Long thứ 16 (1308), ta thấy một sự trao truyền
tinh thần Phật giáo hoàn toàn khác. Việc trao cho Pháp Loa 100
hộp sách kinh sử ngoại thư cùng với 20 hộp kinh Đại Tạng
chép bằng máu và dặn dò Pháp Loa “phải mở rộng cái học
bên trong và bên ngoài” không chỉ thể hiện quan điểm giáo
dục của vua Trần Nhân Tông và của Phật giáo Việt Nam mà
ta đã nói tới. Nó còn thể hiện chủ trương “giáo
lý của đức Phật ta phải nhở tiên thánh mà truyền lại
cho đời” do vua Trần Thái Tông nêu lên trong Thiền tông chỉ
nam tự. Và chủ trương này chắc chắn đã được vua Lý Thánh
Tông thực hiện, khi vua vừa cho thành lập thiền phái Thảo
Đường, lại vừa mở ngôi trường đại học đầu tiên của
quốc gia Đại Việt qua việc xây dựng Văn miếu vào năm 1070,
rồi tiếp theo thiết lập Quốc tử giám.
Mẫu người
Phật giáo lý tưởng này như vậy phải là một mẫu người
được giáo dục toàn diện, không cho bất cứ nguồn tri thức
nào là xa lạ với nguồn tri thức Phật giáo. Không phải học
kinh sử của nhà nho là chối bỏ Phật giáo, thậm chí chống
lại Phật giáo, như nhiều sách vở đã từng rao giảng một
cách vô bằng. Nho giáo trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ
chiếm ưu thế, chứ khoan nói chi tới chuyện độc tôn. Có
thể nói có bao nhiêu nhà nho là có bấy nhiêu Phật tử, dù
rằng đôi khi vì lý do này hay lý do khác đã xảy ra những
phê phán một dạng Phật giáo này, một dạng Phật giáo khác,
xuất phát từ những người đã trải qua các kỳ thi nho. Và
sự tình này có đầu dây mối dợ của nó. Đó là Nho giáo
tồn tại ở Việt Nam thông qua mẫu hình Phật giáo.
Khi vua Trần
Thái Tông viết “giáo lý của đức Phật ta phải nhờ tiên
thánh mà truyền lại cho đời”, thì đấy không phải là
một lời nói suông buông ra từ cửa miệng một vị sư hay
một người trí thức nào đó. Ngược lại, nó xuất phát
từ một vị vua, một lãnh tụ quốc gia, tất nhiên nó sẽ
được phản ảnh trong chính sách văn hóa giáo dục của chính
quyền do vị lãnh tụ ấy đề xuất. Chính sách nhà nước
của triều Trần đối với Nho giáo như thế là một chính
sách dùng Nho giáo như một công cụ phục vụ cho lợi ích
của Phật giáo. Phải nhận rõ điều này ta mới thấy trong
thời đại Lê sơ, đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông và
trở về sau, thường được cho một cách sai lầm là thời
kỳ “Nho giáo độc tôn”, tại sao đã có những đề thi
đình trong đó có nhiều câu hỏi liên quan đến Phật giáo,
nhất là Phật giáo Trúc Lâm. Cụ thể là đề thi năm 1502,
mà người đỗ đầu là trạng nguyên Lê Ích Mộc (1459 -?).
Cũng may nhờ sự bảo lưu được những đề thi này, ta mới
biết chút ít về nội dung học và thi của nền giáo dục
Lê sơ, và từ đó đánh bạt được những ngoa truyền về
“Nho giáo độc tôn”.
Truyền thống
giáo dục của Việt Nam từ đó là một nền giáo dục tổng
hợp. Học Nho giáo là để phục vụ cho những lợi ích bên
ngoài Nho giáo, tức lợi ích Phật giáo và dân tộc. Đây là
một điểm, mà người ta thường không chú ý tới, khi viết
về lịch sử giáo dục và khoa cử Việt Nam. Người ta quên
rằng việc dựng nên Văn miếu vào năm 1069-1070 đã do một
người Phật tử thực hiện. Và người Phật tử này đồng
thời cũng là người thành lập dòng thiền Thảo Đường.
Chỉ một việc này thôi cũng cho thấy vua Lý Thánh Tông đã
có thái độ như thế nào đối với Nho giáo. Cho nên, ngày
nay tuy không có một văn bản nào ghi lại quan điểm của vua
Lý Thánh Tông, ta vẫn có thể chắc chắn chủ trương của
vị vua này chính là chủ trương “giáo lý của đức Phật
ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời”, như vua
Trần Thái Tông đã phát biểu.
Vì thế,
ta hoàn toàn không có gì ngạc nhiên trước việc vua Trần
Nhân Tông đã trao cho Pháp Loa một trăm hộp “kinh sử ngoại
thư” cùng với hai mươi hộp “Đại Tạng kinh Phật giáo”
và dặn dò phải mở rộng việc học bên trong cũng như bên
ngoài Phật giáo, lúc truyền y bát, để kế thừa làm vị
tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm. Không những thế,
điều này không có nghĩa vua Trần Nhân Tông đã nghiêng hẳn
về giới xuất gia trong dòng thiền Trúc Lâm. Ta đã thấy Trần
Nhân Tông nhấn mạnh đến “giới lòng” và “giới tướng”
của những vị “bồ tát trang nghiê m”. Giới lòng là một
Việt dịch của chữ tâm giới tiếng Trung Quốc. Và tâm giới
là một tiếng gọi tắt của bồ đề tâm giới, hay cũng gọi
là bồ tát giới. Đây là loại giới luật đặc biệt dùng
chung cho cả người tại gia và người xuất gia.
Việc nhấn
mạnh đến tâm giới, do đó, thể hiện quan điểm không phân
biệt xuất gia và tại gia của chính vua Trần Nhân Tông. Và
thực tế, nếu nghiêng về giới xuất gia và cho việc xuất
gia như một quá trình rút ra khỏi cuộc đời thế tục và
xa lánh cuộc đời này thì ngay khi truyền y bát cho Pháp Loa,
vua đã không truyền thêm một trăm hộp “kinh sử ngọai thư”.
Truyền kinh sử ngoại thư để làm gì, nếu không quan tâm
đến cuộc đời, mà trong đó mỗi con người đang vươn lên
tìm cho mình một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Và cũng
lạ thật, nếu Pháp Loa chỉ với tư cách nhà tu, thì ôm lấy
kinh sử ngoại thư để làm gì? Ta cần nhớ khi được truyền
y bát để kế thừa dòng thiền Trúc Lâm, Pháp Loa còn rất
trẻ, mới chỉ 24 tuổi.
Ở độ tuổi
này, có thể Pháp Loa đã có một cơ sở học vấn tốt, nhưng
chưa phải nắm hết mọi ngành học thuật của thời đại
mình. Dù vào lúc ấy chưa có cuộc bùng nổ thông tin như thời
đại chúng ta, nhưng chắc chắn nhiều ngành học thuật đã
phát triển mạnh mẽ và đã tích lũy được một số lượng
kiến thức phải nói là phong phú. Cả một loạt những xuất
bản phẩm lần đầu tiên ra đời nhờ việc phổ biến nghề
in bằng bản gỗ ở Trung Quốc cũng như nước ta mấy trăm
năm trước đó. Vì thế, ta có lý do để nghĩ rằng việc
vua Trần Nhân Tông giao các hộp sách Phật giáo và ngoài Phật
giáo trên cho Pháp Loa là nhằm thể hiện mong muốn của bản
thân vua. Nhà vua mong muốn Pháp Loa có đủ kiến thức trong
và ngoài Phật giáo, để thực hiện mẫu người Phật giáo
lý tưởng của mình một cách trọn vẹn, chứ không phải
mong có một người kế thừa khư khư giữ lấy tư cách một
nhà tu chỉ biết thiền định và giảng kinh cùng một số
công việc tu trì khác.
Nói khác
đi, vua Trần Nhân Tông mong có một người kế thừa gần giống
mình. Ta đã thấy những năm tháng xuất gia của vua là những
năm tháng đầy công việc đời cũng như đạo. Vua hy vọng
Pháp Loa cũng có một cuộc sống ít nhiều sôi động kiểu
ấy. Thế nhưng, trong 22 năm còn lại của cuộc đời mình,
Pháp Loa chỉ giới hạn vào công việc Phật giáo là chính.
Ngoài ra, ta không thấy có bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ
có tham gia vào các hoạt động thế sự.
Phải chăng
vì những hoạt động thuần túy này, mà văn bia Pháp Loa phải
hơn 30 năm sau khi mất mới được khắc lên đá, tức vào
năm Nhâm Dần Đại Trị thứ 5 (1362)?
Vấn đề
quan hệ giữa Pháp Loa và vua Anh Tông theo Thánh đăng ngữ lục
và Tam tổ thực lục là một quan hệ khắng khít tốt đẹp.
Tuy nhiên, căn cứ ĐVSKTT 6 tờ 39b4-7, trong những giây phút
cuối cùng của cuộc đời mình, vua Anh Tông đã từ chối
gặp Pháp Loa. Rồi nhân việc Pháp Loa mất vào năm 1330, Thánh
đăng ngữ lục tờ 35a2 -8 chép lúc Pháp Loa đau, vua Minh Tông
đã tới thăm và khi mất, vua ban pháp hiệu cũng như làm thơ
điếu và sai người đến gặp Huyền Quang nhờ viết lại
ngữ lục và hành trạng của Pháp Loa để cho in. Trong lần
in này, vua Minh Tông đã đề tựa. Tất cả điều này chứng
tỏ Pháp Loa có một ảnh hưởng rất lớn đối với vua Minh
Tông. Ta không biết tại sao sau khi vua Minh Tông mất, bản Niên
phổ của Pháp Loa mới được khắc lên bia?
Dẫu sao,
thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông thành lập đã có
người kế thừa. Trong thời gian từ khi được truyền y bát
cho đến lúc mất vào năm 1330, tất cả nỗ lực của Pháp
Loa tập trung chủ yếu vào việc quy y và trao giới cho những
người tại gia cũng như xuất gia, khai sơn chùa Quỳnh Lâm
và chùa Tư Phúc cùng hơn 20 am chùa khác và đặc biệt cho
tiến hành chép cũng như in Đại Tạng kinh. Bản thân Pháp
Loa là tác giả của tối thiểu 9 tác phẩm, đó là Tham thiền
kỷ yếu, Kim Cương tràng đà la ni kinh khoa chú, Niết Bàn đại
kinh khoa sớ, Pháp Hoa kinh khoa sớ, Lăng già tứ quyển khoa
sớ, Bát nhã tâm kinh khoa sớ, Hưng vương hộ quốc nghi quỷ,
Pháp sự khoa văn và Độ môn trợ thành tập. Ngoài ra ông
còn trực tiếp giảng dạy nhiều nơi, nhất là nhiều lần
được mời giảng dạy kinh Hoa Nghiêm.
Đây là một
chi tiết cần chú y,ữ vì thứ nhất, nó chứng tỏ thiền
phái Trúc Lâm không từ bỏ kinh điển, càng không tập trung
vào việc tham cứu công án hay thoại đầu. Việc học tập
và diễn giải kinh điển được nâng lên thành một bộ phận
trọng yếu của sinh hoạt thiền Phật giáo. Điều này có
nét tương tự với thiền học Huệ Năng, trong đó các kinh
điển vẫn được coi trọng và giải thích theo hướng mới
của thiền. Tuy nhiên, nếu Huệ Năng chỉ quan tâm đến kinh
Pháp Hoa hay Niết Bàn, thì dòng thiền Trúc Lâm từ vị tổ
thứ nhất là vua Trần Nhân Tông trở đi, kinh Hoa Nghiêm đã
có một vị thế tư tưởng xung yếu. Ta cần nhớ đến bài
kệ trước lúc mất của vua Nhân Tông:
Nhất thiết
pháp bất sanh
Nhất thiết
pháp bất diệt
Nhược năng
như thị giải
Chư Phật
thường hiện tiền
Hà khứ
lai chi hữu
(Tất cả
pháp không sinh
Tất cả
pháp không diệt
Nếu hiểu
được như vầy
Chư Phật
thường trước mặt
Đi đến
sao có đây)
là bài kệ,
mà bốn câu đầu rút trực tiếp ra từ kinh Hoa Nghiêm.
Thứ hai,
nội dung kinh Hoa Nghiêm trình bày quá trình đi tìm chân lý
của từng con người, mà điển hình là đồng tử Thiện Tài
với 53 cuộc tham vấn của mình. 53 cuộc tham vấn này được
mô tả dưới nhiều dạng khác nhau, từ dạng thế tục nhất
với những chi tiết nam nữ ân ái cho đến dạng siêu thoát
nhất qua những tư tưởng chân xác về quan hệ giữa các sự
vật với nhau, mà ngày nay mỗi khi đọc tới ta cảm thấy
hết sức gần gũi. Tính phổ biến của kinh Hoa Nghiêm vào
lúc ra đời của thiền phái Trúc Lâm này không phải là tình
cờ ngẫu nhiên. Nó xuất hiện càng làm rõ thêm tư tưởng
Cư trần lạc đạo và phù hợp với tư trào phát triển tư
tưởng Cư trần lạc đạo thành một lối sống mới trong
sinh hoạt Phật giáo Việt Nam.
Phải nói
rằng sự xuất hiện hệ tư tưởng Hoa Nghiêm đã manh nha từ
thời thiền sư Thường Chiếu (? -1203) với chủtrương tùy
tục của vị thiền sư này. Căn cứ vào Thiền uyển tập
anh, để trả lời câu hỏi “pháp thân hiện khắp mọi nơi
là thế nào” của một thiền sinh, Thường Chiếu đã lấy
hai đoạn văn từ phẩm Như Lai xuất hiện trong bản kinh Hoa
Nghiêm 80 cuốn do Thật Xoa Nan Đà dịch.1 Ta cũng cần nhớ
rằng Thường Chiếu là thầy của Thông Thiền (?-1228). Và
Thông Thiền theo Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng sĩ
ngữ lục tờ 5b6 -7b1 là người đã thành lập nên “tông
môn” Trúc Lâm, mà ta có thể trình bày qua đồ hình sau:
Thông Thiền
Tức Lự
Ứng Thuận
Tiêu Dao
Tuệ Trung
Vua Trần
Nhân Tông
Pháp Loa
Huyền Quang
Tư tưởng
kinh Hoa Nghiêm có thể nói là một loại lý thuyết hệ thống,
trong đó mọi tồn tại chỉ tồn tại trong tương quan nào
đó với các tồn tại khác. Không bao giờ có một sự tồn
tại tự thân, độc lập bên ngoài các tồn tại khác. Dưới
ảnh hưởng của một lý thuyết như thế, tất nhiên Thường
Chiếu phải đặt mọi hoạt động của cuộc đời mình, mà
cụ thể là các hoạt động Phật giáo, vào trong một hệ
thống nhất định, một khung cảnh thời đại nhất định.
Cho nên, ta không lạ gì khi Thường Chiếu đưa ra chủ trương
tùy tục, trong khi trả lời câu hỏi của Thần Nghi (?-1216)
về “hòa thượng cũng sống theo thế tục sao?”. Các dòng
thiền Pháp Vân và Kiến Sơ đến cuối thời Lý cũng đã bắt
đầu xuất hiện các gương mặt cư sĩ thiền sư, đặc biệt
là dòng thiền Kiến Sơ với Thông Thiền. Thông Thiền, như
đã
biết, được Lược dẫn thiền phái đồ coi là người sáng
lập ra tông môn Trúc Lâm Yên Tử. Bản thân Thông Thiền là
một cư sĩ.
Đến Ứng
Thuận cũng thế. Và đây rõ ràng là do tác động mạnh mẽ
của tư tưởng kinh Hoa Nghiêm. Tuệ Trung Trần Quốc Tung trong
các bài thơ của mình cũng đã nhắc đến kinh này. Thí dụ,
bài Thị chúng, Tuệ Trung đã nói đến việc học tập theo
gương Thiện Tài đồng tư,ý khi đối mặt với tiền nhân.
Thế gian
nghi vọng bất nghi chân
Chân vọng
chi tâm diệc thị trần
Yếu đắc
nhất cao siêu bỉ ngạn
Hảo tham
Đồng Tử đối tiền nhân
(Thế gian
thích vọng chẳng ưa chân
Chân vọng
lòng kia cũng pháp trần
Cốt được
vượt cao qua bến ấy
Khéo tham
Đồng Tử gặp tiền nhân)
Chính xuất
phát từ tư tưởng Hoa Nghiêm này, mà lần đầu tiên các phạm
trù đối lập nhau trong tư tưởng nhân loại như có và không,
thị và phi, phải và trái mới được giải quyết một cách
căn bản. Có và không chỉ tồn tại trong một tương quan nào
đó. Chẳng có cái có tuyệt đối cũng như chẳng có cái không
tuyệt đối. Nếu nhìn dưới góc độ tư tưởng Hoa Nghiêm,
có và không chỉ là hai mặt của một vấn đề. Chúng không
đối lập loại trừ lẫn nhau. Cái có chỉ biết là có vì
nó liên hệ với cái không có. Và cái không có cũng thế.
Cho nên, vua Trần Nhân Tông trong buổi giảng tại chùa Sùng
Nghiêm vào tháng 12 năm Giáp Thìn 1304, đã cho rằng: Vì người
ta quên khái niệm có, không trong một liên hệ như thế, nên
khi bàn luận thì giống như người chỉ nhìn thấy ngón tay
mà không thấy mặt trăng, như kẻ ôm cây đợi thỏ, như người
đi tìm ngựa mà dựa theo bản đồ:
Câu không
câu có
Chẳng có
chẳng không
Khắc thuyền
tìm gươm
Bản đồ
kiếm ngựa
Câu có câu
không
Đắp đổi
hay không
Nón tuyết
giày bông
Ôm cây đợi
thỏ
Câu có câu
không
Từ nay từ
xưa
Quên trăng
giữ ngón
Chết đuối
trên bờ.
(Hữu cú
vô cú
Phi hữu
phi vô
Khắc chu
cầu kiếm
Sách ký
án đồ
Hữu cú
vô cú
Hổ bất
hội hổ
Lạp tuyết
hài hoa
Thủ chu
đãi thố
Hữu cú
vô cú
Từ cổ
từ kim
Chấp chỉ
vong nguyệt
Bình địa
lục trầm)
Kinh Hoa Nghiêm
và tư tưởng Hoa Nghiêm như vậy đã trở thành một nguồn
suối tư tưởng mới cho không chỉ Phật giáo Lý - Trần khai
thác. Nó còn trở thành một lý thuyết phổ quát cho những
người lãnh đạo quốc gia Đại Việt nhìn về đất nước
cũng như xã hội mình trong tương quan với các đất nước,
xã hội khác cùng thời, mà đỉnh cao là sự ra đời của
chính dòng thiền Trúc Lâm. Ngày nay, mọi người đều đồng
ý trong lịch sử dân tộc ta chưa bao giờ có một triều đại
nào có chính sách thân dân như triều Trần, đặc biệt là
của ba triều vua Thái Tông, Thánh Tông va Nhân Tông.
Ta có thể
thấy nguồn gốc của tư tưởng thân dân này, ngoài truyền
thống dân tộc, đã xuất phát từ chính hệ tư tưởng kinh
Hoa Nghiêm. Và cũng có thể nói chưa bao giờ trong lịch sử
Phật giáo Việt Nam kinh Hoa Nghiêm lại được diễn giải như
ở thời đại từ vua Trần Nhân Tông trở về sau, khi phái
thiền Trúc Lâm bắt đầu xuất hiện trên vũ đài văn hóa
dân tộc.
Pháp Loa mất
vào năm 1330. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời
Pháp Loa có sự hiện diện của Huyền Quang. Nhưng đến lúc
ấy thì Huyền Quang cũng già lắm rồi, gần gấp đôi tuổi
của Pháp Loa. Cho nên, dù về sau, nhất là khi Tam tổ thực
lục ra đời do Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm tập hợp các
tư liệu rời rạc để hình thành nên bộ sách viết về Trúc
Lâm tam tổ, truyền thuyết về sự tồn tại của ba vị tổ
dòng thiền Trúc Lâm được phổ biến rộng rãi, ta phải thấy
dòng thiền này không chỉ giới hạn trong ba vị tổ ấy. Bên
cạnh Huyền Quang mất vào năm 1334, tức chỉ sau Pháp Loa 4
năm và thọ đúng 80 tuổi, ta còn có những đệ tử khác của
Pháp Loa như Cảnh Huy, Cảnh Ngung, Huệ Chúc và đặc biệt
là Kim Sơn.
Kim Sơn là
người được vua Trần Minh Tông không những coi là vị thiền
sư “được cốt tủy của Phổ Huệ”, như Thánh đăng ngữ
lục tờ 38b4-5 đã ghi, mà còn được vị vua này suy tôn làm
Trúc Lâm tam đại thiền tổ, khi ông sắp mất vào năm 1358.
Thánh đăng ngữ lục tờ 38b7-39a6 đã viết về sự kiện này
như sau: “Vua sắp băng hà, có kệ trình Kim Sơn nói: Đệ
tử không ở trong bệnh cảnh gửi cho thiền tổ đời thứ
ba Trúc Lâm. Đệ tử ôm bệnh muốn cả tuần. Đêm nằm, ngày
uống thuốc, không ăn một hạt cơm, nhưng hạt hạt đều
nhai hết. Nếu có người hỏi vị nó thế nào thì đáp chẳng
có vị gì hết, lại xin trình bài kệ:
Chứa thuốc
muốn trị bệnh
Không bệnh
đâu dùng thuốc
Nay có cơm
không hạt
Người không
miệng nhai hết
Lại viết
thư mời Kim Sơn đến tăng phòng Động Tiên xem bệnh”.
Vậy nói
tới vị tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm, ta phải kể
tới Kim Sơn, chứ không phải Huyền Quang. Trong các tư liệu
hiện còn, trừ sách Tam tổ thực lục ra, không có bất cứ
tư liệu nào gọi Huyền Quang là tam đại thiền tổ cả, mà
chỉ gọi là “tự pháp”, tức nối dõi dòng pháp của Pháp
Loa. Cần chú ý là Niên phổ của Pháp Loa trong Tam tổ thực
lục tờ 19a6 đã gọi Pháp Loa là “Trúc Lâm đệ nhị đại”.
Việc vua Trần Minh Tông gọi thiền sư Kim Sơn là Trúc Lâm
tam đại thiền tổ, do thế, chính thức coi Kim Sơn là người
kế thế dòng thiền Trúc Lâm cho đến ít nhất là năm 1358,
khi vua Trần Minh Tông mất. Dòng thiền Trúc Lâm sau cái chết
của Huyền Quang năm 1334 vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ
dưới sự ngoại hộ của triều đình nhà Trần.
Việc trình
bày lịch sử phát triển của thiền phái Trúc Lâm qua ba vị
tổ Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang có thể nói là
một sáng tạo đặc biệt của Phật giáo Việt Nam thế kỷ
thứ 18, khi Tính Quảng và người học trò của mình là Hải
Lượng Ngô Thời Nhiệm đã sao trích những mảng tư liệu
khác nhau, để tập hợp lại và cho ra đời sách Tam tổ thực
lục. Nghiên cứu nội dung sách này, ta thấy tiểu sử của
Trần Nhân Tông là một trích chép lại nguyên văn từ Thánh
đăng ngữ lục, không có thêm bớt gì. Chỉ ở cuối sách,
có một đoạn phụ lục trích từ “Quốc sử” về việc
sư Trí Thông đốt cánh tay khi vua Trần Nhân Tông xuất gia
và đến khi vua mất thì vào hầu tháp ở núi Yên Tử. Tiểu
sử của Pháp Loa là một bản sao lại Niên phổ của Pháp
Loa khắc trên bia tháp Viên Thông vào năm Đại Trị Nhâm Dần
(1362) hiện còn tại chùa Thanh Mai trên núi Tam Ban của xã Hoàng
Hoa Thám, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay.
Còn tiểu
sử của Huyền Quang là một sao lại từ bản Tổ gia thực
lục. Bản sách này có lịch sử khá ly kỳ. Khi quân Minh
tạm chiếm nước ta vào những năm 1407-1428, chúng vơ vét sách
vở đưa về Kim Lăng, trong đó có bản Tổ gia thực lục.
Theo lời ghi cuối sách thì “Tổ gia thực lục này khoảng
năm Tuyên Đức (1426-1435) của nhà Đại Minh, thượng
thư Hoàng Phúc nhận được đem về nước Minh. Trải năm tháng,
thường mơ thấy nhà sư kêu khiến gửi trả về bản
quốc. Con cháu chưa có được dịp gửi về nhân cầu đảo
lập chùa ở làng mình để phụng thờ. Hễ có cầu đảo
thì rất có linh ứng, đề tên chùa là chùa An Nam, thiền sư
Huyền Quang. Đến khoảng năm Gia Tĩnh (1522-1558) Tô Xuyên
Hầu đi sứ nước đại Minh. 19 năm sứ giả mới trở về.
Cháu bốn đời của Hoàng Phúc là Hoàng Thừa Tổ làm
quan đưa tiễn, lại mơ thấy sư biểu trả bản Gia lục về.
Bèn gửi cho Tô Xuyên Hầu đem về, nhân kể lại việc kia
lúc này còn đang được phụng thờ tại nước Minh.. Trình
Tuyền Hầu đến mừng sứ về, bèn lấy sách đem về nhà.
Sau đó Trình Tuyền Hầu có làm bài Giải trào văn”.
Ngoài lời phụ chú vừa dịch, bản in năm Thành Thái thứ
9 của Tam tổ thực lục cũng có một lời giải bày của Ngô
Thì Sĩ ở cuối sách tờ 62a1-63b6 có nhan đề Huyền Quang hành
giải và được ghi chú là trích từ Ngô gia văn phái:
“Việc làm
ra mà mọi người giống nhau, nếu có người khác, thì liền
nghi. Còn lời nói ra mà mọi người không giống nhau, nếu
có một người chủ trì thì tin. Thế tục bàn bạc không căn
cứ đã lâu rồi, nên ghi ra thì không thể không nghiên cứu.
Sư Huyền
Quang là người thời Trần, tu đạo ở chùa Hoa Yên núi Yên
Tử, có hiệu là Trúc Lâm Đệ Tam Tổ. Việc tu trì giới định
thì không có bằng chứng gì. Kẻ hiếu sự truyền rằng sư
đã đậu trạng nguyên rồi mới trở về với đạo Phật.
Anh Tông nghi
ngờ sư chưa thành thật, lén sai cung nữ thử, quả lấy được
vàng ròng mà vua đã ban để đem về. Người ta theo đó mà
làm ra phú và truyện để ghi thật lại sự việc. Nên sự
chân tu của sư rốt cuộc không thể rõ ràng được.
Gần đây
ông Nguyễn làng Cổ Đô1 viết hạnh, bắt đầu cắt bỏ những
chỗ thừa dư để sửa khác lại, cũng chỉ nói đến sự
thật là sự từ bỏ vinh hoa và ngộ đạo. Còn đến lời
vu cáo phá giới, lẽ có không thì chưa từng được biện
bác xác thực.
Phàm mày
ngài đãy thúy là chuyện người ta yêu nhất ở trong cung.
Mà chỉ vì không tin nên thử, thì há có chuyện bỏ cái mình
yêu nhất để thử người mình không tin ư? Một người con
gái mặt hồng, muôn dặm núi xanh, việc đó là muôn phần
không rõ ràng rồi. Giả như có đi nữa, cửa tùng đêm vắng,
án thiền canh thâu, thì mới đem việc gặp đức Di Lặc Thế
Tôn mà trả lời. Lời gái thêu dệt bên ngoài chẳng phải
là chỗ đáng nghe của nhà sư. Vốn là trong sạch chay tịnh
mà nhất đán có tiếng người làm dơ lỗ tai, sư riêng không
thể làm anh chàng nước Lỗ chẳng được ư? chẳng thể chống
lại ư? Một cõi rừng thiền, há không có nhà riêng, chỗ
đáng cho con gái nghỉ ngơi sao? Tre gầy hoa xuân, đã không
thể thăm lúc mới vào, thì lòng hoa đào, mình xinh đẹp lại
chịu lén lút đi quanh thềm sao? Lòng như tro bụi, mà
một sáng vì không người để mắt, lơ đễnh giữ gìn, sư
lại không thể học theo chỗ được của Liễu Hạ Huệ ư?
Sư cố nhiên chẳng thích vàng, người kia mới đem cái sắc
đẹp khuynh thành ra mà nhử ta, lặng lẽ quan sát để làm
thương tổn đến lòng thương cho vàng mà rơi vào cái bả
của nó, mà tự chuốc lấy sự dơ dáy đối với lễ.
Mỗi sáng sư tắm Phật, giao vàng tức giao mình cho con gái.
Sư tuy từ bi, há chịu giao danh tiếng mình cho những lời sàm
báng không giải thích được ư?
Ban đầu
thì vì bị mê hoặc bởi tiếng nói yêu kiều mà cho ở gởi.
Thế rồi nhận được sắc đẹp thuyền quyên mà cùng chuyện
vãn với người ta, để cuối cùng vì thích vui trước những
lời xảo khéo, mà đem vàng giao cho. Đủ biết mấy chuyện
ấy thì vết lòng của sư cũng không thể làm rõ được. Do
thế, càng biện bạch cho sư thì càng làm cho sư thêm lụy.
Nay tôi sống
cách xa sư không biết mấy trăm năm. Nghĩ đến việc giải
quyết những nghi ngờ do miệng ngoa truyền của thế tục,
há không thể đem gia phổ, thi ca của sư để làm công án
ư? Cứ vào niên phổ của sư, thì sư là người của hương
Vạn Tải thuộc Vũ Ninh của Bắc Giang hà lộ. Nhà ở phía
đông nam chùa Ngọc Hoàng. Thỉ tổ là Lý Ôn Hòa làm quan dưới
triều Lý Thần Tông. Sáu đời thì đến Quang Dụ làm chuyển
vận sứ của triều Trần. Quang Dụ sinh 4 trai, út tên
Tuệ Tổ. Sư tức cháu của Tuệ Tổ. Mẹ có thai 12 tháng mới
sinh, mà đã dĩnh ngộ khác thường, nên đặt tên Tải Đạo.
Chín tuổi giỏi thuộc văn chương. 21 tuổi đậu khoa Đại
Tỉ, tiếp sứ có công. Thường theo vua đi chơi chùa Vĩnh Nghiêm
huyện Phượng Nhãn, nghe Pháp Loa thuyết pháp mà đại ngộ.
Bèn dâng biểu xin xuất gia, được ban pháp hiệu Huyền Quang,
trú trì chùa Hoa Yên núi Yên Tử, học đồ hơn ngàn người.
Vua Nhân Tông phê vào sách Khoa giáo do sư giải thích, có câu:
“Đã qua tay Huyền Quang rồi thì một chữ cũng không thể
thêm bớt”. Sư được người đời đương thời tôn trọng
như thế.
Thơ của
sư thì thấy các tập Ngọc Tiên, Trích diễm, Việt âm, có
các câu ‘Nhất lãnh thuế y, Bán gian thạch thất’ cùng với
‘Đức bạc thường tàm kế tổ đăng’, cho đến ‘Dĩ thị
thành thiền tâm nhất phiến, Cũng thanh tức tức vị thùy
đa’.
Khí chất
núi rừng khói ráng thể hiện trong ngôn từ. Con người đạm
bạc giản dị đơn sơ, tưởng cũng có thể thấy được.
Thì đâu
có cái chuyện nói năng không gốc gác như thế tục đã ngoa
truyền?
Hoặc có
người nói: Thế thì nên bỏ bản hạnh ấy chăng? Xin trả
lời: Không thể. Giới hạnh của nhà sư rất cao, thì việc
sống lôi thôi, lo cưới gả càng khó nói. Sự việc của sư
đã rõ ràng, thì chuyện mâm tỏi thành đồ chay trở nên vớ
vẩn. Nhà vắng đem ra mà xét lại, thì có thể nói rằng:
vua Trần nhiều lần sai thử sư mà sư không thể phạm, Trúc
Lâm Tam Tổ thế mà cam tâm được sao?
Năm Tân Mùi
Cảnh Hưng triều Lê (1751), chánh tiến sĩ đốc trấn Ngô Thì
Sĩ, hiệu Ngọ Phong Công, làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai
soạn ”.
Qua hai lời
ghi cuối sách Tam tổ thực lục tờ 60a5-b8 này, ta biết bản
Tổ gia thực lục, mà Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm đã sao
chép vào trong Tam tổ thực lục là một bản sách do Tô Xuyên
Hầu Lê Quang Bí đem từ Trung Quốc về vào năm 1569. Trình
Tuyền Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1580) có đọc bản Thực
lục mới được đem về này và viết Giải trào văn. Sau đó
bản văn đã được Ngô Thỉ Sĩ , cha của Ngô Thời Nhiệm,
sao chép và viết lời phụ chú. Căn cứ vào lời giải trình
của Ngô Thì Sĩ, ta có thể giả thiết quá trình hình thành
Tam tổ thực lục đã diễn ra như sau. Thứ nhất, xuất phát
từ bản Tổ gia thực lục có trong tủ sách của cha mình,
Ngô Thời Nhiệm đã lấy đọc và thấy cuối bản Tổ gia
thực lục này Huyền Quang được thụy là “Trúc Lâm thiền
sư đệ tam đại, đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả”.
Từ đó Ngô Thời Nhiệm đã nảy sinh ý nghĩ xây dựng một
tác phẩm mang tên Tam tổ thực lục.
Rồi thì
Ngô ThờI Nhiệm đã đem y ữnghĩ này trình bày với Tính Quảng.
Tính Quảng có thể là vị bổn sư đã trao pháp danh Hải
Lượng cho Ngô Thời Nhiệm, nếu ta căn cứ vào pháp danh của
hai người này đã được đặt theo một dòng kệ truyền
pháp của phái Trí Bảng Đột Không thuộc dòng Lâm Tế:
Trí tuệ
thanh tịnh
Đạo đức
viên minh
Chân như
tín hải
Tịch chiếu
phổ thông
Tâm nguyên
quảng tục
Bản giác
xương long
Năng nhân
thánh quả
Thường
diễn khoan hoằng
Duy truyền
pháp ấn
Chứng ngộ
hội dung
Kiên trì
giới hạnh
Vĩnh thiệu
tổ tông
Sau khi trình
bày với Tính Quảng, một kế hoạch đã hình thành. Đó là
lấy phần tiểu sử của Trần Nhân Tông trong Thánh đăng ngữ
lục và bản Niên phổ khắc trên bia đá dựng trước tháp
Viên Thông của Pháp Loa tại chùa Thanh Mai cùng với bản Tổ
gia thực lục để tạo nên sách Tam tổ thực lục ta hiện
có cùng với một số đoạn phiến các tác phẩm của ba vị
tổ vừa nêu này đang nằm rơi rớt tại các chùa biết dưới
tên Thiền đạo yếu học. Từ khi sách Tam tổ thực lục ra
đời, khái niệm ba vị tổ này càng được truyền bá rộng
rãi và củng cố thêm với sự xuất hiện của Trúc Lâm tông
chỉ nguyên thanh mà bản in sớm nhất là vào năm Cảnh Thìn
thứ 3 (1795). Trong phần mở đầu của Trúc Lâm tông chỉ nguyên
thanh, Ngô Thời Nhiệm đã trình bày về tiểu sử ba vị tổ
thiền phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền
Quang, rồi sau đó Ngô Thời Nhiệm viết về bản thân mình
và gọi là “Trúc Lâm đệ tứ tôn”.
Từ Trúc
Lâm tông chỉ nguyên thanh nhìn ngược lên cho đến năm 1765,
khi Tam tổ thực lục lần đầu tiên được in bán, ta thấy
giả thiết về quá trình ra đời của Tam tổ thực lục trên
không phải là hoàn toàn vô lý, và sự tham gia của Ngô Thời
Nhiệm vào sự hình thành tác phẩm ấy hoàn toàn không phải
là vô chứng cớ. Tuy nhiên, với ảnh hưởng của Ngô Thời
Nhiệm cùng một loạt các thiền sư của dòng thiền Trúc Lâm
do Ngô Thời Nhiệm phục hồi như thiền sư Hải Âu Vũ Trinh
(1726 -1823), Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở, Hải Huyền Ngô Thì
Hoành, Hải Điền Nguyễn Hữu Đàm v.v..Đây là những tên
tuổi lớn, những trí thức lớn của thời đại, xuất thân
từ những danh gia vọng tộc của nửa cuối thế kỷ thứ
18. Do ảnh hưởng và uy tín của các thiền sư trí thức lớn
này thuộc thiền phái Trúc Lâm và khái niệm Trúc Lâm tam tổ
đã trở nên phổ biến và được chấp nhận, dẫn đến những
cái nhìn lệch lạc về sự phát triển của dòng thiền này.
Thực tế,
như ta đã thấy, Huyền Quang, ngoại trừ Tổ gia thực lục,
chưa bao giờ được gọi là Trúc Lâm tam đại thiền tổ.
Ngược lại, đây là mỹ hiệu mà vua Trần Minh Tông đã dùng
trước khi băng hà để gọi thiền sư Kim Sơn. Vậy thì tổ
thứ ba của thiền phái Trúc Lâm phải là Kim Sơn, chứ không
phải là Huyền Quang. Trước đây, chúng tôi đã đề xuất
ý kiến và chứng minh rằng Kim Sơn có khả năng đã viết
Thiền uyển tập anh, bộ lịch sử Phật giáo thiền tông Việt
Nam đầu tiên sau Chiếu đối bản của Thông Biền (?-1134),
Chiếu đối lục của Biện Tài và Nam tông tự pháp đồ của
Thường Chiếu. Thánh đăng ngữ lục ngày nay không thấy ghi
ai viết ra. Nhưng căn cứ vào nội dung cũng như văn phong, ta
có thể giả thiết người viết bộ sách này cũng không ai
khác hơn là Kim Sơn. Ngoài ra, Cổ châu Pháp Vân Phật bản
hạnh ngữ lục cũng có thể do Kim Sơn viết.
Như thế
có thể nói, vào giữa thế kỷ thứ 14, cả một cao trào nghiên
cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam đã bùng nổ. Và Kim Sơn
như một vị thiền sư nổi bật dưới triều vua Minh Tông
chắc chắn đã chủ trì công tác sưu tầm và viết nên ba
bộ sử Phật giáo vừa nói. Điều đáng tiếc là cho đến
nay ta chưa có bất cứ thông tin gì mới mẻ về vị thiền
sư này, ngoài những gì đã chép trong Thánh đăng ngữ lục.
Dẫu thế, ta có thể chắc chắn ít nhất là cho đến những
năm 1358 thiền phái Trúc Lâm đang có những hoạt động mạnh
mẽ ở triều đình cũng như nơi thôn xóm. Có khả năng bản
khắc Niên phổ trên bia dựng trước tháp Viên Thông của Pháp
Loa là do chính Kim Sơn thực hiện. Vấn đề tại sao đến
năm 1362, bản Niên phổ của Pháp Loa mới được khắc vào
bia đá và dựng trước tháp của Pháp Loa? Phải chăng trong
thời gian Minh Tông còn sống, việc dựng bia có vấn đề gì
chăng?
Dẫu sao đi
nữa, sau khi Minh Tông mất, Kim Sơn phải sống thêm một thời
gian nữa. Và vì những người kế nghiệp của Minh Tông như
Dụ Tông thì chỉ ăn chơi sa đọa, hay Nghệ Tông thì lại
quá nhút nhát do dự, nên hào khí Đông A đã tàn lụi dần.
Từ đó, những ngọn “đèn thánh” đã không được ai chép
tiếp nữa. Điều này có nghĩa những người có uy tín và
danh vọng lớn như thiền sư Kim Sơn đã mất dưới triều
Dụ Tông. Nói thẳng ra, thiền sư Kim Sơn có thể đã mất
vào khoảng những năm 1365 -1370. Từ khoảng năm mất này, ta
có thể suy ra năm sinh của Kim Sơn vào khoảng thời gian trước
và sau năm1300 không bao xa, để có thể làm đệ tử của Pháp
Loa trước khi Pháp Loa mất vào năm 1330.
Dòng thiền
Trúc Lâm từ sau Kim Sơn trở đi chắc chắn phát triển mạnh
mẽ. Ngay tại Côn Sơn với chùa Tư Phúc do Pháp Loa và Huyền
Quang cùng xây dựng nên, ta đã thấy sự hiện diện của các
nhà sư làm thơ tìm đến tư đồ Trần Nguyên Đán để hỏi
chữ, như một bài thơ của vị tư đồ này nói tới:
Thập niên
chính tỉnh phụ thu đăng,
Tùng hạ
hành ngâm ỷ sấu đằng.
Tùy mã vọng
trần vô tục khách,
Khấu môn
vấn tự hữu thi tăng.
Thoái nhàn
Lục Dã tri hà cập?
Tán cấp
Thanh miêu tạ bất năng.
Tọa đãi
công thành danh toại hậu,
Nhất khâu
lão cốt dĩ lăng tằng.
(Mười năm
chính sự phụ đèn thu,
Chống gậy
hàng thông lặng đọc thư,
Theo ngựa
trông mù không khách tục,
Hỏi thơ
gõ cửa có thiền sư.
Lui về Lục
Dã khi nào kịp,
Ban phát
Thanh miêu thế phải từ,
Ngồi đợi
công thành danh đã toại,
Một gò
xương trắng chất cao chừ.)
Còn Phạm
Nhân Khanh, mà ta có dịp gặp trong Thánh đăng ngữ lục tờ
37a6, khi vua Trần Minh Tông sai đưa thư cho thiền sư Huyền
Quang, chắc chắn là trước năm 1334, trong một bài thơ đưa
quốc sư Lãm Sơn về núi cũng đã nói đến vị quốc sư này
nổi danh với những bài thơ:
Xuất san
kỷ nhật cánh hoàn san,
Vị ái san
cư ý tự nhàn.
Tùng viện
chữ trà hương mạc mạc
Hạc tuyền
tẩy bát thủy sàn sàn.
Phóng khai
thiền giá cao thiên cổ,
Phát lộ
thi danh chính nhất ban.
Qui hướng
lĩnh vân thâm xứ ngọa,
Âm thi pháp
vũ tẩy nhân gian.
(Xuống núi
mấy ngày lại trở lên,
Vì yêu ở
núi ý thênh thênh,
Viện tùng
trà nấu thơm ngào ngạt,
Suối hạc
bát chùi nước láng lênh.
Rộng mở
giá thiền cao vạn thuở,
Nổi danh
thơ phú chính riêng mình.
Trở về
mây núi nơi sâu thẳm,
Lặng vãi
mưa thiền rửa chúng sinh.)
Và đặc
biệt khi quân Chiêm Thành dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng
Nga đã liên tiếp trong nhiều năm tiến đánh thủ đô Thăng
Long, thì một đội quân gồm những người xuất gia đã được
thành lập dưới sự chỉ huy của thiền sư Đại Than. Thiền
sư này tên thật và pháp hiệu gì ta hiện không truy ra được.
ĐVSKTT 8 tờ 4b8 - 5a1 chỉ ghi: “Tháng ba (năm Tân Dậu Xương
Phù thứ năm - 1381) sai quốc sư Đại Than đốc suất các tăng
nhân trong nước, và các tăng nhân không có độ điệp ở
rừng núi, người nào khỏe mạnh, tạm thời làm lính đi đánh
Chiêm Thành”. Và Phạm Nhân Khanh đã làm bài thơ ca ngợi
vị thiền sư Đại Than và đội quân những người xuất gia
của ông chứ không cho biết gì thêm:
Đại than
thiền tướng tùng lâm hổ
Lão khí
hùng thôn thập vạn phu
Trực thụ
thần phan my địch lũy,
Khinh đề
tuệ kiếm tiễn hung đồ.
Lâm phong
mật tụng kỳ quân chú,
Hướng nhật
liên thư phá tặc phù.
Tảo sấn
công danh suyền tấu khải,
Lăng Yên
thiêm họa quốc sư đồ.
(Đại Than
thiền tướng, cọp rừng thiền,
Khí mạnh
nuốt trơn muôn vạn binh,
Dựng thẳng
phan thần, san lũy địch,
Nhẹ đưa
gươm tuệ, diệt hung quân.
Gió qua niệm
chú cầu quân thắng,
Trời nhắm
họa bùa phá địch thành.
Sớm bước
công danh nhanh báo tiệp,
Lăng Yên
thầy nước vẽ nên tranh.)
Có thể nói
đây là lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử dân tộc
những nhà sư đã được sử dụng như những người lính
phục vụ chiến trường. Đây hẳn là vang bóng của thời
kỳ chiến tranh vệ quốc vào những năm 1285 và1288, mà các
thiền sư cư sĩ nổi danh như Tuệ Trung với tư cách là Hưng
Ninh Vương đã cùng với em mình là Trần Hưng Đạo tiến quân
giải phóng Thăng Long vào mùa xuân năm 1285. Từ đó, việc
thành lập đội quân nhà sư do thiền sư Đại Than chỉ huy
vào năm 1381 chứng tỏ thiền phái Trúc Lâm vào cuối thế
kỷ 14 đã phát triển rầm rộ.
Thực tế,
bên cạnh đội quân của thiền sư Đại Than, ĐVSKTT 8 tờ
16b8 - 17a7 còn ghi lại cuộc khởi nghĩa do thiền sư Phạm Sư
Ôn lãnh đạo tại Quốc Oai. Phạm Sư Ôn chắc chắn cũng phải
thuộc thiền phái Trúc Lâm. Vì như Lược dẫn thiền phái
đồ đã ghi, từ đầu thế kỷ thứ 14 chỉ có “tông môn”
của phái thiền Trúc Lâm Yên Tử là còn phát triển mạnh
mẽ, những phái khác đều đã tiêu vong. Đến nửa cuối thế
kỷ thứ 14, đặc biệt là sau những đợt tổ chức thọ giới
do Pháp Loa thực hiện mà con số đã lên tới một vạn rưỡi
người tính cho đến năm 1329. Với số lượng tăng ni được
thọ giới như thế, các chùa chiền của quốc gia Đại Việt
chắc hẳn do những vị tăng ni trụ trì. Cho nên Phạm Sư Ôn
thuộc về dòng thiền Trúc Lâm là một điều khá dễ hiểu.
Thế nhưng, tiểu sử của Phạm Sư Ôn cho đến nay vẫn chưa
được nhìn nhận đúng đắn, thậm chí có người bôi bác
coi đây là một cuộc nổi loạn chống lại triều đình và
một cuộc nổi loạn do một nhà sư cầm đầu. Sự thật,
đây là một biểu hiện tích cực của tinh thần Phật giáo
Trúc Lâm, tinh thần “ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ
mới trượng phu trung hiếu”. Nếu Đại Than vì nạn nước
mà theo lệnh triều đình đứng ra tổ chức quân đội và
chỉ huy, thì Phạm Sư Ôn cũng vì nỗi khổ của dân, mà phải
đứng lên khởi nghĩa. Đây là một nét đặc biệt của Phật
giáo Việt Nam, Phật giáo Việt Nam không gắn bó tuyệt đối
với một triều đại nào, dù triều đại đó do Phật giáo
dựng lên hay lãnh đạo. Phật giáo chỉ gắn bó và trung thành
với quyền lợi dân tộc, quyền lợi dân chúng. Vào những
năm 60 của thế kỷ thứ 14, triều đình nhà Trần do Trần
Dụ Tông đứng đầu đã ăn chơi sa đọa nên không những
không chăm lo cuộc sống của người dân, mà còn coi thường
nỗi khổ của họ. Đứng trước sự lầm than cơ cực của
dân chúng, một bộ phận người Phật giáo thời Trần không
chỉ tỏ thái độ một cách tiêu cực theo lối Chu Văn An,
bằng cách dâng sớ can vua, vua không nghe thì bỏ về nhà không
hợp tác. Ngược lại, họ tỏ thái độ một cách tích cực
bằng cách cùng với dân đứng lên cầm vũ khí, báo cho triều
đình biết phải có những thay đổi cơ bản để cho đời
sống người dân được khá lên. Đây phải nói là thái độ
mẫu mực của Phật giáo Việt Nam, mà tinh thần Cư trần lạc
đạo của thiền phái Trúc Lâm đã có công gầy dựng nên.
Tất nhiên,
có người hỏi thái độ mẫu mực này có phản ảnh trung
thực tinh thần giáo lý Phật giáo hay không? Và có người
sẽ đứng lên trả lời ngay theo những suy nghĩ chủ quan của
bản thân họ là một thái độ như thế không phản ảnh trung
thực tinh thần giáo lý của đạo Phật, giống như trước
đây có kẻ bạo gan, đã viết: “Chỉ một việc các nhà
sư tham gia chính trị, hoặc giả chỉ việc thầy tu làm thơ,
tôi nghĩ đó cũng là một điều không đúng với giáo chỉ
Thích Ca cho lắm, không đúng với giáo lý hư vô tịch diệt”1.
Khi viết như thế, không biết họ đã dựa vào căn cứ kinh
điển nào hay chỉ là một phản ảnh huyễn hoặc những suy
nghĩ chủ quan của họ về nhà sư, rồi phóng đại lên thành
những câu nói vô bằng, bừa bãi. Cả 100 năm nghiên cứu Phật
giáo trên thế giới, nhiều vấn đề đã được đặt ra,
mà trong đó quan trọng nhất là vấn đề đức Phật đã dạy
những gì. Nhiều trường phái Phật học ra đời để trả
lời cho câu hỏi vừa nêu, nổi bật nhất là ba trường phái
Anh - Đức, Pháp - Bỉ và Nga. Thế mà có những người tưởng
mình nắm được “giáo chỉ Thích Ca” rồi ăn nói vu vơ
vung vít. Cho nên, không thể nói về giáo lý Phật giáo một
cách dễ dàng như bao nhiêu người lầm tưởng. Từ xưa, nhiều
người đã diễn tả tình trạng học tập nghiên cứu khó
khăn giáo lý Phật giáo này với câu “Y kinh giải nghĩa tam
thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”(dựa
kinh giải nghĩa thì oan cho ba đời đức Phật, rời kinh một
chữ thì giống với thuyết ma).
Dẫu sao đi
nữa thì trong lịch sử Phật giáo Việt Nam các đội quân
phò giúp hoặc chống lại triều đình tương đối không nhiều.
Và hầu như đây là những trường hợp cá biệt, đột xuất,
do tình thế quá bức bách mà phát sinh. Vai trò của Phật giáo
rộng lớn hơn nhiều trong lịch sử Việt Nam, đó là vai trò
văn hóa, vai trò di phong dịch tục. Chính vai trò này đã tạo
cơ hội cho Phật giáo để lại dấu ấn rất sâu đậm trong
dòng lịch sử ấy. Vào những năm cuối thế kỷ thứ 14, vai
trò này của Phật giáo vẫn tiếp tục nổi bật. Ta có thể
minh chứng điều này qua các sự việc sau. Đó là trường
hợp thiền sư Đạo Khiêm đã giảng học cho người anh hùng
Nguyễn Trãi, mà sau này Nguyễn Trãi ghi lại việc mình đã
từng được giảng học hơn mười năm trời, và từng ngồi
thưởng thức cảnh núi non hùng vĩ của Côn Sơn, như ông mô
tả trong bài thơ đưa nhà sư Đạo Khiêm về núi:
Ký tằng
giảng học thập dư niên
Kim hựu
tương phùng nhất dạ niên
Thả hỷ
trần trung phao tục sự
Tiện tầm
thạch thượng thoại tiền duyên.
Minh triêu
Linh phố hoàn phi tích
Hà nhật
Côn Sơn cọng thính tuyền
Lão khứ
cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ
ngã diệc thượng thừa thiền.
(Nhớ từng
giảng học ngoại mười niên,
Nay lại
gặp nhau ngủ một đêm,
Việc tục
trong mơ mừng được rũ,
Duyên xưa
trên đá đến hàn huyên.
Sáng mai
Linh Phố quay đầu gậy,
Ngày não
Côn Sơn lắng suối rền,
Già đến
nói ngông đừng lạ tớ,
Chia tay tớ
cũng thượng thừa thiền.)
Thế rõ ràng,
Nguyễn Trãi và thiền sư Đạo Khiêm đã từng sống với nhau
tại chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Và vị thiền sư này chắc
chắn đã từng giảng cho Nguyễn Trãi học về nhiều môn khác
nhau tại ngôi chùa đó, trong đó có cả thiền Phật giáo thuộc
loại cao siêu nhất là thượng thừa thiền. Nguyễn Trãi làm
bài thơ ấửy vào lúc ông đã già, sau khi đất nước thu
hồi độc lập, Lê Lợi đã lên ngôi và Nguyễn Trãi chưa
trở về sống những ngày ẩn dật tại Côn Sơn vào giữa
những năm 1435 -1442. Và vị thiền sư Đạo Khiêm của chúng
ta, nhân một công việc gì đó đã đến Thăng Long và khi công
việc xong, tình cờ gặp Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã khẩn
khoản mời thiền sư về nhà mình ngủ lại một đêm để
hàn huyên tâm sự, mà chắc hẳn bao nhiêu năm xa cách Côn Sơn
đã làm Nguyễn Trãi nhớ nhung người và cảnh.
Vị thiền
sư ở chơi với Nguyễn Trãi một đêm, rồi sáng sớm hôm
sau phải trở gót quay về chùa mình. Nguyễn Trãi đã
bộc lộ lòng tiếc nuối và cuối cùng khi chia tay đã tự
nhủ lòng mình cũng như bảo với nhà sư là ông sẽ bước
theo con đường thiền thượng thừa, mà truyền thống thiền
Trúc Lâm đã vạch ra và chắc chắn thiền sư Đạo Khiêm đã
nói tới.
Nguyễn Trãi
sinh năm 1380 và đã già khi viết bài thơ trên vào khoảng những
năm 1435. Do thế, vị thiền sư Đạo Khiêm của chúng ta phải
sinh ra trước Nguyễn Trãi ít nhất là mươi lăm năm để có
thể giảng cho Nguyễn Trãi học trong hơn mười năm, khi Nguyễn
Trãi sống tại nhà ông ngoại mình là tư đồ Trần Nguyên
Đán ở Côn Sơn, tức khoảng những năm 1386 cho đến trước
năm1400, lúc Nguyễn Trãi dự khóa thi thái học sinh đầu tiên
của triều đại nhà Hồ và đã đỗ. Nói khác đi, Đạo Khiêm
phải sinh vào khoảng năm 1370 và có thể sống tiếp ở Côn
Sơn ngay cả sau khi vụ án Lệ chi viên xảy ra vào năm 1442.
Niên đại của thiền sư Đạo Khiêm do thế rơi vào giữa
những năm 1370 -1445.
Đồng thời
với Đạo Khiêm ta có một vị thiền sư khác biết dưới
tên Viên Thái, người đã dịch tác phẩm Cổ châu Pháp Vân
Phật bản hạnh ngữ lục của thiền sư Kim Sơn ra tiếng Việt
quốc âm. Niên đại của vị thiền sư này cho đến ngày nay
vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, qua lối dịch đuổi
và cách dùng chữ cho phép ta giả thiết Viên Thái không thể
sống muộn hơn năm 1550. Thêm vào đó, vì Pháp Tính đã diễn
Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục ra thơ, nên có
người đã đề nghị giả thiết là bản dịch của Viên Thái
với tư cách một bản dịch văn xuôi tất phải xuất hiện
trước bản dịch thơ được giả thiết là của Pháp Tính.
Và Pháp Tính thì sống vào khoảng giữa những năm 1470 -1550.
Điều này có nghĩa Viên Thái phải sống trước niên đại
đó.1
Ngoài ra hiện
còn được bảo lưu một bản dịch bằng tiếng quốc âm kinh
Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng mà qua phân tích
những chứng cứ nội tại cho phép ta phải đặt bản dịch
này vào nửa đầu thế kỷ thứ 15. Chẳng hạn việc
viết chữ húy tên vua Lê Thái Tổ. Đây là một điểm chỉ
cho thấy bản in được xuất hiện trước khi vua Lê Thánh
Tông giải tỏa về việc viết kỡ húy vào năm 1469. Bản dịch
cũng như bản in Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng
kinh phải ra đời trong khoảng những năm 1428 -1469. Một lần
nữa bản dịch tiếng quốc âm bản kinh này lại được thực
hiện theo lối dịch đuổi. Văn phong và ngữ cú của nó có
nhiều nét tương tự với bản dịch tiếng quốc âm Cổ châu
Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục. Vì thế, người ta có
thể giả thiết hai bản dịch này cùng xuất phát từ một
người, nghĩa là cùng do Viên Thái thực hiện. Từ đó niên
đại của Viên Thái phải rơi vào khoảng những năm 1400 -1460.
Sau Viên Thái
ta có thiền sư Hương Chân Pháp Tính (1470-1550?), tác giả bộ
từ điển Hán Việt xưa nhất hiện còn biết dưới tên Chỉ
nam học âm giải nghĩa và có khả năng đã diễn ca Cổ châu
Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục thành ra thơ lục bát tiếng
Việt. Giống như phần lớn các vị thiền sư của thiền phái
Trúc Lâm, Pháp Tính từ trẻ đã học hành thành công, ra đời
giúp nước giúp dân, đến khi già thì xuất gia:
Trẻ từng
vả đấng khoa danh
Già lên
cõi thọ tìm duềnh Bụt tiên
Chính trong
thời gian xuất gia này, ông đã bước theo chân của vị tổ
Trúc Lâm Trần Nhân Tông vĩ đại, đó là phải làm cái gì
lợi ích cho đời cho người. Thế là ông đã lao vào nghiên
cứu tình hình văn tự của tiếng Việt có phần rườm rà
khó học, nên tự bản thân mình đề xuất một lối chữ
quốc âm dễ học, dễ nhớ và dễ viết. Hơn nữa, ông còn
đấu tranh bác bỏ quan điểm cho rằng văn tự tiếng quốc
âm không phải là chữ thánh hiền, là một thứ “nôm na cha
mách qué” và xác lập văn tự tiếng quốc âm như một văn
tự của thánh hiền:
Nói nôm tiếng
thị tiếng phi
Đến lập
văn tự lại y thánh hiềnỢ
Soạn làm
chữ cái chữ con
San bản
lưu truyền ai đặc thì thôngỢ
Vốn xưa
làm nôm xe chữ kép
Người thiếu
học khôn biết khôn xem
Bây chừ
nôm dạy chữ đơn
Cho người
mới học nghĩ xem nghĩ nhuần
Cả một
cao trào dùng văn tự quốc âm để sáng tác và ghi chép trong
các ngành học thuật khác nhau từ thơ ca văn chương cho đến
khoa học y dược đã phát triển sau thời Pháp Tính. Ta có
Thọ Tiên Diễn Khánh (1550 -1620?) viết Nam Hải Quan Âm Phật
sự tích ca, Minh Châu Hương Hải (1628 -1715) giải thích kinh
điển bằng tiếng Việt quốc âm qua hơn 20 đầu sách, mà
hiện nay ta đã tìm lại nguyên vẹn được 4 tác phẩm. Rồi
Chân Nguyên, Như Trừng, Như Thị, Tính Quảng, Hải Lượng,
Hải Âu, Hải Hòa, Hải Huyền, An Thiền v.v.. Đặc biệt là
Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711) người không chỉ nêu cao chủ trương
và bản thân mình đã thực hiện “dùng thuốc nam trị người
nước Nam”, mà còn công bố những công trình khoa học của
mình bằng tiếng Việt quốc âm. Đây là những người tự
nhận mình thuộc thiền phái Trúc Lâm vào những thế kỷ 16,
17, 18, 19 và có những đóng góp to lớn không chỉ đối với
Phật giáo Việt Nam, mà còn đối với dân tộc Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng đất nước.
Thiền phái
Trúc Lâm, sau khi Huyền Quang mất vào năm 1334, như thế, vẫn
được liên tục kế thừa với những khuôn mặt anh tài có
những đóng góp to lớn và nhiều mặt cho dân tộc, chứ không
phải là “thời hưng thịnh chấm dứt”, như trước đây
nhiều người đã lầm tưởng. Tất nhiên, sự lầm tưởng
này có nguồn gốc xa xưa của nó, tối thiểu là từ khi Tính
Quảng và Ngô Thời Nhiệm công bố Tam thổ thực lục vào
năm 1765,và nhất là sau khi Ngô Thời Nhiệm cho ra đời Tam
tổ hành trạng trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của mình.
Tuy vậy, vào giữa thế kỷ thứ 19, khi viết Đại Nam thiền
uyển kế đăng lược lục và in vào khoảng năm 1858, An Thiền
đã ghi danh sách 23 vị thiền sư liên tục trụ trì sơn môn
Yên Tử:
1.Hiện
Quang tổ sư
2.Viên
Chứng quốc sư
3.Đại
Đăng quốc sư
4.Tiêu
Dao tổ sư
5.Huệ
Tuệ tổ sư
6.Nhân
Tông tổ sư
7.Pháp
Loa tổ sư
8.Huyền
Quang tổ sư
9.An
Tâm quốc sư
10.Phù
Vân (hiệu Tĩnh Lự) quốc sư
11.Vô
Trước quốc sư
12.Quốc
Nhất quốc sư
13.Viên
Minh tổ sư
14.
Đạo Huệ tổ sư
15.Viên
Ngộ tổ sư
16.Tổng
Trì quốc sư
17.Khuê
Thám quốc sư
18.Sơn
Đằng quốc sư
19.Hương
Sơn đại sư
20.Trí
Dung quốc sư
21.Tuệ
Quang tổ sư
22.Chân
Trú tổ sư
23.Vô Phiền đại sư.
Bản danh
sách này có người chép ra đầy đủ và gọi là “truyền
thống Yên Tử”,1 nhưng không tìm hiểu xem danh sách truyền
thống ấy có một giá trị lịch sử gì không. Sau đó, có
người lại dẫn và cho là “tính chân xác của toàn bộ danh
sách này thật đáng ngờ. Trật tự trước sau của các thế
hệ ở đây xem ra không đáng tin cậy”.1 Dẫu vậy, họ cũng
thừa nhận các thế hệ trước Nhân Tông có thể dùng để
tham khảo được, vì rõ ràng Thiền uyển tập anh đã ghi thiền
sư Hiện Quang (?-1221) từng sống ở núi Yên Tử. Rồi đến
khi vua Trần Thái Tông lên Yên Tử vào năm 1236, thì Thiền
tông chỉ nam tự ghi là vua gặp “quốc sư Trúc Lâm đại
sa môn”, trong khi đó ĐVSKTT 5 tờ 9b9 chép là vua gặp Phù
Vân quốc sư. Còn Thánh đăng ngữ lục tờ 8b4, Thiền tông
bản hạnh và Đại Nam thiền uyển kế đăng lược lục đều
ghi là vua Trần Thái Tông đã gặp quốc sư Viên Chứng. Vì
Thiền uyển tập anh có ghi đệ tử của Hiện Quang tên là
Đạo Viên, nên người ta thường đồng nhất Viên Chứng với
Đạo Viên.
Nếu quả
thực Viên Chứng và Đạo Viên đều là tên của Phù Vân quốc
sư, ta có thể chắc chắn Viên Chứng đã sống cho tới những
năm 1278. Bởi vì, theo Thánh đăng ngữ lục tờ 4a5 khi vua Trần
Thái Tông sắp mất, vua Thánh Tông đã “sai hai quốc sư Phù
Vân và Đại Đăng diễn thuyết pháp xuất thế gian” cho vua
Thái Tông, nhưng đã bị vua khước từ. Do thế, nếu Đại
Đăng kế thừa Phù Vân trụ trì tại sơn môn Yên Tử, thì
chắc chắn cũng phải từ năm 1278 trở đi, nếu không muốn
nói là sau hơn nữa.
Kế tiếp
Đại Đăng, theo bản danh sách của An Thiền kể trên, là tổ
sư Tiêu Dao. Vị tổ sư này chắc chắn không phải là đệ
tử của Đại Đăng, vì Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng
sĩ ngữ lục đã ghi Tiêu Dao là học trò đắc pháp của cư
sĩ Ứng Thuận. Và Tiêu Dao phải mất trước năm 1291, khi Tuệ
Trung qua đời. Lý do, trong số 49 bài thơ còn lại của Tuệ
Trung có 4 bài liên hệ tới Tiêu Dao. Đó là Vấn Phúc Đường
đại sư tật, Thượng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư, Phúc
Đường cảnh vật và Điếu tiên sư. Đặc biệt là bài Điếu
tiên sư đã chỉ cho biết Tiêu Dao phải mất trước năm 1291
để cho Tuệ Trung phải viết bài thơ viếng thầy vừa nói.
Kế thừa
Tiêu Dao tại Yên Tử là tổ sư Huệ Tuệ. Huệ Tuệ là ai?
Trong số những đệ tử của Tiêu Dao có tên ghi tại Lược
dẫn thiền phái đồ, không thấy có tên nào là Huệ Tuệ
cả. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào cách đồng nhất Đạo Viên
với Viên Chứng, ta có thể đồng nhất Huệ Tuệ với Tuệ
Trung, dù bản thân Tuệ Trung là danh tướng Hưng Ninh Vương
Trần Quốc Tung. Hơn nữa, người kế thừa Huệ Tuệ trong
bản danh sách trên lại là Điều Ngự Trần Nhân Tông. Có
khả năng Tuệ Trung trụ trì sơn môn Yên Tử không? Chính hành
trạng của Tuệ Trung do vua Trần Nhân Tông viết trong Thượng
sĩ ngữ lục đã ghi nhận vua Trần Thánh Tông đã tôn Tuệ
Trung làm sư huynh của mình. Đã thế, thì rõ ràng Tuệ Trung
hoàn toàn có khả năng làm trụ trì sơn môn Yên Tử. Việc
vua Nhân Tông kế thừa Tuệ Trung làm trụ trì sơn môn này
là một việc dĩ nhiên, dù Tuệ Trung đã mất 4 năm, trước
khi Nhân Tông xuất gia, bởi vì vua Nhân Tông đã được Tuệ
Trung ấn chứng từ những năm 1278, như chính vua đã kể lại
trong bản Hành trạng vừa nói. Sau vua Trần Nhân Tông là Pháp
Loa và Huyền Quang.
Vậy đúng
là tám đời đầu tiên của bản danh sách trên, nếu ta kể
luôn cả Pháp Loa và Huyền Quang, mà tiểu sử và niên đại
rất minh bạch, không có vấn đề gì quá khiên cưỡng. Thế
còn 15 đời còn lại có vấn đề gì không? Sự nghi ngờ về
tính chân xác của bản danh sách ấy chủ yếu chỉ dựa vào
sự trùng tên của một vài người trong số 15 vị thiền sư
này. Cụ thể, tên của vị thiền sư đời thứ 12 là Quốc
Nhất quốc sư có tên trùng với thiền sư Quốc Nhất, đệ
tử của thiền sư Ứng Thuận. Và tên của vị thiền sư đời
thứ 19 là Hương Sơn đại sư lại trùng tên với một đệ
tử của Điều Ngự Trần Nhân Tông. Dĩ nhiên Hương Sơn của
Điều Ngự không thể nào kế thừa truyền thống Yên Tử
đời thứ 19 được.
Việc trùng
tên của hai vị trong bản danh sách đó đáng ra không nêu lên
những nghi ngờ vừa nói, vì sự trùng tên, đặc biệt là
tên đạo của những vị thiền sư rất thường xảy ra trong
lịch sử Phật giáo của mỗi nước cũng như giữa các nước
Phật giáo. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, có trường
hợp trùng tên nổi tiếng của Tuệ Viễn (334-417) đời Tấn
với Tuệ Viễn của đời Ngụy cách nhau trên cả trăm năm.
Ở nước ta việc trùng tên cũng khá nhiều. Chẳng hạn,
ta có thiền sư Mãn Giác (1052-1096) đời Lý với thiền sư
Mãn Giác đời Lê Trung Hưng, vị thầy đã trao giới cho Chân
Nguyên Tuệ Đăng (1647 -1726), hay Minh Châu Hương Hải của thế
kỷ thứ 17 trùng tên với một vị cũng nổi tiếng không kém,
thậm chí cùng có chung quê quán nữa, tức cùng là gốc người
Nghệ An cả. Còn nhiều nữa mà ta không thể kể hết ra đây.
Vì thế, nếu gặp sự trùng tên của các vị thiền sư, đặc
biệt ở những thời điểm khác nhau, ta không cần phải nêu
lên những nghi ngờ quá đáng.
Ngoài ra,
nếu 8 đời đầu của bản danh sách trên là đáng tin cậy,
thì ta thử nghiên cứu đời cuối của bản danh sách xem thế
nào. Đời cuối là thiền sư Vô Phiền, ta hiện chưa có một
dữ kiện gì để xác định niên đại cụ thể. Tuy nhiên,
đời kế cuối, tức đời 22 ghi tên tổ sư Chân Trụ thì
rõ ràng là thiền sư Minh Nguyệt Chân Trụ, vị thầy đầu
tiên của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng. Dù Chân Nguyên không
ghi rõ lại Chân Trụ mất vào năm nào, nhưng ta biết Chân
Nguyên xuất gia vào năm 19 tuổi. Vậy Chân Trụ phải còn sống
cho tới những năm 1665. Và Chân Nguyên cũng cho biết sau khi
đắc pháp với Chân Trụ không lâu thì Chân Trụ qua đời.
Từ đó Chân Nguyên đã đến xin thọ giới tỳ kheo với Minh
Lương Mãn Giác. Vậy Chân Trụ phải sống vào khoảng những
năm 1600 - 1670.
Sự có mặt
của Chân Trụ trong bản danh sách ấy chứng thực cho tính
chính xác của nó. Truyền thống Yên Tử, như vậy, được
nối tiếp liên tục, từ thời Huyền Quang cho đến Vô Phiền,
tức từ năm 1200 -1700. Có người sẽ hỏi sau Vô Phiền tại
sao không thấy ghi thêm tên của một vị thiền sư nào nữa
cho đến thời An Thiền, tức từ năm 1700-1850. An Thiền không
ghi thêm tên người nào nữa vào danh sách đó vì An Thiền
đã ghi tên họ ở một nơi khác. Đó là Ngự chế thiền
điển thống yếu kế đăng lục của Như Sơn, mà An Thiền
viết tiếp phần các thế hệ truyền thừa của Chân Nguyên
với các thiền sư Như Trừng, Tính Tuyền, Hải Quýnh, Tịch
Truyền, Chiếu Khoan và Phổ Tịnh., dù đây không phải là
những người trực tiếp ở Yên Tử nữa.
Như vậy,
dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông thành lập đã có
những tác động to lớn đối với lịch sử dân tộc và Phật
giáo và được kế thừa liên tục thậm chí cho đến ngày
nay. Đây không những là một dòng thiền do một người Việt
Nam sáng lập, mà dòng thiền này còn có những điểm đặc
biệt về học lý và thực tiễn tu tập, mà ta đã vạch ra
ở trên, nhằm đáp ứng lại yêu cầu phát triển của lịch
sử dân tộc. Dòng thiền này đúng ra phải có một nghiên
cứu riêng độc lập mới có thể làm rõ nhiều vấn đề
về lịch sử và học lý. Chúng tôi chỉ trình bày sơ lược
nhân khi đề cập đến những cống hiến to lớn của vua Trần
Nhân Tông đối với lịch sử dân tộc và Phật giáo nước
ta. Một nghiên cứu độc lập như thế sẽ có tác dụng điều
chỉnh những nhận thức sai lầm về lịch sử cũng như học
lý của dòng thiền này hiện vẫn đang tồn tại.