- TRẦN NHÂN TÔNG
CON NGƯỜI & TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
PHẦN
II
TÁC
PHẨM
TRẦN
NHÂN
TÔNG
--o0o--
VĂN
TRẦN NHÂN TÔNG
HÀNH TRẠNG
CỦA THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG
Thượng sĩ
là con trai đầu (lòng) của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương
và anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Khi
thái vương mất, Hoàng đế (Trần) Thái Tông cảm nghĩa, phong
cho tước Hưng Ninh Vương.
Thuở nhỏ,
Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu, được
giao trấn giữ quân dân ở lộ Hồng.
Hai lần giặc Bắc
xâm lược, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển
giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình.
Con người
Thượng sĩ, khí lượng thâm trầm, phong thái nhàn nhã, từ
tuổi để chỏm, rất mến cửa không. Đến tham vấn Thiền
sư Tiêu Dao ở Phúc Đường, lĩnh hội yếu chỉ, bèn dốc
lòng thờ làm thầy, ngày ngày chỉ lấy niềm vui thiền làm
thích, không hề vì công danh mà trở ngại. Rồi lui về sống
ở phong ấp Tịnh Bang, đổi làm hương Vạn Niên.
Thượng sĩ
cùng đời hòa quang, chưa từng đụng chạm người vật, nên
hay mạnh nối giống pháp, dìu dắt sơ cơ. Ai tìm đến hỏi,
người cũng chỉ bảo cho biết điều cương yếu, khiến họ
trụ tâm, mặc tính hành tàng, không mắc danh thực.
Đức Dụ
Lăng mộ tiếng từ lâu, sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm
những lời hầu chuyện nhà vua đều là siêu tục. Nhân thế,
vua suy tôn làm sư huynh và ban cho tên hiệu hiện nay.
Một lần
vào chầu, Thái hậu làm tiệc lớn đãi, Người gặp thịt
cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi rằng: “Anh tu thiền mà
ăn thịt thì thành Phật sao được?”. Thượng sĩ cười đáp:
“Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật
cũng chẳng cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn
Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”
Khi Thái hậu
qua đời, đức Dụ Lăng trai tăng ở cung cấm. Nhân khi khai
đường thuyết pháp bèn mời danh tăng bốn phương mỗi người
làm một bài kệ ngắn để bày tỏ kiến giải của mình.
Nhưng thảy đều “ngầu bùn sũng nước” chưa có chỗ ngộ.
Đức Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng
sĩ viết một hơi xong bài tụng tự thuật như sau:
Kiến giải
bày kiến giải,
Tựa dụi
mắt làm quái.
Dụi mắt
làm quái rồi.
Sáng sủa
thường tự tại.
Đức Dụ
Lăng xem xong, viết tiếp:
Sáng sủa
thường tự tại,
Cũng dụi
mắt làm quái.
Thấy quái
không thấy quái,
Quái kia
liền tự hoại.
Thượng sĩ
rất tâm phục bài kệ ấy.
Tới khi Đức
Dụ Lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi bệnh. Mở ra xem, Đức
Dụ Lăng viết kệ trả lời, có câu:
Mực nồng
khí nóng mồ hôi đẫm,
Quần mẹ
sinh ta ướt chửa từng.
Thượng sĩ
đọc bài kệ, than thở giây lâu. Đến khi Đức Dụ Lăng trở
bệnh nặng, Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà
vua đã quy tiên rồi.
Nay ta cũng
nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi
ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân
đó có đi thỉnh Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục
của Tuyết Đậu và Dã Hiên.1 Ta cho người sống quá tục,
sinh ngờ vực, bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi: “Chúng sinh quen
cái nghiệp uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh được
tội báo?” Thượng sĩ liền giảng giải rằng: “Giả thử
có một người đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua
đi qua phía sau, người kia không biết, hoặc có ném vật gì
vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng?
Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau
vậy.” Nói rồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:
Vô thường
các pháp hành,
Tâm ngờ
tội liền sanh.
Xưa nay không
một vật,
Chẳng mống
cũng chẳng mầm.
Ngày ngày
khi đối cảnh.
Cảnh cảnh
từ tâm ra.
Xưa nay không
tâm cảnh.
Chốn chốn
thảy bờ kia.
Ta lĩnh ý,
giây lâu bèn nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ
ràng thì làm thế nào?”.
Thượng sĩ
lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
Ăn cỏ và
ăn thịt,
Chúng sinh
mỗi có thức.
Xuân về
muôn cỏ sinh,
Chỗ nào
thấy tội phúc.
Ta nói: “Nếu
vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là
để làm gì?” Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài.
Thượng sĩ lại đọc tiếp hai bài kệ để ấn chứng cho
ta:
Trì giới
và nhẫn nhục
Chuốc tội
chẳng chuốc phúc.
Muốn biết
không tội phúc,
Đừng trì
giới nhẫn nhục.
Như khi người
leo cây,
Đang yên
tự tìm nguy.
Nhu người
không trèo nữa,
Trăng gió
làm được gì.
Đoạn người
dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo.”
Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.
Một hôm,
ta hỏi người về tôn chỉ công việc mình. Thượng sĩ ứng
khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại công việc của chính bản
thân mình chứ không tìm đâu khác được.” Ta bỗng bừng
tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm thầy.
Ôi! Thượng
sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc.
Bàn huyền thuyết diệu như gió mát trăng thanh.
Đương thời
thạc đức các phương, có người cho Thượng sĩ tin sâu biết
rõ, làm ngược làm xuôi, thật khó mà lường được.
Sau, người
nhuốm bệnh ở trang Dưỡng Chân, không ở phòng riêng, mà
cho kê một chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà trống, nằm theo
thế cát tường, nhắm mắt mà tịch. Người hầu hạ và thê
thiếp trong nhà khóc rống lên.
Thượng Sĩ mở mắt ngồi
dậy, gọi người lấy nước rửa tay, súc miệng, đoạn quở
nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót
thương quyến luyến làm rối chân tính của ta?” Dứt lời
người êm thấm mà tịch. Bấy giờ là ngày mồng một tháng
tư năm Tân Mão, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ bảy, hưởng
thọ 62 tuổi.
Ta thân đến
nhà làm lễ viếng và làm bài Thiêu hương báo ân tụng, nhưng
không chép ra đây.
Sau khi nối
đạo, những lúc lên đàn thuyết pháp, ta tự nghĩ có bốn
điều ân nặng, sửa pháp khó đền, nên sai thợ vẽ chân
dung của người để dâng cúng, và tự làm bài tụng, ghi rằng:
Đây bậc
cổ chùy,
Người đâu
dễ vẽ
Thước góc
Lương hoàng,
Mõ chuông
Thái đế.
Hay tròn
hay vuông
Mỏng dầy
đủ vẻ.
Biển pháp
một ngươi,
Rừng thiền
ba phía.
VĂN THƯ
NGOẠI GIAO
TRẦN
NHÂN TÔNG
1
Lá thư tháng
11 nhuận năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
Nay nghe quốc
công nhọc đến tệ quốc, biên dân không ai là không kinh hãi,
không biết là sứ giả người nước nào mà đến ở đây.
Xin rút quân về đường cũ để mà tiến.
2a
Tờ biểu
tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
Cô thần
bẩm khí yếu đuối, mà đường sá thì khó khăn, chỉ luống
phơi bộ xương trắng, đến nỗi bệ hạ phải xót thương
mà không ích gì cho thiên triều trong muôn một. Nép mong bệ
hạ thương xót tiểu quốc xa xôi, khiến thần được cùng
bọn đơn côi quan quả, giữ được tính mệnh để suốt đời
thờ phụng bệ hạ. Đó là nỗi may mắn lớn nhất của cô
thần mà cũng là phúc to của sinh linh tiểu quốc.
2b
Tờ biểu
năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
Năm Chí
Nguyên thứ 15, thế tử An Nam là cô thần, Trần, dâng biểu
nói:
Hoàng đế
bệ hạ được trời trên yêu mến. Cha thần thuận về thánh
hóa, thấm nhuần ơn đức nhân từ như đất trời, hưởng
lượng bao dung dơ uế như núi biển. Cha thần một đời đội
ơn cảm đức rất hậu. Năm Chí Nguyên thứ 14 (1277), bất
hạnh cha thần thất lộc. Ngày sắp mất, gọi cô thần đến
bảo: “Bệ hạ khoan nhân đại độ, không bỏ sót nước
nhỏ, thì chắc con tất được ân như đời trước. Ta nay
chỉ vì trời không cho thêm tuổi, khiến không được thờ
phụng thiên triều mà lấy làm hận thôi”. Thần e sợ mới
gặp tang cha mà kỳ cống hiến hằng năm lại vừa tới. Thần
chẳng dám vì nỗi buồn tang cha mà lụy tới công việc. Lại
thêm bọn sứ trước là Lê Khắc Phục lâu ngày chưa về để
tiếp tục việc cống nạp hằng năm, nên tiếp tục sai bọn
Trung thị đại phu Châu Trọng Ngạn, Trung lượng đại phu
Ngô Đức Thiệu làm hành nhân sứ vâng đem biểu văn, phương
vật, đến cửa khuyết dâng hiến, tuân theo chức nghiệp của
cha thần, chẳng dám để rơi mất lời giáo huấn dùng lòng
trung để dạy con.
Sinh linh tiểu quốc đều bảo: “Sau
khi cha thần mất đi, thì thần sẽ kế tục chí hướng, làm
tiếp sự nghiệp của cha thần, chính ở tại một việc làm
đó. Bệ hạ thương yêu người trung trực, càng thêm khen thưởng,
thì thế tử của ta ở trong sự không may mắn mà thật có
sự may mắn”. Rồi mỗi mỗi tự ngóng cổ trông lên trời
trăng miền bắc để ngóng mong.
Kịp tới
năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), bọn Châu Trọng Ngạn chưa về.
Chỉ thiên sứ Sài thượng thư mang chiếu thư cùng với bọn
Lê Khắc Phục lần trước, cùng đến tiểu quốc. Thần đem
bá quan nghênh tiếp đủ lễ, đốt hương vái đọc, nép thấy
chiếu thư bảo phải vào chầu. Thần khôn xiết kinh sợ, và
sinh linh cả nước truyền nghe lời ấy nhao nhao mất hết bình
tĩnh. Ấy bởi vì thần sinh trưởng ở nước Việt Thường,
bẩm khí yếu đuối, thủy thổ không quen, nóng lạnh chẳng
chịu. Dù xem được quang cảnh thượng quốc, sung làm khách
của vương đình, thì vẫn sợ có chuyện trên đường, luống
phơi xương trắng, đến nỗi lòng nhân của bệ hạ cũng tự
cảm thấy xót thương, mà chẳng ích gì cho thiên triều trong
muôn một.
Bệ hạ một
thể với trời. Thần thờ phụng bệ hạ giống như thờ trời.
Dù trông lên trời xanh chín tầng xa thẳm, mà oai trời chưa
thường dám trái trong gang tấc, ơn vua chưa thường không ghi
lòng tạc dạ. Khi làm bề tôi thời Châu Thành Vương thì trùng
dịch đến cống. Đến thời Võ đế thì bỏ ngoài không tính
vì thương nước nhỏ, đường sá xa xôi, núi sông sâu hiểm.
Huống nay, bệ hạ nơi nào xe thuyền đến tới, sương móc
xa rơi, trời trăng chiếu tới, thì chẳng ai là chẳng thần
phục, so với nhà Châu, nhà Hán thật cách nhau vạn vạn, không
thể cùng một ngày mà nói hết. Từ thuở khai thiên lập địa
đến nay chưa có lúc nào thiên hạ được thống nhất to lớn
như ngày nay.
Bệ hạ thi
hành nhân đức trước hết là nhằm cho người hoang quả cô
độc. Đến các loại nhỏ mọn như côn trùng thảo mộc cũng
mỗi mỗi thỏa được tính mình. Thần mắc tội với trời,
chỉ sợ không được thấm nhuần ơn phước. Chính trị của
bệ hạ tốt hơn nhà Châu, lòng nhân của bệ hạ sâu hơn
nhà Hán. Nép mong bệ hạ thương nỗi đơn chiếc yếu đuối
của cô thần, xót nơi xa xôi của tiểu quốc, mà khiến cho
thần được cùng với quan quả cô độc giữ được tính
mạng của mình để suốt đời phụng thờ bệ hạ. Đó là
điều rất may của cô thần, mà cũng là phúc lớn của sinh
linh tiểu quốc.
Thư tháng
11 năm Chí Nguyên 20 (1284)
Lá thư tháng
11 năm Chí Nguyên thứ 20, gửi cho Bình chương chính sự của
Kinh hồ Chiêm Thành hành tỉnh là A Lý Hải Nha:
Về một
việc thêm quân, thì Chiêm Thành thờ phụng tiểu quốc lâu
ngày. Cha tôi chỉ vụ lấy đức mà giữ họ. Đến thân của
kẻ côi này cũng kế thừa chí hướng của cha mình. Từ khi
cha tôi thuận về với thiên triều 30 năm đến nay, vũ khí
can qua tỏ ra không cần dùng tới, quân lính bỏ về làm dân.
Ấy một phần giúp vào việc cống hiến cho thiên triều, và
một phần tỏ tấm lòng không mưu đồ gì khác. Rất mong các
hạ thương xót xét cho.
Còn về việc
giúp lương, thì địa thế tiểu quốc tiếp giáp với biển,
ngũ cốc sản xuất không nhiều. Từ khi đại quân đi rồi,
trăm họ vẫn còn trôi dạt. Thêm vào đó, bị lụt hạn, sáng
no chiều đói, ăn uống vẫn không đủ. Tuy nhiên, các hạ
ra lệnh thì vẫn không dám trái. Xin ở đất châu Vĩnh An trên
cõi Khâm Châu, xin đợi đem đến nạp.
Còn việc
tiếp tục bảo cô tử tự thân đến cửa khuyết, gặp mặt
đức vua để nhận lời dạy bảo, thì lúc cha già của thần
còn sống, thiên triều đã thương xót mà bỏ ra ngoài tính
toán. Nay cha già của thần đã mất, còn cô thì đang chịu
tang, cảm bịnh đến nay, còn chưa khỏe lại như thường.
Huống nữa, kẻ côi này sinh trưởng ở nơi xó xa, chẳng chịu
nóng lạnh, chẳng quen thủy thổ, đường sá khó khăn, chỉ
phơi xương trắng. Nếu lấy bồi thần của tiểu quốc đi
lại, còn bị khí độc nhiễm xâm, có lúc mười người thì
đến năm sáu, hoặc có khi chết đến hơn nửa. Các hạ cũng
đã biết rõ điều đó rồi. Chỉ mong riêng vì lòng thương
giúp, mà tâu bày với thiên triều hầu giúp thiên triều biết
ý của kẻ côi này cùng tôn tôợc quan lại mỗi mỗi sợ
chết tham sống. Há chỉ một mình kẻ côi này nhận được
ơn ban mà còn sinh linh của một nước nhờ thế được an
toàn. Cùng chúc cho các hạ hưởng được phước lớn từ
trời ấy mãi mãi.
4
Lá thư tháng
3 năm Chí Nguyên thứ 21, gửi cho Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh
Chiêm Thành
đã nội thuộc tiểu quốc. Đại quân đến đánh, lẽ đương
nhiên tiểu quốc phải thương xót, nhưng chưa từng dám nói
ra một lời. Ấy bởi thời trời việc người, tiểu quốc
cũng đã biết rồi. Nay Chiêm Thành lại làm chuyện phản nghịch
chấp mê, không chịu trở lại. Đó gọi là kẻ chẳng thể
biết trời biết người. Kẻ biết trời biết người mà trở
lại cùng mưu với kẻ không biết trời biết người, thì
tuy trẻ mới lên ba cũng biết là không thể cùng được.
Huống là
tiểu quốc ư ? Mong quí hành tỉnh xét kỹ.
5
Lá thư tháng
10 năm Chí Nguyên thứ 21, gửi cho Thoát Hoan
Tuy không
thể chính mình thấy được ánh thừa, nhưng trong lòng đã
rất hân hạnh. Ngày trước, kính được chiếu vua nói rằng:
“Có lệnh riêng quân ta không được đi vào nước ngươi”.
Nay thấy Ung châu doanh trại cầu đò, thường thường liên
tiếp. Thật rất sợ hãi, rất mong hiểu rõ lòng trung thành
mà thêm chút thương xót.
6
Thư tháng
10 năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho Thoát Hoan
Chiếu trước
đã riêng ra lệnh “quân ta không được vào nước ngươi”.
Nay vì Chiêm thành đã xưng bề tôi mà làm phản trở lại,
nhân thế phát đại quân đi qua do bản quốc mà tàn hại trăm
họ. Đó là việc làm sai trái của thái tử, chớ không phải
sai trái của bản quốc. Kính mong chớ đi ra ngoài chiếu trước.
Rút đại quân về. Bản quốc sẽ sắm đủ cống vật, đem
dâng lại có khác với trước.
7
Lá thư tháng
3 năm Chí Nguyên 23 (1286)
Ngày tháng
3 năm Chí Nguyên 23 (1286), thế tử nước An Nam là thần Trần
Nhật Huyên kính gửi:
1.Hòm đựng
biểu bằng gỗ son có quách bằng bạc phủ vàng cùng với
chìa khóa, một bộ.
2.Voi thuần,
một con.
3.Yên ngựa
vàng góc liền với bàn ngồi, một chiếc (vàng góc nặng 10
lạng)
4.Đài bạc
phủ vàng cùng trái bóng liền lông trâu, 5 bộ (cộng lại
nặng 6 lượng 14 tiền).
5.Lục lạc
bằng đồng có mạ vàng, 7 chiếc.
6.Sừng linh
dương, một bộ.
7.Chiếu
gấm màu lục đậm, một chiếc.
8.Dây bông
hồng, bốn tao.
9.Tấm choàng
mưa bằng vải lăng màu đỏ có dụ kim, một tấm.
10.Mâm ngự
đá hoa góc vàng phủ bạc, một chiếc.
11.Bình lưu
ly cùng với nắp vàng, 2 chiếc. Cộng lại nặng 1 lạng 6 tiền.
12.Đế đèn
vàng, một đôi (cộng lại nặng 14 lạng).
13.Mâm sừng
tê bốn góc phủ bạc, một chiếc.
14.Chén trầm
hương vàng góc có nắp đậy, một chiếc.
15.Đĩa lá
sen phủ vàng, một cái.
16.Dù vàng
3 lạng 7 tiền.
17.Đĩa lá
sen vàng 5 lạng.
18.Đĩa dạng
móng vàng 6 lạng 8 tiền, một cái.
19.Bầu vàng
một cái 10 lạng.
20.Đĩa kim
tê vàng góc liền đáy, một chiếc 4 lạng.
21.Chén tê
giác vàng góc một cái (vàng góc 5 lạng)
22.Đĩa vàng
dùng đủ một cái 2 lạng 8 tiền.
23.Lò vàng
liền với đũa vàng một bộ.
24.Lò vàng
một cái bốn lạng.
25.Đũa vàng
một lạng ba tiền.
26.Que xóc
thịt bằng vàng, một que 7 tiền.
27.Đai vàng
ròng, một bộ 4 cái.
28.Bàn cờ
bằng xương voi cái, có màu gỗ vằn sáng, góc vàng phủ bạc,
một chiếc ba lạng.
29.Hộp phủ
vàng có phủ xen vàng đỏ liền với múi, một chiếc 25 lạng.
30.Bộ quân
cờ bằng ngà voi, một bộ 32 con.
31.Hoa tê
ba cành phía dưới phủ vàng xen bạc, ba món nặng 18 lạng.
32.Sừng
tê giác Đại ô năm chiếc liền với ván đáy có vẽ năm
miếng.
33.Chậu
rửa bằng vàng 5 chiếc, cộng 10 lạng.
34.Chậu
rửa vàng đỏ 10 chiếc, cộng lại nặng 300 lạng.
35.Bình bạc
đựng đầy dầu tô hợp hương, ba chiếc (dầu cộng nặng
163 lạng, bình cộng nặng 79 lạng).
36.Đoạn
lông vàng nước Tây Dương hai xấp.
37.Quyến
mịn vải ngũ sắc 50 tấm.
38.Gấm mọi
100 tấm.
39.Vải trắng
nước Chà Và 20 cân.
40.Vải chen
màu nước Chà Và 10 cân.
41.Lông chim
trả 100 chiếc.
42.Bạch
đàn hương 2 tể, cộng lại nặng 10 cân.
43.Mai hương
đàn 2 tể, nặng 70 cân.
44.Ca ma nhiên
hương 100 cân.
45.Thảo
quả 10 cân.
46.Ngà voi
20 chiếc.
47.Sừng
tê giác 20 chiếc.
48.Chim ó
20 con.
49.Chim trĩ
hai con.
50.Rái cá
một con.
51.Cá sấu
8 con.
52.Chim bát
ca một con.
8
Tờ biểu
năm Chí Nguyên thứ 25 (1288)
Chí Nguyên
năm thứ 25 (1288) nước An Nam dâng biểu nói:
Vi thần,
thế tử nước An Nam Trần Nhật Huyên lo sợ, trăm lạy quên
chết phục tội, dâng lời lên Hoàng đế bệ hạ được trời
cao yêu mến. Được Thánh chỉ lúc này, như gió ấm cởi lòng,
kính mong thánh thể sinh hoạt vạn phúc. Cha con của vi thần,
qui thuận thiên triều đã 30 năm hơn. Dẫu vi thần đau mang
bệnh tật,ử đường sá xa xôi,ử bệ hạ vẫn để cho ở
bên ngoài tính toán, chỉ nhận lấy phương vật cống hiến,
mà sứ thần dâng lên, năm tháng chưa từng thiếu sót
Đến năm
23 (1286) bình chương A Lý Hải Nha vì tham lập công biên giới,
làm trái với thánh chỉ. Do thế, tiểu quốc sinh linh một
phương phải chịu lầm than. Sau khi đại quân về rồi, vi
thần mới biết lòng hạ thần bị ngăn chận, do lời dữ
mà bị vu oan là làm phản, gọi thành tội lỗi của thần.
Thần đặc biệt sai bọn thông thị đại phu Nguyễn Nghĩa
Toàn, hiệp trung đại phu Nguyễn Đức Vinh, hữu vũ đại phu
Đoàn Hải Cung, Trung đại phu Nguyễn Văn Ngạn phụng đem phương
vật đến trước cửa khuyết, ý muốn thêm chút lòng thương
của bệ hạ, há mong gì hơn. Thế mà họ đều không trở
về.
Chí Nguyên
năm thứ 24, mùa đông, lại thấy đại quân thủy bộ đều
tiến sang, thiêu đốt chùa chiền khắp nước, đào bới mồ
mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản
nghiệp trăm họ. Các hành động tàn nhẫn phá phách, không
gì là không làm. Lúc bấy giờ, thần sợ chết, liền trước
trốn đi. Tham chính Ô Mã Nhi nói với người trong nước truyền
báo cho thần rằng: “Mày chạy lên trời, tao theo lên trời.
Mày chui xuống đất, tao theo xuống đất. Mày trốn trong núi,
tao chạy vào núi. Mày chạy xuống biển, tao sẽ xuống biển”.
Trăm thứ tủi nhục, lời nói chẳng hết.
Thần nghe
những lời ấy, biết mình không khỏi tội, càng đi trốn
xa hơn, những mong thái tử xót thương, riêng theo nguyện vọng
của tiểu quốc, mà đưa đại quân đi về.
Tham chính
Ô Mã Nhi lâu nắm binh thuyền, riêng ra ngoài biển, bắt hết
biên dân vùng biển, lớn thì giết chết, nhỏ thì bắt đi,
cho đến treo trói, xẻ mổ, mình đầu khắp chốn. Trăm họ
bị bức tới chỗ chết, bèn dấy lên cái họa của con thú
chân tường. Vi thần sợ sẽ dây dưa đến mình, nên tự thân
tới ngăn cản, nhưng đường xa lại không kịp. Khi nghe thấy
trăm họ đưa đến đại vương Tích Lệ Cơ, một người,
bảo là thuộc quí thích của đại quốc, thần ngay ngày đó
đã sắm lễ đối đãi, hết mực tôn trọng. Thần kính hay
là không kính, đại vương tất biết. Còn việc làm của Ô
Mã Nhi tàn khốc bạo ngược, thì chính đại vương mắt thấy.
Vi thần chẳng dám nói dối.
Thủy thổ
của tiểu quốc rất độc, viêm chướng thật nhiều, thần
sợ ở lâu tất sinh tật bệnh. Tuy vi thần đã hết lòng phụng
dưỡng thì cũng không khỏi được tội các tướng tham lợi
quân công ở biên giới mà có lời tâu không căn cứ. Vi thần
đã kính cẩn, có đủ lễ vật đi đường, sai người đến
trước biên giới đưa tiễn đại vương về nước.
Kính mong
bệ hạ đức sánh càn khôn, ơn hơn cha mẹ, trí như đem đuốc
rọi chỗ tối, sáng đủ để biết tình ngay gian, nguyện xin
xét kỹ mà thêm lượng khoan hồng, hầu khiến vi thần miễn
khỏi tội lỗi, được hết lòng thờ trời suốt đời, há
chỉ vì vi thần cùng với sinh linh một phương, tử sinh cốt
nhục, muôn đời nhận được ơn sinh thành đại tảo, mà
cũng để cho hết thảy các nước được may mắn thật hưởng
sự nhân từ của lòng nhân bệ hạ.
Ngoài ra,
những kẻ sót mất của đại quân còn hơn những ngàn người,
thần đã phát lệnh đưa về. Nếu sau này có gặp nữa, thì
thần cũng tìm ra và bảo trở về.
Tiểu quốc
gần đây gặp phải binh hỏa. Vả lại lúc này khí trời còn
nóng, cống vật và sứ giả khó có kiếm ra. Đợi đến mùa
đông mới có thể sai đi được.
Lòng hạ
thần không có gì khác, không dám van trời nài thánh, hoảng
sợ quên chết, phục tội khôn xiết, kính cẩn tâu bày.
9
Tờ biểu
tháng tư năm Chí Nguyên thứ 25 (1288)
Thế tử
nước An Nam là vi thần Trần Nhật Huyên, sợ hãi quên chết
phục tội, dâng lời lên hoàng đế bệ hạ được trời cao
yêu mến. Lúc này ba xuân sáng đẹp, muôn vật sinh sôi, kính
mong thánh thể sinh hoạt vạn phúc.
Vi thần vào
ngày 1 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 26, thấy Lưu thiên sứ, Lý
thị lang, lang trung Đồng Đường Ngột Đãi, Cáp Tán, Ống
Cát Lạp Đãi đã phụng đem thiên chiếu cùng các tiểu sứ
của thần là mấy bọn bề tôi Nguyễn Nghĩa Toàn trở về.
Thần khôn xiết vui mừng kính cẩn đốt hương vái đọc ở
chính điện. Đến khi quân đội một lần cùng đến, hồn
vi thần phách tán, lòng dạ như bị dội đập. Thật đúng
như người ta thường nói, sướng chưa trọn mà buồn đã
tới, vui chưa thỏa mà sợ lại đến. Vi thần liền trốn
ở góc biển, lâu ngày bị bệnh tật, đường sá xa xôi, thủy
thổ khó khăn. Mạng sống tuy liên hệ với số trời, nhưng
tình người thì lại rất sợ chết mất.
Thêm vào
đó, đại quân đã lắm lần chinh phạt, giết cướp lại
nhiều. Anh em không kẻ hiền lương, dựng chuyện tâu sàm không
ít. Trước đây, quốc thúc Di Ái rõ ràng trốn mất ở ngoài
biên cảnh, bèn trở ngược vu cáo thần là đã làm việc chuyên
giết. Lại người em giữa Ích Tắc tự đem mình đến trước
đại quân xin vái đầu hàng. Ấy là muốn đến trước để
lập công cho mình. Huống nữa là những người đến thay mà
tâu bày, thì lại càng thêm ngoa dối. Vi thần thập tử chứ
không có một chút sống nào.
Bệ hạ đức
quá Đường Ngu, sáng sánh trời trăng, thì lòng chân thành
hay dối ngụy, không điều gì là không tỏ rõ, việc tối
tăm nhỏ nhiệm không gì là không soi tới. Do thế, đại quân
sau trước giết tróc, vi thần vẫn thường ghi lòng hai chữ
trung thuần. Năm qua tháng lại chưa từng bỏ thiếu. Ấy là
bởi vì cậy có thánh nhân ở trên trời, như mặt trời rọi
tới những nơi chưa tỏ rõ. Khi đại quân vừa rời khỏi,
mà thiên sứ chưa tới, thì vi thần đã sai bọn trung đại
phu Trần Khắc Dụng, phiếm nghĩa lang Nguyễn Mạnh Thông kính
đem vật mọn đến cửa khuyết hiến dâng tạ tội, những
mong khoan hồng, riêng ban lòng xem xét. Thế cũng đủ thấy
lòng sợ chết tham sống của vi thần. Ngoài ra tuyệt nhiên
không dám làm việc bội nghịch nào khác.
Năm ngoái,
bách tánh của tiểu quốc đem quan quân tới. Vi thần chính
mình hỏi han thì chỉ được ba tên là đại vương Tích Lệ
Cơ, tham chính Ô Mã Nhi và tham chính Phàn (Tiếp). Bá tính đều
cho ba người này đã giết vợ con họ, đốt phá nhà cửa
họ, nên phần lớn muốn làm chuyện phi nghĩa. Vi thần chính
mình ra sức bảo vệ, cấp dưỡng hậu hĩ, thê thiếp họ
thì cơm ăn áo mặc phủ phê, hành trang đi đường thì được
chuẩn bị đầy đủ đưa đến trước. Đặc biệt sai
sứ thần là Tùng nghĩa lang Nguyễn Thịnh đi theo đại vương
Tích Lệ Cơ, Đồng Đường Ngột Đãi đến cửa khuyết.
Trong khi đó,
hai tham chính bị rớt lại sau. Nguyên do vì đại quân mới
rút, lòng sợ hai tham chính chưa hết cơn giận, tất gây họa
hại. Vì thế mạn phép lưu lại sau mới ra đi, há có hẹn
rày mai. Vi thần chẳng may việc trái với lòng.
Phàn tham
chính bỗng gặp bệnh sốt. Vi thần đem hết thuốc men của
mình nhờ những thầy thuốc bộ hạ của Phàn tham chính để
chữa, nhưng đã không khá, dần dần đến chỗ mất thân.
Vi thần đã hỏa táng, làm đủ mọi lễ công đức, xong rồi
nhân thế, cấp ngựa, lụa giao cho thê thiếp của Phàn tham
chính đưa hương cốt trở về. Bọn thiên hộ Mai Thế Anh,
Tiết Văn Chính đi theo hộ tống về nhà cùng một lần. Ngày
Lưu thiên sứ đến đều bảo đã qua tới Ung Châu rồi. Phàm
việc quản đãi hằng ngày ấy có kính trọng hay không thì
hỏi đám thê thiếp cũng có thể biết vậy.
Tham chính
Ô Mã Nhi thì đúng kỳ tiếp tục đi sau để trở về. Ông
ấy cho đường trở về, do đi qua Vạn Kiếp nhân thế xin
trước đến Hưng Đạo Vương giúp cho phương tiện đi về.
Trong hành trình trên bộ dưới nước, đêm gặp phải hỏa
hoạn, thuyền chở vì thế nước tràn vào. Tham chính thân
hình cao lớn, khôn hay vớt kịp, đến nỗi chết chìm. Nhân
phu tiểu quốc lặn tìm cũng đều chết theo. Thê thiếp và
tiểu đồng của tham chính suýt hãm chết, song nhờ thân hình
nhẹ nhỏ mới cứu được khỏi. Vi thần hỏa táng, làm đủ
công đức. Thiên sứ là lang trung (Lý Tư Diễn) chính mắt
trông thấy. Hoặc nếu bất kính, thì có thê thiếp của ông
ấy ở đó khó có thể che giấu. Vi thần kính cẩn chuẩn
bị đầy đủ cho việc trở về, cũng giao cho thê thiếp cùng
với một xá nhân lang trung tiếp tục trở về nước sau.
Ngoài ra,
các quân nhân còn bị hãm tại chỗ vi thần trước đây, kể
hết có hơn tám ngàn người. Trong số đó hoặc có những
vị đầu mục, vi thần đều không biết. Nay nhờ chiếu dụ,
vi thần lại đi tìm kiếm, được đầu mục quân nhân bao
nhiêu tên, thì cùng theo thiên sứ mà trở về. Sau này còn
có sót mất hoặc chưa tìm hết thì vi thần cũng sẽ cho ra
về, không dám lưu lại một người nào.
Cúi mong bệ
hạ như núi biển bao hàm, dơ bẩn chứa hết, nuôi mắt sáng,
rộng tai rõ, mỗi mỗi khoan hồng, bỏ ngoài tính toán, khiến
cho vi thần khá được một đời bảo toàn đầu cổ để
trọn lòng thờ trời, mà còn mong đời đời kiếp kiếp tan
thịt nát xương báo đáp ơn vua trong muôn một. Xét mong ơn
vua ngay thẳng, rất đỗi sợ hãi kính tâu.
10
Tờ trạng
tháng 3 năm Chí Nguyên 26 (1289)
Chí Nguyên
ngày tháng 3 năm 26 (1289) thế tử nước An Nam là vi thần Trần
Nhật Huyên dâng trạng tâu xin tiến phương vật, nói rằng:
Thế tử
nước An Nam là vi thần Trần Nhật Huyên nép nghĩ, tháng 2
năm nay gặp thiên sứ Lưu án sát vâng đem chiếu trời. Vi
thần, lâu mắc bệnh tật, sợ tội, kính cẩn chuẩn bị vật
mọn, sai bọn bồi thần Đàm Minh Thông, Thị đại phu Chu Anh
Chủng và một hành nhân, khiến tùy thiên sứ đi đến thượng
quốc dâng hiến. Nay kê đầy đủ tên số vật kiện ở dưới,
tại chỗ cuối quyển, phía trên mỗi hạng vật mọn, theo
trạng dâng lên. Cúi mong thánh từ phủ tứ giám nạp. Kính
trạng.
11
Thư tháng
3 năm Chí Nguyên 26 (1289)
Ngày tháng
3 năm Chí Nguyên 26 (1289), thế tử nước An Nam là vi thần
Trần Nhật Huyên dâng trạng thơ lên Hoàng hậu, nói rằng:
Thế tử
nước An Nam Trần Nhật Huyên kính cẩn cúi đầu dâng thơ,
nói:
Lúc này đường
huệ phong quang, tiêu phòng trời ấm. Kính nghĩ Hoàng hậu điện
hạ sinh hoạt vạn phúc, chủ trương nội trị hưng thịnh,
công lao dồn lại cho bá vương, biểu thị mẫu nghi hóa dục,
lòng nhân coi mọi người cùng đồng như một, gây nên cơ
sở thể hiện đức hiếu sinh. Cho nên được lòng vui của
muôn nước, không nỡ để một kẻ hèn mất nơi, xin lòng
thương cho đến hoang vu cùng được dự tắm lòng từ rộng
lớn, còn lo âm nhạc cho hòa, càng giúp ao ngọc thêm thọ.
Kính cẩn ghi đủ vật mọn ở tại giấy riêng để xin dâng
hiến, cúi mong giám nạp.
Thần rất
sợ rất hãi, cúi đầu kính nói.
12
Thư tháng
3 năm Chí Nguyên (1289)
Ngày tháng
3 năm Chí Nguyên thứ 26 (1289), thế tử nước An Nam thần Trần
Nhật Huyên dâng thơ tiến phương vật, kể rằng:
1.Bông tai
đeo toàn bằng vàng có kết trân châu, một đôi.
2.Giỏ đồi
mồi, một cái.
3.Áo lĩnh
chầu bằng vàng có ngọc châu màu đỏ, một cái.
4.Hộp bạc,
một cái.
5.Ngọc châu
màu, 16 hạt (gồm ngọc châu hoàng long 4, ngọc châu tử ni
4, ngọc châu bích ni 4, ngọc châu thạch lựu 4).
6.Trân châu
276 hạt (lớn 2, vừa 10, cỡ như hạt mè 200)
7.Xuyến
trân châu có tráng vàng một cặp (châu 1000 hạt, vàng nặng
một lạng).
8.Chén kim
khuyên một bộ. Cộng lại là 4 lạng 5 tiền.
9.Chén hoa
tê, đĩa vàng toàn dùng một chiếc, nặng 3 lạng.
10.Chén vàng
liền nắp một cái, nặng 9 lạng 6 tiền.
11.Gấm một
xấp.
12.Đoạn
thiên ty hai xấp.
13.Vải quyến
ngũ sắc sợi nhỏ 20 xấp.
14.Vải trắng
nước Chà Và 1 xấp.
15.Lông chim
trả 50 chiếc.
Trên đây
là những hạng mục vật mọn kèm theo thơ dâng lên. Cúi mong
hồng từ phủ tứ giám nạp. Kính giãi bày.
12
Tờ biểu
năm Chí Nguyên thứ 29
Năm Chí Nguyên
thứ 29 (1292), thế tử An Nam Trần dâng biểu nói, vi thần
sáu thước, xưa nhờ cha dạy về việc thần sự thiên triều,
không được bỏ phế một việc hằng năm cống hiến. Kíp
kíp mãi ghi ở lòng. Sở dĩ là sợ tội tiếm thiết, nên đặc
biệt sai bọn trung lượng đại phu Nghiêm Trọng Duy, hữu vũ
đại phu Trần Tử Trường vào tháng 9 năm Chí Nguyên thứ
27 (1290) phụng đem vật cống đến cửa khuyết dâng hiến,
trên để tỏ hết lòng thành thờ trời, dưới để nối chí
tổ tiên. Kịp đến tháng 2 năm nay, thiên sứ chính nghị đại
phu Trương Hiển Khanh, phụng thuận đại phu Bất Nhã Tiết
Mục Nhi vâng đem chiếu trời và vật ban cùng Nghiêm Trọng
Duy trở về tới tiểu quốc. Tông tộc, quan lại, bá tính
kỳ lão cả nước hớn hở bảo nhau rằng: “Thánh thiên tử
đem lòng nhân mà thương vi thần, dùng trung thứ mà đãi người,
thì chắc chắn đám sinh linh chúng ta thoát khỏi cảnh đồ
thán.”
(...)
Thần và
bá tính tiểu quốc khôn xiết kinh sợ. Việc đó, cha thần
ngày còn sống, đã thường khiến sứ tâu lên, đúng vào lúc
thần chưa dự vào chính sự, nên đó vốn là chỗ thần không
biết, chớ không phải riêng dám qui lỗi cho cha thần, lại
để tìm cách tự mình lại được khỏi tội. Vạn nhất mà
thiên triều riêng rủ lòng khoan tha, thì đó là một điều
may mắn cho thần. Nếu không thì đó là tội của thần đáng
bị giết đi không xiết.
Đến việc
bảo thần phải tự mình tới cửa khuyết, thánh thiên tử
không tiếc vương tước phù ấn, lại phong đất đai như cũ,
thì thần với tôn tộc quan lại của tiểu quốc, hồn kinh
sống lại, vía chết lại yên, vì cho rằng thiên triều, nếu
không nghĩ tới, há có thể giải đáp giống như thế ư? Cha
ông của thần thời còn sống, thiên triều khen có lòng trung
thành, thương chỗ xa xôi, bỏ ra ngoài mà không tính tới.
Cho nên, năm Trung Thống thứ 12 (1269) đã có chiếu phong làm
tước vương, ban cho phù ấn, riêng ra lệnh: “Quân ta không
vào nước ngươi, áo mũ lễ nhạc, không đổi tục cũ”.
Tổ phụ của thần nhờ thế mà giữ được đầu cổ cho
đến chết. Sinh linh đến nay nhận ơn không ít.
Đến đời
cha thần, không may biên cương gây họa, nhưng việc thờ trên
vẫn một lòng chung thủy không đổi. Kịp đến đời thần,
mạo thay giữ đất, thẹn được thiên triều nghĩ tới tấm
lòng của cô thần, lại biết thần sinh trưởng nơi góc xa,
không thuộc thủy thổ, không quen nắng mưa. Các sứ thần
của tiểu quốc đi lại thường vì lam chướng mà chết đến
sáu, bảy. Nếu thần không thể tự lượng thì chỉ chết
ở dọc đường, rốt không ích gì cho công việc. Vả lại,
tiểu quốc là một nước mọi rợ, phong tục bạc ác, một
ngày sống mà rời nhau thì anh em chắc không thể dung thứ
cho nhau.
Thánh thiên
tử có lòng nuôi vật, có dạ thương côi, thì một bề tôi
của tiểu quốc còn không nỡ bỏ sót.
Huống nữa, cha
ông của thần đời đời thờ vua, mà vội vàng trong một
ngày nỡ khiến cho xương cốt chóng phơi, xã tắc trở thành
gò đống ư ?
Than ôi! Người
đời nếu có kẻ được gặp mặt thánh, thì ở trong sách
Phật gọi đó là phước lớn, còn sách Nho thì gọi đó là
chuyện ngàn năm một thuở. Thần há không muốn xem quang cảnh
thượng quốc, thân mình được tắm gội ơn vua, mà đã vội
trái mệnh để chuốc lấy họa ư? Trời trên soi tỏ. Thật
tình, vì thường tham sống sợ chết, thần xa cách thiên triều
mà mắc tội ở góc trời thì sự che chở khoan dung chỉ cậy
có bệ hạ sáng như trời trăng, lượng như thiên địa. Nếu
không, dồn hết nước cả bốn biển cũng không đủ để
rửa sạch tội của thần.
Thần nói
hết lời, như gan phổi bày ra. Kính mong bệ hạ thương xót
kẻ cô độc này, nghĩ tới sự khốn cùng của nó mà xét
cho lòng cô trung của vi thần, tha tội nặng của vi thần,
giúp vi thần được tạm kéo dài hơi tàn để hết lòng thành
thờ kẻ lớn, bá tính mỗi giữ được tính mạng để hưởng
lấy đức hiếu sinh. Há chỉ vi thần thịt nát xương tan,
khôn có thể mong báo ơn vua trong muôn một, mà cùng khắp hết
gầm trời, muôn miệng một lời cùng chúc tuổi vua muôn ức.
14
Thư ngày
13 tháng giêng năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
Cô tử gửi
thư cho thiên sứ đại tướng quân trướng hạ. Nay xét xe
sứ mới đến, đầy thành xuân khí lung linh, liền biết có
ý mới sinh, bút báo dạy răn để đón tiếp chiếu trời.
Việc đủ để ghi nhận, hết lòng nhớ nghĩ. Cảm động lắm,
cảm động lắm.
Lễ đón
chiếu trời, từ xưa đã có. Từ ngày cha ông qui thuận đến
nay đã định thành lệ thường, huống chi thân này dám mà
không làm theo hết. Bèn kính cẩn đặc sai bề tôi chấp chính
của bản quốc là Lê Khắc Phục ra tới biên cương xa đón.
Đến ở trong nước, lễ tiếp được khiến dàn bày, tới
ngày những mong rủ xuống những lời giáo huấn. Sơn lam chướng
khí, e chẳng phải đất để có thể ở lâu dài. Nghĩ mong
sớm được có lời bảo ít nhiều để an ủi lòng ngóng trông
đau đáu. Kính đưa thư đáp này, rất mong xét nghĩ, khôn nói
xiết hết.
Viết vào
ngày 13 tháng giêng năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
15
Thư ngày
21 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
Cô tử viết
thư lại cho thiên sứ đại tướng công các hạ. Cô thẹn
được bút hoa của ngài đáp lại, rủ xuống tấm lòng hết
sức dạy dỗ yêu thương. Thật cảm kích, thật cảm kích.
Cô là bề tôi thờ tiên triều từ ông nội đến nay đã hơn
30 năm, tuế cống không dứt, tuy hai lần gặp binh hỏa, vẫn
thủy chung một lòng. Việc phải đắc tội chỉ là không thể
đền chầu mà thôi. Cô há không biết lễ là nếu có lệnh
vua đòi thì không được lần lữa. Nhưng như tình thường
tham sống sợ chết, sao như chim bay cao cá lặn sâu, chỉ có
lòng muốn sống mà thôi, huống nữa là con người ư.
Nếu thiên hạ không nơi bất tử và xưa nay không có người
bất tử, kẻ hiểu lẽ đó, chỉ có Phật mà thôi. Còn con
người ai có thể làm được. Tệ ấp của cô cách xa thiên
triều quan san vạn dặm. Tướng công thực đã biết đủ rồi.
Giá như cô đem cái thân yếu đuối bé nhỏ này, gắng gượng
mà ra đi đợt này thì việc không tử vong trên đường sá
là hiếm lắm.
Mà việc tử vong của cô đây cố nhiên
là không đáng xót. Song nó không làm thương tổn được lòng
nhân yêu người, yêu vật của thánh triều ư ? Sách nói, vua
là trời. Việc thờ vua của cô đây còn hơn cả việc thờ
trời. Trời không có bực mà lên, nhưng còn có thể nhờ sớm
tối để mà đối so. Vua không có bực để mà gần, nhưng
có thể nhờ sớm tối mà hướng mộ. Cô nếu không tự lượng
lực mà ra đi, thì còn muốn cầu đối so hướng mộ được
ư ? Cô mượn lẽ của người xưa, nói năng không kiêng kỡ,
lòng dạ như đã giãi bày, mong nhờ tướng công tạm vì cô
mà nghĩ kỹ cho muôn một, chớ tiếp lời dại. Thư không hết
lời.
Viết vào
ngày 21 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
16
Thư ngày
25 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
Cô tử viết
thư đáp lại thiên sứ đại tướng quân các hạ. Cô bất
tiếu, cúi mong không bị chê quê, nhiều lần được ban thơ
từ, tình nhiều, thương lắm. Nhiều lần nhọc nhằn ban thơ,
lời lẽ phong phú, tình nghĩa dạt dào, thương yêu quá hơn
cốt nhục, thân thiết như cố nhân. Ý khăng khăng, dám không
phơi hết lòng dạ để tỏ tình trong muôn một.
Còn một
việc đến chầu, thì cô chịu tội vậy. Bởi vì cậy vào
lòng nhân của thánh triều như trời đất , mỗi mỗi trình
xin lòng thương xót. Tướng công đã thật biết rồi, không
cần nói thêm nữa. Về sự vinh dự của người thần tử
được vào chầu, thì cô há không muốn. Chỉ nếu đem con
đi thì khốn nỗi miệng nó còn hôi sữa, gân cốt chưa cứng
cáp, không tập cưỡi ngựa, không quen gió sương, trên đường
sá sẽ thấy như thế nào. Cô đây tuổi đã quá 30 mà còn
lo không giữ được thân này, huống chi là đứa con mọn ấy.
Nếu đem việc cũ của Anh Tề mà xét xem thì lại làm cho tội
cô đây thêm nặng
Về tướng
tá của quan quân, hoặc có kẻ còn rơi sót lại nơi tệ ấp,
thì cha của cô ngày còn sống, đã tìm kiếm hết thảy như
bộ thuộc của đại vương Tích Lệ Cơ, già trẻ của Ô Mã
Nhi và Phàn tham chính, Tôn Lộ Man, Hà phụng ngự, Đường
Ngột Công, Cát La Thị, Đường Vạn Hộ, Hồ Anh, Quách Toàn
và bọn vạn hộ, thiên hộ đầu mục quan quân... đều
đã theo nhau thứ lớp đưa về xong. Kỳ dư, hoặc có kẻ gặp
lam chướng mà chết, hoặc đã trốn về, thì cô không biết
được. Trương thượng thư ngày đến cũng đã nói tới điều
này. Cô đã tìm hỏi các nơi thôn xóm, tới nay chưa có được
tin tức gì. Cô há có tiếc mấy người này để nỡ bỏ sinh
linh một phương. Vả lại, sở dĩ việc cô đưa trở về,
ấy quả có lệnh của triều đình, chứ đâu phải cô tự
làm sao? Còn họ ở đây thì chỉ chuốc lấy tốn kém, phí
dụng, chứ có ích gì đâu.
Cô từ sau
khi cha mất đi, đã ăn chay, tụng kinh, phóng sanh vật mạng,
còn lo không đủ để báo ơn cha trong muôn một. Huống nữa
là có việc bỏ tù hay giết hại tướng tá của thiên triều,
để lụy tới cha mình ở dưới đất sao. Tướng công tuy
đem điều đó ra dặn dò, cô vẫn không đợi nói hết.
Còn việc
xâm lược biên giới, lời đó càng không đáng tin. Kinh Thi
nói: “Khắp dưới gầm trời đâu chẳng đất vua.
Đem hết
bờ cõi đâu chẳng tôi vua”. Tiểu quốc tuy nằm ở một
xó, cũng là đất bề tôi của đại quốc. Mấy năm gần đây
mới gặp binh họa, trăm họ tử vong, ruộng đất bỏ phế.
Tướng công đã tận mắt thấy rồi. Nay đất của tệ ấp
mười nhà thì chín nhà đã trống. Thế chưa đủ sao? Sao rảnh
mà đi lấy thêm chỗ khác ư. Nay đem việc tiểu quốc thành
sự đại quốc, chỉ biết lo sợ, còn e không giữ được,
sao dám sanh lòng kiêu căng ấy ư. Gần đây, thiên sứ qua lại
nhiều lần, tới đến tiểu quốc. Việc đón đưa ở Lục
châu, tiểu quốc sợ tội xâm vượt biên giới, nên luôn tránh
đi, chỉ dừng ở Khâu Ôn mà thôi. Lời cô không tin, thì còn
có các thiên sứ. Hiện nay, lời tướng công có bảo phải
trả lại biên giới. Lời nói ra làm thần rất sợ hãi. Cô
vốn không có ý xâm lược biên giới, mà lại dám có lời
trả lại biên giới ư? Như tướng công đã bảo, thì cô cũng
sẽ răn ước đám dân biên giới chớ sinh sự bậy, để thể
hiện lòng thành thờ trời của cô.
Vật là để
tỏ lòng thành. Tả truyện có việc dâng rau cần. Kinh Thi có
rau khe suối bãi bờ, rau tần, rau tảo, đồ nơm, đồ sọt,
nước huỳnh, nước lạo, có thể dâng quỷ thần, có thể
đãi vương công,1 Ấy là bởi tại lòng thành, chứ không phải
tại vật. Cô ở xó bên ngoài đất viêm hoang, xa cách mặt
trời. Thế mà sở dĩ tỏ rõ lòng thành của mình, ấy là
tại ở thổ sản mà thôi. Nay tướng công cho đó là hư dối,
không đủ để thể hiện lòng thành thờ vua thì cô sắp lấy
gì để gửi tấm lòng mình ư? Có chỗ để gửi tấm lòng
thành của mình mà còn không thể khỏi tội lệ. Nữa là không
có chỗ mà gửi lòng thành thì tội lệ đó sẽ như thế nào.
Trộm nghĩ,
thân cô đã không thể đến triều, mà con của cô lại không
thể vào chầu. Cả nước kinh hoàng, chẳng biết làm gì, chỉ
có đem hết tâm lực của mình, gửi lấy tánh mạng mình,
gượng khiến một lão thần tâm phúc thay thế đến cửa trời
mà giãi bày tội lỗi. Thế mà nay tướng công lại có lời
là phải có một cận thần cốt nhục. Cô chưa biết xét người
ấy là thế nào, hoặc là anh em chăng? hoặc là bà con chăng?
hoặc là một lão thần tâm phúc chăng? Cô hư đốn, hoàng
thiên không thương xót, nên anh em bà con đều là những kẻ
chẳng biết gì, không thông xưa nay, không rõ thời sự. Giả
sử lấy một người đưa đi lần này, thì không chỉ mắc
tội với thiên triều, mà còn e di họa cho tiểu quốc.
Đó là đám
trước đây, tướng công há không biết sao. Cô cho là anh em
bà con, tiếng tuy là rất thân nhưng thực là kẻ thù; còn
lão thần tâm phúc, tiếng tuy là bề tôi nhưng thật ra đó
là cha con. Cô chưa biết ý tướng công, dùng danh ư, dùng thực
ư ? Nếu muốn dùng hư danh mà không dùng điều thực, thì
không chỉ cô đây mắc lấy tội không thể hết tình, mà
tướng công cũng có cái lụy là bỏ thật mà lấy dối. Lời
nói này của cô chưa khỏi bị chê là xảo quyệt, trang sức,
văn hoa, dối trá. Chỉ may mắn mong tướng công uyển chuyển
rõ hết tấm lòng mà thương xót tha cho.
Cơ an nguy
sống chết của cô đây lệ thuộc vào trong ba tấc lưỡi
của tướng công. Những mong lấy ý thương xót cô và lòng
che chở dân, đặc biệt uyển chuyển một lời, dâng tới
tai trời, giãi bày nỗi niềm không nơi nương tựa của thân
cô sáu thước, ý không đâu nói tỏ của dân một phương.
Há không chỉ sinh linh một nước cô đây được vái lạy
của ban của trời đất cha mẹ. Dầu tiên tổ phụ của thần
nghe được ở dưới đất cũng bất giác tay múa chân nhảy
lăm lăm mong báo lại, thì chỉ có một nén tâm hương dâng
lên ở cõi u minh.
Thơ không
nói hết. Viết vào ngày 15 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
17
Thư
ngày 1 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
Cô viết
thư đáp lại thiên sứ đại tướng công các hạ. Nay nép
thấy nhọc nhằn xe hoa sứ tới, nhà thẹn tệ ấp tiêu điều,
chẳng biết lấy gì để đãi người trưởng giả khi trở
về. Mạo đem tí vật mọn để làm lễ tiễn. Thư đến khiêm
nhượng từ chối, tình các hạ thật cao, còn lễ thế nào
thì cô kính cẩn, giao phó cho sứ thần bản quốc đem tới,
mong được nhận lãnh. Nếu mong đáp được chút tình, ấy
là tại lòng chứ không phải tại vật. Kính đưa thư đáp
này. Tha thiết mong được xem xét, suy nghĩ. Thư không nói hết
lời.
Viết
vào ngày mùng 1 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).