- TRẦN NHÂN TÔNG
CON NGƯỜI & TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
PHẦN
II
TÁC PHẨM
TRẦN NHÂN TÔNG
--o0o--
LỜI DẪN
Phần thơ
văn Trần Nhân Tông sẽ chia làm sáu bộ phận. Đó là thơ,
phú, bài giảng, ngữ lục, văn xuôi và văn thư ngoại giao.
1. Thơ
Về thơ,
chúng tôi dựa chủ yếu vào Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên
và Chu Xa sưu tầm vào giữa những năm 1434-1443 và được cả
thảy 26 bài, kể luôn cả bài Ngự chế trúc nô minh ở phần
Phụ lục. Trong số 26 bài này, bài Hạnh Thiên Trường phủ
được chua “đã thấy ở Quốc sử”. Nhưng bây giờ ta khảo
lại trong ĐVSKTT 5 tờ 58a9-b3 thì bài thơ ấửy được ghi
do Thượng hoàng Trần Thánh Tông làm. Vậy Quốc sử đây là
chỉ bộ Đại Việt sử ký do Phan Phu Tiên chấp bút. Ngô Sĩ
Liên, khi viết ĐVSKTT về triều nhà Trần, nếu có sự việc
nào chép khác với Phan Phu Tiên, thì đều ghi rõ. Thế mà,
bài Hạnh Thiên Trường phủ này lại không thấy Ngô Sĩ Liên
có ghi chú gì khác cả. Thêm vào đó, nếu căn cứ vào Nam
ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, đây đúng là bài thơ
của Trần Thánh Tông. Từ đó, dù Việt âm thi tập đã chép
bài Hạnh Thiên Trường phủ ấy vào thơ của Trần Nhân Tông,
chúng tôi vẫn để riêng ra và xếp vào thơ của vua Trần
Thánh Tông. Vậy Việt âm thi tập sưu tầm được 25 bài.
Ngoài 25 bài
thơ của Việt âm thi tập, Hồ Nguyên Trừng trong Nam ông mộng
lục có ghi lại cho ta 4 bài thơ. Bài làm trong khi ăn yến với
Văn Túc Vương Trần Đạo Tải có chép trong Việt âm thi tâp
dưới tên Dự Văn Túc Vương yến.
Còn bài Vịnh
mai, thì trong Việt âm thi tập, là bài thứ nhất của hai bài
thơ biết dưới tên Tảo mai. Còn lại hai bài tứ tuyệt với
nhan đề Sơn phòng mạn hứng là những đóng góp mới của
Nam ông mộng lục. Như vậy, Nam ông mộng lục ghi lại được
thêm hai bài thơ nữa của vua Trần Nhân Tông. ĐVSKTT, ngoài
bài Dự Văn Túc Vương yến vừa kể, chỉ ghi thêm được
2 đoạn phiến. Một đoạn phiến là hai câu thơ vua Trần Nhân
Tông ghi ở cuối thuyền, khi quân ta rút từ Nội Bàng về
Vạn Kiếp hội quân vào tháng chạp năm Giáp Thân (1285):
Cối Kê cựu
sự quân tu ký
Hoan Ái do
tồn thập vạn binh.
Đoạn phiến
kia do vua Trần Nhân Tông cảm xúc làm ra, khi đem các tướng
giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn, Tích Lệ Cơ.v.v.. đến
dâng trước lăng vua Trần Thái Tông và thấy “chân ngựa
đá ở lăng đều lấm bùn” vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288)
Xã tắc lưỡng
hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên
cổ điện kim âu
Bên cạnh
hai đoạn phiến này, An Nam chí lược 17 tờ 159 còn trích hai
câu:
Tự cố bất
tài tàm tứ thổ
Chỉ duyên
đa bệnh khuyết triều thiên
trong bài
thơ thất ngôn bát cú, mà vua Trần Nhân Tông làm để họa
lại bài thơ của Lý Tư Diễn trong buổi yến đãi y vào năm
1289. Sau khi ghi hai câu này, An Nam chí lược viết tiếp: “Ngay
nơi tiệc tiếp vần” (tức tịch thứ vận), rồi chép bài
Đường luật sau:
Vũ lộ uông
dương phổ Hán ân
Phụng hàm
đan chiếu xuất hồng vân
Thác khai
địa giác giai hòa khí
Tịnh hiệp
thiên hà tẩy chiến trần
Tận đạo
tỷ thư thập hàng hạ
Thắng như
cầm điện ngũ huyền huân
Càn khôn
kiêm ái vô nam bắc
Hà hoạn
vân lôi phục hữu tuân
(Ơn Hán
tràn trề mưa móc tuôn
Chiếu son
phượng ngậm khỏi mây hồng
Khí hòa
góc đất đều lan tới
Bụi chiến
sông trời rửasạch trơn
Thảy bảo
thư vua mười lối viết
Còn hơn
đàn Thuấn năm dây đờn
Đất trời
thương hết không nam bắc
Sấm sét
sao lo lại khốn thân)
Căn cứ vào
văn mạch của An Nam chí lược, thì đây đúng là bài thơ
của vua Trần Nhân Tông. Chỉ có điều, quyển 17 chỉ dành
để chép thơ của những người Trung Quốc đi sứ nước ta,
nên bài này bản dịch của viện Đại học Huế năm 1961 đã
coi là của Lý Tư Diễn. Tất nhiên, truyền bản của An Nam
chí lược đôi khi cũng có những sai sót, như trường hợp
cắt văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông viết cho Hốt
Tất Liệt vào năm Chí Nguyên 30 (1293) thành hai văn thư khác
nhau, như ta sẽ trình bày dưới đây. Vì thế, bài thơ vừa
dẫn chúng tôi vẫn coi là của vua Trần Nhân Tông. Tiếp đến
là bài thơ làm tại chùa hương Cổ Châu và bài kệ Thị tịch
của vua Trần Nhân Tông ghi trong Thánh đăng ngữ lục tờ 26a3-4
và 28 a2 -4:
Thế số
nhất tức mặc
Thời tình
lưỡng hải ngân
Ma cung hồn
quản thậm
Phật quốc
bất thăng xuân
(Số đời
một hơi thở
Tình người
đôi biển ngân
Cung ma chật
hẹp lắm
Nước Phật
khôn xiết xuân)
Nhất thiết
pháp bất sinh
Nhất thiết
pháp bất diệt
Nhược năng
như thị giải
Chư Phật
thường hiện tiền
Hà khứ
lai chi hữu
(Hết thảy
pháp không sinh
Hết thảy
pháp không diệt
Nếu hay
hiểu như vầy
Chư Phật
thường trước mặt
Đến đi
sao có đây)
và bài kệ
Truy tán Tuệ Trung Thượng Sĩ của vua Trần Nhân Tông trong
Thượng Sĩ ngữ lục 43a2-4:
Vọng chi
di cao
Toản chi
di kiên
Hốt nhiên
tại hậu
Chiêm chi
tại tiền
Phù thị
chi vị
Thượng
Sĩ chi thiền
(Nhìn lên
càng cao
Dùi càng
thêm cứng
Chợt ở
phía sau
Thấy liền
trước đứng
Cái đó
gọi là
Thiền Thượng
Sĩ vững)
Cuối cùng
là bài kệ Thân như do Thiền tông bản hạnh 15b4-5 chép:
Thân như
hô hấp tỡ trung khí
Thế tợ
phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên
đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị
tầm thường không quá xuân
(Thân như
hơi thở ra vào mũi
Đời tựa
gió luồn mây núi xa
Đỗ quyên
rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để
tầm thường xuân luống qua)
Bài kệ này
hai câu sau nguyên có trong bài giảng của vua Trần Nhân Tông
tại chùa Sùng Nghiêm.
Nhưng hai câu đầu không biết Chân
Nguyên lấy ở đâu, để cho ta bài kệ tứ tuyệt vừa thấy.
Tuy thế, đây là một bài thơ khác cần được ghi nhận.
Vậy, tổng
số thơ của vua Trần Nhân Tông là 32 bài, cộng với ba đoạn
phiến. Những sưu tập lớn về sau như Toàn Việt thi lục
của Lê Quý Đôn cũng không có thêm một bài nào mới, thậm
chí không có được số lượng như ta vừa thấy. Tuy nhiên,
bây giờ nếu ta trích hết tất cả các bài thơ chữ Hán nguyên
vẹn hay đoạn phiến của vua Trần Nhân Tông hiện nằm rải
rác trong các bài phú, văn xuôi và bài giảng, con số không
chỉ có 31 bài và ba đoạn phiến, bởi vì chỉ riêng hai bài
Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca, ta có thêm hai bài thơ chữ Hán. Rồi trong văn xuôi tức
bài Thượng sĩ hành trạng, ta có bài Tán Tuệ Trung. Đến
các bài giảng thì tối thiểu ta có hai bài thơ hoàn chỉnh,
đó là bài thơ dài bốn chữ Hữu cú vô cú và bài thơ tứ
tuyệt Hàm huyết trong buổi giảng tại chùa Sùng Nghiêm núi
Chí Linh. Về bài giảng tại viện Kỳ Lân cũng ở núi Chí
Linh, ta có bài thơ Nhược vị. Ngoài ra trong hai bài giảng
này có nhiều đoạn phiến thơ hai câu mà ta có thể đếm
tới con số 32. Vậy, nếu tính hết, tổng số thơ của vua
Trần Nhân Tông lên tới 34 bài hoàn chỉnh và 35 đoạn phiến.
Tuy nhiên, vì các bài thơ và đoạn thơ nằm trong các bài giảng
và bài văn xuôi, nên khi tách ra, sẽ mất đi một phần nào
ý nghĩa toàn cảnh, làm cho chúng trở nên khó hiểu. Do thế,
trong Toàn tập này, chúng tôi để nguyên chúng trong các bài
giảng văn xuôi. Người đọc có thể tự tìm lấy khi cần.
Về thơ của
vua Trần Nhân Tông, với số lượng 32 bài nguyên vẹn và ba
đoạn phiến, khi in lại nguyên bản Hán văn của chúng, chúng
tôi lấy bản in năm 1729 của Việt âm thi tập làm bản đáy.
Những bài thơ và đoạn phiến không có trong Việt âm thi tập,
mà có trong ĐVSKTT và Nam ông mộng lục, chúng tôi dùng Nội
các quan bản của ĐVSKTT và bản in Kỷ lục vựng biên của
Nam ông mộng lục do Thẩm Tiết Phủ sưu tầm và Dương Tiễn
Trần thị khắc vào năm 1617, mà sau này Tùng thơ tập thành
sơ biên đã in lại và Trung Hoa thư cục xuất bản vào năm
1985.
Còn những bài có trong Thánh đăng ngữ lục, Thượng
sĩ ngữ lục và Thiền tông bản hạnh thì chúng tôi dùng truyền
bản của những bản in năm 1750, 1745 và 1903. Những truyền
bản khác như Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển, Trần
triều thế phả hành trạng và Lịch triều hiến chương loại
chí chỉ dùng để làm khảo dị.
Việc sắp
xếp thứ tự các bài thơ trong phần dịch tiếng Việt đúng
ra phải dựa vào trật tự thời gian ra đời của chúng.Thực
tế, trong số 32 bài thơ của vua Trần Nhân Tông hiện biết,
phần lớn, ta có thể sắp xếp chúng theo thứ tự thời gian.
Tuy nhiên, vì sắp xếp theo thứ tự thời gian ấy cũng không
giúp ta hiểu thêm gì mới về vua Trần Nhân Tông, và vì để
cho người đọc tiện theo dõi phần nguyên bản chữ Hán, cho
nên ở đây chúng tôi sắp xếp các bài thơ dịch, dựa trên
thứ tự của Việt âm thi tập. Những bài nào không có trong
Việt âm thi tập, mà số lượng chỉ có 7 bài thơ nguyên vẹn
và 3 đoạn phiến, thì chúng tôi xếp sau các bài thơ ở Việt
âm thi tập, dù biết rằng có những bài thơ hay đoạn phiến
vua Trần Nhân Tông viết rất sớm so với một số bài có
trong Việt âm thi tập. Để cho tiện việc theo dõi, chúng tôi
đánh số thứ tự các bài thơ từ 1 đến 35, bắt đầu với
Việt âm thi tập, sau khi trả bài Hạnh thiên trường về cho
thơ văn vua Trần Thánh Tông. Gặp những bài thơ nào không
có đầu đề, chúng tôi lấy hai chữ khởi đầu của bài
thơ để đặt tên.
2. Phú
Về phú,
ta hiện có hai bài viết bằng tiếng Việt biết dưới tên
Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca, mà bản in xưa nhất hiện còn là do sa di ni Diệu Thuần
thực hiện theo sự chỉ đạo của thầy là thiền sư Liễu
Viên vào năm Cảnh Hưng thứ 6 Ất Sửu (1745) tại chùa Liên
Hoa ở kinh thành Thăng Long. Đây là bản in xưa nhất và in
sau bản Thiền tông bản hạnh của thiền sư Chân Nguyên (1647-1726)
từ tờ 22 a1 đến 31a2 gồm 10 tờ.
Mỗi tờ 2 trang, mỗi
trang 8 dòng, mỗi dòng 17 chữ. Những dòng có lời chú in bằng
cỡ chữ nhỏ thành hai dòng, nhưng số chữ mỗi dòng không
thay đổi, nên mỗi dòng có ghi chú lên tới đến 34 chữ.
Chữ khắc đẹp, chân phương, rõ ràng và dễ đọc.
Sau lần in
này, đến năm Gia Long thứ tư (1805), thiền sư Huệ Thân đã
cho khắc lại, nhưng đến thời thiền sư Thanh Hanh (1840 -1936)
thì bản gỗ của lần in này không còn. Cho nên, vào năm 1932
ông đã cho khắc bản in lại tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc
Giang. Đây là truyền bản thứ hai ta hiện có về hai bài phú
vừa nói của vua Trần Nhân Tông. Quá trình truyền bản là
như vậy. Hai bài phú của vua Trần Nhân Tông không phải “im
hơi lặng tiếng trong suốt mấy trăm năm để rồi mãi đến
những năm 30 của thế kỷ này mới xuất hiện”. Không những
thế, Cư trần lạc đạo phú đã được chính Chân Nguyên
trích dẫn trong Kiến tính thành Phật lục và Kiến tính thành
Phật lục lại được trùng san vào năm Chính Hòa thứ 19 (1698).
Vậy từ giữa thế kỷ thứ 17 trở đi Cư trần lạc đạo
phú đã được lưu hành khá rộng rãi.
Trong thế
kỷ này, nó đã được nhiều người tập trung nghiên cứu.
Sau khi thiền sư Thanh Hanh cho in mộc bản vào năm 1932, thì
đến năm 1942 Hoa Bằng đã cho phiên âm ra quốc ngữ và công
bố trên báo Tri Tân. Tiếp theo, Đào Duy Anh cho nghiên cứu
tình trạng văn bản và xác nhận hai bài phú vừa nói là văn
bản thuộc đời Trần.
Cơ sở chủ yếu cho việc xác
nhận này là dựa vào công tác phân tích văn thể, tự dạng
và từ vựng. Về văn thể, Cư trần lạc đạo phú được
viết theo lối phú của thời Đường, nhưng đối và vần
còn lỏng lẻo, khi so với các bài phú của thời Trần mạt
và Lê sơ. Về tự dạng thì lối viết giả tá còn chiếm
ưu thế đối với hình thanh. Còn về từ vựng, các bài phú
này có nhiều từ xưa, mà khi so với các tác phẩm quốc âm
đời sau như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, ít còn thấy
dùng tới. Đồng thời với Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn cũng
nghiên cứu các tác phẩm này của Trần Nhân Tông và đi đến
cùng một kết luận. Đặc biệt Hoàng Xuân Hãn là người
duy nhất sở hữu được truyền bản xưa nhất của hai văn
bản này, đó là bản in năm 1745 của sa di ni Diệu Thuần,
mà Đào Duy Anh không có, khi làm công tác xác nhận vừa nêu.
Nói chung, trong học giới không ai đặt vấn đề về tác quyền
của vua Trần Nhân Tông về hai tác phẩm ấy.
Vậy thì,
về Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca, hiện tại ta sở hữu được hai truyền bản, đó là bản
in 1745 và 1932. Trong khi in lại nguyên bản quốc âm của hai
bài phú này, chúng tôi dĩ nhiên chọn in lại nguyên bản của
bản in năm 1745. Bản in năm 1932 chỉ dùng làm khảo dị.
3. Bài giảng
Về bài giảng,
ta hiện có hai bài, được giảng vào hai đợt khác nhau. Đó
là bài giảng vào năm Giáp Thìn (1304) tại chùa Sùng Nghiêm
và bài giảng năm Bính Ngọ (1306) tại viện Kỳ Lân. Bài giảng
trước được ghi lại trong Thánh đăng ngữ lục và không
ai bàn cãi về tác quyền của vua Trần Nhân Tông đối với
bài giảng này. Nhưng bài giảng ở viện Kỳ Lân, vì được
chép chung trong sách Thiền đạo yếu học, mà người ta giả
thiết là một tên khác của Tham thiền yếu chí do Pháp Loa
viết, nên có người cho bài giảng này, ngoài phần Niêm hương,
là do Pháp Loa giảng. Nói cách khác, đây là bài giảng của
Pháp Loa. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ bài giảng ấy, ta thấy
có những câu trả lời gần giống câu trả lời có trong bài
giảng năm 1304, thậm chí có những câu hoàn toàn đồng nhất.
Chẳng hạn, khi vị tăng hỏi: “Dùng công án cũ làm gì?”,
câu trả lời là: “Mỗi lần nêu ra, một lần mới”. Câu
trả lời đây cũng là câu đáp lại câu hỏi: “Dùng đờm
dãi của người xưa làm gì?”. Rõ ràng những câu hỏi và
đáp tương tự thế này cho phép ta coi bài giảng năm 1306 tại
viện Kỳ Lân cũng do vua Trần Nhân Tông thực hiện, nhưng
do Pháp Loa chép lại trong tác phẩm Thiền đạo yếu học của
mình như một mẫu hình tham vấn thiền cho người đọc tham
khảo. Vì vậy, chúng tôi đề nghị xếp bài giảng ấy vào
hệ tác phẩm của Trần Nhân Tông.
Về truyền
bản dùng để in lại nguyên văn hai bài giảng trên, thì đối
với bài giảng năm 1304, chúng tôi dùng bản in năm 1750 biết
dưới tên Việt quốc Yên Tử sơn Trúc Lâm chư tổ thánh đăng
ngữ lục. Bản Thánh đăng ngữ lục này, ngày trước chúng
tôi có một bản in chỉ có bài tựa của thiền sư Chân Nghiêm
ghi lại quá trình đóng góp để thực hiện bản in ấy, trong
đó có công đóng góp của vua quan nhà Mạc, đặc biệt là
Đà Quốc Công Mạc Ngọc Liễn và các công chúa. Đây có thể
là bản in đời Mạc còn lại. Vì nó không giống với bản
in năm 1750 và bản Thánh đăng ngữ lục mà Gaspardone giới
thiệu trong Bibliographie Annamite,1 mang ký hiệu AC. 604, vì bản
này được ghi rõ ràng in vào năm Tự Đức thứ nhất (1848).
Nhưng sau năm 1984 bản của chúng tôi bị lấy mất. Dù ai có
lấy, thì cũng vì lợi ích của học thuật nước nhà, xin
công bố ra, để người lưu tâm tới văn học, tư tưởng
và lịch sử Phật giáo Việt Nam có cơ hội sử dụng được
văn bản xưa. Còn bài giảng kia thì nằm trong Tam tổ thực
lục, bản in năm 1903, mà sau này Tổng hội Phật giáo Bắc
kỳ in dập lại trong Việt Nam Phật điển tùng san. Trong khi
in lại nguyên văn chữ Hán hai bài giảng ấy, chúng tôi sử
dụng bản Thánh đăng ngữ lục năm 1750 cho bài giảng thứ
nhất và bản Tam tổ thực lục năm 1905 cho bài giảng thứ
hai.
4. Ngữ lục
Ngữ lục
là những phát biểu của vua Trần Nhân Tông trong các cuộc
đón tiếp sứ giặc do sứ giặc ghi lại. Những ghi lại này
không hoàn toàn trung thực, điều ấy là chắc chắn. Tuy nhiên,
chúng có thể cung cấp một cái nhìn về phong khí của một
thời và cách ứng xử của vua Trần Nhân Tông dưới con mắt
kẻ thù. Đồng thời, chúng cũng có thể cho ta thấy quan điểm
của vua theo quan điểm đối phương. Vì thế, trong phần Ngữ
lục, chúng tôi cho trích hai đoạn phát biểu của vua Trần
Nhân Tông trước và sau hai cuộc chiến tranh vệ quốc 1285
và 1288. Ta sẽ thấy quan điểm nhất quán của vua là đấu
tranh không nhân nhượng, không bao giờ chịu khuất phục vào
chầu Hốt Tất Liệt, dù nó có đòi hỏi bao nhiêu đi nữa.
Hai đoạn
ngữ lục, một trích từ buổi đãi yến Sài Thung vào năm
1278 chép trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4a12-b2. Còn
đoạn kia phát biểu trong bữa tiệc đãi Trương Lập Đạo
năm 1291, chép trong Trương thượng thư hành lục của An Nam
chí lược 3 tờ 47. Nguyên bản dùng để in lại chúng là lấy
từ hai tác phẩm vừa nói.
5. Văn xuôi
Về văn xuôi
của vua Trần Nhân Tông, ta hiện có bản tiểu sử của Tuệ
Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, biết dưới tên Thượng sĩ
hành trạng in vào cuối sách Thượng sĩ ngữ lục cùng với
những bài tán tụng của môn nhân thượng sĩ như bài tán
của chính vua Trần Nhân Tông, của Pháp Loa, Bảo Pháp, Tông
Cảnh, Thiên Nhiên, Pháp Cổ, Huệ Nghiêm và Pháp Đăng với
lời bạt của tướng Trần Khắc Chung. Bản hành trạng này
không đề tên người viết. Nhưng căn cứ vào nội dung, nó
dứt khoát phải do vua Trần Nhân Tông chấp bút, vì đã nói
tới việc gặp tang của Nguyên Thánh mẫu hậu và tác giả
phải chính thức đi mời thượng sĩ Tuệ Trung. Nhờ việc
đi mời này, tác giả đã có một cuộc nói chuyện về thiền
với thượng sĩ và sau đó thì được ấn chứng. Vấn đề
tác quyền của vua Trần Nhân Tông đối với bản hành trạng
này cũng không ai đặt ra. Chỉ có người dịch Thượng sĩ
ngữ lục là Trúc Thiên, khi đến đoạn cho người đi mời
thượng sĩ Tuệ Trung, chua thêm người đi mời là Pháp Loa.1
Pháp Loa sinh năm 1284 và Tuệ Trung thượng sĩ mất năm 1291.
Dứt khoát không bao giờ Pháp Loa có thể “nguyện đội ơn
dạy dỗ của thượng sĩ”.Đây là một lời chua thiếu cẩn
thận và người ta có thể phát hiện một cách dễ dàng sự
sai trái của nó.
Bản in Thượng
sĩ ngữ lục xưa nhất, mà ngày nay còn có được, là bản
in năm Chính Hoà thứ tư (1683) do thiền sư Tuệ Nguyên chùa
Long Động núi Yên Tử đề tựa. Bản in ấy về sau đã được
in lại một lần thứ hai vào năm Cảnh Hưng 24 (1763). Truyền
bản lần in 1763 này sau đó đã được thiền sư Thanh Cừ
nhận lại từ sư cụ Thanh Lân và cho in lại vào năm Thành
Thái thứ 15 (1903) và do thiền sư Thanh Hanh đề tựa. Bản
in năm Thành Thái 15 sau đó đã được Tổng hội Phật giáo
Bắc kỳ cho in dập lại trong bộ Việt Nam Phật điển tùng
san vào năm 1943.
Và đây là bản được phổ biến rộng
rãi nhất ngày nay. Do hiện chúng tôi chưa sở hữu được
bản in năm 1683, nên trong khi in lại, chúng tôi chỉ sử dụng
bản in năm 1943.
6. Văn thư
ngoại giao
Về văn thư
ngoại giao, ta hiện có bốn nguồn chính. Đó là An Nam truyện
của Nguyên sử 209, Biểu chương của An Nam chí lược 6, Thiên
nam hành ký và phần Phụ lục của Trần Cương Trung thi tập.
Nguyên sử
còn giữ cho ta 8 đoạn phiến của 8 lá thư mà vua Trần Nhân
Tông đã viết cho Hốt Tất Liệt và các thuộc hạ của y.
Lá thư sớm nhất do Nguyên sử ghi lại là vào tháng 11 năm
Chí Nguyên thứ 15 (1278) khi Sài Thung đến Ung Châu, để phản
đối việc dùng con đường Ung Châu đến nước ta và yêu
cầu phải trở về dùng con đường Vân Nam cũ. Đây rõ ràng
là một đoạn trích trong lá thư chắc chắn dài hơn, nhưng
ngày nay đã mất. Những lá thư sau của vua Trần Nhân Tông
trong Nguyên sử cũng có dạng như thế chủ yếu cũng chỉ
là những đoạn trích. Tuy nhiên, phải nói đây là những đoạn
trích tương đối trung thành. Ta biết được điều này, vì
có một số lá thư chỉ được trích trong Nguyên sử, nhưng
lại được giữ trọn vẹn trong An Nam Chí lược.
Chẳng hạn,
đoạn trích từ tờ biểu tháng 12 năm Chí Nguyên 15 (1278) do
phái bộ Phạm Minh Tự, Trịnh Quốc Toản và Đỗ Quốc Kế
đem qua cho Hốt Tất Liệt trong An Nam truyện của Nguyên sử
209 tờ 4b-6 viết:
“Cô
thần bẩm khí yếu đuối, mà đường xá thì khó khăn, chỉ
luống phơi xương trắng, đến nỗi bệ hạ xót thương, mà
không ích gì cho thiên triều muôn một. Nép mong bệ hạ thương
xót tiểu quốc xa xôi, khiến thần được cùng bọn đơn côi
quan quả, giữ được tính mệnh để suốt đời phụng sự
bệ hạ. Đó là sự may lớn của cô thần, cũng là phúc to
của sinh linh tiểu quốc”.
Đây đúng
là đoạn trích từ tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 chép trong
phần Biểu chương của An Nam chí lược 6 tờ 75-77: “Thần
sinh trưởng Việt Thường , bẩm khí nhuyễn nhược, (...),
khủng đạo thượng hữu phường, đồ bộc bạch cốt, trí
bệ hạ nhân tâm, diệc tự ai thương chi nhĩ (...). Phục vọng
bệ hạ ai cô thần chi đơn nhược, lân tiểu quốc chi liêu
viễn, lịnh thần đác dự quan quả cô độc, bảo kỳ tính
mạng, dĩ chung sự bệ hạ, thử thần chi chí hạnh, ức diệc
tiểu quốc sinh linh chi đại phước dã”.
Từ so sánh
hai đoạn này, ta thấy chắc chắn tám đoạn trích văn kia
cũng được giữ nguyên vẹn tình trạng văn bản chứ không
bị sửa đổi nhiều, đến nỗi đánh mất hết diện mạo
nguyên thủy của chúng. Từ đó, chúng tôi coi những đoạn
trích văn ấy, dù ngắn ngủi và đoạn phiến, vẫn đại biểu
cho những văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông, mà hiện
nay ta chưa tìm lại được. Những trường hợp toàn văn lá
thư còn được lưu giữ ở những nguồn khác, chúng tôi vẫn
cho dịch và số thứ tự 1, 2, 3... của các văn thư sẽ được
đánh thêm chữ a, b để phân biệt.
Trong 8 đoạn
phiến này chúng tôi chỉ chọn trích 6 đoạn phiến thôi, vì
hai đoạn phiến còn lại quá ngắn, viết vào khoảng tháng
2 năm Chí Nguyên 22 (1285). Một trả lời Thoát Hoan về việc
mượn đường đi đánh Chiêm Thành:
“Nước
đây đến Chiêm Thành thủy bộ chẳng tiện, xin tùy sức phụng
dâng quân lương”. Còn một báo về việc đi cống:
“Kỳ cống
sẽ nhằm tháng mười, xin đường trước, dự bị sức dân.
Nếu ngày Trấn Nam Vương xuống xe, mong có thư báo”. Văn
bản chúng tôi dùng để in lại nguyên văn chữ Hán là bản
của Tứ bộ bị yếu.
Nguồn thứ
hai là từ phần Biểu chương của An Nam chí lược 6. Phần
này hiện bảo lưu được 8 văn thư của vua Trần Nhân Tông.
Nhưng thực tế chỉ có 7 văn thư. Bởi vì,lá thư đề “Chí
Nguyên tam thập niên tam nguyệt An Nam Trần bách bái” ở An
Nam chí lược 6 tờ 78-79 thực tế là một phần sau của lá
thư đề ngày mồng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên 30 (1293) chép trong
Trần Cương Trung thi tập phụ lục tờ 20b4-21b8. Phần đầu
của lá thư này lại bị cắt ra ở An Nam chí lược 6 tờ
79 dưới nhan đề “Chí Nguyên tam thập niên tam nguyệt sơ
tứ nhật An Nam Trần thượng biểu”.
Trừ văn
thư bị cắt làm hai mảnh này, An Nam chí lược giữ lại cho
ta 7 văn thư tương đối nguyên vẹn mà vua Trần Nhân Tông
đã gửi cho Hốt Tất Liệt và con y là Nguyên Thành Tông. Hốt
Tất Liệt 5 lá, Nguyên Thành Tông 2 lá:
1.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 15 (1278)
2.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 29 (1292)
3.Thơ
mừng thọ Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 30 (1293)
4.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 30(1293)
5.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 30 (1293)
6.Văn
thư gửi Nguyên Thành Tông năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)
7.Văn
thư gửi Nguyên Thành Tông xin thỉnh Đại Tạng kinh năm 1295
Nhữmg văn
thư do An Nam chí lược chép, khi so với những văn thư có tương
đương trong Trần Cương Trung thi tập phụ lục, thì tỏ ra
có một số xuất nhập về ngữ câu chữ. Tuy nhiên, do vì
An Nam chí lược có nhiều sai sót như việc cắt đôi văn thư
ngày mồng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên 30 vừa nói, nên trong những
trường hợp ấy chúng tôi chọn dịch bản của Trần Cương
Trung thi tập phụ lục và chỉ dùng bản của An Nam chí lược
để tham khảo.
Bản An Nam chí lược chúng tôi dùng là
hiệu bản do Đại học Huế xuất bản vào năm 1961. Hiệu
bản này không tốt lắm, nhưng tối thiểu nó cho những cách
đọc khác nhau từ các truyền bản như Lạc thiện đường,
Nhật Bản nội các văn khố, Đông Kinh Tỉnh gia đường văn
khố và sao bản của Bảo tàng Anh ở Luân Đôn. Cho nên khi
dịch những văn thư, mà không có trong các nguồn khác, thì
chúng tôi dùng hiệu bản này. Trong những trường hợp chúng
tôi không đồng ý với hiệu bản, chúng tôi dựa vào cách
đọc của những truyền bản có ghi chú ở phần khảo dị,
mà điều chỉnh cho thích hợp, để dịch.
Nguồn thứ
ba là Thiên nam hành ký do Từ Minh Thiện ghi lại trong đợt
đi sứ tới nước ta vào năm Chí Nguyên 26 (1289). Từ Minh Thiện
chép cả thảy được 6 văn kiện sau xếp theo thứ tự đã
có trong Thiên nam hành ký:
1.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 25 (1288)
2.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 26 (1289).
3.Văn
thư gửi Hốt Tất Liệt tháng 3 năm Chí Nguyên 26 (1289)
4.Văn
thư gửi hoàng hậu cùng tháng năm
5.Văn
bản gửi cống vật năm Chí Nguyên 26 (1289)
6.Văn
kiện gửi cống vật năm Chí Nguyên 23 (1286)
Trong 6 văn
kiện này thì văn kiện cuối cùng có một lời chua: “Một
đoạn ở đây được bổ thêm vào tờ trạng dâng phương
vật”(thử nhất đoạn bổ nhập phương vật trạng trung).
Điều này chứng tỏ văn kiện số 6 đúng là văn kiện ghi
những phương vật do vua Trần Nhân Tông gửi biếu cho Hốt
Tất Liệt vào năm 1286, sau khi ta đã đánh bại đợt tấn
công năm 1285 nhằm làm dịu tình hình căng thẳng trong quan
hệ giữa ta và triều đình Nguyên. Nó cho thấy có tới 52
món đồ vàng bạc châu báu cùng những chim thú lạ như chim
Bát ca tức chim thu tử (sari), chồn gió, cá sấu v.vỢ Vua Trần
Nhân Tông muốn qua chúng để làm cho Hốt Tất Liệt thấy
quan điểm của vua Trần Nhân Tông về cuộc chiến tranh 1285.
Đó là do các bọn tướng biên giới tham công gây nên, như
chính vua đã bày tỏ trong lá thư viết về sau vào năm Chí
Nguyên 25 (1288), chứ không phải do Hốt Tất Liệt.
Năm văn kiện
còn lại tất cả đều thuộc vào những trao đổi ngoại giao
vào năm Chí Nguyên 25 và 26.
Những văn kiện này không
thấy chép ở bất cứ nơi nào khác. Chúng soi sáng cho ta rất
nhiều về những quan hệ Việt Nguyên, sau khi quân Đại Việt
đã quét sạch những đội quân xâm lược do Thoát Hoan chỉ
huy. Văn bản mà chúng tôi dùng nằm trong bộ Thuyết phu 51
tờ 18b3-23b7 do Hàm phần lâu in dập lại. Nguyên bản Hán văn
chúng tôi sẽ dùng bản Hàm phần lâu này.
Bên cạnh
bản in của Hàm phần lâu, chúng tôi cũng sở hữu một bản
chép tay Thiên nam hành ký như tập thứ nhất trong Bắc thư
tải Nam sự ngũ tập. Bản chép tay này không biết do ai thực
hiện và vào lúc nào.
Nhưng người chép trong Tiểu dẫn
cho biết ông đã dùng bản của Tục thuyết phu. Khi so sánh,
chúng tôi thấy có một số xuất nhập, không biết đến từ
đâu. Chẳng hạn, tờ trạng dâng cống vật nằm cuối sách
Thiên nam hành ký, bản Hàm phần lâu ghi năm Chí Nguyên 23,
trong khi bản chép tay lại ghi năm 26 và không có lời chua nhỏ
“thử nhất đoạn bổ nhập phương vật trạng trung”. Chúng
tôi, vì thế, coi bản chép tay như một dị bản để tham khảo,
còn dùng bản Hàm phần lâu, để in lại nguyên bản Hán văn
các văn thư của vua Trần Nhân Tông do Từ Minh Thiện ghi lại.
Nguồn thứ
tư là Trần Cương Trung thi tập phụ lục hiện còn lưu giữ
cho ta 7 văn thư, đó là:
1.Văn thư
gửi Lương Tăng ngày 13 tháng giêng năm Chí Nguyên 30 (1293)
2.Văn thư
gửi Lương Tăng ngày 21 tháng 2 cùng năm
3.Văn thư
gửi Lương Tăng ngày 25 tháng 2 cùng năm
4.Văn thư
gửi Lương Tăng ngày 1 tháng 3 cùng năm
5.Bài thơ
chúc thọ Hốt Tất Liệt
6.Văn thư
gửi Hốt Tất Liệt nhân bài thơ ấy ngày 4 tháng 3 cùng năm
7.Văn thư
gửi Hốt Tất Liệt cùng ngày tháng năm
Đấy là
7 văn kiện mà Trần Phu với tư cách là phó đoàn của phái
bộ Lương Tăng do Hốt Tất Liệt gửi đến nước ta vào năm
1293 đã sao chép lại cho ta trong thi tập của ông. Bốn văn
kiện đầu là những trao đổi giữa vua Trần Nhân Tông và
Lương Tăng về nội dung của việc đi sứ, chủ yếu là đòi
biện giải về việc sang chầu và những tù binh do ta bắt
được. Điểm lý thú là trong đợt tiếp sứ này, vua Trần
Nhân Tông đã gửi biểu và tấu cùng một bài thơ mừng Hốt
Tất Liệt thọ 80 tuổi, trong khi Hốt Tất Liệt đang hung hăng
chuẩn bị đợt xâm lược nước ta lần thứ tư. Bài thơ
mừng Hốt Tất Liệt vạn thọ đã được Trần Phu chép lại
như sau:
Thiên tứ
hoàng đế
Đế tứ
thứ dân
Thần chúc
thánh thọ
Ức vạn
niên xuân
(Trời ban
cho vua
Vua ban xuống
dân
Thần chúc
thánh thọ
Ức vạn
năm xuân)
Đây là bài
thơ thù tạc hiếm thấy, và qua nó ta thấy ý chí muốn xây
dựng một nền hòa bình lâu dài giữa hai dân tộc láng giềng.
Vua Trần Nhân Tông biết rất rõ ý đồ xâm lược của Hốt
Tất Liệt cho nên đã kiên trì dùng những đòn ngoại giao
mềm dẻo nhưng cương quyết, nhằm đè bẹp ý chí xâm lược
ấy, sau khi đã trực tiếp đánh bại các đạo quân xâm lược
do Hốt Tất Liệt gửi qua. Đọc những văn kiện trên cho ta
thấy phần nào đối pháp ngoại giao của vua Trần Nhân Tông.
Văn bản
mà chúng tôi dùng là bản chép tay của Tứ khố toàn thư đặt
tại Văn uyên các của Trần Cương Trung thi tập.
Bản chép
tay này do Đỗ Quần Ngọc chép và bốn người khác đọc và
hiệu đối là La Cẩm Sâm, Tôn Cầu Phú, Hà Tư Quân và Thái
Đình Hành. Vì là bản do vua Càn Long ra lệnh chép, nên chữ
viết đẹp, chân phương, rõ ràng, dễ đọc, có đóng dấu
vuông của Văn Uyên Các ấn ở đầu quyển một và cuối quyển
hai có đóng dấu vuông của Càn Long ngự lãm chi bảo, quyển
ba ở trang đầu cũng có dấu của Văn Uyên Các ấn và cuối
quyển Trần Cương Trung thi tập phụ lục lại cũng có dấu
Càn Long ngự lãm chi bảo. Các thư của vua Trần Nhân Tông
được chép trong Trần Cương Trung thi tập phụ lục ở các
tờ 5b6-6a5, 11a7-12a5, 15aa2-18a7, 19a1-6, 19a7-8, 19b1-20a6 và 20a7-22a2.
Mỗi tờ 2 trang, mỗi trang có 8 dòng, mỗi dòng 20 chữ, chép
tụt xuống một chữ.
Tổng kết
như vậy ta có cả thảy 22 văn kiện ngoại giao hiện còn do
vua Trần Nhân Tông gửi cho vua quan nhà Nguyên. Chúng tôi xếp
thứ tự các văn kiện này theo trật tự thời gian mà chúng
đã được viết, tức từ văn kiện đầu tiên vào tháng 11
nhuận năm Chí Nguyên 15 (1278) cho đến văn kiện cuối cùng
vào ngày mồng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên 30 (1293) để cho người
đọc tiện theo dõi. Các nguyên bản Hán văn, chúng tôi cũng
sắp đặt theo một thứ tự như thế.
7. Khảo dị
và chú thích
Tác phẩm
của vua Trần Nhân Tông tồn tại nhiều truyền bản khác nhau
như đã thấy trên. Cho nên, về mặt văn bản học, chúng tôi
đưa ra nhiều vấn đề. Điều may mắn là đa số các tác
phẩm này xuất hiện trong các truyền bản tương đối xưa.
Chúng đa số được chép hoặc in vào thế kỷ 18. Cụ thể,
về thơ, ta có bản in của Việt âm thị tập của năm Bảo
Thái thứ 10 (1729). Về phú, bản in Thiền tông bản hạnh của
sa di ni Diệu Thuần thực hiện vào năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745).
Về bài giảng, nằm trong bản in năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750)
của Thánh đăng ngữ lục. Về ngữ lục, văn thư ngoại giao,
chúng tôi cơ bản sử dụng các tư liệu Trung Quốc như Nguyên
sử, Trần Cương trung thi tập, Thiên nam hành ký và An Nam chí
lược. Những tác phẩm này, chủ yếu là những bản in xưa
hay là những bản chép tay ở thế kỷ 18 trở về trước.
Vì thế về mặt khảo dị, chúng tôi giới hạn tối đa khi
sử dụng những bản in hay chép tay của những thế kỷ sau.
Nói thẳng ra, trừ những trường hợp cần thiết, chúng tôi
mới sử dụng những bản in chép tay hậu kỳ này khi phiên
âm hay dịch nghĩa các tác phẩm của vua Trần Nhân Tông công
bố trong toàn tập.
Về chú thích,
chúng tôi chỉ chú thích những từ cổ và một số điển
tích ngữ học. Còn các điển tích khác như về địa danh,
nhân danh lưu hành trong các kinh điển trong hay ngoài Phật giáo,
chúng tôi sẽ không chú thích.
Lý do nằm ở chỗ nếu
giải thích các điển cố ấy, sẽ có một lượng từ rất
lớn mà không gian toàn tập này không cho phép. Thực tế, chỉ
riêng đối với tiếng Việt như 2 bài phú, Cư trần lạc đạo
và Đắc thú lâm tuyền, ta có thể làm một cuốn từ điển
nhỏ cỡ 300 trang. Chúng tôi hy vọng sẽ có những nghiên cứu
sâu hơn về các tác phẩm của vua Trần Nhân Tôngtrong tương
lai theo từng cụm một. Khi đó những loại điển cố trên
sẽ được chú thích chi tiết và đầy đủ.
--o0o--
Mục
lục Phần
I:
Chương
I|
Chương
II |
Chương
III
|Chương
IV
|Chương
V
|Chương
VI
|Chương
VII
|Chương
VIII
|Chương
IX
Phần
II:
|Lời
dẫn |Thơ
|Phú
|Bài
giảng
|Ngữ
lục|Văn
xuôi
|Văn
thư
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường