- TRẦN NHÂN TÔNG
CON NGƯỜI & TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
PHẦN
I
NGHIÊN
CỨU
VỀ
TRẦN
NHÂN
TÔNG
--o0o--
CHƯƠNG
I
VẤN
ĐỀ
SỬ
LIỆU
Vua
Trần
Nhân
Tông
đã
được
sử
sách
qua
hàng
trăm
năm
đánh
giá
là
một
hoàng
đế
anh
minh,
một
lãnh
tụ
thiên
tài,
một
vị
anh
hùng
dân
tộc.
Do
thế,
cuộc
đời
vua
được
ghi
chép
tương
đối
tỉ
mỉ,
khi
so
với
cuộc
đời
của
một
số
danh
nhân
khác
của
dân
tộc.
Dẫu
vậy,
vẫn
có
những
chi
tiết
không
rõ
ràng,
đặc
biệt
liên
hệ
với
các
tác
phẩm
của
nhà
vua.
Cho
nên,
để
dựng
lại
những
nét
chính
của
cuộc
đời
vua
Trần
Nhân
Tông,
nhằm
làm
cơ
sở
cho
việc
nghiên
cứu
những
đóng
góp
to
lớn,
mà
nhà
vua
đã
cống
hiến
cho
đất
nước
về
các
mặt
võ
công
và
văn
trị,
ta
phải
huy
động
tới
những
nguồn
tư
liệu
khác
nhau,
hiện
được
bảo
lưu
tại
nước
ta
cũng
như
tại
Trung
Quốc.
Trước
hết,
về
phía
các
nguồn
tư
liệu
Việt
Nam
thì
tư
liệu
cơ
bản
nhất,
ta
phải
quan
tâm,
dĩ
nhiên
là
bộ
ĐVSKTT,
phần
Bản
kỷ
của
vua
Trần
Nhân
Tông,
do
Ngô
Sĩ
Liên
lấy
lại
từ
Đại
Việt
sử
ký
của
Phan
Phu
Tiên.
Đây
là
bộ
sử
đầu
nguồn,
mà
các
bộ
sử
sau
như
Việt
sử
tiêu
án
của
Ngô
Thì
Sỹ
(1726-1780),
và
Khâm
định
Việt
sử
thông
giám
cương
mục
của
Quốc
sử
quán
triều
Nguyễn
đã
sử
dụng
để
viết
về
vị
vua
anh
minh
này.
Dù
có
tham
khảo
thêm
các
sử
liệu
khác,
chủ
yếu
xuất
phát
từ
Trung
Quốc,
chúng
cũng
không
có
đóng
góp
gì
mới.
Thậm
chí
có
điểm
còn
sai
lạc
thêm.
Vì
vậy,
khi
nghiên
cứu
vua
Trần
Nhân
Tông,
ĐVSKTT
vẫn
là
nguồn
tư
liệu
cấp
một.
Tuy
nhiên,
có
những
khía
cạnh
và
sự
việc
của
cuộc
đời
vua
Trần
Nhân
Tông,
mà
ĐVSKTT
đã
không
ghi
lại
hoặc
ghi
lại
một
cách
sơ
sài
thiếu
sót.
Ví
dụ
những
ngày
cuối
đời
của
nhà
vua,
ĐVSKTT
chép
không
rõ
ràng
lắm,
khi
so
với
những
gì
do
Thánh
đăng
ngữ
lục
chép
lại.
Do
vậy,
ngoài
ĐVSKTT,
chúng
ta
may
mắn
còn
được
một
số
các
tài
liệu
đời
Trần
hoặc
do
người
viết
về
sau,
mà
chúng
ta
phải
tham
khảo.
Cụ
thể
là
Thánh
đăng
ngữ
lục,
Thiền
tông
bản
hạnh,
Thượng
sĩ
ngữ
lục,
Việt
điện
u
linh
tập,
Nam
ông
mộng
lục
và
Việt
âm
thi
tập.
Thánh
đăng
ngữ
lục
là
một
tác
phẩm
ghi
chép
lại
các
thiền
ngữ
và
thơ
văn
của
các
vị
vua
đồng
thời
là
thiền
sư
của
đời
Trần,
tức
các
vua
Thái
Tông,
Thánh
Tông,
Nhân
Tông,
Anh
Tông
và
Minh
Tông.
Có
thể
nói
đây
là
bộ
sử
Phật
giáo
Việt
Nam
từ
năm
1226
khi
vua
Trần
Thái
Tông
lên
ngôi
cho
đến
năm
1357
lúc
vua
Trần
Minh
Tông
mất.
Người
viết
bộ
Ngữ
lục
này,
ngày
nay
không
thấy
ghi
chép.
Tuy
nhiên,
căn
cứ
vào
nội
dung
tác
phẩm,
ta
biết
tác
giả
phải
là
một
người
rất
gần
gũi
với
vua
Trần
Minh
Tông,
và
khi
viết,
phải
được
sự
đồng
ý
của
vị
vua
kế
nghiệp
là
Trần
Dụ
Tông
và
triều
đình.
Lý
do
nằm
ở
chỗ,
thứ
nhất,
nếu
không
gần
gũi
với
các
vị
vua
Trần,
đặc
biệt
là
vua
Trần
Minh
Tông,
thì
người
viết
không
có
được
những
tư
liệu
đầu
tay
để
viết
nên
bộ
Ngữ
lục
ấy,
như
ta
có
hôm
nay.
Thứ
hai,
nếu
không
được
phép
của
vua
và
triều
đình,
bộ
Ngữ
lục
ấy
sẽ
không
bao
giờ
được
viết,
và
nếu
có
viết
lén
thì
không
bao
giờ
được
công
bố,
vì
nội
dung
nó
có
nhiều
điều,
thậm
chí
nhiều
văn
kiện,
liên
hệ
với
các
vua.
Từ
đó,
trong
số
những
tác
gia
Việt
Nam
được
biết
tên
sống
sau
năm
1357
và
có
những
điều
kiện
như
vừa
nói,
ta
thấy
có
thiền
sư
Kim
Sơn,
người
có
quan
hệ
chặt
chẽ
với
vua
Minh
Tông
và
được
chứng
kiến
những
giây
phút
cuối
đời
của
vị
vua
này.
Nói
cách
khác,
ngoài
khả
năng
là
tác
giả
của
Thiền
uyển
tập
anh
và
Cổ
châu
Pháp
vân
Phật
bản
hạnh
ngữ
lục,
thiền
sư
Kim
Sơn
cũng
có
thể
là
người
biên
soạn
Thánh
đăng
ngữ
lục.
Thực
tế,
Thánh
đăng
ngữ
lục
được
viết
theo
phương
pháp
thực
lục,
nghĩa
là
phương
pháp
dùng
để
ghi
chép
sự
việc
hàng
ngày,
chủ
yếu
của
các
vị
vua,
mà
sử
gia
Trung
Quốc
thường
dùng.
Cho
nên,
đếữn
thế
kỷ
thứ
18,
nhằm
dựng
lại
thiền
phả
của
dòng
thiền
Trúc
Lâm,
thiền
sư
Tính
Quảng
và
Ngô
Thời
Nhiệm
(1746
-
1803)
đã
trích
phần
Trần
Nhân
Tông
của
Thánh
đăng
ngữ
lục,
ghép
với
bản
Niên
phổ
của
Pháp
Loa
khắc
trên
bia
tại
chùa
Thanh
Mai
và
tiểu
sử
của
Huyền
Quang
chép
trong
Tổ
gia
thực
lục,
để
soạn
nên
tác
phẩm
Tam
tổ
thực
lục.
Điều
đáng
chú
ý
là
dù
viết
theo
phương
pháp
thực
lục,
Thánh
đăng
ngữ
lục
chỉ
cơ
bản
ghi
lại
các
sự
việc
liên
quan
tới
hoạt
động
Phật
giáo
của
các
vị
vua
thiền
sư,
mà
tuyệt
đối
không
có
bất
cứ
ghi
chép
nào
quan
hệ
tới
hoạt
động
chính
trị
và
quân
sự
của
họ.
Dẫu
thế,
Thánh
đăng
ngữ
lục
vẫn
là
một
tư
liệu
đáng
quý,
đặc
biệt
khi
ta
nghiên
cứu
các
hoạt
động
Phật
giáo
của
vua
Trần
Nhân
Tông.
Hơn
thế
nữa,
Thánh
đăng
ngữ
lục
đã
là
nguồn
tài
liệu
để
cho
thiền
sư
Chân
Nguyên
(1647-1726)
sử
dụng
và
viết
nên
tác
phẩm
Thiền
tông
bản
hạnh.
Điểm
đặc
biệt
của
bản
Thiền
tông
bản
hạnh
này
là
khi
in
vào
năm
1745,
người
đứng
in
đã
cho
in
kèm
vào
3
tác
phẩm
tiếng
Việt
và
Ngộ
đạo
nhân
duyên
của
chính
Chân
Nguyên.
Trong
3
tác
phẩm
tiếng
Việt
ấy,
thì
2
là
của
vua
Trần
Nhân
Tông.
Đó
là
Cư
trần
lạc
đạo
phú
và
Đắc
thú
lâm
tuyền
thành
đạo
ca.
Hai
bài
phú
này,
dù
đến
năm
1745
mới
được
khắc
bản,
nhưng
chắc
chắn
đã
tồn
tại
trong
thế
kỷ
thứ
17,
bởi
vì
Chân
Nguyên
đã
trích
dẫn
Cư
trần
lạc
đạo
phú
trong
tác
phẩm
Kiến
tánh
thành
Phật
do
ông
viết
vào
khoảng
những
năm
1684.
Ngoài
Thánh
đăng
ngữ
lục,
ta
còn
có
Thượng
sĩ
ngữ
lục
của
Tuệ
Trung
Trần
Quốc
Tung,
một
danh
tướng
giải
phóng
Thăng
Long
của
cuộc
chiến
tranh
1285,
đã
được
in
dưới
thời
Trần
Anh
Tông,
vào
khoảng
những
năm
1308-1311.
Bộ
Ngữ
lục
nay
có
chứa
đựng
tiểu
sử
của
Tuệ
Trung
Trần
Quốc
Tung
(1230
-1290)
do
chính
vua
Trần
Nhân
Tông
viết.
Bản
tiểu
sử
ấy
cho
thấy
một
phần
nào
quá
trình
tiếp
cận
và
học
tập
Phật
giáo
cùng
văn
tài
của
nhà
vua.
Không
những
thế,
nó
còn
ghi
lại
thêm
cho
ta
một
bài
thơ,
mà
vua
đã
làm
để
ca
ngợi
đại
sĩ
Tuệ
Trung.
Bên
cạnh
đó,
Việt
điện
u
linh
tập
do
Lý
Tế
Xuyên
viết
vào
khoảng
những
năm
1329,
tuy
chủ
yếu
ghi
lại
các
anh
hùng,
liệt
nữ
và
hạo
khí
anh
linh
của
đất
nước
ta,
cũng
đã
lần
đầu
tiên
ghi
chép
việc
Trần
Nhân
Tông
phong
tặng
gia
hiệu
cho
các
anh
hùng,
liệt
nữ
và
hạo
khí
anh
linh
ấy
vào
những
năm
Trùng
Hưng
thứ
nhất
(1285)
và
thứ
tư
(1288).
Sự
kiện
này
không
thấy
ĐVSKTT
ghi
lại,
nhưng
về
mặt
văn
hóa
có
một
ý
nghĩa
hết
sức
thú
vị.
Đó
là
lần
đầu
tiên
một
thần
điện
Việt
Nam
ra
đời
được
nhà
nước
chính
thức
công
khai
thừa
nhận.
Việt
điện
u
linh
tập
do
thế
có
một
vị
trí
khá
lôi
cuốn
trong
việc
soi
sáng
cho
ta
một
số
quan
điểm
của
vua
Trần
Nhân
Tông
về
quá
khứ
thần
thánh
của
dân
tộc.
Nam
ông
mộng
lục
do
Hồ
Nguyên
Trừng
viết
vào
năm
1438
ở
Trung
Quốc.
Trong
31
thiên
truyện
do
ông
ghi
lại,
ta
thấy
Hồ
Nguyên
Trừng
đã
dành
4
thiên
để
ghi
về
vua
Trần
Nhân
Tông.
Đó
là
các
thiên
về
Trúc
Lâm
thị
tịch
(số
2),
Tổ
linh
định
mệnh
(số
3),
Cảm
kích
đồ
hành
(số
17)
và
Thi
ý
thanh
tân
(số
19),
nghĩa
là
chiếm
15%
nội
dung
tác
phẩm.
Qua
những
ghi
chép
này,
ta
không
những
được
cung
cấp
thêm
một
số
sự
kiện
và
văn
bản
liên
hệ
tới
vuaTrần
Nhân
Tông,
mà
còn
thấy
được
một
phần
nào
những
tác
động
và
ảnh
hưởng,
mà
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
có
đối
với
hậu
thế.
Cuối
cùng
là
Việt
âm
thi
tập.
Tác
phẩm
này
là
một
thành
quả
của
cuộc
vận
động
chấn
hưng
văn
hoá
dân
tộc
sau
khi
đánh
đuổi
quân
Minh
và
phục
hồi
nền
độc
lập
dân
tộc
của
vị
anh
hùng
Lê
Lợi.
Nó
được
biên
soạn
trong
giai
đoạn
Phan
Phu
Tiên
đang
còn
làm
ở
Quốc
sử
quán
vào
năm
1334
và
sau
đó
được
Chu
Xa
hoàn
thành
vào
năm
Diên
Ninh
thứ
sáu
(1443).
Về
phần
Trần
Nhân
Tông,
Phan
Phu
Tiên
và
Chu
Xa
đã
thu
thập
được
26
bài
thơ.
Nguồn
tư
liệu
sử
dụng
chắc
hẳn
xuất
phát
từ
những
tác
phẩm,
mà
Quốc
sử
quán
đã
tập
hợp
được
và
Phan
Phu
Tiên
dùng
để
viết
nên
bộ
Đại
Việt
sử
ký
tục
biên.
Điểm
đáng
chú
ý
là
có
bài
thơ
Hạnh
Thiên
Trường
phủ,
Việt
âm
thi
tập
bảo
là
của
Trần
Nhân
Tông
và
chép
xuất
xứ
là
từ
Quốc
sử.
Quốc
sử
đây
tức
chắc
chắn
làĐại
Việt
sử
ký
tục
biên
của
chính
Phan
Phu
Tiên.
Thế
nhưng
bản
ĐVSKTT
ngày
nay,
xuất
phát
từ
Nội
các
quan
bản,
lại
chép
là
của
Trần
Thánh
Tông.
Khảo
Nam
ông
mộng
lục,
thì
bài
thơ
đó
cũng
được
ghi
là
của
Trần
Thánh
Tông.
Vậy
bản
Việt
âm
thi
tập
in
năm
Bảo
Thái
thứ
7
(1727)
có
sự
sai
sót
nào
chăng?
Bản
Việt
âm
thi
tập
này
sau
đó
đã
được
dùng
làm
nguồn
tư
liệu
cho
các
tác
phẩm
có
ghi
chép
về
thơ
văn
của
các
vua
quan
đời
Trần.
Điển
hình
là
bộ
sách
đồ
sộ
Toàn
Việt
thi
lục
của
Lê
Quý
Đôn
và
Trần
triều
thế
phả
hành
trạng
của
một
tác
giả
vô
danh
đời
Nguyễn.
Về
phần
Trần
Nhân
Tông,
Toàn
Việt
thi
lục
của
Lê
Quý
Đôn,
sau
khi
loại
bài
thơ
Hạnh
Thiên
Trường
phủ,
cũng
chỉ
giới
hạn
trong
số
26
bài
thơ,
mà
Việt
âm
thi
tập
đã
có,
chứ
không
bổ
sung
thêm
được
bài
nào.
Thánh
đăng
ngữ
lục
đươc
thiền
sư
Chân
Nguyên
in
vào
năm
1705
và
bản
in
do
Tính
Quảng
đề
tựa
vào
năm
1750
đã
không
đến
tay
Lê
Quý
Đôn.
Vì
vậy,
ông
đã
không
thể
khai
thác
số
thơ
văn
có
ghi
chép
trong
tác
phẩm
đó.
Trần
triều
thế
phả
hành
trạng
càng
giới
hạn
hơn,
chỉ
ghi
lại
được
hơn
18
bài.
Còn
về
nguồn
tư
liệu
Trung
Quốc,
thì
Nguyên
sử,
đặc
biệt
là
phần
viết
về
đất
nước
ta
biết
dưới
mục
An
Nam
truyện,
cung
cấp
một
phần
lớn
các
thông
tin
liên
hệ
đến
hai
cuộc
chiến
tranh
Mông
-
Việt
vào
những
năm
1285
và
1288
và
những
quan
hệ
ngoại
giao
trước
và
sau
hai
cuộc
chiến
tranh
này.
Để
bổ
sung,
ta
có
An
Nam
chí
lược
của
Lê
Thực,
Thiên
nam
hành
ký
của
Từ
Minh
Thiện
và
Trần
Cương
Trung
thi
tập
của
Trần
Phu.
Các
tác
giả
của
ba
tác
phẩm
này
đều
là
những
người
cùng
thời
với
vua
Trần
Nhân
Tông,
đã
đứng
về
phía
kẻ
thù
của
dân
tộc
và
tham
gia
trực
tiếp
vào
các
hoạt
động
chính
trị,
quân
sự
liên
hệ
với
nước
ta
dưới
dạng
này
hay
dạng
khác.
Cho
nên,
dù
nhìn
những
hoạt
động
ấy
dưới
lăng
kính
đối
lập
với
quyền
lợi
của
dân
tộc,
họ
vẫn
cho
ta
một
số
thông
tin
chính
trị
và
quân
sự
có
quan
hệ
với
vua
Trần
Nhân
Tông.
Đặc
biệt,
họ
đã
giữ
lại
cho
ta
22
văn
kiện
ngoại
giao,
mà
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
gửi
cho
vua
quan
nhà
Nguyên.
Đây
là
một
mảng
tư
liệu,
phía
nước
ta
trong
bảy
trăm
năm
qua
tuy
có
biết
đến,
nhưng
chưa
bao
giờ
khai
thác
có
hệ
thống
và
công
bố
đầy
đủ,
nhằm
làm
cơ
sở
cho
sự
nhận
thức
về
cuộc
đấu
tranh
ngoại
giao
đầy
cam
go
trước
và
sau
hai
cuộc
chiến
tranh
vừa
nói.
Chẳng
hạn,
Lê
Quí
Đôn
có
nhắc
tới
Thiên
nam
hành
ký
và
Sứ
Giao
tập
của
Trần
Cương
Trung
thi
tập,
song
chỉ
nhặt
được
một
bài
thơ
của
Trần
Phu
trong
Kiến
văn
tiểu
lục.
Ngoài
ra,
một
bức
họa
do
Trần
Giám
Như
vẽ
mang
tên
Trúc
Lâm
đại
sĩ
xuất
sơn
đồ
vào
năm
Chí
Chính
thứ
23
(1363)
đã
được
Trần
Quang
Chỉ
đề
từ
vào
năm
Vĩnh
Lạc
thứ
18
(1420)
ghi
lại
tóm
tắt
cuộc
đời
Trần
Nhân
Tông
tương
đối
tổng
quát,
có
một
số
chi
tiết
khá
lôi
cuốn.
Tuy
nhiên,
khi
sử
dụng
các
nguồn
tư
liệu
Trung
Quốc,
ta
gặp
một
số
vấn
đề
cần
phải
giải
quyết
dứt
điểm.
Thứ
nhất,
về
vấn
đề
lịch
pháp
thì
những
người
nghiên
cứu
cho
đến
ngày
nay
đã
thống
nhất
là
hệ
thống
lịch
pháp
nước
ta
thời
bấy
giờ
hoàn
toàn
phù
hợp
với
hệ
thống
lịch
pháp
của
Trung
Quốc
đời
Nguyên.
Cho
nên
những
năm
tháng
ghi
ra
các
sử
kiện
giữa
những
sử
liệu
Việt
Nam
và
Trung
Quốc
không
có
sai
lệch
gì
nhiều.
Nếu
về
cùng
một
sự
kiện
mà
có
những
sai
lệch
thì,
hoặc
do
những
thông
tin
khác
nhau,
hoặc
do
những
truyền
bản
ghi
chép
bị
nhầm
lẫn.
Trong
Toàn
tập
này,
chúng
tôi
chủ
yếu
sử
dụng
hệ
thống
ngày
tháng
của
lịch
pháp
ta,
và
chỉ
đổi
ra
ngày
tháng
dương
lịch
ở
những
nơi
cần
thiết
để
tránh
sự
rối
rắm
không
đáng
có.
Chỉ
riêng
đối
với
những
năm
Giáp
Tý
thì
chúng
tôi
có
chua
ở
trong
ngoặc
đơn
năm
dương
lịch
để
cho
tiện
bề
theo
dõi.
Thứ
hai,
vấn
đề
tên
tuổi
của
các
nhân
vật
lịch
sử
thời
đó.
Đối
với
tên
các
nhân
vật
lịch
sử
Trung
Quốc,
nhất
là
tên
những
người
thuộc
tộc
Mông
Cổ,
chúng
tôi
cơ
bản
vẫn
chấp
nhận
cách
phiên
âm
của
Nguyên
sử,
trừ
những
trường
hợp
bị
chép
sai
khi
so
với
một
số
sử
liệu
khác.
Trường
hợp
này
chúng
tôi
cho
đính
chính
lại
và
có
ghi
chú
rõ
ràng.
Nói
thế
có
nghĩa
chúng
tôi
cũng
tái
dựng
lại
tên
của
những
nhân
vật
này
trong
tiếng
Mông
Cổ
và
để
trong
ngoặc
đơn,
chứ
không
thay
thế
tên
đã
được
lưu
hành
trong
sử
sách
Trung
Quốc
như
một
số
nhà
nghiên
cứu
đã
làm
trước
đây.
Trong
liên
hệ
này
cần
nói
một
chút
về
chữ
Thực
của
tên
Việt
gian
Lê
Thực.
Trong
tiếng
Hán
tên
này
được
viết
()
và
các
sử
sách
viết
bằng
tiếng
quốc
ngữ
trước
nay
thường
phiên
âm
là
Tắc
hoặc
Trắc.
Tuy
nhiên,
ĐVSKTT
5
tờ
46b5-6,
dưới
chữ
()
ấy
được
chua
là
“thổ
lực
thiết”.
Điều
này
có
nghĩa,
ta
phải
đọc
chữ
(
)
là
Thực
thay
vì
Trắc
hoặc
Tắc.
Thứ
ba,
về
tên
các
nhà
lãnh
đạo
Việt
Nam,
cụ
thể
là
các
vị
vua
nhà
Trần,
do
sử
liệu
Trung
Quốc
ghi
lại.
Đây
là
một
vấn
đề
khó
khăn.
Khi
nghiên
cứu
về
cuộc
kháng
chiến
chống
Nguyên
Mông
của
nhà
Trần
trong
Annam
shi
kenkyu,
Yamamoto
đã
dành
hẳn
một
chương
để
nghiên
cứu
vấn
đề
này,
tức
Chinchõ
no
omei
ni
kansuru
kenkyu.1
Dẫu
thế,
những
kết
luận
của
Yamamoto
theo
chúng
tôi
vẫn
chưa
thỏa
đáng
lắm.
Vì
vậy,
cần
phải
làm
những
nghiên
cứu
mới.
Đây
là
một
yêu
cầu,
mà
ta
phải
thỏa
mãn
để
việc
trình
bày
các
sử
kiện
cũng
như
các
tác
phẩm
liên
hệ
đến
vua
Trần
Nhân
Tông
mới
rõ
ràng
và
có
tính
thuyết
phục
cao.
Theo
các
sử
liệu
Trung
Quốc,
cụ
thể
là
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
1a8
và
1b4,
thì
vị
vua
đầu
tiên
của
nhà
Trần
là
Trần
Nhật
Cảnh,
“đến
tháng
hai
năm
Mậu
Ngọ
thì
Nhật
Cảnh
truyền
nước
cho
con
trưởng
là
Quang
Bính,
cải
nguyên
là
Thiệu
Long...
”.
Điều
này
hoàn
toàn
phù
hợp
với
những
gì
do
Ngô
Sĩ
Liên
chép
lại
trong
ĐVSKTT.
ĐVSKTT
quyển
5
tờ
24a4-6
viết:
“Ngày
24
tháng
2
năm
Mậu
Ngọ,
vua
nhường
ngôi
cho
Hoàng
Thái
tử,
rút
lui
về
ở
Bắc
cung.
Thái
tử
lên
ngôi
Hoàng
đế
cải
nguyên
là
Thiệu
Long”.
Vậy
rõ
ràng
Quang
Bính
của
Nguyên
sử
là
một
tên
khác
của
vua
Trần
Thánh
Tông
trong
ĐVSKTT.
Tiếp
đến,
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
3b13
viết:
“Năm
(Chí
Nguyên)
14,
Quang
Bính
chết,
người
trong
nước
lập
thế
tử
Nhật
Huyên,
sai
trung
thị
đại
phu
Châu
Trọng
Ngạn,
trung
lượng
đại
phu
Ngô
Đức
Thiệu
đến
chầu”.
Năm
Chí
Nguyên
thứ
14
tức
năm
1277.
Đây
đúng
là
năm
vua
Trần
Thái
Tông
Nhật
Cảnh
mất,
như
ĐVSKTT
5
tờ
59a6-7
đã
ghi.
Chính
dựa
vào
năm
mất
này
của
Quang
Bính,
mà
Yamamoto
đã
đi
đến
kết
luận
Quang
Bính
chính
là
một
tên
khác
của
vua
Trần
Thái
Tông
và
Trần
Nhật
Huyên
là
tên
của
vua
Trần
Thánh
Tông.
Tuy
nhiên,
Bản
kỷ
của
Nguyên
sử
10
tờ
4a12
lại
chép:
“Năm
(Chí
Nguyên)
15,
tháng
sáu
ngày
Tân
Tỡ,
vua
nước
An
Nam
là
Trần
Quang
Bính
sai
sứ
dâng
biểu
đến
cống”.
Rõ
ràng
nếu
Quang
Bính
chết
vào
năm
Chí
Nguyên
thứ
14
(1277)
thì
tất
nhiên
đến
năm
Chí
Nguyên
thứ
15
không
thể
nào
gửi
sứ
đến
cống
được.
Yamamoto
cho
là
An
Nam
truyện
chép
nhầm
14
thành
15.
Song
một
đề
xuất
như
thế
tỏ
ra
không
thuyết
phục
lắm,
vì
nếu
Quang
Bính
là
một
tên
khác
của
vua
Trần
Thánh
Tông,
thì
năm
Chí
Nguyên
15
vẫn
còn
gửi
sứ
qua
Nguyên.
Dù
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
trong
Nguyên
sử
ta
có
hai
thông
tin
khác
nhau
về
Quang
Bính.
Một
nói
Quang
Bính
chết
năm
1277,
và
một
nói
Quang
Bính
năm
1278
còn
gửi
sứ
qua
cống.
Vậy
không
thể
đơn
giản
chỉ
dựa
vào
năm
mất
của
Quang
Bính
ở
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
để
kết
luận
Quang
Bính
là
tên
vua
Trần
Thánh
Tông,
như
Yamamoto
đã
làm.
Ngoài
ra,
Bản
kỷ
của
Nguyên
sử
10
tờ
13b3-4
chép:
“Ngày
Nhâm
Tý
tháng
11
năm
Chí
Nguyên
16
(1279)
sai
Lễ
bộ
thượng
thư
Sài
Thung
cùng
đi
với
sứ
nước
An
Nam
là
Đỗ
trung
tán
đem
chiếu
đến
dụ
thế
tử
An
Nam
là
Trần
Nhật
Huyên
vào
chầu”.
Điều
này
xác
định
tên
Nhật
Huyên
chỉ
xuất
hiện
trong
sử
sách
Trung
Quốc
vào
thời
điểm,
khi
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
lên
ngôi,
tức
tháng
10
năm
Mậu
Dần
(1278),
như
ĐVSKTT
5
tờ
37b9
-
38a1
đã
ghi
cùng
với
việc
vua
Trần
Nhân
Tông
sau
đó
đã
tiếp
phái
bộ
của
Sài
Thung.
Thêm
vào
đó,
tên
Trần
Nhật
Huyên
còn
xuất
hiện
một
năm
sau
khi
vua
Trần
Thánh
Tông
đã
mất,
tức
năm
Chí
Nguyên
thứ
28
(1291).
Bản
kỷ
của
Nguyên
sử
16
tờ
11b8-9
chép:
“Năm
(Chí
Nguyên)
thứ
28
tháng
9
ngày
Tân
Hợi,
vua
An
Nam
là
Trần
Nhật
Huyên
sai
sứ
dâng
biểu
cống
phương
vật,
vừa
để
tạ
tội
không
đến
chầu”.
Sự
kiện
này,
Yamamoto
có
đề
cập
tới,
nhưng
cho
đây
là
một
chép
sai.
Tuy
nhiên,
căn
cứ
vào
những
sự
kiện,
như
ta
vừa
thấy
trên
và
theo
cách
đồng
nhất
của
chúng
tôi,
thì
Trần
Nhật
Huyên
ở
đây
chính
là
vua
Trần
Nhân
Tông,
chứ
không
phải
vua
Trần
Thánh
Tông.
Cần
nhớ
là
Bản
kỷ
của
Nguyên
sử
chép
Quang
Bính
còn
sai
sứ
qua
Nguyên
sau
khi
vua
Trần
Thái
Tông
đã
chết
được
một
năm.
Một
lần
nữa,
vua
Thánh
Tông
đã
mất
một
năm,
mà
Nhật
Huyên
còn
gửi
sứ.
Việc
đồng
nhất
Quang
Bính
với
vua
Trần
Thánh
Tông
và
Nhật
Huyên
với
vua
Trần
Nhân
Tông
cho
phép
ta
không
cần
phải
nại
đến
những
giả
thiết
của
sự
chép
sai.
Thực
tế,
Bản
kỷ
ít
chép
sai
hơn
phần
Liệt
truyện
nhiều,
bởi
vì
Bản
kỷ
chỉ
ghi
chép
dựa
vào
Khởi
cư
chú,
tức
nhật
ký
những
việc
làm
của
vua
hằng
ngày
như
tiếp
sứ,
nhận
biểu
tấu,
ra
chiếu
chỉ
v.vỢ,
trong
khi
Liệt
truyện
phải
tổng
hợp
nhiều
nguồn
tư
liệu
khác
nhau,
do
đó
dễ
đưa
đến
sai
sót.
Hơn
nữa,
Kinh
thế
đại
điển
tự
lục
do
Triệu
Thế
Diên
và
Ngu
Tập
soạn
vào
những
năm
1330-1331,
về
mục
Chinh
phạt,
mà
sau
này
được
sao
lại
vào
Nguyên
văn
loại
41
tờ
26b1
đến
27b6,
chép
ở
tờ
27a8
việc
“Đường
Ngột
Đãi
đuổi
Nhật
Huyên
và
Thượng
hoàng
đến
cửa
biển
An
bang”.
Một
lần
nữa,
Nhật
Huyên
lại
có
Thượng
hoàng.
Nếu
Nhật
Huyên
là
vua
Trần
Thánh
Tông,
và
vua
Trần
Thái
Tông
đã
mất
vào
năm
1277,
thì
làm
gì
vào
năm
1285,
khi
cuộc
chiến
tranh
lần
thứ
hai
nổ
ra,
lại
có
mặt
Thượng
hoàng
Trần
Thái
Tông.
Chỉ
dựa
trên
bốn
chứng
cứ
này
thôi
thì
Nhật
Cảnh
không
còn
nghi
ngờ
gì
nữa
phải
là
vua
Trần
Thái
Tông,
Quang
Bính
phải
là
vua
Trần
Thánh
Tông
và
Nhật
Huyên
là
vua
Trần
Nhân
Tông.
Tuy
nhiên,
cũng
có
hai
chi
tiết
để
Yamamoto
nghĩ
rằng
Trần
Nhật
Huyên
chính
là
vua
Trần
Thánh
Tông.
Thứ
nhất
là
việc
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
10a9
ghi:
“Năm
(Chí
Nguyên)
27,
Nhật
Huyên
chết,
con
là
Nhật
Tôn
sai
sứ
đến
cống”.
Năm
Chí
Nguyên
27
(1290)
là
năm
vua
Trần
Thánh
Tông
mất,
như
ĐVSKTT
5
tờ
59a6-7
đã
ghi.
Chi
tiết
thứ
hai
là
việc
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
7a10-12
ghi
lại
báo
cáo
mô
tả
những
gì,
mà
quân
Nguyên
khi
chiếm
Thăng
Long
đã
thấy
được
trong
cuộc
chiến
tranh
năm
1285.
Theo
đó
thì
“Nhật
Huyên
tiếm
xưng
Đại
Việt
quốc
chúa,
Hiến
Thiên
Thể
Đạo
Đại
Minh
Quang
Hiếu
hoàng
đế
Trần
Uy
Hoảng,
nhường
ngôi
cho
Hoàng
thái
tử,
lập
Hoàng
thái
tử
phi
làm
hoàng
hậu.
(...)
Nhật
Huyên
liền
ở
ngôi
Thái
Thượng
hoàng,
thấy
lập
vua
nước
An
Nam
thuộc
hệ
con
của
Nhật
Huyên,
lưu
hành
niên
hiệu
Thiệu
Bảo”.
Hiến
Thiên
Thể
Đạo
Đại
Minh
Quang
Hiếu
hoàng
đế
đúng
là
tôn
hiệu
của
vua
Trần
Thánh
Tông
như
ĐVSKTT
5
tờ
24b8
đã
ghi.
Và
niên
hiệu
Thiệu
Bảo
đúng
là
niên
hiệu
của
vua
Trần
Nhân
Tông,
mà
ở
đây
được
xác
định
là
niên
hiệu
thuộc
con
của
Nhật
Huyên.
Căn
cứ
vào
hai
chi
tiết
này,
Nhật
Huyên
quả
là
tên
chỉ
vua
Trần
Thánh
Tông,
và
Nhật
Tôn
quả
chỉ
vua
Trần
Nhân
Tông.
Tuy
vậy,
không
thể
hoàn
toàn
dựa
vào
hai
chi
tiết
này
để
xác
định
Quang
Bính
là
tên
vua
Trần
Thái
Tông,
Nhật
Huyên
là
tên
vua
Trần
Thánh
Tông
và
Nhật
Tôn
là
tên
vua
Trần
Nhân
Tông,
như
Yamamoto
đã
làm.
Lý
do
nằm
ở
chỗ
nếu
đem
hai
chứng
cớ
này
so
với
bốn
chứng
cớ
trên
thì
chỉ
số
lượng
thôi
cũng
không
cho
phép
ta
đi
đến
một
kết
luận
kiểu
ấy.
Sự
thật,
tất
cả
rối
rắm
đấy
có
nguyên
do
của
nó.
Nguyên
do
thứ
nhất
là
sự
lên
ngôi
và
thoái
vị
của
các
vua
Việt
Nam
cho
đến
thời
đại
vua
Trần
Nhân
Tông
và
trở
về
sau
thường
không
được
báo
cáo
hoàn
toàn
chính
xác
trong
các
văn
thư
gửi
cho
các
vua
Trung
Quốc.
Chẳng
hạn,
ngay
từ
thời
Đinh
Tiên
Hoàng,
Đinh
Liễn
đã
viết
thư
cho
vua
Tống
như
là
lãnh
tụ
tối
cao
của
nước
Đại
Cồ
Việt,
chứ
không
phải
là
Đinh
Tiên
Hoàng,
như
Tống
sử
ghi.
Gần
hơn,
sau
thời
vua
Trần
Nhân
Tông,
ta
thấy
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
ghi
rời
rạc
tên
của
những
người
kế
nghiệp
như
Nhật
Sủy
vào
năm
Chí
Đại
thứ
5
(1311),
Nhật
Khoáng
năm
Thái
Định
thứ
nhất
(1324),
mà
trong
sử
liệu
Việt
Nam,
cụ
thể
là
ĐVSKTT,
ta
không
bao
gờ
tìm
thấy
những
tên
người
như
thế.
Xuất
phát
từ
những
văn
thư
qua
lại
không
chính
xác
này
giữa
Việt
Nam
và
Trung
Quốc,
sự
rối
rắm
càng
gia
tăng
vào
thời
điểm
vua
Trần
Nhân
Tông
lãnh
đạo
kháng
chiến
trong
cuộc
chiến
tranh
năm
1285,
do
sự
có
mặt
của
một
số
tên
Việt
gian
đầu
hàng
giặc
như
Trần
Ích
Tắc,
Trần
Văn
Lộng,
Lê
Thực
trong
hàng
ngũ
đối
phương.
Chính
bọn
này
đã
cung
cấp
những
báo
cáo
nhiều
mặt
về
đất
nước
ta,
trong
đó
chắc
chắn
có
cả
việc
lên
ngôi
và
thoái
vị
của
các
vua
chúa
Việt
Nam
và
quan
hệ
giữa
họ
với
nhau.
Chính
từ
những
báo
cáo
của
chúng
và
từ
những
văn
thư
vừa
nói
đã
tạo
nên
mớ
hỗn
độn
mâu
thuẫn,
như
vừa
thấy
ở
trên.
Và
đấy
là
nguyên
do
thứ
hai.
Do
thế,
ta
không
thể
dựa
vào
các
sử
liệu
Trung
Quốc
để
đồng
nhất
các
tên
do
chúng
ghi
lại
với
tên
các
vị
vua
có
trong
sử
liệu
Việt
Nam.
Phải
hoàn
toàn
dựa
vào
sử
liệu
Việt
Nam,
lấy
chúng
làm
cơ
sở
để
xác
định
tên
các
vị
vua
xuất
hiện
trong
sử
liệu
Trung
Quốc
là
ai.
Sử
liệu
Trung
Quốc
trong
trường
hợp
này
chỉ
dùng
để
tham
khảo.
Quan
điểm
chúng
tôi,
vì
vậy,
không
chấp
nhận
cách
giải
quyết
của
Yamamoto
bằng
việc
đồng
nhất
Quang
Bính
với
vua
Trần
Thái
Tông,
Nhật
Huyên
với
vua
Trần
Thánh
Tông
và
Nhật
Tôn
với
vua
Trần
Nhân
Tông,
do
việc
những
sử
liệu
không
cho
phép
đồng
nhất
một
cách
dễ
dàng
như
thế,
ngay
cả
về
phía
Trung
Quốc,
mà
ta
đã
thấy
trên.
Chúng
có
quá
nhiều
mâu
thuẫn.
Cho
nên,
cách
giải
quyết
của
chúng
tôi
là
lấy
chính
sử
Việt
Nam
làm
sử
liệu
cơ
bản.
Căn
cứ
trên
các
cơ
sở
sử
liệu
này,
chúng
tôi
coi
Quang
Bính
chính
là
vua
Trần
Thánh
Tông,
Nhật
Huyên
và
Nhật
Tôn
chính
là
những
tên
gọi
khác
nhau
của
vua
Trần
Nhân
Tông,
còn
Nhật
Sủy
và
Nhật
Khoáng
là
chỉ
vua
Trần
Anh
Tông
và
vua
Trần
Minh
Tông.
Đặc
biệt,
việc
đồng
nhất
Nhật
Huyên
và
Nhật
Tôn
với
vua
Trần
Nhân
Tông,
vì
vua
Trần
Nhân
Tông
là
đối
tượng
nghiên
cứu
của
chúng
ta.
Sự
đồng
nhất
các
tên
gọi
kể
trên
xuất
phát
từ
hai
nguồn
sử
liệu
khác
nhau.
Thứ
nhất,
về
phía
Trung
Quốc,
cụ
thể
là
Nguyên
sử
Bản
kỷ
và
Kinh
thế
đại
điển
tự
lục,
đều
xác
nhận
Quang
Bính
sống
cho
đến
năm
Chí
Nguyên
15
(1278)
trong
khi
vua
Trần
Thái
Tông
mất
trước
đó
một
năm
(1277),
và
Nhật
Huyên
năm
1279
mới
sai
sứ
qua
cống
cho
đến
năm
1291,
nghĩa
là
sau
khi
Trần
Thánh
Tông
mất
một
năm
và
có
Thượng
hoàng
của
mình
trong
cuộc
chiến
năm
1285.
Và
thứ
hai,
về
phía
sử
liệu
Việt
Nam,
Hồ
Nguyên
Trừng
và
Ngô
Sĩ
Liên
cho
rằng
“Gia
pháp
của
họ
Trần...
thì
khi
con
đã
lớn
liền
cho
nối
ngôi
chính,
cha
lui
ở
cung
Thánh
Từ
xưng
là
Thượng
hoàng,
cùng
trông
coi
chính
sự,
kỳ
thực
chỉ
truyền
ngôi
để
yên
việc
sau,
phòng
khi
thảng
thốt
mà
thôi,
chứ
mọi
việc
đều
do
ở
Thượng
hoàng
quyết
định
cả”
(Nam
ông
mộng
lục,
tờ
3a7-9
và
ĐVSKTT
5
tờ
24a9-b3).
Song
trong
trường
hợp
vua
Trần
Nhân
Tông,
dù
Thượng
hoàng
Thánh
Tông
đang
còn,
nhưng
tất
cả
mọi
việc
đều
chính
do
vua
Trần
Nhân
Tông
quyết
định.
Thí
dụ
điển
hình
là
sự
kiện
“Đỗ
Hành
chỉ
được
phong
quan
nội
hầu,
vì
khi
bắt
được
Ô
Mã
Nhi
không
dâng
lên
vua
mà
lại
dâng
lên
Thượng
hoàng”,
như
ĐVSKTT
5
tờ
56b9
-
57a1
đã
ghi.
Việc
Đỗ
Hành
không
được
phong
tước
cao
này
rõ
ràng
xác
định
vai
trò
của
vua
Trần
Nhân
Tông
trong
sự
lãnh
đạo
và
quyết
định
công
việc
của
đất
nước.
Thực
tế,
ĐVSKTT
đã
ghi
chính
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
tiếp
các
phái
bộ
của
Trung
Quốc
từ
cuối
năm
1278
cho
đến
khi
mất.
Sự
thật,
việc
nghiên
cứu
vua
Trần
Nhân
Tông
cũng
như
bất
cứ
nhân
vật
lịch
sử
nào
của
Việt
Nam,
tất
nhiên
phải
lấy
các
sử
liệu
Việt
Nam
làm
chính.
Song
vào
thời
vua
Trần
Nhân
Tông,
nước
ta
có
những
quan
hệ
ngoại
giao
và
quân
sự
với
Trung
Quốc.
Quan
hệ
ấy
đặc
biệt
đã
để
lại
cho
ta
một
số
sự
kiện
và
tác
phẩm
mang
tên
những
người
lãnh
đạo
đất
nước
ta,
nhưng
lại
không
có
trong
chính
sử
của
Việt
Nam.
Vì
vậy,
nó
đòi
hỏi
ta
phải
xác
định
các
tên
vừa
nêu
liên
hệ
với
những
nhân
vật
nào
có
mặt
trong
chính
sử
ấy.
Ngay
một
sự
kiện
vua
nhà
Trần
đã
đổi
tên
mình
trong
quan
hệ
ngoại
giao
với
Trung
Quốc
đã
cho
thấy
ít
nhiều
ý
đồ
các
hoàng
đế
Đại
Việt
không
muốn
cho
phía
Trung
Quốc
biết
rõ
nhân
thân
của
các
nhà
lãnh
đạo
Việt
Nam.
Việc
dài
dòng
bàn
cãi
để
đồng
nhất
các
tên
ấy
với
nhau
trở
thành
tất
yếu.
Một
lý
do
nữa
là
vì
vấn
đề
này
đã
được
một
số
nhà
nghiên
cứu
nước
ta
đề
cập
tới,
nhưng
đã
dễ
dàng
chấp
nhận
cách
giải
quyết
của
Yamamoto.
Thực
tế,
cách
giải
quyết
của
Yamamoto,
như
chúng
tôi
đã
chứng
tỏ,
có
quá
nhiều
sơ
hở,
đặc
biệt
ông
đã
không
coi
trọng
chính
sử
Việt
Nam
làm
cơ
sở.
Vì
thế,
khi
bàn
cãi,
chúng
tôi
không
chỉ
nhắm
đến
những
sơ
hở
của
chính
Yamamoto,
mà
còn
nhắm
đến
việc
sửa
sai
những
tác
động
nhận
thức
của
Yamamoto
đối
với
giới
nghiên
cứu
sử
học
của
nước
ta.
Từ
đây,
trong
tác
phẩm
này,
chúng
tôi
tập
trung
tất
cả
các
sử
kiện
và
tác
phẩm
mang
tên
Trần
Nhật
Huyên
và
Trần
Nhật
Tôn
về
cho
chính
vua
Trần
Nhân
Tông.
Chỉ
trừ
hai
chi
tiết
là
tôn
hiệu
Hiến
Thiên
Thể
Đạo
Đại
Minh
Quang
Hiếu
hoàng
đế
và
việc
Nhật
Huyên
mất
vào
năm
Chí
Nguyên
27,
còn
tất
cả
sử
kiện
khác
do
phía
Trung
Quốc
ghi
lại
dứt
khoát
là
thuộc
về
vua
Trần
Nhân
Tông
và
chúng
tôi
sẽ
không
bàn
cãi
gì
thêm
nữa.
--o0o--
Mục
lục Phần
I:
Chương
I|
Chương
II |
Chương
III
|Chương
IV
|Chương
V
|Chương
VI
|Chương
VII
|Chương
VIII
|Chương
IX
Phần
II:
|Lời
dẫn |Thơ
|Phú
|Bài
giảng
|Ngữ
lục|Văn
xuôi
|Văn
thư
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường