Phật Học
Phổ Thông
Khóa
Thứ Năm
Lịch
Sử Truyền Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
--- o0o ---
Bài Thứ
6
Mười
Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
Không phải
riêng gì Ðạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế
giới, theo với thời gian và sự phát-triển, đều có chia
ra nhiều tôn phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên
phải có để cho các căn cơ và hòan cảnh khác nhau đều có
thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát-triển
được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tôn giáo nào
cả, Ðạo Phật không có những giáo điều thần khải, không
có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức
hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khóang, tự do,
dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Ðạo Phật đi đến đâu cũng
có thể phát-triển đúng theo căn cơ và hòan cảnh riêng biệt
ở địa phương ấy. Do đó, mà Ðạo Phật có rất nhiều
màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước.
Riêng ở Trung
Hoa, Ðạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái
đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngòai
giáo pháp của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những
con đường khác nhau,có đường thẳng đường cong,đường
cao đường thấp, đường rộủng đường hẹp, nhưng con đường
nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy
theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa
chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập.
Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả.
Mười tôn phái
ở Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp
tướng tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận
tôn, Câu xá tôn và Thành thật tôn.
Trong 10 này, Câu
xá tôn và Thành thật tôn chủ trương về Tiểu Thừa; Luật
tôn và Thiền tôn thông cả Ðại và Tiểu Thừa, còn 6 tôn
kia thuộc về Ðại Thừa.
Nghĩa lý của
các tôn rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn
hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công
phu trong nhiều năm.trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông
này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ơí đây,
chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen
với danh từ các tôn ấy, để có chổ nhập môn mà thôi.
Sau này, khi học cao hơn,chúng ta sẽ đi sâu vào từng tôn phái
một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một
trong những tôn ấy để tu hành.
I.- Luật Tông
I.- Duyên Khởi
Lập Tông
Tôn này dùng luật
làm chỗ căn cứ nên gọi là Lụât tôn. Ðức Phật khi còn
tại thế, tùy căn cơ, tùy hòan cảnh mà chế ra nhiều lọai
giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau
khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li
là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong
kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại
những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập
này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải
đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong
hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là"Bát thập tụng
luận ". Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật
giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ
phái đều theo một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật
này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các
bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.
Những bộ luật
này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán
văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải
các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư,
nhận thấy trong các bộ ấy,bộ luật Tứ phầìn làthích
hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này
để lập ra Luật tôn.Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung nam
sơn, nên người đời gọi tôn này là " Chung nam sơn" để
phân biệt với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp
Lệ bên phái Hữu tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.
Trong các Tôn này,
chỉ có Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn
hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa
cả Ðại Thưà lẫn Tiểu Thừa.
II.-Tôn Chỉ
Và Ðặc Ðiểm Của Luật Tông
Phàm một tổ
chức, một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân
theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành
lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như
chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động
lực chính của vũ trụ nhân sinh.Nghiệp định đoạt tất
cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành
động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những
nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác,
thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả
báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát.
Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới
luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương
pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực
và rất hiệu nghiệm đối với Phật tủ chung ta:
-Giữ giớ không
sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ,
khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ
là địa ngục, ngạ quỷ,súc sinh, và khỏi bị người giết
haị, đó là tu.
-Giữ giới khong
trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi
bị giam cầm siềng xích, đời sau không mắc quả báo,bị
người giựt của cướp nhà, đó là tu.
-Giữ giới không
tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người
không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó
là tu.
-Giữ giới không
nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc,
không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi,
lại được sự kính trọng, đó là tu.
-Giữ giới kghông
cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu
nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lo0õi và khỏi bị người
khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu.
Nói một cách
tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều
tội lỗi,và thêm được một điều lành; giữ nhiều giớ
là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được
nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật làphương
pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật
tử cầu đạo giải thoát.
Nhờ giữ "giới
luật" không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định";
do tâm định nên phát ra"trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí
huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được
minh tâm kiến tâm thành Phật.
Người tu tại
gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất
gia thọ Sa-di,có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo
có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có
giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba
món vô-lậu học (giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu tất
cả.
Tôn này sỡ dĩ
lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của
giới luật, như đã trình bày ở trên.
III.- Các Loại
Giới Luật
Giới luật có
nhiều lọai từng bậc,tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ,
tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng
nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm
hai lọai lớn là: Giới lụât của Ðại Thưà và giới luật
của
Tiểu Thừa.
-Những giới luật
nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính
là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu
Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người
khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì
mình được lợi là kềm giữ lòng tham,mà người khác cũng
đượclợi là khỏi phải bịcái khổ vì tiếc của đã mất.
Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới
Tiểu-thừa, vì trong khigiữ giới, mục đích chính, trực tiếp
là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng
gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới
do Phật chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới
Phật chế cho người tại gia-tập sống như người xuất gia),
Sang-di giớivà Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người
mới xuất gia), Thức-xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo
giới (250 giới), và Tỳ-kheo0nhiều giới (348 giới) là những
giới thuộc về phái Tiểu-thừa.
Những giới luật
nào có tánh cách tích cực, nhám vào mục đích lợi tha hơn
tự lợi tì thuộc về Ðại-thừa giớ. Những giới thuộc
về Ðại-thừa giới như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ
Tát, Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là
giới không làm việc ác, Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới
làm việc lành, Nhiêu-ích hữu-tình giới là giới làm ích
lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện
xã hội v.v..).
Nếu đứng về
phương diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia
làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là
ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành
động theo thiện-nghiệp.
1.-Về chỉ trì:
có hai bộ giới bổn:
a.-Tỳ-kheo giới
bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới),
2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa
(30 giới), 5.- Ðơn-đọa (90 giới), 6.- Ðề-xà-nhiều (4 giới),
7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm
năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên),
sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).
b.-Tỳ-kheo-nhiều
giới bổn (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia
làm 7 loại là:
1.-Ba-la-di (8 giới),
2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Ðơn-đọa
(178 giới), 5.-Ðề-xà-nhiều (8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới),
7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có
thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm tùy
nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng (1).
Giới Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là
những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh,
phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó
chỉ là giới tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối
cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì
về "lượng" sánh đồng hư-không, về "cảnh" lại nan khắp
cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến
3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi
và 120.000 tế-hạnh.
Vì sao Phật lập
ra nhiều giới-luật như thế?
- Vì mỗi một
giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm
phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu
điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn
ngừa.
2.- Về tác trì,
gồm có 20 kiền-độ.
Kiền độ nghĩa
là phẩm loại, điều luật (Khanda).
20 Kiền độ là:
Thọ giới Kiền
độ
Thuyết giới Kiền
độ
An cư Kiền độ
Tứ tự Kiền
độ...
Sự chia ra chủ
trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới,
chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ''chỉ'' có ''tác'',
trong ''tác'' có ''chỉ'', không thể nói một cách dứt khoát
được.
(1) Chúng tôi chỉ
giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ
không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở
cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.
IV.-Các Danh
Từ Và Phương Pháp Thực hành
Như chúng ta đã
thấy ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do
đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất
phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước
tiên phải biết những điều sau đây:
1.-Sao gọi là
''danh, chủng, tánh, tướng''?.
a.-Danh là tên
(danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát
sinh, giới bất thâu đạo.v.v...
b.- Chủng là chủng
loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới
của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..
c.-Tánh là tâm
tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong
tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v..
hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng
hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được
thanh tịnh như vậy, gọi là ''giới tánh''.
d.- Tướng là
hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến
sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không
làm những điều ác ấy, gọi là ''giới tướng''.
Tóm lại, mỗi
khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết
tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại
nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm
(tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải
biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được
thanh tịnh?
2.- Sao gọi là
'' khai, giá, trì, phạm ''?
a.- Khai là mở,
cho làm.
b.- Giá là cấm,
không cho làm.
Như khi Phật còn
tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ''Giá"
. nhưng về sau cóvị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt,
Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và
cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ''nếu có
duyên sự thì được leo cây'', như thế gọi là ''Khai''.
Một thí dụ thứ
2: người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó
là ''Giá''. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để
hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng.
Ðó là ''Khai''. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư
tăng.
c.- Trì là giữ
gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh
tịnh thì gọi là ''Trì''.
d.- Phạm là vi
phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì
gọi là ''Phạm''.
Tóm lại, trong
khi tu hành giữ giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi
hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế
nào là ''Trì'', thế nào là ''Phạm''; trong trường hợp nào,
và giới nào được ''Khai''; Trong trường hợp nào, và giới
nào không được ''Khai''.v.v.. nói một cách tổng quát khi đã
thọ giới rồi thì phải ''Trì''. Nếu không ''Trì'' mà ''Phạm''.
Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ
thúc đẩy, thì có thể ''Khai'' mà không phạm tội. Nhưng nếu
vì tâm nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ''Khai'' là ''Phạm''.
3.-Sao gọi là
''chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm''?
a.- Chỉ trì là
nói về phương diện các điều ác, quyết giũ gìn không gây
tội lỗi.
b.- Tác phạm là
nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn,
mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.
c.- Tác trì là
nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là
phạm giới.
d.- Chỉ phạm
là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ
không làm, là phạm giới.
Thí dụ: về tội
ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái
lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm
là chỉ phạm.
4.- Sao gọi là
'' tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới''?.
a). Tánh tội là
tội sẳn có trong bảng tấn chúng sanh, như sát, đạo, dâm,
vọng. Bốn tánh này có sẳn trong tâm tánh chúnh sanh từ vô
thỉ đến nay, hể có chúng sanh lá có chúng nó. Mỗi người,
không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều
biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.
b). Giá tội là
tội không sẵn có trong bản tấn nhưng do hoàn cảnh, do tập
nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một
cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng,
còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.
c). Tánh giới
là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng.
Giới này rất quan trọng, nhưng củng rất khó giữ. Giữ được
bốn giới này thì sư tu hành tất sẽ kết quả và con đường
giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.
d). Giá giới là
giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà
phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói
trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn,
phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn,
trước tien phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi,
trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn
các con đường đi vào đo thị ấy.
V.-Kết Luận
Như chúng ta đã
rỏ, mục đích của gióa pháp mà Ðứủc Phật chỉ bày cho
chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật.
Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm
khác nhau, nhưng mục dích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ
và thành Phật.
Luật tôn củng
không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác
phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật
tôn trái lại chủ trương; hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ
gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh,
thanh tịnh; tâm đa thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt,
chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.
Thật là một
chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn
! những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới củng
chẳng khác gì trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết
sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ
giới một cách chân thần, thì củng như ngọn đèn có ống
khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu
cáng sáng tỏ.
Vì những lí lẽ
trình bày ở trên, Luật tôn đều phải thích hợp với mọi
căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ơí đời chúng
ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh
lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình , không
chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng
thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những
kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa , nhưng
lại dễ thành công trên đường đời củng như trên đường
đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ
luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có
ai có một địa vị xã hội hà tiện (đi gánh phân ) và một
căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li
lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc
hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Ch úng ta đây,
địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li,
lẻ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đệp
như Ngài , nếu chúng ta củng tập nghiêm trì giới-luật như
Ngài .
2.-Tịnh Ðộ
Tông
Tôn này thuộc
về Ðại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm
Phật đẻ được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật
A-DI-Ðà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh độ tôn.
Ðây là một trong
nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng,
rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn
này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn
cảnh nào, củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với
con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng phẵng ,rộng
rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp
nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
Bởi những lẻ
ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người
chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng
ta, ngày xưa củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là
môn đồ của tôn này. Ðó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp
rút biên soạn bài này để giới thiệu " con đường tu thứ
hai" trong mười tôn phái của Phật Giáo.
1.- Duyên Khởi
Lập Tông
Tịnh độ căn
cứ vào những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà
Tịnh độ tôn đã y- cứ thì rất nhiều. Ơí đây chúng tôi
chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được
nói đến thôi. Ðó là các bộ:
1.-Kinh vô lượng
thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thề nguyên của đức
A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội
dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài
sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh,
để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về
đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu
Ngài và thường cầu được vãn sanh về cõi tịnh độ của
Ngài.
2.- Kinh Quán Vô
lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để
dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
3.- Kinh tiểu bổn
A-Di-Dà:Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm
(Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu
theo pháp môn ''trì dân niệm Phật cho đến nhất tâm bất
loạn'' để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này
là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là '' ba kinh Tịnh
độ''. Ngoài ra còn có các kinh khác như:
Kinh Bửu tích
chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người
trong thân tộc, nói pháp môn ''trì dân niệm Phật'' để cầu
sanh về Thế giới Cực lạc.
Kinh đại bổn
A-Di-Dà, Kinh Thập lục quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa,
kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..
Giáo điển về
Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông-tấn
nhờ Ngài Huệ-viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này
mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở
Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm
loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp
môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi
lưu truyền cho đến ngày nay.
II. Bốn Cõi
Tịnh Ðộ.
Tịnh độ không
phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương
diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh
độ sau đây:
1.- Thường tịch
quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ.
''Thường'' là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp
thân Phật; ''Tịch'' là xa lìa các phiền não vọng nhiễm,
tức là đức Giải thoát của Phật; ''Quang'' là chiếu sáng
khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật.
Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của
Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ''Thường
tịch quang Tịnh độ''.
Cảnh Tịnh độ
này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn
tâm, hay tánh viên giác ''thường vắng lặng, chiếu soi và
thanh tịnh'', nên gọi là ''Thường tịnh quang Tịnh độ''.
Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh
và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau
đây mà gọi là có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu
đứng về Thân thì gọi là ''Pháp Thân'', còn về độ, thì
gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''.
Kinh Tinh danh, về
lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên
quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ''Thường
tịch quang Tịnh độ''.
2.- Thất-báo trang
nghiêm Tịnh độ: hành giả trải qua ba số kiếp tích công
lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại,
làm trang nghiêm cảnh giới chơn- thật nên gọi là ''Thật-báo
trang nghiêm Tịnh độ''. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ
ở của Báo thân Phật. Kinh Quán-vô-lượng -thọ về lời
sớ có chép: ''Tu-tập chơn-thật'', cảm đặng quả báo tốt
đẹp, cho nên gọi là ''Thật báo trang nghiêm''. Bên Ðại-thừa
Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh,
Hướng); còn bên ngoài Ðại-thừa Biệt-giáo, thì đây là
cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ Tát.
3.-Phương tiện
hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu
cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh
độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được
kiến-hoặc và tư-hoặc trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới
và Vô-sắc-giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô-minh
hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ''hữu-dư
''. Ðã là ''hữu-dư '' tức là chưa phải hoàn toàn cứu-cánh,
nên gọi là cõi Tịnh độ này là '' Phương-tiện hữu-dư
Tịnh độ ''.
4.- Phàm thánh
đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðưc
Phật A-di-đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc,
tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có
bón ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng
thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng-sanh,
chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ''Phàm thánh
đồng cư Tịnh độ ''.
Vì phần đông
tín-đồ Phật Giáo Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp
môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức
là cõi Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà, nên ở đây, chúng tôi
xin căn cứ theo kinh ''Tiểu bổn A-Di-Ðà'' thuật lại lời
Ðức-Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh
độ này: ''...Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách
đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc.
Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là Phật A-di-đà, thường
hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp
lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy
nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía
bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen
bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào
cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa
lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.
Trên không trung
hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu,
do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời
cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà
cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều
phát ra tiếng phát nhiệm mầu.
Cảnh giới Cực-lạc
tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật
A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát,
Thánh chúng chung nhau tạo thành chữ A-Di-Dà người Trung Hoa
dịch là ''Vô lượng thọ'', hay ''Vô lượng quang'', nghĩa là
đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng
cũng không lường.
(1) Chữ A-Di-Ðà,
người Trung Hoa dịch là "vô lượng thọ" hay "vô lượng quang",
nghĩa là Ðức Phật này sống lâu không lường và hào quang
chói sáng cũng không lường
III.- Ba Yếu
Tố Ðể Cầu Sanh Tịnh Ðộ
Muốn được vãng-sanh,
về cõi Tịnh độ nói trên, hành giã phải chuẩn bị ba yếu
tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường
được gọi là ba món tư-luơng (Lương phạn đi đường). Nếu
thiếu một món ăn nào, hành-giả củng không thể tu hành có
kết quả được.
1.-Thế nào là
''Tín''? -Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được
Ðức tin rất quan trọng va fcần thiết cho người tu hành.
Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: '' Tin là mệ sanh ra các công đức ''.
Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.
Tin có ba phần:
a). Tin Phật: Tin
rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các viẹc
sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai,
thấy hết thảy hằng sang thế giới, hiểu biết các pháp
một cách rõ ràng. Tin răng fdo lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử
luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm
Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được chúng
sanh vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Ðức-Phật
Thích- ca không hư đối, Ðức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh
độ đều có thật.
b). Tin Pháp: Tin
rằng pháp-môn niệm Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có
bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyền của Phật
A-Di-Ðà có đầy đủ hiệu lực để ccứu độ chúng sanh,
và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ
được vãng-sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
c). Tin mình: Tin
rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo
pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời
Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Ðà, chuyên trì danh
hiệu Phật A-Di-Ðà cho đến '' nhất tâm bất loạn'' thì khi
lâm-chung chắc chắn thế nào mình củng sẽ được sanh về
cõi Tịnh độ.
2.-Thế nào là
''nguyện''? Nguyện là lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí
nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện
là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của
chiếc thuyền, àl cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động
cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đêá mục đích.
Nguyện quan trọng
như thế, nên hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn
luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp-môn niệm Phật này, ngày
đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được
sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
Ðể có một ý-niệm
về chữ '' nguyện '', chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời
nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Ðà, khi còn làm
Pháp-tạng Tỳ-Kheo:
-'' Sau khi ta thành
Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về
cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh
ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác,
chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh-pháp
''.
-'' Nếu ta đặng
thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm
Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát-nguyện, muốn sanh
về cõi nước ta, gia như ta không cùng với đại chúng đoanh
vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không
thành bậc Chánh-giác ''.
'' Nếu ta đặng
thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên
niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì
ta thề không thành bậc Chánh-Giác ''.
3.-Thế nào là
''Hành''?- Hành là thực-hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không
ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ.
Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành)
thì chỉ ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết
quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này
bao giờ củng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng-sanh
Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới
đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.
IV.-Phương Pháp
Tu Về Tịnh Ðộ
Sau kh đã chuẩn
bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên,
chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu
quả, chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vvẫn biết
rằng pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị,
chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật củng có nhiều
cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ìt phương phát
sau đây:
1.-Trì-danh niệm
Phật: -Trong lối niệm Phật này, hành-giả chỉ chuyên tâm
trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Ðà. Mỗi ngày từ khi mới
thức dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm
luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi,
khi ăn, trước khi ngũ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm
Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải
xem phương pháp '' Kinh hành niẹm Phật '' (xem nghi thức kinh
hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành-giả đều hồi hương
cầu sanh Tịnh độ.
2.- Tham-cứu niệm
Phật: -Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét
suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm '' Nam-mô A-Di-Ðà Ðà
Phật '', hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ
đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm
ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâmchú ý tham khảo một câu niệm
Phật như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng,
nước hiện tâm hiện bày, hành-giả được '' nhất tâm bất
loạn '', đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh-giới
của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu
'' thoại đầu '' bên Thiền-tôn, nên gọi là '' tham-cứu niệm
Phật ''.
3.- Quán-tương
niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình
tượng của Phật.
Hành-giả ngồi
trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng
tốt mà liên tưởng các đức-tánh của Phật. Như khi chiêm
ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của
Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì
liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ-xã của Phật. Nhờ
quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành-giả phai dần;
nhờ quán từ-bi của Phật mà tánh Sanh của hành-giả bớt
dần ...Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì một
tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của Ðức-Phật
như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực;
tia sáng mặt trời càng sáng nhiêìu va fcàng chiếu rọi lâu
ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm
quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức
tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-dẳng, lợi tha được huân-tập,
thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành-giả sẽ
thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm
Phật, được vãng-sanh về cõi Phật.
4.-Quán-tưởng
niệm Phật:- Trong lối tu này, hành-giả ngồi yen một chỗ,
mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả
quán tưởng như có Ðức-Phật A-Di-Ðà, cao lớn đứng trên
hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả
thân hình mình. Hành-giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại,
củng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn.
Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng,
nằm, ngồi củng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt
hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là páhp quán đã
thuần-thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được
vãng-sanh về Tịnh độ.
Trong kinh Quán
Phật tam-muội chép rằng: 'Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán-tưởng
bạch hào ...''. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng
lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của
Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly.
Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.
5.-Thật tướng
niệm Phật:- Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt
đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ
lai, không hư không giả, cho nên gọi là"thật tướng ".
Trong năm pháp
niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về
sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm ( thật tướng niệm
Phật ) là thuộc về lý: không còn, niệm còn tu, không còn
năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới
hoàn toàn rốt ráo.