--o0o--
CHƯƠNG
V
VUA TRẦN
NHÂN TÔNG VÀ SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG
HÒA BÌNH THỜI HẬU CHIẾN
Khi quân và
dân ta đang tưng bừng ăn mừng chiến thắng ở thủ đô Thăng
Long, thì tại Đại Đô, Hốt Tất Liệt đang thi hành những
biện pháp trừng phạt đối với đám bại tướng của đạo
quân xâm lược đã tháo chạy và sống sót trở về. Hắn
đày Thoát Hoan ra Dương Châu và cấm suốt đời không được
gặp mặt hắn, còn Áo Lỗ Xích bị đuổi ra Giang Tây, như
Nguyên sử 117 tờ 5a1-2 và 131 tờ 7a9 đã ghi nhận. Về phía
ta, vua Trần Nhân Tông đang chuẩn bị một mặt trận ngoại
giao để đối phó với ý đồ xâm lược của triều đìnhử
Nguyên, đồng thời tiến hành thực hiện một số biện pháp
để xây dựng lại đất nước, sau khi đã bị chiến tranh
tàn phá nhằm củng cố tiềm lực quốc gia cho mọi biến động
có thể xảy ra.
Biện pháp
thứ nhất là công bố đại xá cho cả nước và tha tô thuế
tạp dịch cho những vùng đã trải qua chiến tranh, còn miễn
và giảm cho các vùng khác như ĐVSKTT 5 tờ 55a1-3 viết: “Tháng
tư mùa hạ (năm Mậu Tý, 1288) Thượng hoàng ngự ở hành lang
thị vệ (vì cung điện thời bấy giờ bị giặc đốt hết)
đại xá thiên hạ. Phàm những nơi nào từng bị binh lửa
cướp phá thì miễn tô thuế và tạp dịch toàn phần, còn
chỗ khác thì tha hoặc miễn theo thứ bậc khác nhau”. Rõ
ràng đất nước đã kinh qua chiến tranh và bây giờ phải
tập trung mọi nỗ lực để xây dựng lại những gì đã bị
quân thù đốt phá. Miễn giảm tô thuế và tạp dịch là nhằm
mục đích đó. Và biện pháp này thực hiện mấy ngày sau
khi vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng trở về kinh đô Thăng
Long hôm 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288).
Cũng vào
đợt tuyên đọc lệnh đại xá của vua Trần Nhân Tông này,
ĐVSKTT 5 tờ 55a3 -b5 đã dành một đoạn văn dài để ghi lại
một sự cố trong việc đọc chiếu chỉ ấy. Qua sự cố đo,ữ
ta được biết thêm nhiều chuyện liên quan đến lịch sử,
văn hóa và xã hội của đất nước. Sự cố đó như sau:
“Vua bảo ty hành khiển giao hảo với viện hàn lâm.
Theo lệ cũ, hễ đọc lời vua nói thì viện hàn lâm đưa trước
bản thảo tờ chiếu cho ty hành khiển bảo tập đọc trước.
Đến khi tuyên đọc thì gồm giảng cả âm lẫn nghĩa khiến
cho dân thường dễ hiểu, vì chức hành khiển chỉ dùng hoạn
quan thôi. Bấy giờ Lê Tòng Giáo làm tả phụ, cùng hàn lâm
phụng chỉ Đinh Cũng Viên vốn không thích nhau. Ngày đọc
lời vua đã tới gần, mà Cũng Viên cố ý không đưa bản
thảo. Tòng Giáo nhiều lần đến đòi rốt cuộc cũng không
được.
Hôm ấy xe vua sắp ra ngoài cung, Cũng Viên mới
đưa bản thảo. Tòng Giáo tuyên đọc lệnh đại xá, không
hiểu âm nghĩa, bèn đứng im, vua gọi Cũng Viên đứng đằng
sau nhắc bảo âm nghĩa. Tòng Giáo có ý thẹn. Cũng Viên nhắc
bảo tiếng càng to, mà tiếng Tòng Giáo thì lại nhỏ dần.
Trong triều chỉ nghe tiếng Cũng Viên. Khi vua trở về nội
điện, cho gọi Tòng Giáo vào: ‘Cũng Viên là người văn học,
còn ngươi là một trung quan, sao không thích nhau đến nỗi
như thế. Ngươi làm lưu thủ Thiên Trường, tôm đất quýt
vàng đem tặng qua lại cho nhau, thì có hại gì đâu’. Từ
đó Tòng Giáo và Cũng Viên giao hảo với nhau càng thêm thân
mật”.
Qua sự cố
nhắc bài giữa triều đình này, ta biết vào thời Trần và
chắc chắn là trước năm 1288 đã có lệnh là phải đọc
chiếu chỉ của vua bằng cả hai thứ tiếng, tiếng Hán và
tiếng Việt. ĐVSKTT chỉ ghi sự kiện đọc chiếu chỉ của
vua bằng hai thứ tiếng đây là một việc cũ (cố sự). Điều
này có nghĩa việc đọc bằng hai thứ tiếng này có từ lâu,
nhưng lâu từ lúc nào, ĐVSKTT không cho ta biết. Có thể có
từ thời Lý chăng? Thậm chí có thể có từ thời Đinh, Lê
chăng? Đây là một có thể. Bởi vì các vua Đinh Lê như chính
ĐVSKTT ghi lại, không phải là những người có học nhiều.
Các vua thời Lý khá hơn, học hành đầy đủ hơn. Song đọc
chiếu chỉ của vua thì đâu phải chỉ để cho vua nghe, mà
chủ yếu là cho quần thần và dân dã. Và số quần thần
và dân chúng Đại Việt vào các triều đại ấy và ngay cả
các triều đại về sau này phần lớn đều không biết chữ
Hán, hoặc có biết chăng, thì họ cũng chỉ biết lõm bõm
đủ cho việc ký giấy tờ.
Do thế, ta
có thể mạnh dạn đề xuất ý kiến cho rằng trong lịch sử
dân tộc, tiếng Việt từ lâu vẫn là
một ngôn ngữ
hành chính ở một mức độ nào đó, dẫu rằng số tài liệu
của các mệnh lệnh hành chánh này đã bị thất lạc hầu
như gần hết, chỉ trừ một số rất ít các văn kiện như
văn tế Nguyễn Biểu của Trần Trùng Quang, hay lời hội thề
Lam Sơn của Lê Lợi, hay hịch đánh quân Thanh của vua Quang
Trung và một số văn kiện lẻ tẻ khác. Nói cách
khác,
tiếng Việt có một vị trí nào đó trong đời sống chính
trị Việt Nam như một ngôn ngữ chính thức của triều
đình, chứ không phải chúng không bao giờ được dùng tới.
Chỉ có vấn đề là khó và dễ học, mà sau này thiền sư
Pháp Tính (1470-1550 ?) đã đặt ra trong Chỉ nam ngọc âm giải
nghĩa.Thiền sư Pháp Tính đã nói tới tình trạng chữ viết
tiếng Việt ta thời ông và trước đó, tức từ nửa đầu
thế kỷ thứ 15 trở về trước, phần lớn gồm những chữ
“nôm xe chữ kép”:Xưa đặt nôm xe chữ kép Người thiểu
học khôn biết khôn xem Cho nên Pháp Tính mới chủ trương,
phải thiết định lại một thứ chữ viết quốc âm dễ viết
dễ đọc, để cho ai học cũng có thể dễ dàng tiếp thu:
Bây giờ
nôm dạy chữ đơn
Cho người
ít học nghĩ xem nghĩ nhuần
Tiếng Việt
vào thời Trần Nhân Tông như thế đã có một vị trí nhà
nước của nó. Ngay lệnh đại xá của vua Trần Nhân Tông
cũng phải được đọc thêm bằng tiếng Việt đã chứng thực
sự kiện ấy. Bản thân vua Trần Nhân Tông cũng đã viết
văn bằng tiếng Việt, mà ngày nay ta hiện còn có được nguyên
vẹn văn bản. Đó là Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú
lâm tuyền thành đạo ca. Đây là hai tác phẩm tiếng Việt
xưa nhất hiện còn của lịch sử văn học nước ta, nếu
không kể bài Giáo trò của Từ Đạo Hạnh và xưa hơn là
bài Việt ca chép trong Thuyết uyển.
Ý nghĩa xã
hội của việc dùng tiếng Việt để đọc các chiếu chỉ
của vua này là rất lớn. Nó xác nhận cho ta một sự thật
lịch sử là vua với dân muốn nói chuyện với nhau một cách
bình đẳng thân tình như những người cùng một dòng giống,
cùng một gia đình. ĐVSKTT 5 tờ 61a4 -8 ghi một sự kiện dưới
mục tháng 3 năm Nhâm Thìn (1292) về việc “vua thường đi
chơi ở bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương
hầu, tất gọi rõ tên mà hỏi: ‘chủ mày ở đâu’, đồng
thời răn các vệ sĩ không được phép đuổi. Đến khi về
cung, vua gọi tả hữu nói: ‘ngày thường thì có thị vệ
ở hai bên, đến khi quốc gia nhiều nạn thì chỉ bọn ấy
có mặt thôi’. Ấy bởi vua cảm kích trước sự hộ tùng
lúc vua ở trong gió bụi mà nói thế”. Sự thân thiết này
chính là sức mạnh đoàn kết toàn dân, làm tiền đề cho
những chiến công oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc,
mà chính vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo.
Một năm
sau khi lệnh đại xá được ban hành để ổn định tình hình
chính trị của cả nước, và việc tha miễn tô thuế ở các
vùng bị chiến tranh tàn phá đã thực hiện nhằm phục hồi
lại nền kinh tế, thì tháng 4 năm Kỷ Sửu, vua Trần Nhân
Tông mới cho bàn xét công trạng của những người đã tham
gia chiến tranh. ĐVSKTT 5 tờ 56b7 -57a8 đã chép lại đợt thưởng
công này như sau: “Tháng 4 mùa hạ bàn định công dẹp giặc
Nguyên, tiến phong Hưng Đạo Vương làm đại vương, Hưng Vũ
Vương làm khai quốc công, Hưng Nhượng Vương làm tiết đồ
sứ. Ai có công to được ban quốc tính. Khắc Chung được
dự vào đồng thời cho làm đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ
được phong quan nội hầu, vì khi bắt được Ô Mã Nhi mà
không dâng cho nhà vua, lại dâng cho Thượng hoàng. Hưng Trí
Vương không được thăng trật, vì đã có chiếu cho người
Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà Vương
còn đón đánh. Cho Man trưởng Lạng Giang là Lương Uất làm
trại chủ Qui Hóa, Hà Tất Năng làm quan phục hầu vì có đem
quân người Man ra đánh bại giặc, việc thưởng tước xong,
còn có người chưa bằng lòng. Thượng hoàng bèn bảo: ‘Các
khanh quả biết giặc Hồ không lại vào cướp nữa, thì hãy
nói rõ cho trẫm biết. Dù có thăng đến cực phẩm, trẫm
cũng không tiếc gì. Nếu không vậy mà đã vội thưởng hậu
hết thì vạn nhất giặc Hồ lại đến và các khanh lại có
công thì trẫm sẽ lấy gì mà thưởng, để khuyến khích thiên
hạ’. Mọi người đều vui phục”.
Việc thưởng
công cho những người có thành tích trong cuộc chiến tranh
vệ quốc năm 1288 đã diễn ra như thế khá sôi nổi. Có những
người nghĩ mình có khả năng được thưởng công cao, nhưng
sau đó thất vọng, vì như Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã
nói: nếu thưởng hết, vạn nhất có giặc Nguyên đến lại
thì lấy gì để mà thưởng. Điểm đáng chú ý là trong đợt
phong thưởng này, Đỗ Hành, người đã bắt được Ô Mã
Nhi tại trận thủy chiến Bạch Đằng, đã không được tước
cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng lên cho vua Trần Nhân Tông,
mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Đây là
điểm đáng chú ý, vì sự kiện ấy muốn xác định cho ta
biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nuớc Đại
Việt lúc bấy giờ và ai là người ra quyết định tối hậu
trong công tác điều hành chiến tranh. Người ấy không phải
ai khác hơn chính là vua Trần Nhân Tông. Cũng qua đợt phong
thưởng này ta biết thêm một chi tiết nữa. Đó là việc
vua Trần Nhân Tông đã bám
sát chiến trường tại các
mặt trận khác nhau. Sự kiện Hưng Trí Vương Nghiễn không
được thăng trật do hăng
say đón đánh bọn giặc Nguyên
trên đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của
vua Trần Nhân Tông không được cản trở chúng, là một
thí dụ điển hình. Công tác chỉ đạo chiến tranh như thế
chủ yếu là do vua Trần Nhân
Tông thực hiện, có sự
tham gia cố vấn của Thượng hoàng Trần Thánh Tông và do Quốc
công tiết chế Trần Hưng Đạo
trực tiếp thực hiện.
Cần làm rõ điều này để mọi người cùng thấy và nhận
thức đúng đắn vai trò của vua Trần Nhân
Tông trong
hai cuộc chiến tranh vệ quốc oanh liệt năm 1285 và 1288, mà
cho đến ngày nay nhiều người còn mơ hồ,
thậm chí
có những đánh giá lệch lạc, chớ khoan nói chi tới những
thời gian trước đây, khi
Văn minh Đông
Á trời thu sạch
Này lúc
cương thường đảo ngược ru.
Sự đánh
giá lệch lạc này có thể thấy rõ ràng qua các đường phố
mang tên Trần Nhân Tông tại các thành thị khác nhau ở nước
ta hiện nay. Cũng sau đợt thưởng công ấy, đến tháng 5,
vua Trần Nhân Tông còn thực hiện một cuộc thưởng công
bổ sung với việc “gia phong Nguyễn Khoái làm liệt hầu,
cho một quận làm ấp thang mộc gọi là Khoái Lộ” và cho
chép tên tuổi tiểu sử “những người có công lớn lên
trước phá giặc” vào sách Trung hưng thực lục cùng vẽ
chân dung họ trong tập sách ấy.
Song song với
việc thưởng công là việc “trị tội những người đầu
hàng giặc, chỉ quân dân được miễn tội chết, vận chuyển
gỗ đá xây dựng cung điện để chuộc tội, quan viên phạm
tội thì tùy nặng nhẹ mà xử trị”, như ĐVSKTT 5 tờ 57a8-b1
đã ghi. Đặc biệt trong đợt trị tội những kẻ đầu hàng
này, vua Trần Nhân Tông đã quan tâm đến hai hương Ba Điểm
và Bàng Hà, vì “ngày 30 (tháng 12 năm Đinh Hợi, 2-2-1288) Thái
tử nhà Nguyên A Thai cùng Ô Mã Nhi hội 30 vạn quân đánh vào
Vạn Kiếp, rồi thuận dòng xuôi xuống phía đông, người
Ba Điểm và Bàng Hà đều đầu hàng”, như ĐVSKTT 5 tờ 52b5-6
đã ghi. Và cách xử trí theo ĐVSKTT 5tờ 57b7-9 là “xử tội
đồ quân dân hai hương Ba Điểm và Bàng Hà làm binh thang mộc,
không được làm quan, ban cho các tể thần làm hoành nô sai
sử”.
Điểm đặc
biệt trong đợt xử trị này là việc Thượng hoàng Trần
Thánh Tông ra lệnh đốt tất cả giấy tờ của những người
xin đầu hàng giặc, mà quân ta đã bắt được. ĐVSKTT 5 tờ
57b9-58a6 đã mô tả lại sự kiện này như sau: “Trước kia
khi người Nguyên vào cướp, vương hầu quan liêu phần nhiều
đến dinh xin qui phục. Đến khi giặc thua, bắt được một
hòm các tờ biểu xin đầu hàng, Thượng hoàng sai đốt đi
để yên lòng kẻ phản trắc. Chỉ những kẻ đầu hàng trước
đây thì dù bản thân đang ở triều đình giặc, cũng bị
kết án vắng mặt, xử tội lưu đày hay tử hình, điền sản
bị tịch thu làm của nhà nước, xoá quốc tính của chúng.
Như Trần Kiện và con của Tỉnh Quốc thì đổi làm họ Mai,
còn người khác cứ theo lệ ấy mà đổi, như bọn Mai Lộng.
Ích Tắc vì là chỗ bà con cốt nhục, trị tội tuy cũng thế,
nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, cho
là hèn nhát như đàn bà. Đương thời ghi chép đều gọi Ả
Trần, Mai Kiện. Có Đặng Long là cận thần của vua, giỏi
văn học, nhưng tước ở bậc dưới, từng được dự vào
ghi chú để mà thăng cấp. Vua muốn cho làm hàn lâm học sĩ.
Thượng hoàng ngăn lại. Bèn trong lòng có sự bất bình, đến
đây cũng hàng giặc, đến khi thua bị bắt, đem chém để
răn mọi người”.
Sự kiện
đây chứng tỏ một đường lối chính trị nhân đạo để
ổn định đất nước sau chiến tranh, làm cho mọi người
cảm thấy yên tâm lao động xây dựng đất nước. Không chỉ
có thế. Nó còn thể hiện tấm lòng độ lượng của bản
thân những người lãnh đạo quốc gia đối với một bộ
phận dân tộc có lỡ lầm.Thêm vào đó, phải tổ chức lại
bộ máy hành chính nhà nước, mà đã bị quân sự hóa để
phục vụ chiến tranh. Mùa xuân tháng 2 năm Canh Dần (1290),
vua Trần Nhân Tông theo ĐVSKTT 5 tờ 58a5 đã “chọn quan văn
chia đi cai trị các lộ”, để thực hiện việc cai trị theo
pháp luật , từ đó tạo điều kiện sản xuất tốt cho người
dân.
Đồng thời
nhà vua tiến hành thanh tra công tác của các vị quan văn này.
ĐVSKTT 5 tờ 60b1-4 chép về vụ an phủ sứ Phí Mạnh do tham
ô mà bị đánh trượng và sau đó trở thành thanh liêm vào
năm 1292: “Cho Phí Mạnh làm An phủ sứ Diễn Châu. Tại chức
chưa bao lâu mà nổi chứng tham ô. Vua gọi về đánh trượng
rồi lại cho về trị sở lại được tiếng công bình thanh
liêm. Người châu Diễn có lời nói: ‘An phủ Diễn Châu trong
như nước’”. Vua Trần Nhân Tông cũng bổ nhiệm một số
người có thành tích tốt như Phùng Sỹ Chu làm hành khiển,
Trần Thì Kiến làm an phủ lộ Yên Khang. Bộ máy nhà nước
sau chiến tranh dần dần trở lại hoạt động bình thường
của nó với những viên chức hiểu biết luật pháp và có
khả năng tổ chức đời sống của dân.
Việc tổ
chức lại bộ máy hành chinh dân sự là cần thiết. Tuy nhiên,
không phải vì thế mà sẽ có sự bổ nhiệm nhiều viên chức
nhà nước và địa phương. Ta đã thấy ngay việc phong thưởng
những người có thành tích chiến đấu trong hai cuộc chiến
tranh giữ nước năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông còn giới
hạn, đến nỗi có những đòi hỏi phong thưởng thêm, mà
Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã phải giải thích. Huống
nữa là việc bổ quan phong tước.
Sau này ta
đã thấy vua Trần Nhân Tông, khi nhìn thấy quyển sổ bổ
quan phong tước của vua Trần Anh Tông có quá nhiều người,
vua Trần Nhân Tông đã phải thốt lên: “Sao lại có một
nước bé như bàn tay, mà phong quan tước nhiều đến thế”,
như ĐVSKTT 6 tờ 36a9 đã ghi. Tư tưởng chủ trương “quan
nhiều dân chết”, mà Ngô Thời Nhiệm sau này đã nêu lên,
phải nói là có nguồn gốc từ tư tưởng này của vua Trần
Nhân Tông. Có thể nói quan điểm nhà nước như một dịch
vụ, chứ không phải một nơi để khai thác làm giàu cho những
người có chức có quyền đã xuất hiện từ lâu tại nước
ta, chắc chắn là từ thời vua Trần Nhân Tông. Như thế, dù
việc dân sự hóa bộ máy hành chánh là cần thiết, nhưng
dứt khoát vua Trần Nhân Tông đã không để cho bộ máy này
trở thành một bộ máy cồng kềnh bòn rút máu mỡ của dân.
Cho nên, sau
đó thời tiết bất thuận lợi liên tiếp như “nắng mãi
từ mùa hạ tháng 6 đến mùa đông tháng 10” của năm 1289,
rồi “tháng 4 mùa hạ sông Tô Lịch chảy ngược (sông này
có mưa lớn thì nước to lên mà chảy ngược)” của năm
1290, qua năm 1291 thì đói to “ngoài đường nhiều người
chết đói”, vua ra lệnh “phát thóc không để chẩn cấp
cho dân nghèo và miễn thuế nhân đinh” như ĐVSKTT 5 tờ 58b4,
59a5-60a7 và 59b9 -60a1 đã chép. Thế mà khi Lương Tăng và Trần
Phu đến nước ta vào năm 1293, chúng đã thấy một đất nước
Đại Việt giàu đẹp với một nền nông nghiệp phát triển,
thương mại phồn vinh và công nghiệp sắc sảo.
Về nông
nghiệp, “lúa mỗi năm gặt bốn lần, tuy vào mùa đông rét,
mạ vẫn phơi phới” và những vườn dâu, chuối, nhãn, vải,
mít, dừa. v.vỢ xanh tốt. Còn về thương mại, thì không những
nền nội thương phát triển, “thôn xóm đều có chợ, mỗi
hai ngày họp một lần, trăm món tạp hóa đều dồi dào. Cứ
5 dặm thì dựng một ngôi nhà 3 gian, bốn mặt đều đặt
sạp để làm chỗ họp chợ”, “nước không có dự trữ,
chỉ trông cậy vào việc thuyền bè đến buôn bán” và sự
buôn bán này không chỉ ở trong nước mà còn với các nước
khác nữa. “phủ Tinh Hoa tức Hoan Châu đời Đường, cách
thành Giao Châu hơn 200 dặm. Thuyền bè các nước mọi ngoài
biển đeàu đến rất đông, buôn bán trên thuyền rất rộn
rịp”. Để có thể có một nền ngoại thương rộn rịp
như thế, Đại Việt không những phải có một nền nông nghiệp
phát triển, mà còn phải có một nền công nghiệp và thủ
công nghiệp sắc sảo.
Để có một
nền nông nghiệp và thương nghiệp phát triển phồn vinh như
thế chỉ sau bốn năm chiến tranh chấm dứt, nền công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp Đại Việt cũng phải phát triển
song song. Nền công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp này trước
mắt có nhiệm vụ xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.
Bao nhiêu dinh thự, thành quách, đình chùa và nhà dân bị quân
thù đốt phá. Bao nhiêu cầu cống, đường sá bị giật sập
cuốc bỏ vì yêu cầu chiến tranh. Thế mà khi Trần Phu đến
kinh đô Thăng Long, thấy chung quanh kinh thành đã có bốn chiếc
cầu bắc ngang. Trần Phu viết trong An Nam tức sự: “Giao Châu
không có thành quách, tường đất thấp tè mà thôi. Phía tây
có châu Hoa Phúc có sông vây quanh, phía trước có bốn cầu
là Mạc Kiều, Tây Dương, Ma Tha, Lão Biên để thông việc
ra vào”. Xa hơn kinh thành một chút, Trần Phu lại viết: “Từ
sứ quán đi sáu mươi dặm thì qua cầu An Hoá, lại một dặm
nữa thì đến phía bắc cầu Thanh Hóa. Trên cầu này có nhà
mười chín gian”.
Còn kinh thành
Thăng Long trong cuộc chiến tranh năm 1285, khi Thoát Hoan kéo
đến chiếm kinh thành, Nguyên sử 209 tờ 7a 12-13 đã tả sơ
lại cung điện như thế này: “Cung thất có năm cửa, trên
đề là cửa Đại Hưng hai bên có cửa nách, chính điện có
chín gian đề tên là Thiên An ngự điện, cửa chính nam đề
là Triều Thiên các”.
Cung thất này, theo ĐVSKTT 5 tờ
55a2, đã bị đốt cháy. Tuy nhiên, trong Trương thượng thư
hành lục, mà Lê Thực chép lại ở An Nam chí lược 3 tờ
46, Trương Lập Đạo đến sứ nước ta vào năm 1291 đã đặt
vấn đề là nếu Thoát Hoan đã đốt phá dinh thự cung thất
thì làm gì còn cung thất ở đây. Thực tế có khả năng bọn
Thoát Hoan đã đốt một số và sau đó chính quyền ta đã
xây dựng lại. Cho nên, khi đến nước ta vào năm 1293, tất
nhiên Trần Phu đã thấy đất nước Đại Việt, đặc biệc
là kinh đô Thăng Long đã có một bộ mặt mới xinh đẹp hơn.
Cũng trong
An Nam tức sự, Trần Phu đã tả lại nơi ở của vua ta như
thế này: “Cửa nó gọi là cửa Dương Minh, trên có gác gọi
là gác Triều Thiên, cửa nhỏ bên trái gọi là cửa Nhật
Tân, cửa nhỏ bên phải gọi là cửa Vân Hội. Bên trong cửa
có giếng trời rộng sâu mấy chục trượng, đi lên từ các
từng cấp thì dưới gác có biển đề điện Tập Hiền, trên
có gác lớn gọi là gác Minh Linh, con đường hành lang bên
phải để đến điện lớn gọi là điện Đức Huy, cửa bên
trái gọi là cửa Đồng Lạp, cửa bên phải gọi là cửa
Kiều Ứng. Các tấm biển đều viết bằng chữ vàng”.
Để xây
dựng các cầu và cung điện như thế, thì nền công nghiệp
sản xuất ngói gạch tất phải phát triển.
Trần Phu
đã tả lại loại ngói đặc biệt của Đại Việt lúc bấy
giờ: “Ngói hình như miếng ván, trên thì rất vuông nhưng
nhọn ở nửa dưới, giống như cái cân thóc xưa gác ngang
một nửa cây tre làm rui, dùng đinh tre đóng ngói vào trên
rui, từ cái diềm theo thứ lớp đè lên nhau cho đến nóc nhà,
đẹp mềm mại như vảy cá”. Không những sản xuất ngói
gạch đá cho xây dựng, từ xa xưa tổ tiên người Việt dùng
thuyền như người Hồ cưỡi ngựa. Đặc biệt là vào thời
kỳ Trần Nhân Tông với các trận thủy chiến Vân Đồn,Vạn
Kiếp, Bạch Đằng lẫy lừng cũng như việc buôn bán với
nước ngoài ở các cửa biển thì việc đóng thuyền trở
thành một ngành sản xuất được quan tâm hàng đầu. Trần
Phu không quên chú ý đến các chiến thuyền Đại Việt: “Thuyền
nhẹ và dài, ván rất mỏng, đuôi thuyền như cánh chim uyên
ương, hai bên nổi cao, dùng đến ba mươi tên lính để chèo,
phần lớn là có đến trăm tên, chạy nhanh như bay”.
Không những
về công nghiệp dân sự, công nghiệp quân sự cũng có những
phát triển mới. Trong trận đánh phòng ngự kinh thành Thăng
Long ta đã thấy quân Đại Việt vào năm 1285 đã dùng tới
pháo. Pháo đây là những máy bắn đá hay hỏa pháo sau này,
ta không thể xác định chắc chắn được. Điều rõ ràng
là quân Đại Việt đã sử dụng pháo trong những trận địa
chiến, như Nguyên sử đã ghi lại. Cũng thông qua hai cuộc
chiến tranh 1285 và 1288, nhiều tên tướng địch đã chắc
chắn là nhiều tên lính địch. đã bị trúng tên độc của
quân ta mà chết như A Bát Xích. Trong việc chế tạo cung tên,
giáo mác, gươm đao... như vậy đã được quan tâm. Nhưng cũng
trong An Nam tức sự, Trần Phu đã cho ta biết thêm một loại
vũ khí khác, mà sử sách ta cũng như Trung Quốc không thấy
nói tới, đó là nỏ nước hay thủy nỏ: “Nỏ nước, một
tên khác là xá sa, người bắn dùng hơi để bắn xa được
ba mươi bộ. Bắn trúng thì thấy có cái bóng màu hồng và
ngứa thì liền lấy dao khoét bỏ mảnh thịt đó đi. Không
thế thì ngứa cho đến chết “.
Tất nhiên
nền kinh tế Đại Việt vào thời Trần Nhân Tông không chỉ
sản xuất các vật liệu xây dựng các khí tài chiến tranh
mà còn sản xuất các loại hàng tiêu dùng như vải vóc, hương
liệu, các đồ trang sức... Chẳng hạn như loại hương long
nhụy, mà theo Trần Phu là “dùng nhụy hoa rồng hòa với dầu
an tức hương, rồi xe làm những thỏi nhỏ như chiếc đũa,
dài chừng một thước, rồi treo lên vách mà đốt cháy suốt
ngày không tắt. Hương rất trong thơm”.Các thứ vải vóc
thì đủ các loại lụa, là, quyến, thô, sồi, giấy, có nhiều
màu như xanh, vàng, tía, đỏ..., nhưng theo Trần Phu, người
dân đa số mặc vải đen.
Nói tóm lại,
nền kinh tế Đại Việt, sau hai cuộc chiến tranh, dù gặp
nhiều thiên tai như hạn hán kéo dài và mưa dầm nhiều tháng
nên có xảy ra mấy trận đói, nhưng qua đến đầu năm 1293
đã có những khởi sắc. Với những chính sách khôn khéo,
vua Trần Nhân Tông đã vực dậy nền kinh tế bị thiên tai
và địch họa tàn phá, làm cho đất nước có một bộ mặt
tươi đẹp, như Trần Phu đã mô tả trong bài An Nam tức sự
của y.
Bên cạnh
công cuộc tái thiết đời sống vật chất, tạo bộ mặt
tươi đẹp cho đất nước và con người, thì việc xây dựng
một đời sống tinh thần lành mạnh cho người dân cũng được
vua Trần Nhân Tông quan tâm một cách sâu sắc. Đó là gây
dựng một quá khứ thần thánh cho dân tộc bằng việc phong
thần cho những người có công với dân với nước như Phù
Đổng Thiên Vương, Sĩ Nhiếp, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử,
Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt v.v..
Trong hai đợt phong thưởng
cho những người có chiến công trong các cuộc chiến tranh
vệ quốc năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã không quên
tỏ lòng biết ơn những vị anh hùng đã khuất bằng cách
phong thưởng cho họ danh hiệu cao quý.
Sự kiện
này ta không thấy ĐVSKTT ghi lại. Nhưng may mắn thay Việt điện
u linh tập đã có chép. Tất nhiên, việc phong thần cho những
anh hùng và những ai có công với dân với nước trong quá
khứ không phải tới thời vua Trần Nhân Tông mới được
thực hiện. Lý Thái Tổ đã làm việc ấy đối với Phù Đổng
Thiên Vương là một thí dụ. Tuy nhiên đó là những việc
làm lẻ tẻ, chưa có tính cách hệ thống. Phải đợi đến
vua Trần Nhân Tông, công tác này mới được tiến hành một
cách đầy đủ. Lần đầu tiên, một thần điện Việt Nam
đã hình thành với những con người sống bằng xương bằng
thịt trong quá khứ, có sự tích, có hành trạng, chứ không
chỉ gồm những vị thần, vị thánh từ nước ngoài đưa
vào, hay được tưởng tượng ra ở trong nước.
Căn cứ vào
những ghi chép của Lý Tế Xuyên trong Việt điện u linh tập,
27 vị được phong thưởng trong những năm Trùng Hưng thứ
nhất (1285) và Trùng Hưng thứ 4 (1288), rõ ràng các vị thần
Việt Nam đến thời vua Trần Nhân Tông đã lên tới con số
không phải ít. Qua những ghi chép về việc phong thưởng này,
ta có thể giả thiết khi viết Việt điện u linh tập, Lý
Tế xuyên đã dựa vào những hồ sơ của các vị thần mà
triều đình đã hoàn tất để trình cho vua Trần Nhân Tông
phong thưởng. Cần nhớ là căn cứ vào lời tựa của chính
Lý Tế Xuyên, thì ông đã từng giữ chức Thủ Đại Tạng
thư văn chính chưởng trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển
vận sứ, tức một chức vụ có liên hệ ít nhiều với Phật
giáo. Việc phong thần cho 27 anh hùng liệt nữ và những thần
núi, thần sông, thần đất cho ta thấy ý đồ của vua Trần
Nhân Tông gầy dựng một quá khứ anh hùng và thần thánh cho
dân tộc ta, dùng những tấm gương anh hùng liệt nữ và thần
thánh đó để giáo dục cho nhân dân ta sống xứng đáng với
tổ tiên, đất nước mình.
Có thể nói chủ nghĩa yêu
nước và anh hùng Việt Nam đã được phát huy cao độ vào
thời đại Trần Nhân Tông với sự góp sức cho quá khứ thần
thánh vừa nói. Không có quá khứ đó, việc phát huy không
thể dễ dàng. Đây có thể là một đóng góp to lớn về đời
sống tư tưởng của vua Trần Nhân Tông với dân tộc ta.
Cùng lúc
với việc tiến hành các biện pháp nhằm gầy dựng lại đời
sống vật chất và tinh thần ấm no cho người dân sau chiến
tranh, ngay khi đám bại tướng Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích đã
tháo chạy về được bên kia biên giới và đóng quân tại
Tư Minh của Quảng Tây vào ngày Nhâm Dần 18 tháng 3 năm Mậu
Tý, vua Trần Nhân Tông lại bắt đầu thực hiện chính sách
ngoại giao mềm dẻo và khôn khéo nhằm vừa đè bẹp ý chí
xâm lược của kẻ thù, vừa duy trì hoà bình cho đất nước.
Vào ngày Nhâm Dần đó, Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3a9
cho biết vua Trần Nhân Tông “đã sai sứ đến tạ tội và
dâng người vàng để thay thế bản thân mình”. Sự kiện
này không thấy sử ta ghi, nhưng An Nam chí lược 14 tờ 140
của tên Việt gian Lê Thực có đề cập tới và ghi rõ tên
họ của những người đi trong phái bộ này.
Nó viết:
“Mùa xuân năm Chí Nguyên Mậu Tý (1288), Trấn Nam Vương rút
quân về, Thế tử sai cận thị quan Lý Tu và Đoàn Khả Dung
cống phương vật tạ tội”. Khi viết vào mùa xuân Thoát
Hoan rút quân về, và vua Trần Nhân Tông đã gửi Lý Tu và
Đoàn Khả Dung đi sứ qua Nguyên, An Nam chí lược chắc chắn
nói tới thời điểm tháng 3, cụ thể là ngày Nhâm Dần 18,
bởi vì trong mùa xuân ấy, ngoài phái bộ vừa nêu, vua Trần
Nhân Tông và triều đình Đại Việt không thấy cử bất cứ
phái bộ nào khác. Đây chắc hẳn là một phái bộ đi thăm
dò, tìm hiểu thái độ và tình hình của địch sau khi ta đã
quét sạch quân chúng ra khỏi bờ cõi.
Quả vậy,
đúng một tháng sau khi khải hoàn về kinh đô Thăng Long, ngày
Canh Thìn, 27 tháng 4 năm Mậu Tý, vua Trần Nhân Tông đã sai
trung đại phu Trần Khắc Dụng đi cống phương vật, như Bản
kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3b13-4a1 đã ghi. An Nam chí lược
không nói tới phái bộ này. Tuy nhiên Thiên Nam hành ký của
Từ Minh Thiện trong Thuyết phu 51 tờ 18b4-19b6 chép lại lá
thư vua Trần Nhân Tông gửi cho Hốt Tất Liệt. Qua lá thư
này, ta thấy phái bộ Trần Khắc Dụng không chỉ đơn giản
đi cống phương vật, mà thực sự mang nhiệm vụ đi đấu
tranh ngoại giao, để đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù.
Trong lá thư
này vua Trần Nhân Tông đã chỉ rõ nguyên nhân vì sao chiến
tranh xảy ra và kể tội kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh đó.
Vua Trần Nhân Tông viết: “Năm Chí Nguyên thứ 23 (1286), bình
chương A Lý Hải Nha tham công ngoài biên giới, làm trái Thánh
chỉ. Do thế, tiểu quốc sinh linh một phương phải chịu lầm
than. (....).
Mùa đông
năm Chí Nguyên thứ 24 (1287) lại thấy đại quân thủy bộ
đều tiến sang, thiêu đốt chùa chiền khắp nước,
đào bới
mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá
sản nghiệp trăm họ, các hành động tàn nhẫn phá phách không
gì là không làm (...). Tham chính Ô Mã Nhi lâu nắm binh thuyền
riêng ra ngoài biển, bắt hết biên dân vùng biển,
lớn
thì giết chết, nhỏ thì bắt đi, cho đến cả treo trói xẻ
mổ, mình đầu khắp chốn. Trăm họ bị bức tới chỗ chết,
bèn
dấy lên cái họa con thú chân tường”.
Nguyên nhân
của 2 cuộc chiến tranh vừa qua như vậy theo Trần Nhân Tông
là do đám tướng chỉ huy ở biên giới muốn lập công gây
nên, chứ không phải do chính bản thân Hốt Tất Liệt chỉ
xúy. Rõ ràng, đây là một chiến thuật ngoại giao khôn khéo
nhằm giữ thể diện cho Hốt Tất Liệt, không làm nó mất
mặt vì đã chủ trương xâm lược nước ta và đã hoàn toàn
thất bại. Không những thế, đoạn văn vừa nêu ta thấy hừng
hực một khí thế tố cáo và lên án tội ác kẻ thù. Nó
đúng là bản luận tội chính Hốt Tất Liệt vì chính sách
gây chiến tàn ác của y, chứ không phải chỉ tố cáo tội
ác diệt chủng dã man của đám tướng tá, mà y sai đi xâm
lược Đại Việt. Có thể nói đây là một trong những văn
bản lên án tội ác của chiến tranh xưa nhất không chỉ của
dân tộc ta, mà còn của thế giới.
Càng lên
án chiến tranh và tội ác của chiến tranh, thì người lên
án phải tỏ ra mình là một người có lòng nhân hậu rộng
lượng bao la. Họ biết rằng không thể dùng chiến tranh để
vĩnh viễn dập tắt chiến tranh, mà phải có phương sách khác.
Đó là lòng nhân ái, nhân hậu. Phải nói đây là một trong
những tác động sâu xa của giáo lý Phật giáo trong cung cách
hành sử việc đời không chỉ đối với Trần Nhân Tông,
mà còn đối với toàn bộ dân tộc ta lúc ấy, từ những
tướng lĩnh cao cấp nhất như Trần Hưng Đạo, Trần Quang
Khải cho đến những người lính người dân bình thường.
Và thực tế trong lá thư ấy, sau khi lên án tội ác trời
không dung đất không tha của đám tướng tá nhà Nguyên trong
hai cuộc chiến tranh vừa qua, vua Trần Nhân Tông chủ động
biểu thị lòng nhân ái của mình bằng cách tha các tù binh,
mà ta bắt được trong hai cuộc chiến vừa qua.
Lá thư năm
1288 vua Trần Nhân Tông viết: “Thấy trăm họ đưa đến một
người là đại vương Tích Lệ Cơ, nói là bậc quý thích
của đại quốc, Thần từ hôm đó đã lấy lễ đối đãi
rất mực tôn trọng. Kính hay không kính thì đại vương tất
rõ. Còn những hành vi tàn bạo của Ô Mã Nhi, đại vương
trông thấy tận mắt, vi thần không dám nói dối. Tiểu quốc,
thủy thổ độc, viêm chướng nhiều, thần lo ở lại lâu
ngày sinh ra bệnh tật. Tuy vi thần có hết sức phụng dưỡng,
cũng không khỏi bị những bọn tham công ngoài biên giới vu
tấu đặt điều cho nên tội. Vi thần kính xin sắm đủ lễ
vật đi đường, sai người đến biên giới đưa đại vương
về nước (.....). Ngoài ra, đại quân rơi rớt lại còn hơn
nghìn người, thần đã ra lệnh cho trở về hết. Sau này,
nếu còn tìm được người nào, thần cũng sẽ cho về”.
Rõ ràng dù
bọn tướng tá ở biên giới do tham công mà gây chiến, thì
tội ác chúng cũng đáng để bị trừng trị vì không chỉ
chúng đã manh động gây chiến, mà còn phá hoại sự sống
hòa bình của những cộng đồng dân tộc khác. Và đấy là
chưa kể những hành động tàn ác dã man vừa giết người
đốt nhà cướp của, thậm chí “treo trói, xẻ, mổ cắt,
đầu mình khắp chốn” đối với dân lành của chúng. Đứng
trước những tội ác và hành động dã man như vậy, thế
mà khi bắt sống được chúng, dân tộc ta vẫn tỏ lượng
bao dung nhân ái, tha chết cho chúng để chúng có thể về đoàn
tụ với gia đình cha mẹ vợ con. Người Việt thời bấy giờ
hình như có một cảm nhận tinh tế sâu sắc biết rung động
trước những nổi khổ của kẻ khác. Thực tế, ít có dân
tộc nào có được một bài thơ thương tới cả kẻ thù của
chính mình. Thế mà dân tộc ta vào thời đó đã có bài thơ
Thương kẻ thù bị bắt của trạng nguyên Lý Tải Đạo mà
sau này đã trở thành thiền sư Huyền Quang (1254-1334):
Chích
máu thành thư muốn gửi lời
Lẻ bay nhạn
buốt ải mây khơi
Đêm nay
mấy kẻ nhìn trăng nhỉ
Đôi ngã
lòng chung một vợi vời
(Khóa huyết
thư thành dục ký âm
Cô phi hàn
nhạn tái vân thâm
Kỷ gia sầu
đối kim tiêu nguyệt
Lưỡng xứ
mang nhiên nhất chủng tâm)
Cho nên, tấm
lòng nhân ái không chỉ bộc lộ trong những người lãnh đạo
quốc gia, mà đôi khi vì quyền lợi của đất nước họ phải
biểu thị rõ ràng thông qua chính sách hoặc thơ văn. Tấm
lòng nhân ái đó còn bàng bạc trong tâm hồn những người
dân bình thường, mà Lý Tải Đạo là một thí dụ. Chậm
lắm thì năm 1288, khi cuộc chiến tranh chấm dứt và trong tay
quân đội ta có những đám tù binh của giặc, Lý Tải Đạo
lúc ấy mới 34 tuổi, có thể vừa đậu trạng nguyên và chắn
chắn đã tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc những năm 1285
và 1288. Thế mà đứng trước những con người mới vừa phút
trước có thể giết mình, bây giờ đang nằm trong tay mình,
Lý Tải Đạo không ngăn nổi lòng thương cảm đối với những
con người ấy, xúc động trước nỗi khổ, nỗi buồn xa cách
của họ. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc ta mà lòng căm
thù giặc sôi sục như thời đánh Nguyên với hai chữ Sát
Thát thích vào cánh tay của từng người lính.
Nhưng cũng
chưa bao giờ lòng thương người lại phát huy cao độ, lại
xúc cảm đến nỗi viết thành thơ như thời quân dân ta đánh
giặc Nguyên này.
Vì vậy,
việc vua Trần Nhân Tông đề nghị và thả các tù binh ta đã
bắt được, không chỉ thể hiện một sách lược ngoại giao
mềm dẻo, nhân hậu, mà còn bộc lộ tình thương đối với
từng con người một trong từng cảnh khổ của họ của dân
tộc ta, trong đó có bản thân vua. Truyền thống thương người
này, hơn một trăm năm sau, vị anh hùng dân tộc Lê Lợi lại
có dịp kế thừa và phát huy bằng việc thả tự do cho hơn
mấy vạn quân Minh về nước. Không những thế vua Lê Lợi
còn sửa đường, làm cầu, cung cấp thuyền bè, xe ngựa, lương
thực đeå cho đám tù binh ấy được về nhà an toàn khỏe
mạnh. Cho nên, dù trong văn bia của Lý Thiên Hựu có nói đến
cảnh Hựu “bị bắt liền cắt ngắn tóc, hoặc không cho
ăn, lăng nhục khốn khổ muôn bề”, thì trường hợp này
nếu có, cũng chỉ là một trường hợp cá biệt, đặc biệt
trong bối cảnh Ô Mã Nhi cho quật mộ của chính vua Thái Tông.
Sáu tháng
sau phái bộ của Trần Khắc Dụng, vua Trần Nhân Tông gửi
tiếp phái bộ Đỗ Thiên Hứ, như ĐVSKTT 5 tờ 56a4 đã ghi:
“Mùa đông tháng 10, sai Đỗ Thiên Hứ đi sang Nguyên (Thiên
Hứ là em của Khắc Chung). Đỗ Khắc Chung đi sứ quân Nguyên
có công đến đó bèn tiến cử em là Thiên Hứ. Vua y theo”.
Sứ bộ này không thấy Nguyên sử và An Nam chí lược ghi lại.
Phải nói đây là những động thái ngoại giao làm dịu bớt
tình hình, nhất là sau khi ta đã thắng lớn qua hai cuộc chiến
tranh, tiêu diệt hay bắt sống gần hết những tên tướng
chỉ huy dày dạn kinh nghiệm của hai cuộc chiến tranh ấy
như Toa Đô, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Đường Ngột Đãi, A Bát
Xích.v.v.
Sau ba phái
bộ của ta, ngày Kỷ Hợi 18 tháng 11 năm Mậu Tý, Hốt Tất
Liệt mới cử một phái bộ của mình do Lý Tư Diễn cầm
đầu với mục đích đòi vua ta vào chầu và đe dọa nếu
không vào chầu thì sẽ đem quân tiến đánh, như Bản kỷ
của Nguyên sử 15 tờ 7a5-6 đã ghi: “Ngày Kỷ Hợi (tháng
11) sai Lý Tư Diễn làm lễ bộ thị lang sung Quốc tín sứ,
lấy Vạn Nô làm binh bộ lang trung làm phó, cùng đi sứ An
Nam, đem chiếu bảo Trần Nhật Huyên từ thân vào chầu. Nếu
không thì chắc chắn sẽ bị đem quân đánh lần nữa”. Phái
bộ đầu tiên này như vậy chỉ có Lý Tư Diễn và Vạn Nô,
chứ không có tên của Lưu Đình Trực, mà các tư liệu khác
đều có ghi với tư cách trưởng đoàn.
Thứ nhất,
An Nam chí lược 3 tờ 45 chép thêm tên Lưu Đình Trực vào:
“Chí Nguyên năm thứ 26 (1288) sai Đề hình án sát sứ đạo
Sơn Bắc Lưu Đông Lưu Đình Trực, lễ bộ thị lang Lý Tư
Diễn, binh bộ thị lang Vạn Nô, sứ ta là bọn Nguyễn Nghĩa
Toàn trở về nước tuyên đọc chiếu vua”. Tiếp đến, An
Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a7-8 ghi:
“Tháng
11 (năm Chí Nguyên 25, 1288) lấy bọn Lưu Đình Trực, Lý Tư
Diễn, Vạn Nô đi sứ An Nam, đem chiếu bảo Nhật Huyên vào
chầu”. Và cuối cùng Thiên nam hành ký của Từ Minh Thiện
trong Thuyết phu 51 tờ 21a2 không những ghi tên Lưu Đình Trực,
mà còn ghi cả tên Đường Ngột Đãi (Tangutai), Cáp Tán Lạt
(Qasar) và Ung Cáp Lạt Đãi (Onggiradai) và bản thân Từ Minh
Thiện với tư cách tham nghị trung thư.
Đây là một
phái bộ lớn có nhiệm vụ thực hiện hai yêu sách của Hốt
Tất Liệt là đòi vua Trần Nhân Tông vào chầu và đòi vua
thả hết các tù binh nhà Nguyên, đặc biệt là Ô Mã Nhi, đồng
thời đem lời giải thích của Hốt Tất Liệt về nguyên do
cuộc chiến tranh. Đây là nhằm đáp lại ba vấn đề, mà
vua Trần Nhân Tông đã nêu ra trong lá thư của mình do phái
bộ Trần Khắc Dụng của ta đem qua cho Hốt Tất Liệt. Đọc
những lời đáp lại dưới đây trong lá thư của hắn gửi
cho vua ta, mới thấy các phái bộ ngoại giao của ta đã thực
hiện nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao kiên trì và đầy khó
khăn như thế nào.
Về nguyên
do cuộc chiến tranh, Hốt Tất Liệt đổ hết mọi trách nhiệm
lên vua Trần Nhân Tông. Lời chiếu của hắn đã được tên
Việt gian Lê Thực chép nguyên văn trong An Nam chí lược 2 tờ
36 và Từ Minh Thiện sao lại trong Thiên nam hành ký, nói rõ:
“Ta coi muôn nước, cả đức lẫn uy đều dùng. Ngươi tiếng
là hướng theo, nhưng thực chưa đến chầu. Nhiều lần có
thư mời lại lấy cớ đau mà từ chối. Đến khi sai chú ngươi
tạm giữ nước thì ngươi công nhiên chống trái, dám làm
chuyện chuyên giết. Còn đến việc A Lý Thái Nha đi đánh
Chiêm Thành, tới nước ngươi mượn đường truyền sửa đến
cầu, chuyển vận cỏ thóc, ngươi không những thất tín mà
còn cự lại quân ta.
Việc như thế, nếu không đánh,
phép vua còn đâu ? Dân nát nước tan, thực sự ngươi gây
lấy”.
Còn về việc
vào chầu, Hốt Tất Liệt vừa dở giọng thuyết phục vừa
đưa lời đe dọa: “Nếu quả có lòng thành, sao không đến
đây gặp mặt bày tỏ? Sao có chuyện nghe sai tướng đến
thì lại lo trốn chạy. Hễ thấy rút quân thì lại lên tiếng
vào cống. Lấy chuyện ấy mà thờ kẻ trên, lòng giả dối
có thể biếữt được. Ngươi thử nghĩ nếu cứ sống lẻn
lút trên non, dưới biển lúc nào cũng lo tai họa bị quân
tiến đánh, thì sao bằng vào sân vua chịu mệnh để hưởng
ân sủng quang vinh mà trở về. Trong hai chước đó, chước
nào hay chước nào dở ? (...) nếu ngươi sửa soạn sang ngay,
tỏ đủ nghĩa bề tôi, thì ta sẽ tha hết lỗi trước, phục
hồi cho ngươi các tước phong cũ. Nếu còn chần chừ nghi
ngại thì dứt khoát khó mà tha thứ. Hãy sửa sang thành quách
ngươi, mài giũa binh giáp ngươi, cho các ngươi tự ý làm,
chờ ta đưa quân tới”.
Còn việc
đòi thả tù binh, thì vì vua Trần Nhân Tông đối đãi tử
tế đối với Tích Lệ Cơ, Hốt Tất Liệt chỉ ra rằng “Ngươi
biết Tích Lệ Cơ vốn là thuộc loại bà con ta mà dùng lễ
đưa về. Nhưng y là người có lỗi phải bị đi đày. Nếu
lấy chuyện ấy mà tô vẽ thì hãy đem bọn quan quân Ô Mã
Nhi, Toa Đô trả về như thế mới tỏ được lòng trung thuận.
Ngày tiếp được chiếu thư này, bọn quan quân Ô Mã Nhi phải
cùng đến một lúc. Bọn ấy nếu có việc gì cần xử lý,
ta sẽ xử lý hoàn bị. Ngươi hãy đưa trả bọn họ về đầy
đủ”. Việc Hốt Tất Liệt nêu cụ thể tên Ô Mã Nhi, rõ
ràng là nhằm trả lời những tố cáo về tội ác của Ô
Mã Nhi, mà vua Trần Nhân Tông đã nêu ra trong lá thư của mình.
Thực tế, hắn là tên tướng khét tiếng tàn ác, đã giết
người, đốt nhà, cướp của, đào mồ tại vùng Thiên Trường,
như đã thấy trên.
Dù có những
lời kết tội, yêu sách và đe dọa vừa nêu, vua Trần Nhân
Tông vẫn tỏ ra bình tĩnh, vui vẻ tiếp đãi đám sứ thần
nhà Nguyên, như Từ Minh Thiện đã ghi lại trong Thiên nam hành
ký của Thuyết phu 41 tờ 4b-5a:
“Ngày 28 tháng 2 năm Kỷ
Sửu (Chí Nguyên) 26 (1289) đến cửa thành nước ấy, em thế
tử là thái sư ra đón..., rồi lên ngựa về quán dịch. Ngày
29, thế tử và sứ giả gặp nhau. Sau quán dịch có nhà lầu,
Thế tử đi cửa sau vào trước trong nhà, mở cửa giữa mời
sứ vào, chào hỏi chúc mừng nhà vua muôn tuổi, sứ giả đi
đường bình yên. Ngày mồng 1 tháng 3, đem đủ cờ xí, tán
vàng, kèn trống, đón chiếu thư vào vương thành. Đến cửa
điện thì xuống ngựa rồi vào. Đó là điện Tập Hiền,
làm lễ xong đãi yến sứ giả hai ngày”. Đào Tông Nghi trong
Chuyết canh lục 4 mục Sứ Giao Chỉ
còn chép việc vua
Trần Nhân Tông đã cho vàng đám sứ giả này. An Nam chí lược
17 tờ 159 cũng ghi việc vua Trần Nhân Tông đem vàng bạc biếu
cho Lý Tư Diễn.
Nói chung,
đám sứ giả được tiếp đãi tử tế, thậm chí hậu hĩnh.
Nhưng mọi yêu sách của Hốt Tất Liệt đều bị từ chối.
Đám sứ giả đã ra về tay không. Vua Trần Nhân Tông đã không
qua chầu, còn Ô Mã Nhi thì chỉ đi theo vợ con hắn về trong
một chiếc lọ gốm. Việc Ô Mã Nhi chết ĐVSKTT 5 tờ 56a6-8
viết như sau: “Mùa xuân tháng 2 năm Kỷ Sửu (1289), sai nội
thư gai Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước, dùng kế
của Hưng Đạo Vương, cho người giỏi bơi lội làm phu chèo,
ban đêm dùi thuyền cho chìm, bọn Ô Mã Nhi đều chết đuối
cả”. Vậy mà trong thư mình viết cho Hốt Tất Liệt và giao
cho phái bộ Đặng Minh và Chu Anh Chủng mang qua Đại Đô, vua
Trần Nhân Tông đã kể lại cái chết của Ô Mã Nhi thế này:
“Tham chính
Ô Mã Nhi định ngày sẽ về tiếp sau. Vì đường về ngang
qua Vạn Kiếp, nên ông ta xin tới gặp Hưng Đạo để sắm
sửa hành lý. Dọc đường ban đêm thuyền bị vấp, nước
tràn vào. Tham chính mình to vóc lớn, khó bề cứu vớt, thành
ra bị chết đuối. Phu thuyền của tiểu quốc cũng bị chết
hết. Thê thiếp tiểu đồng của ông ta cũng suýt chết, nhưng
nhờ người thon nhẹ nên cứu thoát được. Vi Thần đã chôn
cất ma chay ở bờ biển. Thiên sứ lang trung đã tận mắt
thấy. Nếu có sự gì bất kính, thì thê thiếp của tham chính
ở đó khó mà che giấu được. Vi Thần đã sắm đủ lễ
vật để đưa thê thiếp cùng với xá nhân lang trung về nước”.
Việc về
nước của Ô Mã Nhi là như thế. Và cái chết của Ô Mã Nhi
cũng như thế. Tất nhiên dù Ô Mã Nhi có bị chết thế nào
đi nữa thì cũng trong lá thư đó Trần Nhân Tông hứa thả
về hơn 8 nghìn người. Vậy chỉ hơn nửa năm sau khi quét
sạch quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, gần một vạn quân địch
đã được chính quyền ta thả tự do cho về nước. Phải
nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc cả một
số lượng lớn quân thù có nợ máu với dân tộc, đã được
phóng thích. Sự kiện này tạo nên tiền lệ, mà sau này người
anh hùng dân tộc Lê Lợi đã áp dụng cho việc xử lý đoàn
quân của Vương Thông ở Đông Quan. Chính sách nhân đạo của
vua Trần Nhân Tông kết hợp với các chiến thắng Tây Kết,
Bạch Đằng vang dội, tiêu diệt phần lớn các tên tướng
dày dạn kinh nghiệm của quân đội nhà Nguyên, đã một phần
nào làm nhụt ý chí xâm lược của Hốt Tất Liệt.
Vấn đề
có tiến công Đại Việt để trả thù nữa hay không, Hốt
Tất Liệt chắc chắn đã bàn cãi với các cận thần của
mình như thừa tướng Hoàn Trạch (Oljôi) và bình chương Bất
Hốt Mộc (BigmiỊ). Họ đều đồng thanh khuyên nên dùng biện
pháp ngoại giao bằng cách đề nghị đưa Trương Lập Đạo
đi sứ Đại Việt, như Trương Lập Đạo truyện của Nguyên
sử 167 tờ 2a13-b2 đã ghi. Thế là nhân cái chết của vua Trần
Thánh Tông vào ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), tháng 8 vua
Trần Nhân Tông cử Ngô Đình Giới sang báo tang. Tháng 9 năm
sau vua lại cử phái bộ Nghiêm Trọng Duy và Trần Tử Trường
qua Nguyên “cống phương vật và tạ tội không vào chầu”,
như Bản kỷ của Nguyên sử 16 tờ 11b8-9 và An Nam chí lược
14 tờ 140 đã ghi. Tháng 10 năm đó Hốt Tất Liệt sai Trương
Lập Đạo đến nước ta.
Nhiệm vụ
của phái bộ Trương Lập Đạo cũng không có gì khác trước.
Đó là làm thế nào thuyết phục vua Trần Nhân Tông vào chầu.
Trương Lập Đạo được tiếõp đãi ân cần “có đại nhạc
tấu ở điện hạ, tiểu nhạc tấu ở điện thượng, la liệtý
các thứ rượu, các loại trái cây quý lạ và các món ăn
cá thịt, hải vị đãi đủ tám bàn, thỉnh thoảng mời ăn
cau trầu têm với vôi hàu. Vua luôn luôn tiếp lời, làm thơ
để tặng. Lập Đạo ngay tại bàn tiệc làm thơ đáp lại”.
Lập Đạo tuy có kinh nghiệm ở Đại Việt nhiều lần, nhưng
vẫn thất bại trong nhiệm vụ này. Vua Trần Nhân Tông vẫn
từ chối vào chầu, đặc biệtử sau hai lần đánh tan quân
xâm lược những năm 1285 và 1288.
Tháng 6 năm
Nhâm Thìn (1292), Trương Lập Đạo trở về nước, vua Trần
Nhân Tông đã sai Nguyễn Đại Phạp và Hà Duy Nhan đi sứ sang
Nguyên, mà theo ĐVSKTT 5 tờ 60a8-9 là nhằm để từ chối vào
chầu vì vua Trần Nhân Tông đang có tang. ĐVSKTT 5 tờ 61a8-b4
kể chuyện khi Nguyễn Đại Phạp đến sảnh đường của
Ngạc Châu, gặp Trần Ích Tắc ở đấy mà không thèm chào
hỏi. Ích Tắc nói: “Ngươi có phải là kẻ chép sách ở
nhà Chiêu Đại Vương không”.
Đại Phạp
trả lời: “Việc đời thay đổi. Tôi trước là kẻ chép
sách cho Chiêu Đại Vương, nhưng nay là sứ giả, cũng như
Bình Chương xưa là con vua, nhưng nay là kẻ đầu hàng giặc”.
Rồi ĐVSKTT kết luận: “Ích Tắc có vẻ thẹn. Từ đó sứ
ta đến không còn thấy Ích Tắc ngồi ở sảnh đường nữa”.
Sau khi Trương
Lập Đạo thất bại trong nhiệm vụ thuyết phục vua Trần
Nhân Tông vào chầu thì 3 tháng sau, tức tháng 9 năm Nhâm Thìn
(1292) Lương Tăng và Trần Phu được cử đem thư của Hốt
Tất Liệt đến đòi tiếp. ĐVSKTT 5 tờ 63a2-3 cho biết lý
do vua không chầu được vì đang có bệnh và cử Đào Tử
Kỳ đem sản vật địa phương sang biếu.
Khi bọn Lương
Tăng chưa về, thì ngày Kỷ Tỡ tháng 7 năm Chí Nguyên 30 (1293)
Hốt Tất Liệt đã “sai Lưu Quốc Kiệt theo chư vương Diệc
Cát Lý (Đãi, Ikirôdai) cầm các quân đi đánh Giao Chỉ”,
như Bản kỷý của Nguyên sử 17 tờ 11a5 đã ghi. Nhà Nguyên
giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập Hồ Quảng An Nam hành tỉnh,
lấy bọn bình chương Lưu Nhị Bạt Đô dẫn quân đóng ở
Tỉnh Giang đợi tiến đánh, như An Nam truyện của Nguyên sử
209 tờ 10b3-10 đã viết:
“Năm (Chí
Nguyên) 30 (1292) bọn Lương Tăng đi sứ về, Nhật Tôn sai bọn
bồi thần Đào Tử Kỳ đến cống. Đình thần cho Nhật Tôn
rốt cuộc không vào chầu, lại bàn đánh Giao Chỉ, bèn bắt
giữ Tử Kỳ ở lại Giang Lăng. Vua sai Lưu Quốc Kiệt cùng
bọn chư hầu vương Diệc Lý Cát Đãi (đúng ra phải viết
Diệc Cát Lý Đãi, Ikirôdai, LMT) cùng đánh An Nam, ra lệnh đến
Ngạc Châu cùng bàn với Trần Ích Tắc. Tháng 8, bọn bình
chương Bất Hốt Mộc (Bi ?miỊ) tâu đặt Hồ Quảng An Nam
hành tỉnh, cấp hai ấn, cho đóng một ngàn chiếc thuyền trăm
hộc, dùng quân 56.570 người, lương 35.000 thạch, thức ăn
cho ngựa 20.000 thạch, muối 210.000 cân, dự cấp bổng phụ
cho quan quân và cấp cho quân nhân và thủy thủ mỗi người
hai đỉnh tiền, khí giới gồm hơn 700.000. Quốc Kiệt lập
bộ chỉ huy gồm 11 người, thủy bộ chia đường cùng tiến.
Lại lấy phó sứ của Giang Tây hành khu mật viện là Triệt
Lý Man (Côriman) làm hữu thừa theo đi đánh An Nam. Bọn Trần
Nham, Triệu Tu Kỷ, Vân Tùng Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng,
cũng được lệnh cùng giúp Ích Tắc theo quân đến Trường
Sa”.
An Nam chí
lược 4 tờ 56 cũng viết tương tự: “Chí Nguyên Quí Tỡ
(1293) sai tướng Đào Tử Kỳ sang cống. Vua cho nhiều lần
gọi không vào chầu, giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam
hành tỉnh, sai Lưu Quốc Kiệt cùng chư hầu vương Y Dĩ Cát
Đạt đem quân đi đánh. Đại vương Ích Cát Lý Đãi (Ikirôdai)
tổng chỉ huy. Mùa đông ấy đóng quân ở tỉnh Giang, đợi
mùa thu sang năm thì sẽ tiến đánh”. Và trong khi ở Tỉnh
Giang, Lưu Quốc Kiệt bắt đầu gây sự với nước ta bằng
cách gửi thư cho vua Trần Nhân Tông về việc Đại Việt chi
viện cho nghĩa quân Hoàng Thánh Hứa ở Quảng Tây, và nguyên
văn còn chép trong An Nam chí lược 5 tờ 64-66.
Tuy
nhiên,
ngày
Quí
Dậu
tháng
giêng
năm
sau,
Hốt
Tất
Liệt
chết.
Nguyên
Thành
Tổ
lên
ngôi.
Kế
hoạch
xâm
lược
nước
ta
bị
bãi
bỏ.
Đào
Tử
Kỳ
được
trở
về
nước.Thế
là
chấm
dứt
mọi
kế
hoạch
gây
chiến
với
nước
ta.
Cuộc
đấu
tranh
để
bảo
vệ
hòa
bình
đã
đi
đến
hồi
thắng
lợi.
Nhân
dân
Đại
Việt
có
thể
yên
ổn
làm
ăn.
Mùa
xuân
ngày
9
tháng
3
năm
Qúy
Tỡ
(1293)
vua
Trần
Nhân
Tông
nhường
ngôi
lại
cho
con
mình
là
hoàng
thái
tử
Thuyên
và
lên
làm
Thái
Thượng
hoàng.