--o0o--
CHƯƠNG
III
VUA TRẦN
NHÂN TÔNG
VÀ CUỘC
CHIẾN TRANH VỆ QUỐC NĂM 1285
Ta đã thấy
ngay vào năm 1279, khi Trần Nhân Tông lên ngôi ở Đại Việt
và khi nhà Tống bị tiêu diệt ở Trung Quốc, Hốt Tất Liệt
liền ra lệnh đóng chiến thuyền tiến đánh Đại Việt, ý
chừng muốn thừa thắng xông lên, sử dụng đội quân bách
chiến bách thắng, đè bẹp sức chiến đấu của dân tộc
ta. Tuy nhiên, do rút kinh nghiệm trong cuộc chiến 1258, lần
này Hốt Tất Liệt chuẩn bị phương hướng và sách lược
kỹ càng hơn với việc cho Toa Đô tiến đánh Chiêm Thành vào
năm 1282 để làm gọng kìm phía nam cùng với hai gọng kìm
đông bắc và tây bắc, nhằm bóp nát Đại Việt.
Thực tế
ta sẽ thấy cuộc chiến sẽ xảy ra theo hướng đúng như thế,
nhưng kết quả hoàn toàn khác.
Hốt Tất
Liệt chuẩn bị cuộc chiến năm 1285
Sau thất
bại của việc áp đặt chính quyền bù nhìn Trần Di Ái lên
nước ta vào cùng năm 1282, Hốt Tất Liệt vẫn kiên trì chờ
đợi thắng lợi từ chiến trường Chiêm Thành. Nhưng chiến
thắng đã không bao giờ xảy ra, như Bản kỷ của Nguyên sử
13 tờ 2b2-3 và 2b9-11 đã ghi nhận về sự tan rã của đội
quân Toa Đô từ Chiêm Thành chạy về Trung Quốc và “bình
chương của Hồ Quảng hành tỉnh là A Lý Hải Nha xin tự thân
mình đến bờ biển thu thập đám quân tan rã từ Chiêm Thành”.
Quân dân Chiêm Thành đã tiến hành một cuộc kháng chiến
trường kỳ, vừa đánh vừa đàm, dìm đội quân Toa Đô trong
vũng lầy của chiến tranh du kích tại một đất nước nhiệt
đới.
Chờ mãi
không thấy chiến thắng, mà chỉ thấy thư yêu cầu viện
binh, Hốt Tất Liệt ngày Đinh Sửu 28 tháng 5 năm Chí Nguyên
21 (1284) đã tước hổ phù của Ô Mã Nhi do thất bại trong
khi đem quân đi tiếp viện cho Toa Đô. Rồi đến ngày Mậu
Tý 12 tháng 7 năm đó ra lệnh cho con là Thoát Hoan chính thức
cầm quân đánh Chiêm Thành như Bản kỷ của Nguyên sử 13
tờ 4a8 đã chép. Song đây là một quyết định giả vờ, vì
đối tượng xâm lược chủ yếu của Thoát Hoan không phải
là Chiêm Thành, mà chính là Đại Việt. Cũng chính trong ngày
Mậu Tý ấy, phái bộ của trung lượng đại phu Nguyễn Đạo
Học do vua Trần Nhân Tông cử đi đem phương vật biếu vua
Nguyên, đồng thời để dò xét tình hình. Đó cũng là ngày
vua Nguyên cho phái bộ Lê Anh của ta về nước.
Hốt Tất
Liệt cho tổ chức bộ máy chỉ huy quân sự khổng lồ, mà
ngoài Thoát Hoan ra thì gồm hầu hết các tướng tài của đội
quân Mông Cổ từng có chiến công trong việc tiêu diệt nhà
Tống. Đó là A Lý Hải Nha, người chiến thắng của các thành
Tương Dương, Ngạc Châu, Phàn Thành, Tỉnh Giang, Giang Lăng
và nhiều chiến trường khác nữa của Trung Quốc. Rồi Lý
Hằng, kẻ chiến thắng trong chiến dịch Nhai Sơn, hoàn thành
việc tiêu diệt vương triều Tống. Và một loạt các tướng
tá đã từng cộng tác với A Lý Hải Nha và do chính A Lý Hải
Nha cất nhắc bồi dưỡng như Áo Lỗ Xích, Trình Bằng Phi,
Ô Mã Nhi, Toa Đô, Phàn Tiếp, v. v. Nói cách khác, Hốt Tất
Liệt đã tập hợp một bộ sậu tác chiến đầy kinh nghiệm
và có bản lĩnh.
Khi Thoát
Hoan còn ở Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh vào tháng 7 năm Chí
Nguyên 21 (1284), vua Trần Nhân Tông đã sai phái bộ Nguyễn
Đạo Học sang gặp Thoát Hoan. Và theo An Nam truyện của Nguyên
sử 209 tờ 5b12-6a6, Thoát Hoan đã sai lý vấn quan Khúc Liệt
(Kỳlô) và tuyên sứ Tháp Hải Tản Lý (Taqai Sarợq) cùng với
Nguyễn Đạo Học đem thư của A Lý Hải Nha trách vua ta và
đòi vua phải cung cấp lương thực cho quân Nguyên và lên biên
giới đón Thoát Hoan vào đất nước mình trên đường chúng
đi đánh Chiêm Thành. Khi Thoát Hoan tiến quân đến huyện Hành
Sơn của Hồ Nam thì Khúc Liệt và Tháp Hải Tản Lý đã trở
về từ Đại Việt cùng với phái bộ Trần Đức Quân và
Trần Tự Tông do vua Trần Nhân Tông gửi lên cùng bức thư
của vua, từ chối việc mượn đường của Thoát Hoan: “Từ
nước tôi đến Chiêm Thành, thủy bộ đều không tiện”.
Khi nhận được thư này, Thoát Hoan lại cho Triệu Tu Kỷ gửi
thư lại cho vua Trần Nhân Tông yêu cầu mở đường và cấp
lương. Cùng lúc lại được tin Trần Hưng Đạo đem quân lên
án ngữ biên giới.
Tất cả
chi tiết này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b11 chép
vào tháng 2 của năm Chí Nguyên thứ 22 (1285).
Lý do nằm
ở chỗ Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 6a5 đã ghi tháng 12
năm Chí Nguyên 21, quân của Thoát Hoan đã tới nước ta. An
Nam chí lược 4 tờ 53 ghi càng rõ hơn: “Tháng 12 ngày 21 Giáp
Tý, quân đã đến đón ở biên giới An Nam”. Điều này hoàn
toàn phù hợp với những ghi chép của Kinh thế đại điển
tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a2-3: “Năm 21 tháng
10, quân đến Vĩnh Châu. An Nam sai Hưng Đạo Vương đem quân
2 vạn đóng những nơi xung yếu để chặn quân vua. Tháng 12,
đánh bại chúng ở ải Khả Ly”.
Như vậy,
đúng ra phải tới tháng 10 năm Chí Nguyên 21 (1284), Thoát Hoan
mới tiến quân đến huyện Vĩnh Châu của Hồ Nam. Tại đây,
A Lý Hải Nha lại sai vạn hộ Triệu Tu Kỷ viết thư đòi
vua ta phải “mở đường, sửa soạn lương thực đến đón
Trấn Nam Vương”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ
6a5-6 đã ghi. Cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ
6a6-7, tới Ung Châu của Quảng Tây, Thoát Hoan được tin tướng
điện tiền Phạm Hải Nhai của Đại Việt đem quân đến
đóng các xứ Khả Lan, Vi Đại Trợ. Thoát Hoan cho tiến quân
tiếp đến Tư Minh của Quảng Tây, viết thư cho vua Trần Nhân
Tông, để lặp lại các đòi hỏi mà A Lý Hải Nha đã nói
tới. Rồi tiếp tục dẫn quân vào đất nước ta ở Lộc
Châu, tức huyện Lộc Bình của Lạng Sơn ngày nay.
Tại đây,
khi nghe tin vua Trần Nhân Tông đã điều quân đóng các ải
Khâu Ôn và Khâu Cấp Lãnh, Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đã chia
quân làm hai ngả để tiến. Việc chia quân này theo An Nam chí
lược 4 tờ 53 là vào ngày 21 Giáp Tý tháng 12 năm Giáp Thân,
tức ngày 27 tháng giêng năm 1285, và nó cũng cho biết cánh
quân phía Tây do Vạn Hộ Bột (An Nam chí lược viết Lý, LMT)
La Hợp Đáp Nhi (Bolqadar) và chiêu thảo A Thâm (Atsin) chỉ huy
do đường huyện Khâu Ôn tiến xuống. Còn cánh phía Đông
thì có khiếp tiết Tản Đáp Nhi Đãi (Tatartai) và vạn hộ
Lý Băng Hiến tiến xuống bằng đường Cấp Lãnh.
Ngay thời
điểm này vua Trần Nhân Tông vẫn sai thiện trung đại phu
Nguyễn Đức Dư và triều thỉnh lang Nguyễn Văn Hàn đưa thư
tới Thoát Hoan yêu cầu lui quân, nhắc tới tờ chiếu Hốt
Tất Liệt năm 1261 về việc “sắc riêng cho quân ta không
vào bờ cõi nhà ngươi”, như An Nam truyện của Nguyên sử
209 tờ 6a9-10. A Lý Hải Nha đã giữ Nguyễn Văn Hàn lại và
cho Nguyễn Đức Dư cùng đi với tổng bản A Lý đem thư hắn
trả lời việc xin lui quân của phía ta bằng cách nói rằng:
“Sở dĩ dấy quân là vì Chiêm Thành chứ không phải vì An
Nam”. Nhưng A Lý đến vùng đất huyện Cấp Bảo thì gặp
quân Đại Việt do quản quân Nguyễn Lộc chỉ huy, rồi các
nơi thôn Lý, huyện Đoản, Vạn Kiếp đều có quân của Hưng
Đạo Vương, nên A Lý không tiến lên được. A Lý Hải Nha
bèn sai Nghê Nhuận đi do thám hư thực để tính việc tiến
quân. Chẳng bao lâu, Tản Đáp Nhi Đãi, Lưu Bang Hiến và Tôn
Hựu báo cáo là đến ải Khả Ly gặp quân Giao đánh trả.
Đó là viết theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6a3-b2.
Trận Nội
Bàng
Trong trận
đánh tại ải này, Tôn Hựu đã bắt được 2 tướng của
ta là quản quân phụng ngự Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu và sau đó
giết 2 tướng này. Rồi tiến đến Động Bàng, đại quân
của Thoát Hoan đã giao chiến với quân ta và tướng Tần Sâm
trúng thương, đã hy sinh. Tiếp theo, chúng tiến quân đến
đóng ở thôn Biến Trú.
Ngày 26 tháng
12 ĐVSKTT viết: “Giặc đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng,
Thiết Lược và Chi Lăng”. Thế là sau 5 ngày tiến quân từ
Lộc Châu xuống, cánh quân phía tây của Bột La Đáp Nhĩ cũng
như đại quân của Thoát Hoan đã thành công khi phá vỡ tuyến
phòng ngự chủ yếu để bảo vệ kinh thành Thăng Long bằng
cách vượt qua các cửa ải chính của nước ta ở phía bắc
và bắt đầu tiến xuống đồng bằng phía nam. Đặc biệt
khi đánh vào ải Nội Bàng, theo An Nam truyện của Nguyên sử
209 tờ 6b5, đại quân của Thoát Hoan đã chia làm 6 mũi để
bao vây và tiến chiếm.
Bản kỷ
của Nguyên sử 13 tờ 6a5-6 viết: “Tháng đó, quân Trấn Nam
Vương đến An Nam, giết những lính thú, chia quân sáu đạo
để tiến. Hưng Đạo Vương của An Nam đem quân cự lại”.
Như vậy,
đây có thể nói là một trận đánh lớn, nếu không phải
là trận đánh quyết chiến chiến lược, bởi vì chỉ huy
trận đánh này về phía ta là do chính Quốc công tiết chế
Trần Hưng Đạo thực hiện và chắc chắn quân ta đã tổn
thất nặng với Đại liêu ban Đoàn Thai bị giặc bắt sống.
Sau này, như sẽ thấy dưới đây, vua Trần Nhân Tông đã ra
lệnh cho Trần Hưng Đạo điều động quân ở các lộ về,
mà riêng quân của các vương, con của Trần Hưng Đạo, đã
lên tới gần 20 vạn. Hơn nữa, Trần Hưng Đạo đã rút khỏi
Nội Bàng trong một tình thế hết sức bức bách và vội vã,
có vẻ như mặt trận Nội Bàng tan vỡ đột ngột, nằm bên
ngoài dự kiến của chính bản thân Trần Hưng Đạo.
ĐVSKTT 5 tờ
45a4 -b1 viết về việc rút quân khỏi trận đánh này một
cách khá hình ảnh bằng cách kể lại chuyện Tỳ tướng Yết
Kiêu chờ đợi ông tại Bãi Tân: “Trước đây Hưng Đạo
Vương có gia nô tên là Dã Tượng và Yết Kiêu. Ông đối
đãi họ rất hậu. Khi quân Nguyên đến, Yếõt Kiêu giữ thuyền
ở Bãi Tân. Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo. Lúc quan quân
thua trận, quân thuyền đều giải tán. Vương muốn theo lối
chân núi mà đi. Dã Tượng nói: ‘Yết Kiêu chưa thấy đại
vương, tất không dời thuyền chỗ khác’. Vương đi ngay đến
Bãi Tân, chỉ có thuyền của Yết Kiêu còn đấy. Vương mừng
lắm, nói rằng: ‘Chim hồng hộc có thể bay cao được là
nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim
thường thôi’. Vương nói xong thì thuyền chèo đi, quân kỡ
của giặc đuổi theo không kịp. Vương đến Vạn Kiếp, chia
quân đóng giữ Bắc Giang”. Thế đủ biết mặt trận Nội
Bàng tan vỡ trong tình huống hoàn toàn bất lợi, thậm chí
có vẻ bất ngờ, không những đối với vị chỉ huy trực
tiếp là Trần Hưng Đạo, mà còn đối với vua Trần Nhân
Tông, vị lãnh tụ đồng thời là chỉ đạo tối cao của
cuộc kháng chiến thời bấy giờ.
Sự tình
này ta có thể thấy qua việc vua Trần Nhân Tông, khi được
cấp báo về tình hình chiến sự Nội Bàng, đã bỏ ăn sáng,
dong thuyền đi suốt ngày ra Hải Đông, để gặp Trần Hưng
Đạo, như ĐVSKTT đã mô tả: “Lúc ấy vua ngự chiếc thuyền
nhẹ, sang lộ Hải Đông. Ngày đã gần chiều, vua chưa ăn
cơm sáng, có tiểu tốt là Trần Lai đem dâng cơm gạo xấu.
Vua khen là trung, ban cho tước thượng phẩm, kiêm chức tiểu
tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng”. Rõ ràng việc
vua Trần Nhân Tông bỏ ăn sáng và lập tức cho thuyền ra Hải
Đông để gặp Trần Hưng Đạo, chứng tỏ mặt trận này
đóng vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược quốc phòng
của nhà Trần lúc đó.
Có thể nói,
nó cho ta thấy chủ trương tác chiến ban đầu của vua Trần
Nhân Tông và Trần Hưng Đạo hình như là đưa quân lên chặn
giặc ngay tại những vùng địa đầu biên giới của tổ quốc
theo chiến lược Lý Thường Kiệt đã làm hơn 200 năm trước.
Việc mặt trận Nội Bàng tan vỡ, do thế, đòi hỏi phải
có những quyết định chiến lược mới, thay đổi chiến
lược cũ trong việc đối phó với kẻ thù, phải có một
phương án tác chiến mới mà có thể vua Trần Nhân Tông và
Trần Hưng Đạo đã dự phòng. Vì vậy, vua Trần Nhân Tông
phải trực tiếp đi gặp Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng
Đạo và vua Trần Nhân Tông đã bàn gì trong cuộc hội kiến
chớp nhoáng ở Hải Đông, ngày nay ta không được biết. Nhưng
sau cuộc gặp đó ĐVSKTT 5 tờ 44b7 -45a4 đã ghi: “Hưng Đạo
Vương vâng lệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà,
Bà Điểm, chọn người mạnh khỏe làm quân tiên phong vượt
biển vào nam. Thế quân đã hơi nổi. Các quân nghe thế, không
quân nào là không đến tụ họp. Vua làm thơ đề ở cuối
thuyền rằng:
Cối Kê việc
cũ ông nên nhớ
Hoan Ái vẫn
còn mười vạn quân
Hưng Vũ Vương
Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng
Trí Vương Hiện đốc xuất quân các sứ Bằng Hà, Na Sầm,
Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhã, cộng 20 vạn quân đến họp
ở Vạn Kiếp theo sự điều khiển của Hưng Đạo Vương để
chống quân Nguyên”.
Sự thay đổi
phương án tác chiến chiến lược thực tế đã xảy ra, mà
rồi đây ta lần lượt sẽ thấy nó thể hiện trong phương
pháp chỉ đạo chiến tranh của vua Trần Nhân Tông. Phương
án mới này thường được các nhà quân sự hiện nay gọi
là phương án “rút lui chiến lược và phản công chiến lược”.
Cuộc hội nghị chớp nhoáng giữa Trần Nhân Tông và Trần
Hưng Đạo sau khi mặt trận Nội Bàng tan vỡ, thể hiện tư
duy quân sự sắc sảo không chỉ của Trần Hưng Đạo, mà
của chính Trần Nhân Tông với tư cách là vị tổng tư lệnh
quân đội của nước ta thời bấy giờ. Chỉ một việc Trần
Nhân Tông bỏ ăn cả ngày để đi gặp Trần Hưng Đạo đủ
chứng tỏ tình hình nguy ngập như thế nào. Không những thế,
nó còn cho ta thấy, Trần Nhân Tông đã bám sát tình hình tác
chiến của quân đội ta thời bấy giờ chặt chẽ và sít
sao tới mức nào, để khi tình hình diễn biến phức tạp
bất lợi và có nhiều nguy cơ, thì vua Trần Nhân Tông đã
chủ động đi tới hiện trường giải quyết dứt điểm các
vấn đề vừa mới nảy sinh. Việc điều động quân từ các
lộ và vương hầu tập kết ở Vạn Kiếp là một thí dụ
điển hình. Hai câu thơ cho thấy rõ ràng vua Trần Nhân Tông
viết để nhắn gửi cho Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh
thời bấy giờ. Về “việc cũ Cối Kê”, tức việc Câu
Tiễn nước Việt xưa bị Phù Sai nước Ngô đánh bại, nhưng
cuối cùng qua gian khổ, nhịn nhục, đã vùng lên tiêu diệt
Phù Sai để chiến thắng. Điều này hàm ý sự kiện mặt
trận Nội Bàng tan vỡ là một tổn thất vô cùng to lớn đối
với quân đội Đại Việt.
Chính vào thời điểm này,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã hỏi thử vị tướng trực
tiếp chỉ huy mặt trận là Trần Quốc Tuấn xem nên có đầu
hàng không. Nhà chiến lược thiên tài đã trả lời: “Bệ
hạ hãy chém đầu thần trước rồi hãy hàng” như ĐVSKTT
6 tờ 11B đã ghi. Tuy thế, khi đã tập kết quân các lộ về,
riêng quân của các vương hầu, như Hưng Vũ Vương Nghiễn,
Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng và Hưng Trí
Vương Hiện đã lên tới con số hai chục vạn, chứng tỏ
thực lực quân đội ta lúc ấy đang được bảo toàn. Đứng
trước một tập đoàn quân hùng mạnh như thế, ngoài việc
phát động tinh thần quyết chiến quyết thắng của “việc
cũ Cối Kê”, vua Trần Nhân Tông còn động viên và làm phấn
khởi các tướng lĩnh và quân nhân hiện diện bằng cách báo
cho họ biết một tin vui là lực lượng ta vẫn còn 10 vạn
quân tại Hoan Ái sẵn sàng bổ sung vào chiến đấu. Hơn nữa,
sau trận Nội Bàng, phía địch vẫn thừa nhận “Hưng Đạo
Vương vẫn còn binh thuyền hơn 1000 chiếc, đóng cách Vạn
Kiếp 10 dặm”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b6
đã ghi.
Trận Vạn
Kiếp
Cuộc tấn
công Nội Bàng vào ngày 26 Tết năm Giáp Thân của Thoát Hoan,
mà An Nam chí lược ghi là ngày 27, chắc chắn đã kéo dài
mấy hôm. Thế mà năm Giáp Thân sắp hết, Tết năm Ất Dậu
đã gần kề, quân dân Đại Việt đang rộn ràng ăn Tết bằng
chiến đấu và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Trận Nội
Bàng đã kết thúc. Trần Hưng Đạo đã rút về Vạn Kiếp
và tập kết quân từ các lộ để sửa soạn cho cuộc chiến
sắp tới. ĐVSKTT 5 tờ 45b2-3 cho ta biết: “Ngày mồng 6 tháng
giêng mùa xuân năm Ất Dậu Thiệu Bảo thứ 7 (1285) Ô Mã Nhi
nhà Nguyên đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại, quan
quân vỡ chạy”. Tuy nhiên, Nguyên sử 13 tờ 6a6 lại ghi: “Tháng
đó (tức tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 21), Hưng Đạo Vương
của An Nam đem quân chống lại ở Vạn Kiếp, bèn tiến quân
đánh bại nó.
Vạn hộ
Nghê Nhuận đánh, chết ở Lưu Thôn”.
Thế là từ
chiến thắng Nội Bàng, Thoát Hoan đã triển khai ngay kế hoạch
tấn công Vạn Kiếp, chứ không chờ gần 10 ngày mới cho lệnh
tấn công, như ĐVSKTT đã có. Dẫu sao đi nữa, trong trận chiến
Nội Bàng và những trận trước như Động Bàng, Khâu Ôn,
nếu quân ta có tổn thất, thì nhất định quân địch cũng
tổn thất không kém do tinh thần chiến đấu ngoan cường của
quân đội ta. Vì vậy, cả hai bên đều cần thời gian, gấp
rút tổ chức lại quân đội và sắm sửa khí tài phục vụ
cho cuộc chiến sắp tới.
Theo An Nam
truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b6-7, Thoát Hoan cho dựng công
trường đóng chiến thuyền và thành lập các cánh quân thủy
giao Ô Mã Nhi chỉ huy, tiến xuống Vạn Kiếp. Trên đường
tiến, chúng đã lượm được hai lá thư vua Trần Nhân Tông
gửi cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha về việc yêu cầu chúng
chấp hành lệnh năm Trung Thống thứ 2 (1261) của Hốt Tất
Liệt và đòi chúng rút quân về. Đồng thời, A Lý Hải Nha
gửi thư cho vua Trần Nhân Tông yêu cầu mở đường “cho
triều đình đem quân đánh Chiêm Thành”, rồi giao cho sứ
ta bị chúng giữ lại là Nguyễn Văn Hàn đem tới Vạn Kiếp.
Đến giờ
phút đó, A Lý Hải Nha vẫn còn dở giọng như An Nam truyện
của Nguyên sử 209 tờ 6b11-7a3 đã ghi: “Triều đình đem quân
đánh Chiêm Thành, nhiều lần đưa thư cho thế tử, bảo mở
đường, chuẩn bị lương, không ngờ đã trái mệnh triều
đình, để bọn Hưng Đạo Vương đem quân chống lại, đánh
bị thương quân ta. Để cho sinh linh An Nam chịu tai họa, chính
là do nước ngươi làm ra. Nay đại quân qua nước ngươi, để
đánh Chiêm Thành, hoàng đế truyền lệnh cho thế tử hãy
nghĩ kĩ đi. Nước ngươi quy phụ đã lâu, nên nghĩ đến đức
thương yêu to lớn của hoàng đế, mà lập tức ra lệnh rút
quân mở đường, khuyên bảo trăm họ ai nấy cứ làm ăn sinh
sống. Quân ta đi qua, không mảy may xâm phạm. Thế tử hãy
ra đón Trấn Nam Vương, cùng bàn việc quân. Nếu không, đại
quân sẽ đóng lại ở An Nam, mở phủ”.
Về phía
Đại Việt, thì như đã thấy, vua Trần Nhân Tông và Trần
Hưng Đạo đã điều động quân các lộ vùng đông bắc như
Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm và các xứ Bàng Hà, Na Sầm,
Trà Hương, Yên Sinh và Long Nhãn về đóng ở Vạn Kiếp và
núi Phả Lại. Núi Phả Lại, theo An Nam Chí Nguyên 1 tờ 42
mục Sơn xuyên thì “ở huyện Từ Sơn, mặt kề Bình Than,
sông Như Nguyệt quanh bên trái, sông Ô Cách bọc bên phải,
cảnh vật mỹ lệ, là cảnh đẹp một phương”.
Bản thân
Trần Nhân Tông theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a3-4
thì đem “các quân Thánh Dực hơn một nghìn thuyền giúp Hưng
Đạo Vương cự chiến”.
Vậy là,
khi Tết Ất Dậu chưa tới, theo Bản kỷ của Nguyên sử, Ô
Mã Nhi đã ra lệnh tấn công căn cứ Vạn Kiếp. Một trận
đánh ác liệt đã nổ ra. Tướng Nguyên là vạn hộ Nghê Nhuận
đã tử trận tại Lưu Thôn. Điều này phù hợp với mô tả
trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b5-6. Theo đó, sau
trận Nội Bàng, “Hưng Đạo Vương trốn đi, quan quân đuổi
đến Vạn Kiếp, đánh các ải, đều phá được”. Trận
Vạn Kiếp đã xảy ra như vậy trước Tết Ất Dậu.
Trận Bình
Than
Đến ngày
mồng 9 Nhâm Ngọ tháng giêng, theo An Nam chí lược 4 tờ 54
vua, Trần Nhân Tông “đem 10 vạn quân, đại chiến ở Bài
Than. Nguyên soái Ô Mã Nhi, chiêu thảo Nạp Hải (Naqai), và
trấn phủ Tôn Lâm Đức đem những thuyền bắt được từ
trước đến đánh tan”. Cũng ngày này, Bản kỷ của Nguyên
sử 13 tờ 7a8-9 ghi nhận:
“Ô Mã Nhi
dẫn quân gặp Hưng Đạo Vương của An Nam bèn đánh bại”,
tuy không nói ở đâu. Thế thì, trận Bài Than với 10 vạn
quân do vua Trần Nhân Tông chỉ huy chắc chắn phải gồm cả
nghìn chiến thuyền do Trần Hưng Đạo bố trí cách Vạn Kiếp
chừng 10 dặm, mà Nguyên sử nói tới ở trên.
Bài Than ở
đây tức chính là Bình Than, bởi vì An Nam Chí Nguyên 1 tờ
46-47 khi viết về sông Bình Than, đã nói: “Một tên là Bàn
Than, lại có tên Bài Than ở tại huyện Chí Linh, phát nguyên
từ Xương Giang đến sông
Thị Cầu, thì hai nhánh hợp
lưu chảy qua hai núi Chí Linh và Phả Lại, quanh co mênh mông
không rõ đâu là bờ bến, đến cửa sông Đồ Mộ thì rẽ
thành hai nhánh và chảy vào biển”. Bài Than trong trích dẫn
này là đọc theo thủ bản
B do Gaspardone đã ghi lại ở
phần khảo dị trang 47.1
Vậy, Bình
Than “mặt kề” với núi Phả Lại, nơi ba năm trước đã
chứng kiến hội nghị quân sự đánh Nguyên do vua Trần Nhân
Tông chủ trì, thì bây giờ đang là địa điểm diễn ra trận
thủy chiến dữ dội nhất của lịch sử quân sự dân tộc
do chính vua Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy với cả 10
vạn quân tham dự. Có thể nói đây là một trong những trận
thủy chiến lớn nhất, để tiêu hao sinh lực địch, đồng
thời thể hiện chủ trương rút lui chiến lược của bộ
chỉ huy tối cao.
Trận Thăng
Long
Sau các trận
Vạn Kiếp, Phả Lại và Bình Than, quân địch tiến đánh Vũ
Ninh và Đông Ngạn, rồi tiến xuống Gia Lâm.Trong khi đó, quân
ta rút về Thăng Long theo đường sông Thiên Đức và có những
trận đánh lẻ tẻ với quân Nguyên trên đường sông này.
ĐVSKTT 5 tờ 45b3-5 ghi: “Ngày 12 giặc đánh Gia Lâm, Vũ Ninh,
Đông Ngạn, bắt được quân ta, đều có thích vào cánh tay
hai chữ sát thát bằng mực, chúng rất giận, đem giết rất
nhiều, rồi tiến đến Đông Bộ Đầu, dựng cờ lớn. Vua
muốn sai người xem rõ hư thực của giặc mà chưa được
người. Chi hầu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng:
‘Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi’. Vua mừng
nói: ‘Đâu biết trong đám ngựa kéo xe muối, lại có ngựa
ký ngựa kỷ’. Rồi Chung nhận thư xin đi”.
Nhưng thực
tế, theo Nguyên sử 13 tờ 7a9 thì đó là ngày “Ất Dậu thế
tử An Nam là Trần Nhật Huyên đem hơn nghìn chiến thuyền
chống cự. Ngày Bính Tuất, đánh nhau, đại phá. Nhật Huyên
trốn đi, bèn vào thành y, rồi trở ra đóng ở bắc sông Phú
Lương”. An Nam chí lược 4 tờ 54 viết: “Ngày 13 Bính Tuất,
thế tử giữ Lô Giang, lại bị vỡ, bỏ chạy.Trấn Nam Vương
vượt sông, vào yến tiệc ở cung đình”. Kinh tế đại diễn
tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a4-56 cũng ghi tương
tự: “Quan quân đến sông Phú Lương, Nhật Huyên chính mình
cự chiến, bị thua, bỏ thành chạy về phủ Thiên Trường,
quan quân vào quốc đô”.
An Nam truyện
của Nguyên sử 209 tờ 7a4 viết về trận đánh này càng rõ
hơn: “Trấn Nam Vương liền cùng quan hành tỉnh tự mình đến
Đông Ngạn, sai quân đánh, giết được rất nhiều, bắt được
20 thuyền. Hưng Đạo Vương thua chạy.
Quan quân
buộc bè làm cầu, sang bờ bắc sông Phú Lương. Nhật Huyên
bố trí binh thuyền, dựng rào gỗ dọc theo sông. Thấy quan
quân đến bờ, lập tức nổ pháo, hô lớn, thách đánh. Đến
chiều lại sai Nguyễn phụng ngự mang thư đến Trấn Nam Vương
và quan hành tỉnh, xin rút đại quân. Hành tỉnh lại đưa
thư trách, rồi lại tiến quân. Nhật Huyên liền bỏ thành
chạy, đồng thời sai Nguyễn Hiệu Nhuệ đem thư xin lỗi và
biếu phương vật, cùng xin rút quân. Hành tỉnh lại đưa thư
chiêu dụ, rồi điều quân sang sông, đóng ở dưới thành
An Nam. Hôm sau, Trấn Nam Vương vào quốc đô nước đó. Cung
thất đều trống trơn, chỉ lưu lại mấy tờ chiếu sắc
và mấy lá thư của hành tỉnh, tất cả đều bị xé nát”.
Qua báo cáo
này ta rút được ba nhận xét. Thứ nhất, trận Bình Than,
tuy là một trận thủy chiến lớn với sự tham dự của cả
một tập đoàn quân trên 10 vạn người, vẫn là một trận
vận động chiến, đánh để rút và chủ động nhử địch
vào nơi mình muốn. Cho nên, khi Thoát Hoan cho quân buộc bè
làm cầu để vượt sông Thiên Đức, tức sông Đuống ngày
nay, để lên bờ sông Phú Lương, tức sông Hồng, vua Trần
Nhân Tông, một lần nữa, lại “nổ pháo, hô to, đòi đánh”,
trực tiếp chỉ huy trận thành Thăng Long.
Thứ hai,
tuy thách đánh quân thù, nhưng vua Trần Nhân Tông vẫn duy trì
hành lang quan hệ nào đó với quân thù, để phục vụ cho
ý đồ chiến thuật và tình báo của ta. Nguyên sử ghi việc
Nguyễn Phụng Ngự và Nguyễn Hiệu Nhuệ được vua Trần Nhân
Tông sai mang thư cho Thoát Hoan. Những tên này không thấy sử
ta nói tới. thay vào đó, ĐVSKTT 5 thì ghi tên Đỗ Khắc Chung.
Thứ ba, vua
Trần Nhân Tông có thể chủ động quan hệ với giặc như
thế là nhờ bảo toàn lực lượng từ trận Bình Than, cùng
kéo về Thăng Long để làm cuộc triệt thoái chiến lược
về Thiên Trường, rút toàn quân và dân thủ đô, nhằm tránh
ba mũi gọng kìm, tức mũi gọng kìm cánh quân phía đông bắc
của chính Thoát Hoan và A Lý Hải Nha, cánh quân phía tây bắc
do Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasir ud Din), và đặc biệt là gọng
kìm phía nam do Toa Đô chỉ huy.
Chính trong
ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu ấy (1285), khi Thoát Hoan vào
kinh thành yến tiệc với thuộc hạ, xong rồi rút ra đóng
ở phía bắc sông Hồng, Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 7a10-11
báo cho ta biết “bọn Toa Đô, Đường Cổ Đãi (Tangutai)Ợ
đem quân hội với Trấn Nam Vương”. Đường Cổ Đãi là
tên tướng, mà khi xuất quân, Thoát Hoan đã sai đến Chiêm
Thành gọi Toa Đô đem quân về cùng hợp đồng chiến đấu,
như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b12-13 đã ghi: “Sai
Tả thừa Đường Ngột Đãi chạy dịch đến Chiêm Thành,
hẹn với Tả thừa Toa Đô đem quân cùng dến hội”. Tuy nhiên,
Toa Đô mới đem quân đi, chứ chưa đến hội kịp, như sẽ
thấy. Vậy là, tất cả những cánh quân chủ yếu do Thoát
Hoan chỉ huy, đã tập hợp về Thăng Long, để rồi chúng sẽ
nhận những đòn phản công giáng trả sấm sét của quân dân
Đại Việt với những chiến thắng Chương Dương, Tây Kết,
Hàm Tử lẫy lừng.
Nhưng trước
khi có những chiến thắng này, thì từ trung tâm ở Thăng Long,
Thoát Hoan một mặt “sai Vạn hộ Lý Bang Hiến và Lưu Thế
Anh đem quân mở đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, mỗi 30 dặm
lập một trại, 60 dặm đặt một trạm, mỗi một trại, một
trạm đóng quân 300 tên để trấn giữ và tuần tra, lại sai
Thế Anh dựng đồn, chuyên đôn đốc công việc của trại,
trạm”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b7-9 đã
ghi. Đây là biện pháp củng cố hậu phương của chúng đối
với những vùng chúng đã chiếm được, nhưng luôn luôn bị
quân ta quấy nhiễu.
Mặt khác,
cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b-9-10, Thoát
Hoan đã ra lệnh cho “Hữu thừa Khoan Triệt (KoỊnaỊk) dẫn
Vạn hộ Mang Cổ Đãi (Manqudai) và Bột La Hợp Đát Nhi (Bolqadar)
bằng đường bộ và Lý tả thừa dẫn Ô Mã Nhi Bạt Đô (Omar
ba’atur) bằng đường thủy”, truy đuổi và tiến đánh các
cánh quân của ta đang rút lui cùng những cứ điểm đóng quân
dọc theo sông Hồng cùng các chi lưu của nó, để phòng vệ
cho Thiên Trường ở phía nam Thăng Long. Và trận đầu tiên
đã diễn ra ở bãi Thiên Mạc.
Trận Đà
Mạc
Đà Mạc
hay cũng gọi Thiên Mạc, mà sau này có tên bãi Mạn Trù là
một bãi đất nằm ven sông Hồng thuộc tỉnh Hưng Yên ngày
nay, như Khâm định Việt sử thông giám cương mục 6 tờ 42a3-4
viết: “Sông Thiên Mạc tức hạ lưu sông Phú Lương ở tại
bãi Mạn Trù của huyện Đông Yên vùng tỉnh Hưng Yên”. Ở
đây, quân ta có một cứ điểm do tướng Trần Bình Trọng
chỉ huy. Theo An Nam chí lược 4 tờ 54 thì “ngày 21 Nhâm Thìn
đánh vỡ ải Thiên Hán, chém được tướng Bảo Nghĩa Hầu”.
Ngày Nhâm Thìn tháng giêng năm Ất Dậu ấy phải là ngày 19,
chứ không phải 21.
Chắc chắn
21 viết sai của 19, vì đây là những chữ số rất dễ viết
lộn. Còn Thiên Hán thì rõ ràng chữ Hán viết sai của chữ
Mạc vì dạng chữ chúng giống nhau.
An Nam truyện
của Nguyên sử 209 tờ 7b10 không ghi rõ ngày tháng, nhưng có
chép trận Thiên Mạc và việc quân Nguyên bắt được Kiến
Đức Hầu Trần Trọng. Kinh thế đại điển tự lục trong
Nguyên văn loại 41 tờ 27a6-7 cũng chép việc bắt được Kiến
đức Hầu Trần Trọng, nhưng ghi việc này sau trận A Lỗ và
Thiên Trường và trước khi vua Trần Nhân Tông rút ra cửa
Giao thủy. Trong số những thông tin này, thông tin của An Nam
chí lược tương đối chính xác, vì Lê Thực đã ghi lại
những điều ít nhiều mình có biết tới và có tham gia.
Trần Trọng
đây chắc chắn là vị anh hùng Trần Bình Trọng của ĐVSKTT.
Chỉ có điểm khác là, thay vì Bảo Nghĩa Hầu, phía Trung Quốc
lại có Kiến Đức Hầu. Tước Kiến Đức Hầu có thể là
tước được phong khi Trần Bình Trọng còn sống. Còn tước
Bảo Nghĩa Hầu là tước được phong khi Trần Bình Trọng
đã mất, để nêu cao khí phách oanh liệt của vị dũng tướng
lúc đối diện với những cám dỗ của kẻ thù, mà tình tiết
sẽ được ghi rõ trong ĐVSKTT dưới đây. Việc An Nam chí lược
4 tờ 54 ghi khác với Nguyên sử, bởi vì Lê Thực đang còn
ở tại Việt Nam và làm việc với Chương Hiến Hầu Trần
Kiện, lúc vị anh hùng hy sinh và triều đình phong tước, nên
biết rõ sự thay đổi tước hầu của chính Trần Bình Trọng.
Phía Trung
Quốc không ghi rõ ai trực tiếp chỉ huy trận đánh này. Nhưng
phía Việt Nam, qua trận đánh này lại thêm một vị anh hùng.
Đó là Trần Bình Trọng. ĐVSKTT viết: “Bảo Nghĩa Vương
Trần Bình Trọng (vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng
sau của công chúa Thụy Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông,
được ban quốc tính họ Trần) đánh nhau với giặc ở bãi
Đà Mạc (tức Thiên Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết. Khi
bị bắt, không chịu ăn.
Giặc hỏi việc nước, không
trả lời. Hỏi: ‘Có muốn làm vương đất Bắc không ?’.
Vương thét lớn: ‘Thà làm quỷ nước Nam, chứ không làm
vương đất Bắc’. Rồi bị giết”.
Điểm khác
biệt cơ bản là ĐVSKTT đã ghi trận Đà Mạc và cái chết
oanh liệt của Trần Bình Trọng vào tháng 2 năm At Dậu, sau
sự kiện đầu hàng của Chương Hiến Hầu Trần Kiện và
bọn thuộc hạ Lê Thực. Trong khi đó chính bản thân Lê Thực
lại được ghi vào ngày Nhâm Thìn tháng giêng năm Ất Dậu.
Trong trường hợp này, Lê Thực tỏ ra đúng hơn, khi ta căn
cứ trên diễn tiến của tình hình chiến sự thời bấy giờ.
Hơn nữa, Thực lại là người sống đồng thời với Trần
Bình Trọng và trực tiếp tham gia nghe ngóng một số những
tình hình đó. Và thứ ba nữa, Thực không có lý do gì cần
phải thay đổi ngày tháng của cuộc tấn công vào cứ điểm
Đà Mạc của quân Nguyên.
Cuối cùng,
như đã thấy, Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng hy sinh chỉ
cách việc đầu hàng của chính Thực trong một khoảng thời
gian rất ngắn, trên dưới một tháng, nên chắc chắn có tác
dụng to lớn đối với bản thân Thực. Thực tế, Khâm định
Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 36b2 đã chép là vua Trần
Nhân Tông, khi nghe báo tin Trần Bình Trọng hy sinh, đã vật
vã kêu khóc, chứng tỏ sự hy sinh ấy đã có một tác động
to lớn trong giới lãnh đạo đất nước thời bấy giờ. Tước
Bảo Nghĩa Hầu có lẽ được vua Trần Nhân Tông đổi phong
cho Trần Bình Trọng nhằm nhấn mạnh nghĩa khí không đầu
hàng giặc của vị anh hùng vào một thời điểm, mà chắc
chắn nhà vua thấy xung quanh mình đã xuất hiện những kẻ
không còn giữ được nghĩa vua tôi, tinh thần trung quân ái
quốc và muốn đi đầu hàng giặc.
Thêm vào
đó, ĐVSKTT chủ yếu chép lại Đại Việt sử ký tục biên
của Phan Phu Tiên. Mà Phan Phu Tiên khi viết bộ sử của chính
mình, lại không có được những thuận lợi của những nhà
viết sử khác. Đất nước ta đã bị quân Minh xâm lược
gần 20 năm và trải qua những cuộc chiến tranh giải phóng
dữ dội do những người yêu nước như Trần Trùng Quang, Nguyễn
Biểu, Phạm Ngọc, Lê Lợi lãnh đạo. Do thế, những sử liệu
chắc chắn bị quân thù tịch thu, phá hủy. Đặc biệt, các
sử liệu do quốc sử quán nhà Trần ghi chép, ta hiện không
biết chúng có được Hồ Quý Ly có kế hoạch đem cất giấu
hay không. Chỉ một sự kiện hai cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại năm 1285 và1288 đã được ĐVSKTT chép rất sơ sài,
thậm chí có những điểm hoàn toàn sai lạc, là một thí dụ
điển hình. Cho nên, người ta không ngạc nhiên trước những
sai khác vừa nêu trên.
Nói tóm lại,
trận Đà Mạc không phải một trận lớn. Nhưng qua trận Đà
Mạc, ta không chỉ thấy khí phách anh hùng, liều mình vì nước,
không chịu đầu hàng giặc của người tướng chỉ huy là
Trần Bình Trọng, mà còn thấy được ý chí quyết chiến
quyết thắng kẻ thù của quân dân Đại Việt trong những
thời điểm khó khăn nhất của tổ quốc. Chính những con
người như thế đã làm nên những chiến thắng vang dội về
sau như trận chiến Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết v. v.
Trận A
Lỗ
Sau trận
Đà Mạc bắt được Kiến Đức Hầu Trần Trọng, An Nam chí
lược 4 tờ 54 đã viết tiếp: “Thế tử lui giữ ải Hải
Thị, đóng cọc đắp bờ ngăn sông phía tây để đánh. Quan
quân trên dưới bắn chéo. Bọn chúng vỡ lớn”.
Kinh
thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a6
viết: “Đại quân đuổi Nhật Huyên ở sông A Lỗ và sông
Đức Cương”.
Căn cứ vào
hai báo cáo này, rõ ràng Hải Thị và sông A Lỗ chỉ cùng
một nơi. Đặc biệt, An Nam Chí Nguyên 1 tờ 47 có chép: “Sông
Hải Triều ở tại Khoái Châu phân lưu từ sông Hà Lỗ, trên
thông với sông Ngọc Châu”.
Hà Lỗ đây chắc chắn
là sông A Lỗ, mà Kinh thế đại điển tự lục vừa nói tới.
Còn Khoái Châu thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên bây giờ. Mà
Đà Mạc, tức Thiên Mạc theo Khâm định Việt sử thông giám
cương mục 6 tờ 42a3-4 lại ghi ở vào địa phận tỉnh Hưng
Yên, và nằm trên hạ lưu sông Hồng. Vậy hai căn cứ Đà
Mạc và A Lỗ nằm rất gần nhau. Đây có lẽ là cụm cứ
điểm nhằm phòng vệ cho Thiên Trường.
Với chi tiết
“trên dưới bắn chéo”, ta thấy đây rõ ràng là hai cánh
quân thủy bộ địch do Khoan Triệt và Lý Hằng chỉ huy, đã
đuổi theo đại quân của vua Trần Nhân Tông và tiến đánh
căn cứ A Lỗ, sau khi đã chiếm được căn cứ Đà Mạc. Đây
một lần nữa là một trận đánh tiêu hao lớn, chủ động
nhử quân địch theo hướng quân ta muốn.
Trận
Đại
Hoàng
Sau
chiến
thắng
A
Lỗ,
theo
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54,
“ngày
mùng
3
Đinh
Tỡ
tháng
hai,
Trấn
Nam
Vương
phá
quân
Thế
tử
ở
sông
Đại
Hoàng”.
Đây
là
lần
đầu
tiên
ta
thấy
sự
xuất
hiện
của
Thoát
Hoan
trên
vùng
đất
gần
Thiên
Trường.
Sông
Đại
Hoàng,
theo
An
Nam
Chí
Nguyên
1
tờ
42
“là
hợp
tại
phủ
Lý
Nhân,
trên
tiếp
sông
Lô,
dưới
thông
với
sông
Giao
Thủy
phủ
Phụng
Hóa”.
Còn
Khâm
đinh
Việt
sử
thông
giám
cương
mục
6
tờ
44a5-6,
khi
chú
thích
về
Hoàng
Giang,
đã
viết:
“Hoàng
Giang
ở
tại
vùng
huyện
Nam
Xương
phủ
Lý
Nhân,
trên
tiếp
với
sông
Thiên
Mạc,
dưới
thông
với
sông
Giao
Thủy”.
Vậy,
Đại
Hoàng
hay
Hoàng
Giang
do
tiếp
giáp
với
Thiên
Mạc,
là
một
căn
cứ
khác
trong
cụm
căn
cứ
phía
nam
Thăng
Long,
nhằm
bảo
vệ
Thiên
Trường.
Đây
chắc
chắn
là
một
trận
đánh
lớn,
vì
Thoát
Hoan
đã
dẫn
đại
quân
mình
từ
Thăng
Long
truy
kích
xuống,
trong
khi
quân
ta
cũng
hội
về
Đại
Hoàng,
mà
ngoài
vua
Trần
Nhân
Tông
trực
tiếp
chỉ
huy,
còn
có
các
tướng
Trần
Hưng
Đạo,
Trần
Quang
Khải.
Tuy
nhiên,
một
lần
nữa,
nó
chỉ
là
một
trận
đánh
chặn,
tiêu
hao
sinh
lực
địch,
để
cho
quân
ta
rút
lui
an
toàn,
chứ
chưa
phải
là
những
trận
phản
công.
Tình
hình
quân
sự
sau
khi
ta
rút
khỏi
Thăng
Long
ĐVSKTT
không
ghi
trận
A
Lỗ
và
Đại
Hoàng
này.
Nhưng
sau
trận
Đà
Mạc,
ĐVSKTT
5
tờ
47a5-6
đã
viết:
“Thế
giặc
bức
bách,
hai
vua
ngầm
đi
chiếc
thuyền
nhỏ
đến
Tam
Trĩ
Nguyên,
sai
người
lái
thuyền
ngự
ra
Ngọc
Sơn
để
đánh
lừa
quân
giặc”.
Thực
tế,
quân
nhà
Trần
thời
điểm
này
chưa
đến
nỗi
bức
bách
xiêu
dạt
và
hai
vua
Trần
Thánh
Tông
và
Trần
Nhân
Tông
không
đến
nỗi
cô
lập
phải
hoạt
động
một
cách
lén
lút
như
thế.
Nguyên
sử
13
tờ
8b8-10
viết:
“Tháng
3
ngày
Bính
Tý
Kinh
Hồ
Chiêm
Thành
hành
tỉnh
xin
thêm
quân.
Lúc
bấy
giờ
Trần
Nhật
Huyên
trốn
về
hai
xứ
Thiên
Trường
và
Trường
Yên,
binh
lực
lại
tập
hợp.
Hưng
Đạo
Vương
đem
hơn
ngàn
chiến
thuyền
về
nhóm
ở
Vạn
Kiếp,
còn
Nguyễn
Lộc
thì
ở
Vĩnh
Bình,
mà
quan
quân
thì
đi
xa
lại
đánh
lâu,
treo
lơ
lửng
ở
giữa.
Quân
của
Toa
Đô
và
Đường
Cổ
Đãi
lại
đến
không
đúng
lúc,
nên
xin
thêm
quân.
Vua
cho
đi
đường
thủy
là
nguy
hiểm,
ra
lệnh
cho
quân
tăng
viện
đi
theo
đường
bộ”.
Thế
là
cuộc
chiến
tranh,
sau
khi
vua
Trần
Nhân
Tông
rút
khỏi
Thăng
Long
và
đưa
quân
về
đóng
ở
vùng
Thiên
Trường
và
Trường
Yên,
thì
quân
địch
ở
vào
một
tình
thế
hết
sức
khó
khăn.
Chúng
tự
nhận
xét
là
chúng
đã
bị
treo
lơ
lửng
ở
giữa
một
mẻ
lưới
thiên
la
địa
võng
của
quân
dân
Đại
Việt
đang
sẵn
sàng
chụp
lên
đầu
chúng.
Thực
tế
quân
ại
Việt
đang
triển
khai
chiến
lược
bao
vây
và
tiêu
diệt
đám
quân
viễn
chinh
này
bằng
ba
mũi.
Mũi
phía
bắc
do
tướng
Nguyễn
Lộc
chỉ
huy
và
sẽ
có
những
đóng
góp
to
lớn
với
những
trận
đánh
làm
thất
kinh
táng
đởm
bọn
cướp
nước
và
bán
nước,
như
sẽ
thấy
sau.
Mũi
phía
đông
thì
do
chính
Trần
Hưng
Đạo
đưa
chiến
thuyền
trở
lại
Vạn
Kiếp
trấn
giữ
để
chặn
đường
rút
về
ngả
phía
đông
của
bọn
giặc.
Còn
lại
là
toàn
bộ
đại
quân
thì
tập
trung
tại
vùng
Thiên
Trường
và
Trường
Yên,
thuộc
hai
tỉnh
Nam
Định
và
Ninh
Bình
ngày
nay,
do
vua
Trần
Nhân
Tông
và
Thượng
hoàng
Trần
Thánh
Tông
trực
tiếp
chỉ
huy
cùng
với
hai
danh
tướng
Trần
Quang
Khải
và
Trần
Nhật
Duật.
Đây
là
mặt
trận
chủ
yếu,
có
những
diễn
biến
phức
tạp
về
phía
địch
cũng
như
ta.
Trần
Kiện,
Tú
Viên,
Văn
Lộng
đầu
hàng
Về
phía
địch,
bọn
Toa
Đô
đang
ráo
riết
kéo
quân
ra
phía
bắc
theo
lịnh
của
Thoát
Hoan
do
Đường
Ngột
Đãi
đem
tới
và
sẽ
có
những
đụng
độ
lớn
với
quân
ta,
như
sẽ
thấy
dưới
đây.
Còn
về
phía
ta,
sau
các
trận
đánh
và
việc
rút
khỏi
Thăng
Long
cùng
các
cứ
điểm
Đà
Mạc,
A
Lỗ
và
Đại
Hoàng,
một
bộ
phận
trong
giới
lãnh
đạo
chính
trị
và
quân
sự
của
Đại
Việt
lúc
bấy
giờ
tỏ
ra
hết
sức
hoang
mang,
mất
hết
niềm
tin
vào
tiềm
lực
dân
tộc
và
sự
lãnh
đạo
sáng
suốt
của
vua
Trần
Nhân
Tông
cùng
Thượng
hoàng
Trần
Thánh
Tông,
quốc
công
Trần
Hưng
Đạo
và
thái
sư
Trần
Quang
Khải.
Chúng
kéo
nhau
liên
hệ
với
giặc
để
xin
đầu
hàng,
mà
tên
đầu
tiên
là
Trần
Kiện
cùng
thuộc
hạ
của
y
vào
ngày
mồng
1
tháng
2
năm
At
Dậu.
ĐVSKTT
5
tờ
46b5-7,
viết:
“Ngày
Giáp
Thìn
mồng
1
tháng
2,
con
thứ
của
Tỉnh
Quốc
đại
vương
Quốc
Khang
là
thượng
vị
Chương
Hiến
Hầu
tên
Kiện
và
liêu
thuộc
là
bọn
Lê
Thực
đem
cả
nhà
đầu
hàng
quân
Nguyên.
Toa
Đô
sai
đưa
bọn
Kiện
về
Yên
Kinh.
Thổ
hào
ở
Lạng
Giang
là
bọn
Nguyễn
Thế
Lộc
và
Nguyễn
Lĩnh
đánh
chặn
ở
trại
Ma
Lục.
Gia
nô
của
Hưng
Đạo
Vương
là
Nguyễn
Địa
Lô
bắn
chết
Kiện.
Thực
đem
xác
Kiện
để
lên
mình
ngựa
trốn
đi
trong
đêm,
chạy
được
mấy
mươi
dặm
đường,
đến
Khâu
Ôn
chôn
tại
đấy”.
Sự
kiện
này
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
viết
càng
rõ:
“Thế
tử
sai
em
là
Chiêu
Văn
Vương
Trần
Duật,
hầu
Trịnh
Đình
Toản
đem
quân
đánh
ở
Nghệ
An,
thua
chạy.
Thế
tử
ở
trong
thế
gấp,
sai
con
anh
mình
là
Chương
Hiến
Hầu
Trần
Kiện
đón
đánh
ở
Thanh
Hóa,
giằng
co
hồi
lâu,
sức
yếu,
không
có
viện
binh,
Chương
Hiến
bèn
cùng
bọn
Thực
đem
quân
ra
hàng”.
An
Nam
chí
lược
13
tờ
131-32
viết
càng
chi
tiết
hơn:
“Mùa
đông
năm
ấy
(1284)
đại
quân
của
Trấn
Nam
Vương
tiến
vào
nước.
Thế
tử
đánh
thua.
Hữu
thừa
Toa
Đô
lại
từ
Chiêm
Thành
tiến
mặt
hậu.
Thế
tử
hoảng
hốt
không
có
sách
lược
bèn
gọi
Kiện
lên,
giao
đem
quân
đánh
Toa
Đô.
Sức
yếu
không
viện,
vào
lúc
đó
Thế
tử
còn
mất
chưa
thể
biết.
Kiện
gọi
bọn
Thực
vào:
‘Thế
tử
bị
gọi
mà
không
vào
chầu
đến
nỗi
có
chiến
tranh.
Nguy
hiểm
ở
trong
sớm
chiều,
mà
vẫn
chấp
mê
không
tỉnh,
nỡ
để
cho
nước
mất
nhà
tan
ư
?’.
Tháng
giêng
năm
sau
(1285),
Kiện
đem
bọn
Thực
vài
vạn
người,
dâng
vũ
khí
đầu
hàng
Trấn
nam
vương”.
Như
thế,
việc
Trần
Kiện
đầu
hàng
là
một
diễn
biến
phức
tạp,
vì
đây
là
lần
đầu
tiên
một
tôn
thất
của
hoàng
gia,
đồng
thời
nắm
trong
tay
một
đạo
quân
lớn
đóng
tại
một
mặt
trận
xung
yếu
là
Thanh
Hoá
đã
đầu
hàng
giặc.
Nếu
không
ngăn
chặn
kịp
thời,
tác
động
của
việc
đầu
hàng
ấửy
sẽ
rất
lớn.
Nó
sẽ
lan
ra
và
có
nguy
cơ
đe
doạ
làm
sụp
đổ
mặt
trận
phía
nam.
Tính
chất
quan
trọng
của
mặt
trận
này,
ngay
khi
rút
khỏi
Thăng
Long,
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
nhìn
thấy,
và
sau
ngày
rằm
tháng
giêng
năm
At
Dậu
(1285)
đã
cử
Chiêu
Văn
Vương
Trần
Nhật
Duật
vào
trấn
nhậm.
Cuối
tháng
giêng,
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
và
Kinh
thế
đại
điển
tự
lục
trong
Nguyên
văn
loại
41
tờ
27a5-6
chép:
“Đại
vương
Giảo
Kỳ,
Hữu
thừa
Toa
Đô,
Tả
thừa
Đường
Ngột
Đãi,
tham
chính
Hắc
Đích
từ
Chiêm
Thành
đánh
vào
phủ
Bố
Chính”.
Rồi
từ
đó,
Toa
Đô
tiến
ra
Nghệ
An.
Trần
Nhật
Duật
không
cản
được,
phải
rút
lui.
Cho
nên,
ĐVSKTT
5
tờ
46b4-5
viết
tiếp:
“Ngày
28
Hưng
Đạo
Vương
bàn
xin
thượng
tướng
thái
sư
Quang
Khải
ngăn
quân
của
nguyên
soái
Toa
Đô
ở
Nghệ
An”.
Nghĩa
là
sau
khi
Trần
Nhật
Duật
không
ngăn
nổi,ư
cấp
báo
về
cho
bộ
chỉ
huy
tối
cao
thì
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
cử
Trần
Quang
Khải
vào
chi
viện.
Chính
trong
thời
gian
này,
Trần
Kiện
được
giao
việc
nắm
quân
ở
Thanh
Hoá.
Tại
đây,
An
Nam
chí
lược
13
tờ
132
ghi:
“Tháng
giêng,
Kiện
đem
bọn
Thực
cùng
vạn
quân,
dâng
vũ
khí,
hàng
Trấn
Nam
Vương”.
Trận
Phú
Tân
Ngày
hôm
sau,
tức
ngày
Ất
Tỡ
mồng
hai
tháng
hai
năm
Ất
Dậu
(1285),
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
ghi
tiếp:
“Giảo
Kỳ
đem
kỡ
binh
vượt
cửa
kinh
Vệ
Bố,
phá
quân
nhà
Trần,
giết
tướng
chúng
là
Đinh
Xa
và
Nguyễn
Tất
Thống”.
Rồi
ngày
mồng
ba,
khi
Thoát
Hoan
tấn
công
cứ
điểm
Đại
Hoàng
và
vua
Trần
Nhân
Tông
rút
lui
về
Thiên
Trường,
theo
An
Nam
chí
lược
3
tờ
54,
đám
Trần
Tú
Viên
và
Trần
Văn
Lộng
đã
ra
đầu
hàng.
Bốn
ngày
sau,
tức
ngày
mồng
sáu
tháng
hai,
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
chép:
“Ngày
Kỷ
Dậu
mồng
sáu,
Giảo
Kỳ
đem
bọn
Chương
Hiến
đánh
phá
quân
của
người
em
Thế
tử
là
Thái
sư
Trần
Khải
ở
bến
Phú
Tân,
chém
đầu
ngàn
cái,
Thanh
Hóa,
Nghệ
An
đều
hàng”.
Đây
chính
là
lúc
Toa
Đô
dã
hội
quân
được
với
bọn
Thoát
Hoan,
đúng
như
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
7b4-7
đã
viết:
“Đường
Ngột
Đãi
cùng
quân
của
bọn
Toa
Đô
đến
từ
Chiêm
Thành
hợp
với
đại
quân
(của
Thoát
Hoan),
từ
khi
vào
nước
Đại
Việt,
bảy
lần
lớn
nhỏ
đánh
nhau,
lấy
đất
hơn
hai
ngàn
dặm,
bốn
sở
cung
vua,
trước
đánh
bại
quân
của
Chiêu
Minh
Vương.
Chiêu
Hiếu
Vương
và
đại
liêu
Hộ
đều
chết.
Chiêu
Minh
Vương
trốn
xa,
không
dám
ra
mặt
trở
lại.
Còn
ở
Nghệ
An,
Diễn
Châu,
Thanh
Hóa,
Trường
Yên
thì
bắt
được
bọn
Trần
thượng
thư,
rể
của
Lương
phụng
ngự
của
Giao
Chỉ
và
Triệu
Mạnh
Tín,
Diệp
lang
tướng
hơn
400
người
của
nhà
vong
Tống”.
Trần
Kiện
đã
dắt
bọn
Giảo
Kỳ
tấn
công
cứ
điểm
Phú
Tân
do
chính
Thượng
tướng
Trần
Quang
Khải
chỉ
huy
cùng
con
mình
là
Văn
Túc
Vương
Đạo
Tải,
cháu
là
Tả
Thiên
Vương
Đức
Việp.
Trước
khi
Trần
Quang
Khải
rút
quân
khỏi
cứ
điểm
thì
Chiêu
Hiếu
Vương
và
đại
liêu
Hộ
đã
hy
sinh.
Việc
đầu
hàng
của
Trần
Kiện
từ
đó
có
một
tác
động
rất
to
lớn.
Mặt
trận
phía
nam
với
nhiều
tướng
giỏi
như
Thượng
tướng
Trần
Quang
Khải,
Chiêu
Văn
Vương
Trần
Nhật
Duật
đã
lần
lượt
rút
khỏi
vùng
Thanh-Nghệ
và
tập
trung
vào
vùng
Thiên
Trường,
để
sau
trận
Đại
Hoàng
ngày
mồng
ba
tháng
hai
năm
Ất
Dậu
(1285)
và
trận
Phú
Tân
ngày
mồng
sáu,
vua
Trần
Nhân
Tông
cùng
với
Trần
Hưng
Đạo
và
Trần
Quang
Khải
thực
hiện
một
cuộc
rút
lui
chiến
lược.
Trước
khi
rút
lui
để
thực
hiện
kế
hoãn
binh,
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
sai
Trung
Hiến
Hầu
Trần
Dương
và
Nguyễn
Nhuệ
đến
hòa
đàm
với
Thoát
Hoan.
Đồng
thời
lại
sai
người
hầu
cận
là
Đào
Kiên
đem
công
chúa
An
Tư
đến
cho
Trấn
nam
vương
để
làm
“thư
bớt
nạn
nước”.
Thoát
Hoan
bèn
cho
Thiên
Hộ
Ngãi
đến
dụ
vua
Trần
Nhân
Tông
đến
hội
đàm.
Vua
không
nghe,
như
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
đã
ghi.
ĐVSKTT
5
tờ
47a1
có
ghi
sự
kiện
dâng
công
chúa
An
Tư
nhưng
lại
chép
vào
trước
trận
Đà
Mạc.
Chiến
lược
rút
về
Thanh
Hóa
Vậy
là
sau
các
trận
Đại
Hoàng
và
Phú
Tân,
toàn
bộ
quân
chủ
lực
nhà
Trần
ngoài
những
đơn
vị
được
bố
trí
ở
các
địa
phương,
đã
tập
trung
về
Thiên
Trường,
rồi
thực
hiện
một
cuộc
rút
lui
chiến
lược
tại
cửa
biển
Giao
Thủy,
như
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
7b10-11
đã
ghi.
Nguyên
sử
cũng
ghi
tiếp
là
phía
quân
Nguyên
không
biết
quân
ta
rút
đi
đâu.
Rồi
ở
tờ
7b11-12
nó
chép:
“Tông
tộc
là
Văn
Nghĩa
Hầu,
cha
là
Vũ
Đạo
Hầu
và
con
là
Minh
Trí
Hầu,
rể
là
Chương
Hoài
Hầu
cùng
Chương
Hiến
Hầu,
và
quan
của
nhà
vong
Tống
là
Tăng
tham
chính,
con
của
Tô
thiếu
bảo
là
Tô
Bảo
Chương,
con
Trần
thượng
thư
là
Trần
Đinh
Tôn
liên
tiếp
đem
nhau
đến
hàng”.
Việc
đầu
hàng
của
Văn
Nghĩa
Hầu
tức
Trần
Tú
Viên,
ta
đã
thấy
xảy
ra
vào
ngày
mồng
ba
tháng
ba
năm
Ất
Dậu
(1285),
như
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
có
ghi
ở
trên.
Chính
bọn
đầu
hàng
này
đã
cung
cấp
thông
tin
cho
Thoát
Hoan,
nên
sau
đó
Nguyên
sử
209
tờ
7b13-8a3
đã
cho
biết:
“Nhật
Huyên
đến
cửa
biển
An
Bang,
bỏ
thuyền
chèo
giáp
trượng,
chạy
trốn
trong
núi
rừng.
Quan
quân
bắt
được
thuyền
một
vạn
chiếc,
chọn
cái
tốt
để
đi,
còn
thừa
đều
đốt
bỏ.
Rồi
lại
đuổi
ba
ngày
đêm
trên
bộ,
bắt
sống
được
mấy
tên
lính
khai
rằng
Thượng
hoàng
và
Thế
tử
chỉ
có
thuyền
bốn
chiếc,
Hưng
Đạo
Vương
và
con
ba
chiếc,
Thái
sư
80
chiếc,
chạy
vào
phủ
Thanh
Hóa.
Toa
Đô
cũng
báo
Nhật
Huyên
và
Thái
sư
chạy
vào
Thanh
Hóa.
Ô
Mã
Nhi
bạt
đô
đem
quân
1300
người
và
chiến
thuyền
60
chiếc
giúp
Toa
Đô
tập
kích
quân
của
Thái
sư”.
Vậy
rõ
ràng
đây
là
một
cuộc
rút
lui
lớn,
cuộc
rút
lui
chiến
lược
do
chính
vua
Trần
Nhân
Tông
cùng
Thượng
hoàng,
Trần
Hưng
Đạo
và
Trần
Quang
Khải
thực
hiện.
Cuộc
rút
lui
này
đã
xảy
ra
vào
lúc
nào
?
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
viết:
“Ngày
Nhâm
Ngọ
mồng
chín
tháng
ba,
Giảo
Kỳ
với
Đường
Cổ
Đái
đem
quân
thủy
ra
biến
vây
Thế
tử
ở
Tam
Trĩ,
suýt
bắt
được
Thế
tử”.
Tuy
nhiên,
theo
ĐVSKTT
5
tờ
47a5-6
thì
sự
kiện
rút
về
Tam
Trĩ
này
(tức
vùng
núi
Ba
Chẻ
ở
Quảng
Ninh)
từ
cuối
tháng
giêng.
Đến
ngày
Giáp
Tuất
mồng
một
tháng
ba,
ĐVSKTT
5
tờ
47b4-5
lại
viết:
“Hai
vua
bỏ
thuyền
mà
đi
bộ
đến
Thủy
Chú,
lấy
thuyền
ra
sông
Nam
Triệu
(tức
huyện
Thủy
Đường),
vượt
biển
Đại
Bàng
vào
Thanh
Hóa”.
Thế
rõ
ràng
cuộc
rút
lui
đã
xảy
ra
chắc
chắn
trước
ngày
mồng
chín
tháng
ba
(chính
xác
là
ngày
Nhâm
Ngọ
mồng
mười)
và
sau
trận
đánh
Phú
Tân
vào
ngày
mồng
sáu
cùng
tháng.
Thực
hiện
cuộc
rút
lui
chiến
lược
vào
Thanh
Hóa
này
hiển
nhiên
là
để
tránh
hai
gọng
kìm
của
các
cánh
quân
Thoát
Hoan
ở
phía
bắc
tiến
xuống,
và
cánh
quân
phía
nam
do
Toa
Đô
chỉ
huy
đánh
lên
vùng
Thiên
Trường
và
Trường
Yên.
Đại
quân
của
Thoát
Hoan
và
Toa
Đô
như
vậy
đã
nằm
tại
vùng
đồng
bằng
Bắc
Bộ,
còn
quân
chủ
lực
ta
đóng
tại
phía
nam
ở
Thanh
Hóa.
Từ
đây,
vua
Trần
Nhân
Tông
cùng
Thượng
hoàng
và
các
tướng
Trần
Hưng
Đạo,
Trần
Quang
Khải,
Trần
Nhật
Duật...
đã
chia
quân
tiến
hành
một
cuộc
phản
công
lớn,
giải
phóng
thủ
đô
Thăng
Long,
giải
phóng
đất
nước
thoát
khỏi
sự
chiếm
đóng
của
quân
thù.
Trần
Ích
Tắc
đầu
hàng
Vào
thượng
tuần
tháng
ba
năm
Ất
Dậu
này,
khi
vua
Trần
Nhân
Tông
cùng
bộ
chỉ
huy
tối
cao
của
cuộc
kháng
chiến
vệ
quốc
đang
thực
hiện
cuộc
rút
lui
chiến
lược,
thì
theo
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54
“ngày
15
Mậu
Tý,
em
vua
là
Chiêu
Quốc
Vương
Trần
Ích
Tắc
đem
đồ
đảng
đến
nội
phụ”.
ĐVSKTT
5
tờ
47b5-7
chép
sự
kiện
này
sau
ngày
mồng
một
tháng
ba:
“Chiêu
Quốc
Vương
Ích
Tắc
và
bọn
Phạm
Cự
Địa,
Lê
Diễn,
Trịnh
Long
đều
đem
gia
thuộc
đến
hàng
Nguyên”.
Số
phận
Ích
Tắc
sau
này
là
số
phận
của
kẻ
đầu
hàng,
sống
lây
lất
và
chết
ở
quê
người,
muôn
đời
chịu
tiếng
ô
nhục.
Cuộc
chiến
tranh
vệ
quốc
đang
đi
đến
những
giờ
phút
quyết
định
và
kết
thúc
vinh
quang
đang
chờ
đón
những
anh
hùng
có
tên
và
không
tên
đã
và
đang
hy
sinh
cho
Tổ
quốc
muôn
vàn
mến
yêu
của
họ.
Cuộc
phản
công:
Chiến
thắng
A
Lỗ
Sau
cuộc
rút
lui
chiến
lược
về
Thanh
Hóa
cùng
bộ
chỉ
huy
chiến
lược
của
mình
vào
thượng
tuần
tháng
ba,
vua
Trần
Nhân
Tông
tại
đây
chắc
chắn
đã
tập
hợp
quân
đội
và
phân
chia
công
tác,
chuẩn
bị
cho
cuộc
phản
công
lớn.
Trong
20
ngày
còn
lại
của
tháng
ba
này,
các
sử
liệu
Trung
Quốc
không
thấy
nói
gì,
chỉ
thấy
chép
việc
quân
Nguyên
đưa
bọn
đầu
hàng
như
Chương
Hiến
Hầu,
Minh
Thành
Hầu,
Nghĩa
Quốc
Hầu
v.
vỢ
lên
Trung
Quốc.
Còn
phía
nước
ta,
ĐVSKTT
5
tờ
48a7-8
nhắc
đến
một
nhận
xét
của
vua
Trần
Nhân
Tông
đối
với
đạo
quân
Toa
Đô:
“Bọn
giặc
nhiều
năm
đi
xa,
vạn
dặm
lương
thảo,
thế
tất
mệt
mỏi.
Lấy
nhàn
đợi
mệt,
trước
phải
cướp
chí
khí
của
chúng,
thì
ắt
phá
được
chúng”.
Nhận
xét
này
có
thể
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
phát
biểu
trong
cuộc
hội
nghị
quân
sự
cao
cấp
tại
Thanh
Hóa
lúc
ấy.
Dẫu
sao,
thời
gian
này
là
thời
gian
quý
báu
để
cho
quân
ta
ráo
riết
chuẩn
bị
phản
công.
Đến
tháng
tư,
An
Nam
chí
lược
4
tờ
54,
khi
nói
về
cuộc
phản
công
này,
chỉ
chép
được
một
câu:
“Mùa
hè
tháng
tư,
An
Nam
nhân
lúc
sơ
hở,
đánh
lấy
lại
La
thành”.
Còn
An
Nam
truyện
của
Nguyên
sử
209
tờ
8a7-9
chỉ
chép
một
cách
tổng
quát:
“Quan
quân
nhóm