1.- Duyên Khởi Lập Tông Tôn này thuộc về Ðại-thừa, thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai (Tì
Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh,
kế thừa pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là
Mật Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật). Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài
Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Uĩy
Tam tạng và Ngài Kim Cang Trí Tam tạng. Vào đầu đời Ðường, hai Ngài Vô Uĩy và Kim Cang sang
Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn. Ngài Vô Uĩy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài
Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Ðại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ
rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không
Tam tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả truyền
cho Ngài Không Hải là một Ðại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị
tổ Mật tôn ở Nhật. Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật
tôn ở Nhật thường gọi là Ðông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay
là Tạng Mật. Kinh điển của Mật tôn.- Tôn này nương vào hai bộ kinh
lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh Kim Cang Ðảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh
Tô tất địa, Du ký và Yếu lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?
Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô
Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Ðỏa) băng
phương pháp quán đảnh đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai để
truyền thừa Tôn này. Nhưng Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế
nào? - Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là:
Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. 1.-Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh
của các đức Như Lai, làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức
là thể tánh thân tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các
pháp. 2.-Bảo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như
Lai do thành tựu công đức tu hành trãi qua ba đại kiếp mà được. 3.-Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do
trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng
sanh mà hóa độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta-bà này.
Vậy đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích ca như một
số người lầm tưởng, mà chính là pháp thân Phật. Theo các tôn phái khác thì pháp thân không có hình
tướng, không thuyết pháp chỉ báo thân và ứng thân, như đức Phật Thích Ca mới có
hình tướng và nói pháp. Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp;
Hiển giáo và Mật giáo. Những lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích
Ca thì tủy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền
thiệt hay là Hiển giáo. Còn Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà
chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lãnh được của
pháp thân Phật, như Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp
pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na). Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí
mật là Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay pháp thân Phật). Còn vị sơ tổ của tôn này là
Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa là vị Bồ tát đã chép lại kinh Ðại Nhựt và kinh Kim
Cang Ðảnh. II.-Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản. 1.-Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật
thể của vũ trụ. Lục đại đà: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và
thức đại. Lục đại là bản nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu
xuất ra). Trong lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại
cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sau đại này mỗi mỗi đều dung thông, không
ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.
Lục đại bao hàm 3 phương diện Thể đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ; Tướng đại, tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh
Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động tác, cong dụng của
mỗi sự vật. Vũ trụ vạn hữu không có cái gì ra ngoài thể đại,
tướng đại, dụng đại. Thể, tướng, dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ ra
như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không
thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài thể đại, thì tướng đại và dụng đại cũng không
thể có được; ngoài tướng đại thì thể đại và dụng đại cũng không thể có được. Vì
vậy xét một phương diện thì rõ được cả ba. Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông,
thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: thế, tướng , dụng cũng không thể rời
nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có
lý dung thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như.
Lý tánh hay chơn như là nồng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, thì
chơn như hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng là hai
khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức có sự, có sự tức có
lý. Lý tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn
có trong mọi chúng sanh, trong mọi hình thức. Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như,
trước tiên phải quan sát sự tướng, sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây
tức là bốn Mạn trà- la. 2.- Bốn Mạn trà- la: Mạn trà- la nghĩa là tròn trịa
đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn pháp Mạn trà- la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là
bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn
trà- la là: đại Mạn trà- la.- nghĩa rộng là thân của các loài hữu
tình trong mười pháp giới, là sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng
của môn pháp trong vũ trụ, y theo lục đại mà hiện. Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật,
Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ.v.v... Tam muội gia Mạn trà- la.- nghĩa rộng là hết thải các
cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa
là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ...nghĩa hẹp là chỉ
những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương
liễu để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quý
Ngài trong việc cứu độ chúng sanh. Pháp Mạn trà- la. -nghĩa rộng là hết thảy âm thanh,
lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những
chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ
cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Ðại Nhựt
Như Lai (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). Còn chơn
ngồn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong
các kinh điển. Yết ma Mạn trà- la:- Yết ma là cử động làm các sự
nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma Mạn trà- la là chỉ cho hết thảy động tác của
chúng sanh và môn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư
Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp độ sinh. Bốn Mạn trà- la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn
trà- la, tức phải có ba Mạn trà- la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh
đều có. Bốn mạn của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng
sanh không lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa
nhau. III.- Phương Pháp Tu hành Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu
hành của Phật tôn có hai pyương diện: Sự và Lý, hay nói theo danh yừ của Mật tôn
là Giáo tướng và Sự tướng. Sự tướng là tất cả những thực hành như tụng chú, kết
ấn, cúng dường, lập đàn ...Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép
nhất định, chứ không thể dùng ý riêng mà làm càn được. ''Giáo tướng'' là tất cả những ý nghĩa sâu xa mầu
nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự tướng để dạy chúng ta. Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương
diện ấy,không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội
được ý nghĩa của sự tướng để làm cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều
là nói suông. Giáo tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự
tướng thì phải có các bậc A xà lê, tức các vị truyền đạo của Mật tôn, truyền cho
mới biết được. Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành
trọng yếu của Mật tôn là Tam mật. Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên
thân. Ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mậy ) và ý mật. Như trên đã nói , chúng sanh và đức Như Lai đều có
sáu đại làm thẻ, bốn pháp Mạn tà la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và
chúng sanh thì thể tướng mật. Như đức Ðại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là
thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ mật,. Cái thức lớn bao khắp tất cảlà ý mật.
Còn chúng sanh , thì tay băý aán là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ mật,
tâm chuyên vào tam-ma-địa (thiền định) là ý mật. Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnhvà nhiễm,
ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậýc muốn được như Phật , phải tu hành theo
phép tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thaan nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà
tịnh được khẩu nghiệp, trs quán tưởng đức Ðại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng
tưởng, ý nghiệp được thanh tinh. Sự tu hhành tam mật có thể chia làm hai giai
đoạn lớn. Giai đoạn đầu gọi làtam mật gia trì. Trong giai đoạn
này, sau khi hành-giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thìtâm thủy ( tâm vắng
lặng như nước đứng yên ) cả mình được ánh sáng mầu nhiệm của Ðịa Nhựt Như Lai
chói rọi vào, tức là "Gia"; Và tâmthùyminh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng
mầu nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì"Trì", hai bên thừa
tiếp nhau nên gọ là Tam mật gia trì. Giai đoạn thứ hai gọi là Tam mật du già. Khi giai
đoạn Tam mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sángcủa đưc Ðại Nhựt Như Lài là ánh
sáng ttrong tâm thủy của hành-giả hiệp nhau ( du già) không sai không khác, thì
gội là "Tam mậu du già". Ðến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã
thành tựu . IV.-Quả Vị Tu Chứng Hành-giả sáu khi đã thành tựuTam-mật hữu tướng, thông
suốt được ýnghĩa mầu nhiệmcủa bốn mạn-trà-la, thì nhất cử, nhaạt động đều rập
khuốnđung theo oai nghi của Phật , làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên,
có làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Ðó tức là vô tướng tam mật. Ðến độ vô tướng tam mậtthì mọi hành vi cử động đều
tòan là ấn cả, hết thãy lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thãy ý nghĩ đều là
diêu quán cả. Do đó mà trong kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã
chứng được vô tướng tam mật: "mỡ miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay động
chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành". Ðó cũng là ý nghĩa của bốn chữ"tức thân thành Phật ";
nghĩa là hiện đời thành Phật . V.-Kết Luận Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng
tộtcũng đồng một mục đích như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh.
Thaan ngồi trì chú, tay bắt ấn, nên thân không làm các việc tội ác, vì thế mà
thân nghiềp được thân tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói
các điều tội lỗi, vì thế mà khẫu nghiệp được thanh tịnh (nhữ mật). Tâm tưởng chú
hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều tội lỗi,
vì thế nên ý nghệp được thanh tịnh ( ý mật) Kinh chép: "Tam nghiệp hằng thanh
tịnh, đồng Phật vãng Taay phương".nghĩa là:nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnhthì
được về tây phương đồng ở với Phật . Trì chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú vãng sánhẽ
nhỗ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướngvà được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế
nghiệp chướng căn bản, đắc sanh Tịnh độ Ðà-la-ni); trì chú lăng nghiêm sẽ được
tiêu trừ các oan gia nghiêp chướng và tình ái-dụcnặng nề từ nhiều kiếp trước,
như ông A-nan và bà Ma-Ðăng-Già ( xin quý vị xem quyển Ðại cương Lăng nghiêm về
đoạn nói lớiich trì chú Lăng nghiêm); trì chú phổ am sẽ tiêu trừ được phục thi
cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch; triều ttrì Ngủ bộ chú hay Ðaị bi
thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm hành-giả cầu như thế nào, sẽ được
mãn nguyện như thế ấy. 6.- Pháp Hoa Tông Hay Là Thiên Thai Tông I.- Duyên Khởi Lập Tông Thiên thai tôn được khởi xướng từ Bắc tế. Do Ngài Huệ
văn Thiền sư dựa vào bộ tríd độ luận mà lập ra pháp ''Mhứt tâm quan quán''. Pháp
quán này được truyền cho Ngài Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền
cho Ngài Trí Giả ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Giả là một bậc đại sư , y theo kinh
pháp hoa, bổ yúc thêm cho pháp ''Mhứt tâm quan quán'' được hoàn bị và lâop thành
một tôn pháp có uy thế ở núi Thiên Thai. Dooó mới có tên là Thiên Thai tôn (hoặc
gọi Pháp hoa tôn). vị đại đệ tử của Ngài Trí Giả là Ngài Chương An Ðại sư ghi
chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ luận có giá trị, để làm cơ sở cho
Thiên Thai tôn, như bộ Pháp hao huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma ha chỉ quán. từ
Ngài Chương An, giáo nghĩa củ tôn này được hoằng truyền mãi cho các vị Ðại đệ tử,
thứ tự như sau: Ngài Trí Oai, Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh Và Ngài Trạm Nhiên.
Ðến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi là kinh Khê tôn giả,
giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tôn lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh
thế, vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng, học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm
các bộ luận căn bản của tôn được hoàn bị, tù Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào
cũng có những vị đệ tử có tài đứ rộng truyền giáo nghĩa của tôn này. Kinh sách của Thiên Thai tôn rất nhiều, trong số này
có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn này là: Pháp hoa huyền nghĩa,
Pháp hoa văn cú, Ma hoa chỉ quán. ngoài ra có thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không
quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng củng rất cần thiết cho người tu học là: Quán
âm huyền nghĩa, Quán âm nghĩa sớ, Kim quang kim huyền nghĩa, Kim cang minh văn
cú và Quán kinh sớ. II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, Thiên
thai tôn không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Ðó là: ''Chư pháp duy
nhứt tâm''. Cái công lớn nhất của Thiên thai tôn là làm sáng tỏ giáo-lý trên
bằng một phương-pháp diễn dịch rất là minh bạch tinh vi. Sao gọi là ''Chư pháp duy nhứt tâm''?. Theo Thiên
thai tôn thì ngoại tâm không có các pháp , ngoài các pháp không có tâm. Tâm tức
là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng
cũng không phải là một. Tâm bao trùm tất cả. Tâm tức là chúng sanh, tâm cũng tức
là Bồ tát, Phật. sinh tử cũng ở nơi tâm ấy. Nhưng làm sao để nhận chân được những phương diện của
tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu thuẩn với nhau. Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan sát phải
đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau mà nhìn: -nếu chúng ta đứng về phương diện truyệt đối mà xét
sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện chơn đế), thì thấy sự
vật trong vũ trụ, không có một sự vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi
vật không có thể tự riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái ''có''
của sự vật là một cái có tạm bợ giả dối, ''có '' mà cũng như ''không ''. Ðứng về
phương diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt đối cả. Cho nên
gọi là ''không''. Nhưng nếu đứng về phương diện tương đối mà xét (hay
nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện tục đế), thì không thể bảo mọi
pháp là hoàn toàn ''không '' được. Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật,
và mỗi vật có một giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn ''không
''? Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu một vật gì.
Ðứng về phương diện tuyệt đối, thì vạn pháp là ''không
''?; Ðứng về phương diện tương đối thì vạn pháp là ''có''. '' Không'' và ''có ''
đấy là hai phương diện của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay
trái lại lấy phương diện kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót.
Một giáo lý hoàn toàn là phải chấp nhận cả hai phương diện ấy. Ðó là trung đạo.
Phải là trung đạo, mới có thể tuyên bố: ''Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết
pháp là tâm; tâm là sanh tử luân hồi, mà cũng là Niết bàn tịch tịnh''. Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiên và ác, tịnh và
bất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cỏi sanh diệt vô thường, vẫn có cái lý bất
sanh bất diệt; trong cỏi ta ba, vẫn có cảnh giưói củ Phật. đó là ý nghĩa của câu
'' pháp môn tánh cụ'' nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và
dữ, tịnh và bất tịnh...Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì kết quả
như thế ấy. Muốn thành Phật, còn muốn làm chúng sanh thì tạo nhơn chúng sanh.
Chúng sanh muốn thành Phật chỉ nhứt trừ ác nghiệp và chuyển lại tu thiện nghiệp
Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp giới là
sáu loại phàm phu (Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Tu la, Nhơn, Thiên) và bốn thánh
bậc (Thanh văn, Duyên giác, ồ tát và Phật). Do chủ trương: ''pháp môn tánh cụ'', và mỗi pháp giới
đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm tu hành của Thiên thai tôn cũng lạc quan
hơn các tôn phái khác. Ơí trong pháp giới nào cũng dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu
cũng có thể tu hành và thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này,
cầu sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hàng và thành Phật. III.- Phương Pháp Tu Hành Phần chủ trương của Thiên thai tôn như đã trình bày ở
trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh giới hiện tại có đủ cảnh giới phàm
và thánh muốn thành Phật, Bồ tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ tát.
Ðó là nói về lý thuyết. Nhưng trong thực hành không phải dễ dang như thế. Trước tiên, chúng ta phải nhận định hoàn cảnh thực tế
của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều mê lầm, hay nói theo thuật
ngư nhà Phật thì là ''chướng'' hay ''hoặc''. Dứt trừ được những 'chướng'' hay ''hoặc''
ấy là công việc chính của người tu hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy
hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung, phạm vi họat động của
chúng ta như thế nào đã. Những chướng ngại, mê lầm hay những hoặc nói trên nhiều
vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Ðó
là kiến tư hoặc, trần sang hoặc và vô minh hoặc. 3.- Vô minh hoặc: Chử vô minh nghĩa chung là mê lầm.
Mê lầm cũng có niều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng, thô thiển và vi tế. Hàng
Tiểu-thừa cũng dùng chữ vô minh, mà hàng Ðại-thừa cũng dùng chữ vô minh. Nhưng
vô minh theo quan niệm của Tiểu-thừa là sự mê lầm che lấp không cho chúng sanh
thấy được cái cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân hồi.
Còn theo nghĩa của Ðại-thừa và đặc biệt của Thiên thai tôn là sự mê lầm che lấp
chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng
rãi như thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc; và chỉ có hàng Bồ tát mới dứt
trừ được , nên cũng gọi là biệt hoặc. Ðối vị với ba hoặc này, Thiên thai tôn lập ra ba pháp
quán là: Không quán, Giả quán và Trung quán. Ba Pháp Quán: Ba pháp này nguyên Ngài Tuệ Văn rút từ
những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài Long Thọ Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy
như sau: Nhân duyên sở sanh pháp Ngã thuyết thức thị không Diệc danh vi gỉa danh Diệc thị trung đạo nghĩa. (các pháp do danh duyên sanh, nên tánh bảo là không,
mà cũng là giả danh, đó cũng là nghiã lý của Trung đạo). Ðối với Thiên thai tôn thì ba pháp quản này là phần
nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba pháp quán này thì không làm
sao thành tựu được . ba pháp quán này, như trên đã nói; Không quán, Giả quán và
Trung quán. 1.- Không quán: Không quán là đứng về phương diện
chơn đế mà quan sát sự vật. Theo chơn đế thì các pháp là không, nhưng chúng sanh
vì mê lầm không rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay
cuồng trong sanh tử luân hồi của tam giới. nay phải dùng Không quán mà phá trừ
sự mê lầmchấp trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới
thoát khỏi sanh tử luân hồi. 2.- Giả quán: Giả quán là đứng về phương diện tục đế
mà quan sát sự vật. Các Phật tuy không và không sở đắc nhưng đứng về thế tục mà
nhìn, thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp , muôn hình vạn trạng, không thiếu một
pháp nào. Giả quán này có thể dứt trừ được trần sang hoặc, vì hành giả biết rằng
hoặc tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều
ấy, và cứ tâm phát nguyện độ sanh khắp tất cả. 3.- Trung quán: Trung quán là đứng về phương diện
trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất nghĩa đế là sự thật đúng đắn
nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh, tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác.
Khi đứng về chơn đế hay tục đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt
đến sự thật; nhưng sự vật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một
khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung quán, thì trở
thành mâu thuẩn, đối chọi nhau. Nhờ Trung quán mà nhìn cùng một lần cả hai khía
cạnh Có và Không, mới nhận chân được rỏ ràng các pháp không phải chơn mà cũng
không phải tục, tức chơn, tức tục, dung thông cả hai, không có chướng ngại. Pháp
quán này sẽ trừ được vô minh hoặc một cách rốt ráo, cùng tột. Ba pháp quán này có tể thực hành bằng nhiều lối: Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả đến Trung.
Lỗi quán này gọi là quán ba đế về lối cách lịch, thứ đệ, hay về biệt tướng, hay
biệt giáo. Hoặc quán theo lối thông tướng. Theo lói sau nay thì
quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết
thãy đều Không; Giã, Trung cũng đều Không; quán pháp Giã, thời hết thảy đều Giả;
Không , Trung cũng đều Giã; quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả
cũng đều Trung. Hoặc quán theo lối Viên dung; nghĩa là đầy đủ, Dung
nghĩa là dung hòa. Theo pháp qúan này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba pháp
quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn ngại nhau.
Quán như thế gọi là ''nhất tâm tam quán'', một pháp quán của viên giáo. Nhất tâm
tam giáo là pháp quán vi diệu nhất. nhờ pháp quán này mà hành giả trực nhận được
trong một lúc nhiều khía cạnhcu tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ ràng như khi
chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ cho không),
những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba thứ: ánh sáng, bóng phản
chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên
dung, không trở ngại nhau. Cái lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong mười
pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho nên
thông thường gọi là: '' Một cảnh ba đê ú''. Hành giả khi quán thuần thục, sẽ đi đến kết luận sau
đây: Chân như, Tâm và Vật, quan hệ mật thiết như tánh ướt,
nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước , Vật dụ cho sóng. Ngoài
tánh ướt không có nước; ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như không có tâm,
ngoài tâm không có vật. Chân như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải
là một, mà cũng không khác. IV.- Quả Vị Tu Chứng Như trên đã nói, do sự khám phá của ''Nhất tâm tam
quán'', Thiên thai tôn có một quan niệm lạc quan về sụ tu chứng. Thật vây, khi
đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sụ vật, phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh
độ, thì hành giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới
tu hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được.
Ngay trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi công tu
luyện thì cũng là Phật rồi. Âúy là ý nghĩa của Thiên thai tôn đã đề xướng trong
chủ trương ''Lục tức Phật''. 1.- 'Lục tức Phật, gồm có: Lý tức Phật, danh dự tức
Phật, quán hạnh tức Phật, Tương trợ tức Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu kính tức
Phật. a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiễu rõ được
nghĩa lý của Ðức-Phật đã dạy trong câu '' Chúng sanh vốn đủ Phật tánh , cùng các
đức Như Lai không hai không khác''; hay trong câu: ''Hết thảy chúng sanh đều là
Phật''; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật. b) Danh tự tức Phật: Danh tự ở đây tức là những kinh
điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu được
thông suốt rằng: ''Hết thảy các pháp đều là Phật pháp ''. Danh tự tức Phật nghĩa
là lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.
c) Quán hạnh tức Phật: Quán hạnh là quán tưởng. Hạnh
là tu hành, hành động; nói một cach tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực
hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật. d) Tương trợ tức Phật: Chử tương trợ ở đây có nghĩa
là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực chứng được lý tánh , nhưng tâm
mình đã được yên lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là
tương trơ ủtức Phật. đến đây tức là Phật thập tín, thuộc về nội phàm (phàm phu
trong nọi giáo). e) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên thai tôn, thì vô
minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá
được một lớp, tức là chứng được một phần Trung đạo. Ðó là ý nghĩa của phần chứng
tức Phật. đến nay tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng,
Thập địa và Ðẵng giác. f) Cứu cánh tức Phật: Cứu cánh tức là đạt đến bực
cuối cùng, chứng được chổ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng
trí đều viên mãn. Ðến đây tức là đến bực Diệu giác hay Phật. chúng ta nên nhớ rằng ''Lục tứ Phật'' này có phân
biệt Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã
đến từng bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh
vẫn là một và mọi chúng sanh đều là Phật. cái Lý này đem lại cho hành giả và sự
phấn khởi, trên đường tu hành, không sanh lòng chán nãn, không buồn trách mình
chậm thành đạo quả mà thối tâm. Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ
mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể như nhau và ngang nhau được.
Người tu hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng- thượng-mạn, tự xưng là
Phật là Thánh trên bước đường tu hành của mình. Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức là
bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba
Ðức. 2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết -trí,
Ðạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí. Nhất-thiết-trí: Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều
không sanh; biết rỏ danh, tướn các pháp của nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không
có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu theo Tiểu-thừa, sau khi đã chướng quả đều
có được. Còn theo Thiên Thai tôn thì do tu Không quán mà có được. Ðạo-chủng-trí: Trí này rỏ biết nhất thiết pháp đều là
Có nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất
thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không sanh. Chứ không phân biệt được các
pháp do duyên khởi. Vì không rỏ được nguyên nhân sanh-khởi, các pháp như thế,
nên không thể dùng đạo pháp của các Ðức-Phật để phát khởi các giống lành cho hết
thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy phải
có Ðạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh để cứu độ
chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát mới có được, và do Giả-quán mà thành.
Nhất-thiết-chủng-trí: Trí này rõ biết được hết thảy
pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của các Ðức-Phật và hết thảy
nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng sanh, phá tan được vô-minh
hoặc, thông-suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành
tựu Trung-quán mà có. Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán:
không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên-dung khác nhau, nên
khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ
lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết-trí, đến Ðạo-chủng trí, cuối cùng
đến Nhất-thiết-chủng trí. Ba trí không thứ lớp tức là ba trí đồng thời
thành-tựu, do tu pháp ''Nhất tâm viên quán''. Ðoạn văn sau đây, trong bộ Ma-Ha-Chỉ quán có thể tóm
tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí nói trên: '' Trí-huệ Phật soi rõ lý Không, như chổ nhận thấy
của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí. Trí huệ Phật soirõ lý Giả, nhưng sự
nhận thấy của các bực Bồ Tát, gọi là Ðạo-chủng trí. Trí-huệ soi rõ cả lý Không,
Giả, Trung, thông suốt thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng trí ....Ba
trí do một tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh bất-tư-nghị,
trí ấy do tu quản mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí. 3.- Ba đức: Kết quả tu chứng của Thiên-thai tôn,
không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Ðức nữa. Chữ ''Ðức'' ở đây không
phải hiểu theo nghĩa thông-thường ở trên thế-gian, mà là Ðức của cảnh-giới
Niết-bàn, nghãi là có đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là: a). Ðức Pháp-thân: Pháp tức là khuôn phép đúng với
chơn-tướng của vũ-trụ. Các Ðức-Phật nhờ nương theo khuông phép ấy mà tu hành
thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân. b). Ðức Bát-nhã: Tức là cái sáng-suốt về thỉ-giác của
Phật, rõ biết các Pháp không sanh không diệt, vắng-lặng siêu-hình, một mực
bình-đẳng, không thêm không bớt. c).Ðức Giải-thoát: Giải là không bị ràng buộc; Thoát
và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại. Ơí đây muốn nói các Ðức-Phật đã lìa
bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng được cảnh-giới đại tự-tại,
Giải-thoát vậy. V.- Kết Luận Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tôn (duyên
khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành, và quả vị tu
chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tôn, nhưng
thiết tưởng cũng đem lại cho quý vị độc giả một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai
tôn, một tôn đăĩc-biệt thành-lập ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh-hưởng sang các
nước Mông-Cổ, Nhật-Bản, Cao-Ly, Việt-Nam. Ðiểm đặc-sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm
tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba
khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vât, Tâm, và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước
và tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba
phương-diện có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có
thể thấy cả ba. Ðó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tôn mà cũng tức là lý-nghĩa
chung của Viên-giáo. Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm cho thấu đáo, để
nhận rõ được cái lẽ ''tam tức nhứt, nhức tức tam'' ấy. Và như thế tức cũng đi
dần vào pháp ''nhứt tâm tam quán'' rồi đó. |
Nguồn: www.quangduc.com