|
. |
Phật Học
Phổ Thông
Khóa
Thứ Năm
Lịch
Sử Truyền Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
--- o0o ---
Bài Thứ
7
Mười
Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa (tiếp theo)
4.- Duy
Thức Tông Hay Là Pháp tướng Tông
I.- Duyên Khởi
Lập Tông
Tất cả chúng
sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp
mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay
vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi.
Nếu con người
hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong
vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến
hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não,
tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc,
trong bánh xe sanh tử luân hồi.
Ðể phá trừ
hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Ðức-Phật có rất nhiều
phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay
Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm
để đi đến giải-thoát.
II.- Ðịnh Nghĩa
Tôn này thuộc
về Ðại-thừa, phân-tách vũ-trụ, vạn hữu đều do thức
biến hiện.
Duy-thức tôn,
hay Pháp-tướng tôn, như danh từ đã chỉ-định, không nói
về tâm tánh chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức,
tức cũng là tướng của pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa
hiệp biến thành hình tướng thức A-Lại-Da, rồi tư thức
A-Lại-Da sanh ra các tướng tâm-pháp .v.v...tôn này quán-sát
hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là '' Pháp-tướng
tôn '' .
Ðứng về phương
diện nguyên-nhân mà nghiên-cứu, tôn này chủ-trương rằng
vũ-trụ vạn-hữu, hay là tát cả các pháp đều do duy-thức
biến-hiện, ngoài thức không còn một yếu tố nào khác nữa
nên gọi là '' Duy thức tôn '' .
Vậy '' Pháp-tướng
tôn '' hay '' Duy thức tôn '' cũng đều để gọi pháp-môn mà
tôn-chỉ chỉ la fnghiên cứu, quan-sát hành-tướng và nguyên
nhân sanh-khởi của vạn pháp. Nguyên nhân sanh-khởi ấy là
'' Thức ''.
III.- Căn Cứ
các kinh sách Sau Ðây Lập Ra Duy Thức Tông
Như tất cả các
tôn phái khác, Duy-thức tôn cũng căn-cứ vào căn luận của
Phật mà được thành lập ra. Ðó là 6 bộ kinh và 11 bộ luận
sau đây:
Sáu bộ kinh là:
1.- Kinh Giãi-thâm-mật
2.- Kinh Hoa-nghiêm
3.- Kinh Như-lai
xuất hiện công-đức trang-nghiêm
4.- Kinh A-tỳ-đạt-ma
5.- Kinh Lăng-nghiêm
6.- Kinh Hậu-nghiêm
(hay Mật-nghiêm).
Mười một bộ
luận là:
1.-Luận Du-già
Sư-địa
2.- Luận Hiển-dương
Thánh-giáo
3.- Luận Ðại-thừa
Trang-nghiêm
4.- Luận Nhiếp
Ðại-thừa
6.- Luận Thập-địa-kinh
7.- Luận Phân-biệt
Du-già
8.- Luận Quán
Sở-duyên-duyên
9.- Luận Duy-thức
Nhị-thập-tụng
10.- Luận Biện-trung-biên
11.- Luận Tạp-luận
Vị sáng lập
ra Duy-thức chính là Bồ Tát Di-lặc. Ðức-Di-Lặc sau khi tu
chứng được Duy-thức, đã ýwng theo lời thỉnh-cầu của
Ngài Vô-trước, nói Luận Du-già Sư-địa.
Hai vị có công
lớn trong việc phát-triển tôn này ở Ấn Ðộ là hai anh em
nhà Vô-trước và Ngài Thế-thân. Ngài Vô-trước dựa theo
bộ '' Du-già Sư-địa '' làm ra bộ luận ''Hiển-dương Thánh-giáo
'', và '' Nhiếp Ðại-thừa ''. Ngài Thế-thân lại có công
đức lớn lao hơn nữa, tomtăts lại nghĩa lý Duy-thức, lảma
bộ luận '' Duy-thức tam thập tụng ''. Về sau, có mười vị
Ðại Luận-sư, sớ giải bộ Duy-thức tam-thập tụng, làm
thành mười bộ luận chính về Duy-thức .
Ðến đời Ðường,
Ngài Huyền-trang từ Trung Hoa sang Ấn Ðộ thỉnh kinh và tham-cứu
về Phật Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy-thức.
Sau khi trở về Trung Hoa, Ngài lượm-lặt tinh-hoa của 10 bộ
đailuận nói trên, dịch thành Hán-văn, dưới nhan đề là:
'' Thành Duy-thức Luận '', gồm cả thảy 10 quyển. Ngài Khuy-cơ
là đệ-tử lớn của Ngài Huyền-trang sớ-giải thêm rỏ nghĩa-lý
bộ '' Thành Duy-thức Luận '' làm ra thành 60 quyển, dưới
nhan đề là '' Thành Duy-thức thuật-ký ''.
Tóm lại, ở Ấn
Ðộ, vị có công lớn nhất trong sự phát huy Duy-thức tôn
là Ngài Thế-thân. Còn ở Trung Hoa, vị có công lớn nhất
trong việc truyền bá Duy-thức tôn là Ngài Huyền-trang.
Về phương diện
sách vở dạy về Duy-thức, từ xưa đến nay được các học
giả xem là chánh-tôn Duy-thức, thì có ba bộ sau đây:
1.- Ðại-thừa
Bá pháp minh môn luận (tatc giả là Ngài Thế-thân). Nội dung
bộ luận này giải-thích các danh từ chuyên-môn của Duy-thức,
nói rỏ 100 pháp và hai món vô-ngã. Người học Duy-thức nếu
không học bộ luận này trước, thì không dễ gì hiếu được
Duy-thức (bộ luận này đã được dịch ra tiếng Việt và
chúng tôi lấy nhan đề là: Duy-thức nhập môn).
2.- Duy-thức tam
thập tụng (cũng do Ngài Thế-Thân tạo ra). Trong bộ luận
này Ngài Thế-Thân dùng 30 bài tụng để giải thích về nghĩa
lý chánh của Duy-thức, luận này chia làm bốn phần:
a). Phần thứ
nhất nói về ba chức năng-biến:
-Thức năng-biến
thứ nhất là thức A-lai-da (thức tứ tám).
-Thức năng-biến
thứ hai là thức Mạt-na (thức thứ bảy).
-Thức năng-biến
thứ ba là sáu thức năng trước.
b). Phần thứ
hai nói về các tâm-sở:
-Biến-hành (5
món)
-Biệt-cảnh (5
món)
-Thiện (11 món)
-Căn-bổn phiền-não
(6 món)
-Tùy phiền-não
(20 món)
-Bất-định (4
món).
c). Phần thứ
ba giải-đáp các nghi vấn:
-Làm sao biết
được phận-vi sanh-khởi của các thức?
-Nếu không có
ngoại cảnh, thì sao có sanh tử và các sự phân biệt?
-Nếu không có
ngoại cảnh, thì sao có chúng hữu-tình sanh-tử?
-Nếu chỉ thức,
tạo sao Phật lại nói có ba tánh?
-Nếu có ba tánh,
tại sao Phật nói ba món vô-tánh?
d).Phần thứ tư
nói về đệ tu Duy-thức:
Từ khi phát tâm
tu Duy-thức cho đến khi chứng được Duy-thức tánh thành Phật,
hành-giả phải trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:
-Vị Tư-lương
(như lương thực cửa người đi đường).
-Vị gia hạnh
(gia công tấn hàng).
-Vị thông-đạt
(thấu suốt đường lối).
-Vị tu-tập (tu-hành
tập-luyện).
-Vị cứu cánh
(đến cùng tột địa vị tu chứng).
3.- Bát-thức qui-cũ
tụng (tác giả là Ngài Huyền-trang). Nội dung của quyển này,
Ngài Huyền-trang dùng 12 bài tụng để toát yếu lại nghĩa-lý
Duy-thức, gồm có bốn phần:
a). Phần thứ
nhất nói về năm thức đầu
b). Phần thứ
hai nói về thức thứ sáu .
c). Phần thứ
ba nói về thức thứ bảy
d). Phần thứ
tư nói về thức thứ tám.
Mỗi một phần
có ba bài tụng, hai bài tụng đầu nói hành-tướng các thức,
khi hành-giả còn ở địa vị phàm-phu; bài tụng thứ ba nói
hành-tướng các thức, khi lên quả-vị Thánh.
Tóm lại, ba bộ
luận trên này, người muốn học Duy-thức, khôngthể bỏ qua
được.
IV.- Chủ Trương
Của Duy Thức Tông
Chủ-trương của
Duy-thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở
chấp), bằng cách chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp
đều nương nơi thức hiện ra (y-tha khởi), và mục dích cuối
cùng lá đưa chúng sanh trở về với tánh chân thật (viên-thành
thật). Thế-giới hiện-tượng này này, vì mê-mờ, chúng ta
tưởng là chắc thật, nhưng hteo chủ trương của Duy-thức
học, thì vũ-trụ vạn-hữu đều là Duy-thức biến-hiện.
Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có
cảnh vật ấy.
Vậy, nếu chỉ
cho chúng sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ-trụ vạn-hữu
do thức biến-hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh
sẽ không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi
biết cảnh vật trong chiêm bao là do tâm chiêm-báoanh ra thì
không còn mê muội nơi cảnh chiêm-bao nữa. Mà không còn chiêm-bao
tức đã thức-tỉnh. Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã,
thật pháp nữa, tất sẽ thấy được cảnh chân-thật của
vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên thành-thật) . đó là chủ trương
của Duy-thức tôn.
Nói một cách
vắn tắt, chủ trương của Duy-thức tôn là quy vũ-trụ vạn-hữu
trở về Duy-thức tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về
Duy-thức tánh (tâm chơn-như hay tánh viên-giác).
V.- Thành Phần
Của Hiện Tượng Giới
(vũ-trụ vạn-hữu
gồm cả tâm và pháp ).
Phân Loại Theo
Duy Thức Tông
Hiện tượng giới,
tức là vạn sự vạn vật trong vũ-trụ (gồm cả tâm lẫn
vật), tuy nhiên không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan
của nhà Duy-thức học, có thể phân ra thành năm loại; năm
loại này lại chia thành 100 thành phần hay 100 pháp.
Năm loại lớn
ấy là:
1.- Tâm-vương
tức là '' tướng '' của thức, thuộc về tâm-giới.
2.- Tâm-sở tức
là '' dụng '' của thức, cũng thuộc về tâm-giới.
3,- Sắc-pháp tức
là ''ảnh-tượng'' của thức, thuộc về sắc-giới.
4.- Bất-tương-ứng-hành
tức là ''phận-vị sai khác'' của thức, không phải thuộc
hẳn về tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm
cả hai phần mà thành.
5.-Vô-vi tức là
''tánh'' của thức, cũng gọi là ''chơn như ''
Bốn loại trên:
tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương ưng hành đều thuộc
về " hữu vi",tức là " tướng ,có sanh diệt.
Loại thứ năm,
là pháp "vô vi", không sanh diệt, không tạo tác, tức là "
tánh " của các pháp, hay chơn như.
Năm loaại lắn
trên đây, môĩ loại lại chia làm nhiều thành phần, có những
tác dụng hành tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu
kỷ sau đây:
1.-Tâm vương
Tâm vương gồm
có tấm món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và nhiệm
vụ riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên
gọ là tâm vương. Tám phần của tâm vương là:
a) Nhãn thức
b) Nhĩ thức
c) Tỹ thức
d) Nhận thức
đ)Thân thức
e)Ý thức
h)A-lại da thức
Chúng ta có năm
giác quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng:
khi ta nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ
v.v...cái biết ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức.
Khi chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to
hay nhỏv.v...cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức.
Khi ta ngữi một mùi gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi,
cái biết ấy thuộc về mũi, nên gội là tỷ thức. Khi chúng
ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn hạylat,
chua hay ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là
thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một vật gì, biết vật
ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc về
thân thể, nên gọi là thân thức.
Năm cái biết
trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân thức, thuộc về năm
giac quan bên ngoài nên chúng ta dễ nhận.
Ba cái biết sau
này: Ythưsc, Mạt-na- thức, A-lại-được-thức, thuộc về
nội tâm, và theo thứ lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn,
nên khó nhận khó biết. Tuy thế, đối với nhà duy thức học,
người ta cũng có thể nhận biết được rành rẽ hành tướng
phân biệt được
phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng
của mỗi thứ.
Trước tiên, chúng
ta nói đến thức thứ sáu hay"Ý thức".
Yĩ thức có hai
phạm vi hoạt động:
-Khi nào ý thức
hiẹp với năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi
là " Ngủ của ý thức", hây là " Minh liẽu ý thức". Trong
lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v...mà không có ý thức
phụ vào (để ý) thì mặc duù mắt vẫn thấy, tai vãn nghe,
nhưng thấy nghe không được rõ ràng. Sách nho chép:"Tâm bất
tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn" ( nếu không
chú ý, thì dù xem cũng chẵng thấy, lắng cũng chẵng nghe).
Trái lại, khi có ý thức phụ vào, thấy nghe v.v...đều minh
bạch.
-Khi nào ý thức
làm việc một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước,
thì gọi là "Ðơn độc ý thứ" hay "Ðộc đầu ý thức".như
trong lúc năm thức trước không tiếp xúc với sắc, thanh,
hương, vị và xúc, mà trong tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng(pháp
trần) của năm trần. Khi chúng ta nhớ tưởng lại, thì cảnh
ngủ trần in như hiện rõ ràng ở trước, đó là công dụng
của " Ðộc đầu ý thức". Thức thứ sáu này, khi tính tóan,
suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng đều lanh
lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy thức nói:"
Công vi thủ, tội vi khôi"( Có cngthì nó đứng đầu, mà có
tội nó cũng đứng đầu).
Thức thứ sáu,
tuy sở trường là khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đỏan
là bất thường, không phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại
có khi gián đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị hụp thuốc
mê, chết giả, ngủ say, hay nhập vô tưởng định v.v...Qua
những giai đọan ấy, ý thức lại hiện trở lại.
Vậủy trong lúc
ý thức không hiện, nó núp ở đâu?
Theo duy thức,khi
đó, thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là
thức thứ bảy hay thức Mạt-na. Theo tâm lý họcthì cũng có
thể gọi là tiềm thức.
Thức thứ bảy
này có hai công năng:
-Chấp ngã;
-Làm căn bản
choÝ thức thứ sáu.
Nnó có công là
đem các pháp hiện hành bên ngoài ''truyền'' vào tạng thức
và đem các pháp chủng tử bên trong ''tống'' ra ngoài nên nó
có tên là ''truyền tống thức''. Sự cháp ngã của tức này
và của thức thứ Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để
ý bảo thủ bản ngã, như khi ra trận bắn nhau với địch
quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế gì để sanh nhai, thì
sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực ra không
có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn thường
trực trong chúng ta . nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm trực,
nên chúng ta không nhận thấy được. Ðến lúc bất ngơ, đột
nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng
ta, như bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị
nhành cây gãy sắp rơi xuống đầu...trong những lúc ấy, tuy
thức thứ Sáu không kịp để ý can thiệp, đối phó mà ta
vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã. Ðó là ự chấp ngx của
thức tứ bảy.
Ngoài bảy thức
nói trên, còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh
mông hơn nữa, đó là thức A lại da, Tàu dịch là tàng thức,
nghĩa là thức ''Tích chứa''.
Từ nhỏ đến
lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tếp xúc với nhiều sự
vật, rồi thời gian cứ tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng
đã quên mất rồi. Thế mà không ! Mỗi khi ngĩ dến thì danh
từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện ra rỏ ràng như
một cuốn phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ hình
ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua mà vẫn còn lại? Tất nhiên
phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới không mất
vậy ! Kho vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng thức
(thức chứa).
Ðể cho dễ nhớ
hành tướng và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân
có làm bài kệ rằng:
Nguyên văn:
Bát cá đệ huynh,
nhứt cá si
Ðộc hữu nhứt
cá, tối linh tinh
Ngủ cá môn tiền
tô úmãi mại
Nhất cá gia trung
tác chủ y.
Dịch nghĩa:
Anh em tám chú
một người si (thức thứ bảy)
Một mình ý thức
rất tinh ranh (thức thứ sáu)
Năm chàng ngoài
cửa lo buôn bán (năm thức trước)
|