|
.
MẶT HỒ
TĨNH LẶNG
Thiền
sư Ajahn Chah
Tỳ
kheo Khánh-Hỷ chuyển dịch
Nguyên
tác: "A still forest pool -The insight meditation of Ajahn Chah",
compiled
and edited by Jack Kornfield and Paul Breiter
 |
 |
Lời
giới thiệu
Giả
sử bạn đến Á Châu vào khoảng thập niên 80 để tìm hiểu
những lời dạy sống thực của Đức Phật, để khám phá
xem hiện nay còn có những nhà sư, những ni cô sống cuộc
đời đơn giản trong rừng sâu, hàng ngày mang bát xin ăn và
chuyên tâm hành thiền không? Dĩ nhiên bạn từng xem kinh sách
và biết rằng chính Đức Phật và hàng môn đệ đã du hành
khắp miền thôn dã và những khu rừng rậm Ấn Độ kêu gọi
mọi người hãy cùng Ngài trau giồi trí tuệ, mở rộng tình
thương, sống đời giản dị của một khất sĩ, hi sinh tất
cả cho sự bình an tỉnh thức.
Bạn
có thể tìm thấy những hình ảnh đẹp đẽ ấy sau hơn hai
mươi lăm thế kỷ biến đổi chăng? Những lời dạy xa xưa
ấy có còn được áp dụng và thích hợp với xã hội mới
mẻ và bộ óc tân tiến của chúng ta không?
Bạn
có thể đáp máy bay xuống một phi trường hiện đại gần
Bangkok, Colombo hay Rangoon. Bạn có thể ngồi taxi dạo qua các
đường phố Á Châu tấp nập, ngắm những vỉa hè đầy trái
cây miền nhiệt đới hay nhìn những chiếc xe buýt đầy ắp
người tới lui không ngớt. Qua vài góc phố bạn lại thấy
những ngôi chùa nóc vàng đồ sộ, những ngọn tháp cao vút
tân kỳ. Đó là nơi những nhà sư, những ni cô lưu trú để
học hỏi kinh điển cổ xưa. Họ thường tụng kinh hàng ngày
và giảng dạy giáo pháp cho mọi người. Nhưng đó không phải
là nơi bạn có thể tìm thấy những gì bạn muốn. Nếu bạn
muốn thấy nếp sống giản dị trong rừng, muốn tìm những
người hành thiền với chiếc y vàng khiêm nhường và chiếc
bát đơn giản như Đức Phật, bạn phải rời phố thị náo
nhiệt, bỏ lại sau lưng những ngôi chùa đồ sộ, những ngọn
tháp cao vút ấy. Nếu xứ bạn đến là Thái Lan, một xứ
có nhiều chùa và nhà sư nhất, bạn phải đáp xe lửa ở
gần nhà ga Hualampang đông đúc, đón chuyến xe sớm nhất đi
lên miền cực Bắc rừng nuí âm u hay xuống tận miền Nam
đất bằng hoang dã.
Chỉ
vài giờ sau bạn đã ra khỏi phố thị ồn ào, xa rời những
khu thương mại sầm uất và không còn nhìn thấy những căn
nhà lụp xụp nằm dài hai bên đường xe lửa. Bạn đi xuyên
qua những cánh đồng lúa hình bàn cờ được phân chia một
cách đều đặn và nhịp nhàng bằng những bờ ruộng, những
con lạch và những đường dẫn nước nhỏ. Ở tận chân trời
của biển lúa ấy, cứ vài ba dặm bạn lại thấy những hòn
đảo nổi, đó là khóm kè hay khóm chuối rậm rạp. Nếu xe
hỏa đến gần hơn một trong những hòn đảo nổi ấy, bạn
sẽ thấy ẩn hiện trong khóm cây um tùm một mái chùa màu
cam và những ngôi nhà gỗ đơn sơ. Đó là hình ảnh những
ngôi làng Đông Nam Á.
Mỗi
ngôi làng chừng năm trăm đến hai ngàn dân là đã có ít nhất
một ngôi chùa. Chùa là nơi cầu nguyện, lễ bái, hội họp,
đồng thời cũng là ngôi trường làng. Đây là nơi phần lớn
thanh niên trai tráng đến tuổi hai mươi vào xuất gia trong
khoảng thời gian một năm hay ba tháng, học hỏi Đạo Pháp
hầu trở nên một thành viên trưởng thành của xã hội. Chùa
được điều hành bởi một vài nhà sư lớn tuổi, giản dị
và thiện chí. Những nhà sư này học hỏi một số kinh sách
cổ, hiểu biết nghi lễ và giáo lý căn bản để đảm nhận
vai trò như một giáo sĩ của làng. Chùa là một thành phần
cũng là một đơn vị tô điểm thêm cho nét đẹp của làng.
Nhưng đấy không phải là nơi mà bạn phải tìm.
Xe
hỏa của bạn phải đi thẳng mãi lên miền Bắc, đến kinh
đô cũ của xứ Auddhaya, với di tích những ngôi đền lộng
lẫy đã bị sụp đổ và những lâu đài cổ kính hoang tàn
vì bị cướp phá hàng thế kỷ trước đây trong trận chiến
tranh với vương quốc lân cận. Lưu lại trong đám hoang tàn
đổ nát ấy là những ngôi tượng Phật khổng lồ, điềm
nhiên qua sương gió của thời gian.
Bây
giờ xe lửa của bạn rẽ về hướng Đông đến tận biên
giới Lào, xuyên qua cao nguyên Korat. Bạn phải mất vài giờ
nữa để băng qua bình nguyên với ruộng lúa và làng mạc,
nhưng dần dần ruộng đồng và làng mạc trở nên thưa thớt
và nghèo nàn hơn. Ở đây bạn không còn thấy những rạch
nước và những ngôi vườn cây trái sum sê của miền Trung
Thái. Cảnh vật trở nên hoang dã, nhà cửa có vẻ nhỏ nhắn
và đơn sơ hơn. Những ngôi chùa làng vẫn còn lấp ló, nhưng
cũng nhỏ bé và đơn giản hơn. Ở đây lối sống cổ xưa
tự túc được duy trì. Bạn có thể nhìn thấy những phụ
nữ khóac mình bằng chiếc khăn dệt tay, nép bên ngưỡng cửa
e thẹn nhìn khách lạ, những nông dân đang chăm chỉ làm việc
ngoài đồng dưới ánh nắng thiêu đốt và bọn trẻ con chăn
trâu trong những con mương nước đục ngầu dọc theo đường
xe lửa.
Vùng
thôn dã ít phát triển này là nơi còn duy trì được truyền
thống của các sơn tăng. Đây là vùng giữ được vẻ thiên
nhiên của rừng rậm, nuí đồi và những vùng đất hoang chưa
bị bàn tay con người sửa đổi. Nhiều thế kỷ qua chốn
quê mùa này đã hỗ trợ tích cực cho các tu viện với những
nhà sư sống bình lặng, đơn giản trong rừng. Là một khu
hoang sơ ít người biết đến, nhưng nơi đây đã đóng góp
lớn lao vào việc duy trì và thể hiện sự giác ngộ, giải
thoát của Đức Phật. Phần lớn những nhà sư ở đây không
đóng vài trò của một giáo sĩ làng, không dạy học cũng
không học hỏi, nghiên cứu, duy trì kinh điển cổ xưa như
những nơi khác. Chủ đích của họ là sống trọn vẹn và
thực hành việc quán xét và bình lặng tâm hồn bằng chính
con tim và khối óc của mình; đó là thực hiện những lời
giáo huấn của chư Phật.
Nếu
bạn rời xe lửa, dùng xe buýt hay thuê một chiếc xe riêng,
rẽ sang một con đường đất để đến một tu viện như
thế, bạn sẽ tìm thấy được gì? Những lời dạy của Đức
Phật và phương pháp hành thiền có còn thích hợp với thời
đại này nữa không? Thiền Minh Sát và tỉnh thức có cần
thiết cho những người sống trong một xã hội tân tiến và
phức tạp không?
Đến
nơi, bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết đã có nhiều người
Tây phương tìm đến đây trước bạn. Từ năm 1965 đã có
hàng trăm người Âu Mỹ như bạn đến thăm viếng và học
hỏi trong những khu rừng hoang dã này. Một số đến học
hỏi một thời gian ngắn rồi trở về, đem những gì mình
đã học hỏi áp dụng vào đời sống hàng ngày. Một số
khác đến ở lâu hơn, hoặc xuất gia tu một vài năm đến
năm bẩy năm, rồi trở về. Một số khác nữa, nhận thấy
đời sống trong rừng phong phú và cần thiết nên quyết định
ở lại luôn cho đến bây giờ.
Mỗi
nhóm đều nhận được những lời dạy trực tiếp qua con
tim và khối óc của mình và được cung ứng một lối sống
ý thức và sáng suốt.
Mới
đầu phương pháp có vẻ dễ dàng và giản dị; nhưng sau một
thời gian cố gắng thực hành lối sống của Đức Phật,
họ sẽ thấy đây không phải là việc giản dị dễ dàng.
Mặc dầu ở đây đòi hỏi một sự cố gắng không ngừng
nghỉ, nhưng sau một thời gian thực hành, họ sẽ tìm được
những gì mà họ muốn tìm. Họ sẽ cảm thấy rằng trên thế
gian này không có gì quí báu hơn việc tìm ra được Pháp bảo
hay chân lý trong chính cuộc sống của họ.
Ngay
từ lúc bước chân đến chốn thiền lâm như chùa Wat Pah Pong
này, bạn sẽ thấy tinh hoa của pháp hành nằm ở đây. Ngoài
tiếng reo của lá rừng, bạn không còn nghe được một âm
thanh nào khác nữa. Những nhà sư làm việc hay kinh hành trong
yên lặng và tỉnh thức. Thiền Viện Wat Pah Pong chiếm một
diện tích hơn trăm mẫu tây, chia làm hai khu tăng ni riêng biệt.
Những mái lều thô sơ đạm bạc dựng lên một cách khiêm
nhường trong rừng cây xanh tươi và lối mòn yên tĩnh. Trung
tâm của tu viện là một thiền đường lớn, trai đường
và chánh điện. Toàn thể cơ sở trong rừng tạo nên một
khung cảnh giản đơn, thoát tục khiến người đến viếng
có cảm tưởng như mình đã đến nơi giải thoát.
Những
nhà sư tụ tập ở những tu viện như thế này thường nép
mình trong khuôn khổ kỷ luật và tri túc gọi là "hạnh đầu
đà." Thực hành hạnh đầu đà là truyền thống của những
nhà sư sống trong rừng. Họ tự nguyện sống khắc khổ như
thời kỳ Đức Phật, thọ trì mười ba pháp đầu đà: tiết
chế trong việc thọ nhận thức ăn, y phục, thuốc men và chỗ
ở. Điều chính yếu của pháp hành này là hạn chế tư hữu,
chú tâm vào việc hành thiền, mỗi ngày đi khất thực một
lần. Lối tu hành thanh cao này còn được giữ gìn trong những
khu rừng sâu Miến Điện, Thái Lan và Lào. Đây là những khu
đất hoang có nhiều hang động, là chốn lý tưởng cho những
người tích cực hành thiền. Những nhà sư tu hạnh đầu đà
có truyền thống là những vị du tăng, sống đơn độc hay
từng nhóm nhỏ, thường di chuyển đây đó, không ở hẳn
một chỗ nào. Nơi tạm trú của họ là những chiếc "lều
dù" đơn sơ.
Trong
cuốn
sách này chúng tôi sưu tập và phiên dịch những lời dạy
về Pháp Hành của Ngài Ajahn Chah, Tăng trưởng Thiền viện
Wat Pah Pong, một trong những thiền viện trong rừng.
Ajahn
Chah và thầy của Ngài là Thiền sư Ajahn Tong Rath và Ajahn Mun
đã bỏ ra nhiều năm kinh hành và ngồi thiền trong rừng sâu.
Những lối dạy trực tiếp và đầy hiệu năng đã được
các ngài và những vị sơn tăng khác giảng dạy không phải
nhằm vào những người muốn tìm hiểu, học hỏi Phật giáo
để thỏa mãn tri thức hay thực hành Phật giáo bằng nghi
thức thờ cúng, mà nhằm cho những ai muốn thanh lọc tâm ý
và quan kiến sai lầm của mình bằng cách thực sự áp dụng
những lời dạy của Đức Phật vào đời sống.
Những
vị thiền sư nổi tiếng sống trong rừng thường được thiện
tín tìm kiếm và mời ra dạy dỗ. Để đáp lại lòng nhiệt
thành của những người ham học hỏi đạo giải thoát, những
vị thiền sư phải ngưng du hành, trú lại một khu rừng nào
đó và sau đấy những thiền viện hành hạnh đầu đà được
xây dựng. Với đà gia tăng dân số trong vòng một thế kỷ
trở lại đây, thật khó mà tìm thấy những khu rừng dành
cho các du sĩ; do đó, những thiền viện trong rừng dành cho
các thiền sư trước cũng như hiện nay trở thành nơi trú
ngụ của các du sĩ hay của những nhà sư thích hành thiền.
Sau
một thời gian du hành đây đó để hành thiền, Ngài Ajahn
Chah trở về định cư trong một khu rừng rậm gần nơi sinh
quán của mình và thiền viện Wat Pah Pong được xây dựng
nên. Đây là một khu rừng hoang vắng, được xem là nơi đầy
rắn độc, cọp beo và ma quỷ, nhưng là một nơi rất lý tưởng
cho những sơn tăng. Từ ngày Ngài Ajahn Chah đến trú ngụ ở
khu rừng này, nhiều thiền viện đã mọc lên quanh đó.
Từ
những chòi tranh đơn sơ trong rừng, Wat Pah Pong đã phát triển
nhanh chóng và trở thành một trong những trung tâm thiền hoàn
chỉnh ở Thái Lan. Nhờ tài năng và tiếng tăm của Ngài Ajahn
Chah, du khách và những người mộ đạo đến với thiền viện
ngày một đông. Để đáp ứng nhu cầu tu học của mọi người,
hơn năm mươi chi nhánh đã được mở ra khắp xứ Thái Lan
do những thiền sư tu học từ thiền viện Wat Pah Pong đảm
nhiệm việc giảng dạy, kể cả một chi nhánh gần Wat Pah
Pong dành riêng cho những thiền sinh Tây phương muốn đến
học thiền với Ngài Ajahn Chah. Trong những năm gần đây một
số chi nhánh đã được mở ra ở các nước Tây phương. Một
trong những chi nhánh nổi tiếng là một thiền lâm lớn lao,
qui mô, đó là Thiền viện Chithurst ở Anh quốc do Thiền sư
Ajahn Sumedho, một trong những học trò đầu đàn người Tây
phương của Ngày Ajahn Chah, điều hành.
Những
lời giảng dạy của Ngài Ajahn Chah bao gồm những gì gọi
là "Cốt tủy của Thiền Phật Giáo", phương pháp thực
hành đơn giản và trực tiếp để an tâm và mở mang trí tuệ,
đạt đến sự sáng suốt thực sự. Phương pháp hành thiền
tỉnh thức hay minh sát này là một lối thực tập thiền quán
của Phật Giáo được bành trướng nhanh chóng ở Tây phương.
Những lời chỉ dẫn của các vị sư hay các cư sĩ đã từng
tu học trong những thiền viện trong rừng hay tại những trung
tâm thiền tích cực, cung ứng cho chúng ta một phương pháp
phổ thông và trực tiếp để huấn luyện thân tâm. Thiền
Phật Giáo dạy cho chúng ta làm thế nào để đối trị với
tham lam, sợ hãi, lo âu, đồng thời cũng dạy chúng ta làm
thế nào để học được kiên nhẫn, trí tuệ và vị tha.
Cuốn sách này nhằm mục đích cung ứng những lời hướng
dẫn và ý kiến cho những ai muốn thực tập thiền.
Ngài
Ajahn Chah bắt đầu hành thiền từ lúc còn thơ ấu. Ngài đã
đi nhiều nơi và ẩn cư nhiều năm trong rừng để hành thiền
dưới sự hướng dẫn của những vị sơn tăng đắc đạo.
Ngài vui cười mà kể lại rằng, lúc còn nhỏ khi chơi trò
chơi với chúng bạn, Ngài thích làm sư trong khi các trẻ khác
thích chơi nhà cửa. Ngài đóng trò ôm bình bát đi khất thực
và bảo lũ trẻ bỏ bánh kẹo cho mình. Ngài đã hành thiền
rất tích cực và kỷ luật, nhờ thế Ngài đã thành công.
Do đó Ngài đòi hỏi học trò của Ngài phải có đức tính
kiên nhẫn và chịu đựng. Lúc còn là một vị sư trẻ, một
ấn tượng sâu xa đã ảnh hưởng và hỗ trợ rất nhiều
cho việc tu học của Ngài. Đó là lúc cha Ngài sắp mất, Ngài
có dịp ngồi bên giường bệnh của cha nhiều ngày trực tiếp
đối diện với sự suy tàn và sự chết. Ngài Ajahn Chah thường
nói: "Khi chúng ta không hiểu rõ sự chết thì đời sống thật
nhiều rối rắm và lầm lẫn."
Kinh
nghiệm này là một động cơ mạnh mẽ giúp Ngài nỗ lực
hành thiền để tìm cho ra nguyên nhân sự đau khổ của mọi
người và nguồn cội của sự an lạc giải thoát mà Đức
Phật đã chỉ dạy. Thế là Ngài rũ bỏ tất cả cho sự tìm
kiếm chân lý. Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ,
kể cả việc Ngài đâm ra hoài nghi mọi chuyện và cơ thể
bệnh hoạn. Nhưng Ngài vẫn kiên nhẫn ngồi, ngồi và theo
dõi, mặc dầu có nhiều ngày Ngài chỉ có khóc mà chẳng làm
được gì cả. Ngài gọi đó là sự thách thức hay liều lĩnh
với việc hành thiền của Ngài. Cuối cùng sự đương đầu
đó đã đem lại trí tuệ, khóai hoạt tinh thần và khả năng
kỳ diệu để giúp đỡ người khác.
Ngài
Ajahn Chah giảng dạy bằng hai ngôn ngữ Thái và Lào. Những
lời dạy trong cuốn sách này phản ảnh một tinh thần vui
vẻ trong việc hành thiền. Đây là những lời dạy nhằm vào
những người đã từ bỏ đời sống thế tục theo tu trong
rừng với Ngài Ajahn Chah. Tuy thế, tinh thần giáo pháp diễn
đạt ở đây có tính cách trực tiếp và phổ thông, thích
hợp cho mọi chúng ta. Ngài nhấn mạnh đến những vấn đề
căn bản của con người: tham lam, sợ hãi, sân hận, và si
mê. Ngài nhắc đi nhắc lại là chúng ta phải luôn luôn tỉnh
thức trước những trạng thái phiền não này, luôn luôn tỉnh
thức trước những đau khổ mà chúng ta đã gây ra trong đời
sống và trong thế giới chúng ta. Những lời dạy này là Tứ
Diệu Đế, bài pháp đầu tiên Đức Phật giảng dạy về:
Khổ, nguyên nhân khổ và con đường đi đến diệt khổ. "Phải
nhìn thấy tại sao ái dục gây ra đau khổ," đó cũng là câu
mà Ngài Ajahn Chah thường xuyên nhắc nhở. "Hãy học hỏi nơi
kinh nghiệm của chính bạn. Hãy nhìn thấy sự thay đổi bản
chất liên tục của hình sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giác
và tư tưởng. Hãy ý thức bản chất vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã của đời sống. Chỉ khi nào chúng ta thấy
và thừa nhận ba đặc tính ấy, chúng ta mới có thể sống
trong an bình." Truyền thống tu thiền trong rừng thích hợp
và tác động trực tiếp trên sự hiểu biết và sự đối
kháng của chúng ta về ba chân lý trên; truyền thống này cũng
có hiệu năng trực tiếp trên nỗi sợ hãi, sân hận và ham
muốn của chúng ta. Ngài dạy chúng ta phải đối diện với
những phiền não của chúng ta và dùng pháp từ bỏ, kiên nhẫn,
tỉnh thức để chế ngự chúng. Ngài khẩn nài chúng ta cố
gắng thực hành để đừng rơi vào chỗ buồn rầu, lo lắng;
hãy tự huấn luyện để thấy rõ ràng và trực tiếp bản
chất thật sự của tâm và của vạn hữu. Chúng ta sẽ cảm
thấy sảng khóai, thích thú trước sự trong sáng, vui vẻ về
phương pháp thực hành trực tiếp tại sơn lâm của Ngài Ajahn
Chah. Bao quanh Ngài là sự tỉnh thức trong tinh thần tìm hiểu,
vui vẻ, ngạc nhiên, hiểu biết và bình an nội tại sâu xa.
Mong rằng những lời giới thiệu và những câu chuyện trong
rừng thiền ghi lại nơi đây phản ảnh được phần nào tinh
thần ấy và khiến bạn có cảm hứng trong việc hành thiền.
Hãy
thận trọng lắng nghe Ngài Ajahn Chah và ghi khắc vào tâm những
lời dạy của Ngài, bởi vì Ngài dạy thực hành chứ không
lý thuyết, và những điều Ngài dạy liên hệ đến hạnh
phúc và tự do của con người. Trong những năm đầu tiên khi
Wat Pah Pong bắt đầu hấp dẫn nhiều du khách đến viếng,
một loạt khẩu hiệu được gắn dọc lối đi: "Bạn đang
ở đây, đến để thăm viếng" và "Xin giữ yên lặng, chúng
tôi đang hành thiền." Một câu khác ghi, "Thực hành Pháp và
thấy rõ chân lý là điều giá trị nhất trong đời sống.
Không phải đã đến lúc chúng ta bắt đầu sao?" Tinh thần
của câu này Ngài Ajahn Chah nói trực tiếp với chúng ta, mời
gọi chúng ta hãy giữ tâm an tịnh để khám phá chân lý trong
đời sống. Không phải đã đến lúc chúng ta bắt đầu sao?
|