Kinh
lục
Kinh
An Ban Thủ ý
ANAPANASATI
MAJJHIMA NIKAYA 118
(Bản
tóm lược)
Kinh
An Ban Thủ ý dạy 16 phương pháp quán niệm hơi thở, chia làm
4 nhóm, mỗi nhóm 4 phương pháp. Ba nhóm đầu nhắm tới cả
định lẫn huệ, nhóm thứ tư chỉ nhắm tới huệ.
1/
Khi thở vào một hơi dài. Hành giả quán niệm : Tôi đang thở
vào một hơi dài. Khi thở ra một hơi dài, hành giả quán niệm
: tôi đang thở ra một hơi dài.
2/
Khi thở vào một hơi ngắn. Hành giả quán niệm : Tôi đang
thở vào một hơi ngắn. Khi thở ra một hơi ngắn, hành giả
quán niệm : tôi đang thở ra một hơi ngắn.
3/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và ý thức toàn vẹn
được cả hơi thở mà tôi đang thở vào. Tôi đang thở ra
và ý thức được toàn vẹn cả hơi thở mà tôi đang thở
ra.
4/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và làm cho sự điều
hành trong cơ thể tôi trở nên lắng lặng. Tôi đang thở ra
và làm cho sự điều hành trong cơ thể tôi trở nên lắng
lặng.
5/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và cảm thấy an lạc.
Tôi đang thở ra và cảm thấy an lạc.
6/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và cảm thấy sung
sướng, thảnh thơi. Tôi đang thở ra và cảm thấy sung sướng
thảnh thơi.
7/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và theo dõi tâm ý
của tôi. Tôi đang thở ra và theo dõi tâm ý của tôi
8/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và làm lắng dịu
tâm.ý của tôi. Tôi đang thở ra và làm lắng dịu tâm ý của
tôi.
9/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và ý thức toà n vẹn
tâm ý của tôi. Tôi đang thở ra và ý thức toàn vẹn tâm
ý của tôi.
10/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và làm cho tâm ý của
tôi hoan lạc. Tôi đang thở ra và làm cho tâm ý của tôi hoan
lạc.
11/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và tập trung tâm ý
của tôi. Tôi đang thở ra và tập trung tâm ý của tôi.
12/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và tháo gỡ tâm tôi
khỏi mọi ràng buộc. Tôi đang thở ra và tháo gỡ tâm tôi
khỏi mọi ràng buộc.
13/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và quán niệm về
tánh cách vô thường của vạn hữu. Tôi đang thở ra và quán
niệm về tánh cách vô thường của vạn hữu.
14/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và quán niệm về
sự tự do của tôi đối với vạn hữu. Tôi đang thở ra và
quán niệm về sự tự do của tôi đối với vạn hữu.
15/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và quán niệm về
sự dập tắt của mọi ảo vọng nơi tôi. Tôi đang thở ra
và quán niệm về sự dập tắt của mọi ảo vọng nơi tôi.
16/
Hành giả quán niệm : Tôi đang thở vào và quán niệm về
sự buông thả của mọi phiền não và ảo vọng nơi tôi. Tôi
đang thở ra và quán niệm về sự buông thả của mọi phiền
não và ảo vọng nơi tôi.
Kinh
An Ban Thủ ý nói về 4 phép quán niệm. Trong những phép quán
niệm kể trên thì phép thứ nhất đến phép thứ tư là để
quán niệm về thân thể, phép thứ năm đến phép thứ tám
là để quán niệm về cảm thọ, phép thứ chín tới phép
thứ mười hai là để quán niệm về tâm ý, phép thứ mười
ba đến phép thứ mười sáu là để quán niệm về đối tượng
tâm ý tức là các pháp. Sau đó kinh cũng nói thêm về 7 yếu
tố ngộ đạo là : chánh niệm, sự giám định đúng sai, thiện
ác, sự tinh chuyên, sự an vui, sự nhẹ nhõm, sự định tâm,
sự buông thả.
Kinh
Bách thiên tụng bát nhã
trích
phẩm Phật Đà La Ni
SATASAHASRIHA
PRAJAPARAMITA
Đây
nữa, Tu Bồ Đề ơi, là con đường lớn của các vị Bồ
Tát : Trước hết là bốn phép quán niệm. Bốn phép là gì
? Quán niệm thân thể, quán niệm cảm thọ, tâm ý và vạn
pháp.
Bồ
Tát an trú trong thân thể, cảm thọ, tâm ý và vạn pháp. Nhưng
không khởi niệm phân biệt đối với thân thể, cảm thọ.
tâm ý và vạn pháp. Bồ Tát tinh tiến, tỉnh thức hoàn toàn
trong quán niệm. Sau khi đã bỏ ra ngoài những sầu đau tham
dục trên thế gian và không trụ vào bất cứ thứ gì. Bồ
Tát quán chiếu thân thể, cảm thọ, tâm ý và vạn pháp bên
trong và bên ngoài.
Bồ
Tát quán niệm thân thể bên trong bằng cách nào ? Khi đi Bồ
Tát biết mình đang đi. Khi đứng Bồ Tát biết mình đang đứng.
Khi ngồi Bồ Tát biết mình đang ngồi. Khi nằm Bồ Tát biết
mình đang nằm. Bất cứ thân thể đứng ở trong tư thế nào
dù tốt hay xấu, Bồ Tát cũng biết về tư thế ấy. Bồ Tát
làm như vậy mà không có chấp trước.
Lại
nữa khi thực hành Ba La Mật Bát Nhã, Bồ Tát thở vào một
cách có ý thức và biết rằng : "Mình đang thở vào. Khi thở
ra Bồ Tát ý thức rằng : “Mình đang thở ra". Khi thở vào
một hơi dài Bồ Tát ý thức rằng : "Mình đang thở vào một
hơi dài”. Khi thở ra một hơi dài Bồ Tát ý thức rằng :
"Mình đang thở ra một hơi dài”. Khi thở vào một hơi ngắn
Bồ Tát ý thức rằng : "Mình đang thở vào một hơi ngắn”.
Khi thở ra một hơi ngắn Bồ Tát ý thức rằng : "Mình đang
thở ra một hơi ngắn”.
Một
người thợ làm đồ gốm, khi đẩy một vòng dài biết là
mình đẩy một vòng dài, khi đẩy một vòng ngắn biết là
mình đẩy một vòng ngắn. Bồ Tát cũng quán niệm về hơi
thở như vậy, làm như thế mà không có chấp trước.
Lại
nữa, khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát quán niệm thăn
thể nơi thân thể và thấy những yếu tổ cấu thành thân
thể ấy : đất, nước, lửa, không khí. Như một vị đồ
tể hay người phụ tá của ông ta sau khi mổ con bò ra làm
4 phần và quan sát, Bồ Tát cũng quán chiếu 4 yếu tố trong
thân thể mình như vậy. Làm như thế mà không có chấp trước.
Lại
nữa khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát quán niệm thân
thể nơi thân thể, từ gót chân trở lên đỉnh tóc, từ đỉnh
tóc trở xuống gót chân. khắp những nơi chứa nhiều thứ
bất tịnh. Tóc, móng, da, thịt, gân, máu, xương, tủy, thận,
tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột,
phân, mật, đàm, mủ, mồ hôi, nước mắt, nước mũi, nước
bọt, nước ở các khớp xương, nước tiểu, ghèn, cứt ráy....
Như
người nông phu có một bao tải đựng đủ thứ hạt : hạt
mè, hạt cải, đậu đỏ, gạo lức, lúa mì, gạo trắng,...bất
cứ kẻ nào có đôi mắt tốt đều có thể thấy đủ các
loại hạt như thế và nói rằng :”Này đây là hạt mè, đây
là hạt cải ....”. Bồ Tát quán niệm thân thể cũng như
vậy mà không khởi tâm chấp trước.
Lại
nữa, Bồ Tát quán niệm thân thể bên ngoài thế nào ? Khi
đi đến nghĩa điạ, Bồ Tát thấy các xác chết bị quẳng
đó, xác chết đã một ngày, đã 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày, 5 ngày...
sình lên, tím đen, thối rữa, bị dòi bọ ăn. Bồ Tát so sánh
những xác chết với thân thể mình : “Thân này cũng sẽ
chịu số phận đó, không tránh thoát được”, và Bồ Tát
quán niệm khi thấy xác chết để 6, 7 đêm, bị quạ diều,
chó sói rỉa nát, hay thấy xác chết đó bầm dập, thối nát,
ghê tởm, hoặc thấy xác chét đó chỉ còn là một bộ xương
dính thịt và máu, nhờ gân cốt mà còn dính vào nhau. Hay thấy
xác chết chỉ còn lại một bộ xương, thịt máu và gân đã
tan hết, hay thấy chỉ còn một đống xương rơi rớt trên
mặt đất, hay thấy chỉ còn những cái xương rải rác đây
đó trên bãi tha ma. Đây là xương chân, kia là xương sọ,
kia nữa là xương sườn, đó là xương sống ....Hay thấy những
khúc xương đã trải qua nhiều năm, nhiều trăm năm dưới
mưa nắng. trắng hếu như vỏ ốc, hay thấy những miếng xương
đen, xanh, mục nát thành bụi rải rác trên mặt đất. Bồ
Tát so sánh những hình ảnh ấy với tự thân và quán niệm
rằng : “Thân này cũng đồng một số phận như thế, không
tránh thoát được”.
Bồ
Tát quán niệm tâm ý và các pháp như thế sau khi đã bỏ ra
ngoài mọi sầu đau và tham dục trần thế.
Và
đây nữa, Tu Bồ Đề ơi, con đường lớn của Bồ Tát, là
con đường chánh tinh tiến.
Kinh
Bảo tích
SIKSHASAMUCCAYA
RATNAKUTA
Hành
giả tìm tâm, tâm nào? Tâm tham, tâm giận hay tâm si? Tâm quá
khứ, tâm hiện tại hay tâm vị lai. Tâm quá khứ không còn.
Tâm vị lai chưa có. Tâm hiện tại không trú.
Này
Ca Diếp, tâm không thể nắm bắt từ bên trong hay bên ngoài,
hay ở giữa. Tâm vô hướng vổ niệm, không có chỗ sở y,
không có nơi qui túc. Chư Phật không thấy tâm trong quá khứ,
trong hiện tại và trong vị lai. Cái mà chư Phật không thấy
thì làm sao quán niệm nổi. Nếu có quán niệm thì chẳng qua
là sự quán niệm về sinh diệt của các đối tượng tâm
ý. Tâm như một ảo thuật, vọng tưởng điên đảo cho nên
có sinh diệt muôn trùng. Tâm như nước trong dòng sông không
bao giờ dừng lại. Vừa sinh đã hoại diệt. Tâm như ngàn
lưỡi đao do nhân duyên mà có. Tâm như chớp giật loé lên
rồi tắt. Tâm như không gian nơi muôn vật đi ngang. Tâm như
bạn xấu tạo tác nhiều lầm lỗi. Tâm như lưỡi câu đẹp
nhưng nguy hiểm. Tâm như ruồi xanh ngó đẹp nhưng rất xấu.
Tâm như kẻ thù tạo tác nhiều nguy biến. Tâm như yêu ma tìm
nơi hiểm yếu để hút sinh khí người. Tâm như kẻ trộm,
trộm hết căn lành.
Tâm
ưa thích hình dung như mắt con thiêu thân. ưa thích âm thanh
như trống trận, ưa thích mùi hương như lợn thích rác bẩn,
ưa thích vị ngon như ruồi thích thức ăn thừa, ưa thích xúc
giác như con ruồi sa đĩa mật. Tìm tâm hoài mà không thấy
tâm đâu. Đã tìm không thấy thì không thể phân biệt được.
Những gì không thể phân biệt được thì không có quá khứ
và hiện tại lẫn vị lai. Những gì không có quá khứ hiện
tại lẫn vị lai thì không có mà cũng không không.
Hành
giả tìm tâm bên trong cũng như bên ngoài không thấy. Không
thấy tâm nơi ngũ uẩn, nơi tứ đại, nơi lục nhập. Hành
giả không thấy tâm nên tìm dấu của tâm và quán niệm :
tâm do đâu mà có?. Rồi ý thức rằng hễ khi nào có vật
thì có tâm. Vậy vật và tâm có phải là hai thứ khác biệt?.
Không
có cái gì là vật, cái đó cũng là tâm. Nếu vật và tâm
là hai thứ thì hoá ra tâm có tới hai tầng?. Cho nên vật chính
là tâm....Vậy thì tâm có thể quán tâm không. Không, tâm không
thể quán tâm. Một con dao không thể tự cắt mình, ngón tay
không tự sờ mình, tâm không thể quán mình.