PHÉP
LẠ CỦA SỰ TỈNH THỨC
HƠI
THỞ CỦA ZOE
Thiều
ơi,
Ngày
hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng
bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng
Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở
ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác
với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng
“tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve
phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào
cả câu chuyện của người lớn. Nó làm cho người lớn không
nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách
hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ
sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế
giới người lớn.
Sau
đó nó ra ngoài sân chơi với một đứa trẻ con Tây hàng xóm.
Tôi mới hỏi Steve đời sống gia đình có dễ chịu không?
Steve không có câu trả lời dứt khoát. Năm ngoái hai vợ chồng
và thằng bé đi lndonesie trong một chuyến du khảo và ở lại
đấy một năm. Đi ba người, về bốn người. Họ mới trở
lại Paris tháng trước.
Marie
là một họa sĩ, Steve nói từ khi sanh Zoe, Marie buông bút không
vẽ nữa. Tất cả thì giờ, cuộc sống, thân mạng là để
dành cho cô bé mới ra đời. Marie cũng ít nói đến Mickey nữa.
“Không phải là Marie không thương Mickey" Steve nói "Nó thương
thằng bé lắm, nhưng hiện giờ nó chỉ sống cho Zoe. Chừng
một năm nữa tôi biết nó sẽ cầm bút trở lại và xem Zoe
ngang hàng với Mickey".
Steve
nói "mấy tuần nay, ít khi Steve ngủ được một giấc dài.
Trong đêm, Marie cứ thức dậy, giựt mình và vì mệt quá nó
bảo tôi trở dậy xem bé Zoe còn thở không. Tôi chiều Marie,
trở chừng em bé rồi lại trở về ngủ lại. Có lần mệt
quá tôi nói : thì mới một giờ trước đây nó đang thở
mà, không lý gì bây giờ nó hết thở. Marie năn nỉ, tôi lại
chiều lòng, có khi bực quá, tôi không chịu trở dậy, và
Marie phải trở dậy. Có đêm chuyện đó xảy ra tới hai lần.
Đời
sống gia đình có dễ chịu hơn đời sống độc thân không?,
Steve không có câu trả lời dứt khoát. Nhiều người nói :
"có đời sống gia đình thì cuộc sống ổn định hơn, thăng
bằng hơn. Steve không nói điều đó đúng mà cũng không nói
điều đó sai. Anh ta chỉ ậm ừ, nhưng mà tôi hiểu. Steve
nói “Tôi mới tìm ra một cách để có thật nhiều thì giờ",
Tôi hỏi : "Cách gì?”, Steve nói : "trước kia tôi thường
chia thời giờ của tôi ra làm nhiều phần, một phần tôi
dành cho Mickey, học bài với nó, đọc truyện cho nó, tắm
rửa nó. Một phần tôi dành cho Marie, giúp nàng trong việc
lo lắng cho Zoe, đi chợ cho nàng, mang quần áo và tã đi tiệm
giặt, nói chuyện với nàng khi mấy đứa nhỏ đã đi ngủ.
Ngoài những thì giờ dành cho 2 người (Tôi xem Marie và Zoe
là 1 người. Bởi vì hơi thở của Zoe cũng là hơi thở của
Marie. Nếu một bên không thở được thì bên kia cũng bị
ngạt hơi), Tôi còn có thì giờ dành cho riêng tôi. Tôi đọc,
viết khảo cứu, đi bách bộ, còn thì giờ đi làm kiếm ăn
ở sở thì khác. Đó là thì giờ của Sở”.
“Nhưng
bây giờ tôi không còn phân chia thời giờ như vậy nữa. Tôi
lấy luôn thời giờ của Marie và của Mickey làm thời giờ
của tôi. Khi tôi học bài chung với Mickey, tôi không còn có
ý niệm : đây là thời giờ của tôi dành cho Mickey, sau khi
xong việc này tôi mới thật có thời giờ cho tôi. Trái lại,
tôi tìm cách sống cho tôi trong khi học bài với Mickey, tôi
chia xẻ sự có mặt của nó. Tôi tìm được hứng thú trong
khi học bài với nó và như thế là thời giờ cho nó trở
thành thì giờ của tôi. Đối với Marie cũng vậy, bất ngờ,
tự nhiên tôi có vô khối thì giờ cho tôi”.
Steve
vừa nói vừa cười. Tôi thì ngạc nhiên. A! cái anh chàng này
khôn nhỉ! Điều này đâu phải anh ta nhờ đọc sách mà biết.
Điều này là điều anh ta tự tìm ra trong đời sống hàng
ngày.
Mấy
tháng nay tôi giảng kinh quán niệm mỗi chiều thứ bảy. Và
sau khi giảng, những người trẻ đặt các câu hỏi về những
phương thức áp dụng các nguyên tắc nêu ra trong kinh này về
đời sống hàng ngày. Chúng tôi cùng bàn luận về phương
cách dùng thì giờ.... Điều làm tôi ngạc nhiên là tuy Steve
chưa dự buổi giảng nào về kinh quán niệm trong mấy tháng
qua, Steve cũng đã đi tới một nhận xét mà vài anh chị đã
nêu ra trong các buổi thảo luận. Khả năng tiếng Việt của
anh chàng còn yếu khiến chúng tôi không mời tham dự buổi
giảng kinh và đàm luận.
NGUYÊN
TẮC RỬA BÁT ĐỂ MÀ RỬA BÁT
Thứ
bảy tuần rồi, tôi có đem chuyện Steve kể lại cho những
người tham dự buổi giảng kinh, có một anh nói : "Steve đã
tìm ra nguyên tắc nhưng chưa tìm ra phương pháp. Tôi nói :
"Tìm ra nguyên tắc được thì cũng tìm ra phương pháp được".
Nếu Steve tìm được hứng thú trong lúc học bài với Mickey
thì tức là Steve áp dựng hữu hiệu một vài phương pháp
nào đó mà Steve đã tự tìm ra một mình. Đâu có phải chỉ
có kinh quán niệm mới cung cấp được cho mình những phương
pháp. Steve tuy có học Phật vâ đọc được Sanscrit, nhưng
Steve không phải là người đã qui y. Nhưng không ai cấm người
không Phật tử thực hành những phương pháp Phật Giáo, với
lại phương pháp Phật giáo không phải là những phương pháp
duy nhất. Lại còn điều này nữa, không phải chỉ những
Phật tử mới tìm ra phương pháp Phật Giáo. Đức Thích Ca
Mâu Ni, các bậc Duyên Giác và Bích Chi Phật cũng đâu có là
Phật tử trước khi tìm được con đường và những phương
pháp đạt đạo, phải không?
Một
chị nói : "Thế thì một hôm nào đó, mình sẽ mời Steve tới
nói về kinh nghiệm của Steve cho mình nghe, mình có thể học
hỏi những kinh nghiệm của Steve. Tôi nghĩ khi chị ấy nói
như thế, chị xác nhận một điều quan trọng: người Phật
tử không nắm hết chân lý, người Phật tử có thể học
được kinh nghiệm của những người không phải Phật tử
và quan hệ hơn nữa, người Phật tử có thể học hỏi Phật
pháp với những người không Phật. Tôi nhớ lại câu nói
quan thuộc trong Phật Giáo Đại Thừa : “Phật Pháp tức là
thế gian pháp”. ( Phương pháp của Phật cũng là phương pháp
của cuộc sống) và “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế
gian giác” (Phương pháp của Phật áp dụng trong cuộc sống
không thể tách ra ngoài sự thức tỉnh của cuộc sống). Vậy
ta có thể nói : Phương pháp của kinh quán niệm cũng dính
líu tới sự thức tỉnh của Steve phải không?.
Nhưng
mà Steve cũng cô thể áp dụng những phương pháp dạy trong
kinh quán niệm, nếu Steve muốn, chắc đâu là những phương
pháp mà Steve tìm ra đã đủ để đưa Steve tới chỗ thành
công hoàn toàn. Mỗi đêm mà phải thức dậy chừng mười
lần để xem thử bé Zoe còn thở không, điều đó cũng hơi
làm mình bực mình đấy chứ. Nhiều người mới nghe đã có
thề gắt lên rồi, huống hồ là tự họ phải làm như Steve.
Biết đâu trong kinh quán niệm lại chẳng có phương pháp giúp
Steve xem thì giờ ngủ và thì giờ dậy của bé Zoe là một.
Các
tác viên Xã Hội của trường chắc hẳn cũng muốn biết xem
thành quả của Steve đạt được lớn lao tới chừng nào,
có phải không? Có tác viên nào mà lại chẳng thấy thời
giờ dành riêng cho mình quá ít ỏi.
Tôi
cũng là một loại tác viên. Thiều cũng là một loại tác
viên. Chúng mình cùng muốn biết làm thế nào Steve đã giật
dược vô khối thì giờ cho Steve. Steve đã đạt được "vô
khối. thì giờ" thật chưa! hay chỉ mới đạt trên nguyên
tắc?.
Bên
Mỹ có một anh chàng rất thân với tôi. Tên anh là Jim Forest.
Anh ta ở trong tổ chức Catholic Peace Fellowship. Ngày xưa anh
ta đã đốt thẻ trưmg binh chống chiến tranh và đi ở tù
hơn 1 năm. Hồi đó, nghe anh ta ở tù, tôi hơi ngại, bởi tánh
anh ta rất hoạt động, nôn nóng muốn hành động, sợ không
kham nổi sự tù túng trong phòng giam. Tôi viết cho anh một
lá thư rất ngắn rằng : "Hãy nếm trái quít của anh, hãy
hợp nhất với trái quít của anh, bởi vì ngày mai trái quít
ấy không còn nữa”. Tôi không ngờ câu nói của tôi có hiệu
quả. Ba năm sau hồi tưởng lại chuyện ấy, Jim viết : "Câu
ấy giúp cho tôi nhiều hơn là thầy có thể tưởng tượng!"
Nhờ câu ấy mà tôi tìm được sự an lạc nơi lao tù, làm
bạn được với lao tù và sống trong lao tù những ngày lợi
lạc”. Jim đã tìm được tự do trong lao tù, khôi phục được
thì giờ và sự sống của mình ngay trong lao tù. Jim cũng khá
đấy chứ, phải không Thiều?.
Mùa
đông năm kia Jim qua đây chơi. Tôi thường hay rửa bát sau
khi ăn cơm xong trước khi lên ngồi uống trà. Một tối Jim
đòi rửa bát. Tôi nói "rửa thì rửa nhưng phải biết cách
rửa" Jim nói : "bộ Thầy nói tôi không biết cách rửa chén
hay sao?”, Tôi nói : "Có hai cách rửa chén. Cách thứ nhất
là rửa để cho rửa xong, cách thứ hai là rửa không phải
để cho rửa xong”. Jim thích quá nói "Tôi sẽ chọn cách thứ
hai, rửa chỉ để rửa mà thôi”. Từ đấy Jim hay giành rửa
chén. Tôi giao "trách nhiệm" cho anh ta trong cả tuần. Sau đó
về xứ, anh đã tuyên truyền “chủ nghĩa rửa chén để mà
rửa chén” trong nhiều bài báo. Anh ta tuyên truyền nhiều
quá, ngay cả trong gia đình nữa. Khiến Laura cười bảo anh
“ở dưới bếp chỉ còn chén bát sạch, nếu anh thích rửa
bát để mà rửa bát quá như vậy thì sao anh không xuống đem
chén bát sạch ra mà rửa lại một lần nữa đi”.
Hồi
tôi còn làm "Điêu” tại chùa Từ Hiếu, cách đây 30 năm,
rửa chén bát không phải là một việc làm dễ chịu lắm
đâu nhé ! Vào những mùa an cư, hai người trực nhật phải
nấu cơm và rửa bát có khi cho cho hơn 100 thầy. Xà phòng không
có, chỉ có tro trấu và bẹ dừa mà thôi. Ngồi trước một
đống chén bát lớn như vậy rất nản. Nhất là nhằm mùa
đông phải nấu một nồi nước nóng khá lớn mới rửa được
vì nước lạnh, lạnh buốt. Bây giờ đứng rửa bát trong
bếp, có xà phòng nước, có tissus Metalliques, có nước ấm
chảy dưới tay mình, thật là dễ chịu hơn nhiều quá. ấy
vậy mà ai đã rửa bát ai cũng muốn rửa thật mau cho xong,
để mà lên ngồi chơi, có nhiều bà đòi chồng mua cho được
cái máy rửa chén. Thiều à ! cái máy giặt tôi còn chịu được
(Mấy năm ở ngoại quốc tôi chỉ giặt bằng tay chứ còn
cái máy rửa chén thật tình tôi không chịu nổi. Các bà ở
quê mình sẽ chép miệng 'Mèng đéc ơi, làm biếng đến vậy
là cùng ...
Theo
tinh thần của kinh quán niệm thì trong khi rửa bát mình chỉ
nên rửa bát mà thôi: có nghĩa là khi rửa bát mình có ý thức
được rằng sự kiện chính mình đang rửa bát? Mới nghe qua
thì thấy buồn cười. Rửa bát thì có gì hay ho đâu mà tập
trung ý lực vào đấy nhiều như thế. Nhưng quả thực tất
cả sự hay ho là nằm chỗ đó nghe Thiều. Sự kiện tôi đứng
đây rửa và rửa những cái bát này là một sự kiện mầu
nhiệm. Tôi hoàn toàn là tôi, làm chủ được hơi thở tôi,
ý thức được sự có mặt, ý thức tâm, ý thức ý và hành
động của tôi. Tôi không bị động trong hoàn cảnh như mộ
cái nút chai bị những đợt sóng trên mặt biển vùi dập
và lôi kéo, tâm ý tôi không tán thất trong loạn tưởng như
một mớ bọt biển trên đầu sóng, tan nát thảm thương khi
làn sóng đập đầu vào ghềnh đá.
LÀM
HOÀ VỚI MÚI QUÝT
Nếu
trong lúc rửa bát mà ta chỉ nghĩ tới tách trà, nghĩ tới
sự nghỉ ngơi hay bất cứ một công chuyện nào trong tương
lai, và chỉ muốn cho việc rửa bát qua mau, xem việc rửa bát
như một cực hình thì ta không “rửa bát để mà rửa bát”,
ta không sống trong thời gian rửa bát, ta không chứng thật
được phép lạ của sự sống trong thời gian rửa bát.
Không
biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không
biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến
những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà
trong tay. Cứ như thế, ta bị thâu hút vào trong tương lai,
bị con ma vị lai thâu hút hết hỗn vía, đi ngang sự sống
mà không sống được giây phút nào của sự sống. Câu chuyện
múi quít của Jim cũng đã xảy ra trong trường hợp này. Có
lần, lâu lắm rồi, Jim ngồi ăn quít với tôi mà cứ phóng
tưởng về công việc trong tương lai. Hồi ấy mỗi khi nghĩ
tới một dự tính nào có tánh cách hấp dẫn là Jim hoàn toàn
bị thu hút vào đó và quên hẳn thực tại trong hiện tại.
Tay Jim bóc vỏ quít mà miệng Jim như nhai hết vỏ quít này
tới vỏ quít nọ. Thế mà Jim đâu có biết mình đang ăn quít.
Tôi mới nói với chàng ta: "thì anh hãy ăn múi quít của anh
đi đã". Jim giật mình thức giấc. Lúc đó anh ta đang ăn hết
múi quít này đến múi quít khác, không ngưng. Thế mà tôi
lại nhắc anh ta ăn quít, làm như anh ta đang không ăn quýt.
Mà thực ra anh đâu có đang ăn quít. Anh ta đang "ăn” cái
dự tính của anh ta mà. Người xưa nói : “tâm bất tại yên,
thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ
v.” (Tâm ý không có mặt, thì nhìn mà không thấy, nghe mà
không rõ, ăn mà không biết mùi vị). "Tâm bất tại”, tức
là sự vắng mặt của ý thức. Một trái quít có nhiều múi,
ăn được một múi quít thì có thể ăn dược hết trái quít,
còn nếu một múi mà cũng không ăn được, thì cả trái quít
cũng không ăn được. Jim là một anh chàng thông minh. Anh ta
dừng tay lại nghe sự có mặt của múi quít trên lưỡi mình,
ăn múi quít một cách thật đàng hoàng. và gật dầu trước
khl đưa tay gỡ một múi khác. Sau cùng, như Thiều biết, anh
ta đã có thể xem lao tù như một múi quít và làm hòa bình
với múi quít đó.
Hồi
tôi mới vào thiền viện, cách đây cũng đã trên ba mươi
năm, các thầy trao cho tôi tập 'Tỳ Ni nhật dụng thiết yếu”
của Thiền Sư Độc Thể chùa Bảo Sơn và bảo tôi học thuộc
lòng. Đây là một tập sách mỏng chừng bốn mươi trang thôi,
ghi chép những ý tưởng mà Thiền Sư Độc Thể đã dùng để
thắp sáng tâm ý của ông trong mọi cử chỉ, hành động.
Ví dụ khi mới thức giấc vào lúc ban mai, ông cho khởi dậy
ý tưởng này trong trí : “vừa mới tỉnh giấc, tôi mong cho
mọi người sớm đạt được trạng thái tỉnh thức lớn,
hiểu biết thấu suốt mươi phương. Khi múc nước rửa tay,
ông sử dụng ý tưởng này để tự đưa mình về trạng thái
ý thức : “múc nước rửa tay, tôi mong cho mọi người có
những bàn tay trong sạch để đón nhận lấy chân lý”.
Toàn
tập “Tỳ Ni Nhật Dụng thiết yếu” chỉ có những câu
như thế. Mục đích là giúp người hành giả mới vào đạo
nắm lấy được tâm ý mình. Thiền Sư Độc Thể đã giúp
cho hành giả mới vào đạo thực hiện những điều dạy trong
kinh quán niệm một cách tương đối dễ dàng. Mỗi khi mặc
áo, rửa chân, đi cầu, trải chiếu, gánh nước, xúc miệng...
Người hành giả đều có thể mượn một ý tưởng trong “Tỳ
Ni Nhật Dụng” để nắm bắt tâm ý.
Kinh
Quán Niệm nói : “Khi đi hành giả ý thức rằng mình đang
đi, khi dừng ý thức rằng mình đang đứng, khi ngồi ý thức
rằng mình đang ngồi, khi nằm ý thức rằng mình đang nằm,
bất cứ thân thể mình đang được sử dụng trong tư thế
nào, hành giả cũng ý thức được tư thế ấy của thân thể.
Cứ như thế hành giả sống trong sự thường trực quán niệm
thân thể....ý thức được những tư thế của thân thể.
Tuy vậy vẫn chưa đủ, Kinh Quán niệm nói ta phải ý thức
về mọi hơi thở, mọi động tác, mọi hiện tượng sinh lý,
vật lý, cảm giác và tư duy liên hệ tới bản thân nữa.
Nhưng
quán niệm như thế để làm gì ? Thì giờ đâu mà quán niệm
? Một tác viên nếu bỏ cả ngày để làm việc quán niệm
thì còn thì giờ đâu nữa để làm công việc tác động quần
chúng trong phạm vi tái thiết và phát triển xã hội ? Anh chàng
Steve của chúng ta làm thế nào mà có thì giờ để vừa làm
việc vừa quán niệm, vừa học bài với Mickey, vừa đem tã
lót của Zoe tới tiệm giặt.
PHÉP
LẠ LÀ ĐI TRÊN MẶT ĐẤT
Steve
nó nói là từ khi biết lấy thì giờ của Mickey và của Marie
làm thì giờ của mình thì chàng ta có "vô khối”, nhưng đó
có thể là đứng trên nguyên tắc mà thôi. Bởi vì Steve có
thể quên lãng trong khi học bài với Mickey. Steve có thề quên
rằng thì giờ của Mickey cũng là thì giờ của mình, và như
vậy Steve có thể đánh mất thì giờ như chơi. Steve có thể
mong cho thì giờ ấy chóng qua hoặc sinh ra cáu kỉnh vì thì
giờ ấy không thú vị, không phải là thì giờ của mình.
Vì
vậy muốn thật sự có vô khối thì giờ (nghiã là không chỉ
trên nguyên tắc), Steve cần giữ ý thức “Đây là thì giờ
của ta” sáng tỏ mãi trong suốt thời gian học bài với con.
Trong khi ấy tâm ý con người hay buông lung và từ ý tưởng
này, tâm ý bắt sang ý tưởng khác như con vượn chuyền cành.
Muốn giữ cho ý thức hiện thực sáng tỏ (từ đây về sau
tôi sẽ dùng danh từ “chánh niệm” để thay thế cho mệnh
đề “ý thức sáng tỏ về hiện thực”) thì cần đôi chút
luyện tập. Tập luyện ngay trong đời sống hàng ngày và thực
tập trong những buổi Thiền Quán. Trong khi một tác viên đi
bộ trên con đường đất đỏ để tới đầu làng, anh cũng
có thể thực tập quán niệm. Anh đi từng bước vững chãi
trên con đường đất đỏ hai bên có viền cỏ xanh và khởi
chánh niệm trong trí anh, ý thức được là mình đang đi trên
con đường đó, con đường dẫn tới làng. Anh tập trung ý
tưởng vào đối tượng quán chiếu duy nhất ấy. Ta đi trên
con đường đầu làng, trời lạnh hoặc trời mưa. đường
khô hay con đường lầy lội. Anh cũng duy trì chánh niệm. Anh
không lập đi lập lại trong trí một cách máy móc "Tôi đang
đi trên con đường đầu làng!”. Máy móc là sự ngược lại
của chánh niệm. Có người niệm Phật như một cái máy trong
lúc tâm trí đi phiêu lưu xa thực tại ngoài ngàn dặm. Tôi
nghĩ niệm Phật như thế còn tệ hon là không niệm Phật.
Nếu ta thực sự duy trì được chánh niệm trong khi ta đang
bước trên con đường làng, ta sẽ thấy sự kiện ta đang
bước trên con đường làng là một sự kiện mầu nhiệm.
Một niềm vui nở ra từ tim ta như một đóa hoa và bao trùm
lấy thế giới hiện thực. Tôi ưa đi bộ một mình trên những
con đường quê, hai bên có những bông lúa hay cỏ đại và
đặt từng bước chân ý thức trên đất, biết mình trong
hiện tại đang đi trên hành tinh màu xanh kỳ diệu. Những
lúc như thế tôi thấy hiện hữu mầu nhiệm một cách lạ
kỳ. Người ta thường nghĩ rằng đi trên mặt nước hay đi
trên than hồng là thực hành phép lạ. Tôi nghĩ phép lạ không
phải là đi trên mặt nước hay đi trên than hồng mà là đi
trên mặt đất.
Hàng
ngày ta thực hiện phép lạ mà ta thường không hay biết. Thiều
nhìn thử lại xem trời xanh, mây trắng, lá đục và đôi mắt
bé Thi Hải Thiều Âm đan lay láy. Hai mắt của Hải Thiều
cũng là một phép lạ mà trời kia, mây ấy, lá nọ cũng là
phép lạ phải không.
Thiền
Sư Độc Thể nói : "Khi ngồi nên ngồi thật ngay thẳng và
khởi niệm”. Ngồi đây cũng như ngồi trên pháp tọa Bồ
Đề. Pháp Tọa Bồ Đề là chỗ một Đức Phật đã ngồi
mà chứng ngộ. Nếu có hằng hà sa số Phật tức là đã có
sa số người đã giác ngộ, và chỗ bãi cỏ tôi ngồi hôm
trước ấy thế nào cũng có một Đức Phật đã ngồi.
Thi
sĩ
Nguyễn Công Trứ cũng có ý thức sáng khi ông ngồi xuống
một chỗ ngồi và thấy dược rằng ngày xưa, cổ nhân đã
từng ngồi trên chỗ ông đang ngồi, và ngàn muôn năm sau cũng
sẽ có người tới ngồi chỗ ấy.
“Ngã
kim nhật tại tọa chi địa
Cổ
chi ngân tằng tiên ngã tọa chi
(Ngàn
muôn năm âu cũng thế ni
Ai
hay hát mà ai hay nghe hát)”.
Chỗ
ngồi và thời gian trong giờ phút ấy trở thành hợp nhất
trong một hiện tại vĩnh cửu.
Nhưng
người tác viên không phải có thì giờ để suốt ngày thong
thả chơi trên những con đường cỏ xanh và ngồi dưới gốc
cây. Người tác viên phải soạn thảo, dự án công tác, bàn
bạc với dân làng, giải quyết trăm vàn khó khăn lao động
nơi ruộng vườn, đối phó với cường hào ác bá. Trong thời
gian thực hiện công tác đó. Anh hoặc chị phải để tâm
ý vào công việc, đề cao cảnh giác, sẵn sàng phản ứng
một cách thông minh và hữu hiệu. Tất cả những điều ấy
chính là quán niệm. Thực tập quán cũng là để có thể để
hết tâm ý vào công việc, đề cao cảnh giác và phản ứng
thông minh. Trong lúc bàn cãi giải quyết và đối phó, sự
bình tâm và tự chủ là những yếu tố cần thiết để đi
tới kết quả tốt đẹp, anh chị tác viên nào cũng rõ điều
ấy. Nếu ta không tự chủ mà để cho sự nóng giận hoặc
đãng trí kéo đi thì hiệu năng của ta không còn bao lăm nữa.
Quán
niệm là một phép lạ mà ta có thề sử dụng để khôi phục
và thâu hồi tự thân. Giả dụ một nhà ảo thuật nào đó
đem thân thể ta chia làm nhiều phần và dặt mỗi phần ở
một địa phương khác nhau. Bàn tay đặt nam, bắp chân đặt
ở bắc, cánh tay đặt đông... Rồi dùng phép lạ hô lên một
tiếng. Mỗi phần của thân thể lặp tức liền lại với
nhau, để thân thể ta trở nên toàn vẹn trở lại. Quán niệm
cũng thế, đó là phép lạ để tụ họp trong chớp nhoáng
tâm ý phiêu lưu, tản mát khắp chốn và thực hiện tự tâm
toàn vẹn trong giây phút hiện tại của sự sống.
NẮM
LẤY HƠI THỞ: NẮM LẤY CHÁNH NIỆM
Như
vậy quán niệm vừa là một phương tiện vừa là một cứu
cánh, vừa là nhân, vừa là quả. Khi thực tập quán niệm
để luyện định tâm thì ta gọi quán niệm là nhân. Nhưng
quán niệm vốn là sự sống tỉnh thức (sự có mặt của
quán niệm là sự có mặt của sự sống mầu nhiệm), do đó
ta cũng gọi quán niệm là quả. Quán niệm để xua đuổi quên
lãng và phân tán. Quán niệm dể thực sự sống từng giây,
từng phút của cuộc sống. Quán niệm để duy trì chánh niệm
và duy trì sự sống.
Người
tác viên biết sử dụng hơi thở để duy trì chánh niệm,
bởi vì hơi thở là dụng cụ rất mầu nhiệm để đình chỉ
loạn tưởng. Hơi thở là cây cầu bắt từ bờ sinh lý sang
bờ tâm lý, là môi giới giữa thăn và tâm. Mỗi khi chợt
nhớ ra rằng tâm ý mình đang phân tán, rong ruổi, người tác
viên nên dùng hơi thở dể nắm giữ nó lại. Anh thở vào
nhè nhẹ một hơi thở khá dài và ý thức rằng mình đang
thở vào một hơi dài. Anh lại thở ra một hơi dài, đưa ra
ngoài hết không khí trong buồng phổi anh và ý thức rằng
mình đang làm như thế. Kinh quán niệm dạy về cách nắm lấy
hơi thở như sau :
“Hành
giả thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào.
Người ấy thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở
ra. Thở vào một hơi dài người ấy ý thức rằng ta đang
thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy ý
thức rằng ta đang thở ra một hơi dài. Thở vào một hơi
ngắn, người ấy ý thức là ta đang thở ra một hơi ngắn.
Người ấy tự mình luyện tập như sau : “Tôi có ý thức
rõ rệt về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở vào. Tôi có
ý thức về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở ra. Tôi đang
thở vào và làm cho sự điều hành trong thân thể tôi trở
nên tĩnh lặng. Tôi đang thở ra và làm cho sự điều hành
trong thân thể tôi trở nên tĩnh lặng”.
Trong
một tu viện Phật giáo, vị nào cũng được khuyến khích
sử dụng hơi thở để đình chỉ loạn tưởng, tập trung
tâm ý và thực hiện định lực. Định lực là sức mạnh
của sự tập trung tâm ý, là năng lực có thể phát khởi
sự tỉnh thức lớn. Nhưng sự tỉnh thức lớn cũng là một
sự tỉnh thức. Khi người tác viên nắm lấy hơi thở mình,
anh ấy đã là một người tỉnh thức rồi. Để duy trì chính
niệm lâu dài, ta nên tiếp tục nắm lấy hơi thở. Mùa này
ở đây lá vàng rơi đẹp lắm. đi ở van rừng khoảng mười
lăm phút trong chánh niệm, giữ lấy hơi thở tôi thấy khỏe
khoắn và tỉnh táo lạ. Tôi tiếp xúc được với từng chiếc
lá.
Khi
Thiều đi một mình trên con đường quê, Thiều dễ nắm giữ
chánh niệm hơn. Nếu Thiều có một người bạn cùng đi bên
cạnh không nói năng gì, cùng nắm lấy hơi thở thì Thiều
vẫn nắm giữ chánh niệm một cách dễ dàng. Nhưng khi người
bạn đi bên cạnh hỏi chuyện 'Thiều thì sự tình trở nên
khó khăn hơn chút ít.
Nếu
Thiều khởi ra trong tâm ý niệm “cái anh chàng này cứ hỏi
chuyện hoài, không để cho mình chánh niệm” thì Thiều dễ
trở thành bực mình. Nhưng nếu Thiều tự nhủ : “Anh chàng
hỏi chuyện thì hỏi chuyện, mình trả lời thì trả lời,
nhưng mình vẫn nắm giữ chánh niệm, biết mình với anh chàng
đang đi trên dường với nhau, biết anh chàng hỏi gì, biết
mình trả lời những gì, và dù sao mình vẫn còn có thể nắm
lấy hơi thở”. Nghĩ như vậy, Thiều tiếp tục duy trì chánh
niệm, biết rằng trường hợp này hơi khó hơn trường hợp
đi bộ một mình, nhưng cứ thực tập để từ từ đạt tới
một khả năng tập trung ý lớn hon. Có câu ca dao nói : “Thứ
nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Trong
hoàn cảnh náo nhiệt phiền toái mà giữ được chánh niệm,
đó mới là làm được chuyện khó, có phải không?.
ĐẾM
HƠI THỞ VÀ THEO DÕI HƠI THỞ
Trong
kinh điển Phật thường dạy nên sử dụng hơi thở để luyện
thành sự định tâm. Có một bài kinh đặc biệt nói về sự
sử dụng hơi thở để duy trì hơi thở, gọi là kinh An Ban
Thủ Ý (Anapana sati Sutta). Kinh này được thiền sư Việt Nam
gốc Trung Á tên là Khương Tăng Hội dịch và chú giải vào
khoảng đầu thế kỷ thứ ba Tây lịch. Anapana là hơi thở
(dịch âm là An Na Pan Na), Tăng Hội viết tắt là An Ban, còn
Sati (tiếng Bắc Phạn gọi là Sam ti) có nghĩa là niệm quán
niệm hay chánh niệm, thời ấy Tăng Hội dịch là Thủ ý (gìn
giữ tâm ý).
Vậy
Kinh An Ban Thủ Ý là kinh dạy “gìn giữ tâm ý bằng cách
sử dụng hơi thở”. Kinh này là kinh thứ 118 trong Trung Bộ
Kinh (Maijhina Nikaya) dạy rõ phương pháp sử dụng hơi thở.
Tôi sẽ đính kèm theo đây một bản dịch kinh quán niệm và
bản tóm tắt kinh Anban Thủ ý cùng một vài đoạn kinh khác
để Thiều và các bạn bên nhà dùng.
Trong
những lớp hướng dẫn thiền tập (cho người ngoại quốc)
bên này, tôi thường đề nghị những phương pháp mà tôi
đã từng thí nghiệm, những phương pháp thật đơn giản.
Ví dụ đối với người mới tập, tôi đề nghị phương
pháp “đo chiều dài” của hơi thở. Tôi mời một học viên
nằm xuống và thở tự nhiên, rồi tôi mới mời người quan
sát và chỉ cho họ thấy những điều đơn giản như sau :
1/
Tuy thở ra và thở vào là việc làm của phổi, tức là của
ngực, nhưng không phải vì thế mà bụng không có tham dự.
Sự lên xuống của bụng hòa nhịp với sự lên xuống của
ngực. Ta nhặn thấy khi ta bắt đầu thở vào thì bụng bắt
đầu lên cao. Nhưng khi hơi thở vào đi được hai phần ba
con đường của nó thì bụng bắt đầu xuống bớt.
2/
Giữa ngực và bụng có một ranh giới gọi là hoành cách mạc.
Khi ta thở vào đúng phép, ta đưa không khí vào phần dưới
của phổi trước khi ta thở đầy phần trên của phổi. Khi
phần dưới của phổi có đầy không khí vào nó đẩy hoành
cách mạc xuống dưới. Do đó bụng ta bắt đầu phình lên
cao. Khi ta thở đầy phần trên lá phổi, ngực ta căng đầy
và do đó bụng ta bắt đầu xuống bớt.
3/
Vì vậy cho nên người xưa hay nói “Hơi thở bắt đầu từ
rốn và chấm dứt ở chót mũi.
Đối
với người mới tập, tư thế nằm ngửa rất thuận lợi.
Phải để ý là không nên thở dài với mức tối đa. Làm
như thế có thể nguy hiểm cho phổi, nhất là trong trường
hợp phổi yếu vì chưa bao giờ biết tập thở. Ban đầu người
hành giả nên nằm xuống, hai tay xuôi theo hai chân, đầu không
gối, trên một mặt phẳng hay hơn là trên nệm. Buông thả
tay chân cho thư thái. Thở vài hơi tự nhiên rồi khởi sự
chú ý đến hơi thở ra xem nó kéo dài bao lâu, có thể đếm
thầm trong trí : một, hai, ba .... Sau vài lần như thế, ta biết
được "chiều dài" của hơi thở ra. Ví dụ chiều dài ấy
là 5, sau đó ta dự tính thêm vào một hay hai nữa để cho
hơi thở ra của ta dài tới 6 hay 7. Thế là lần này khi thở
ra ta bắt đầu đếm từ 1 đến 5. Đến 5 thay vì chuẩn bị
hít thở vào, ta cứ tiếp tục thở ra thêm 1 hay 2, đếm tiếp
là 6 đến 7. Nhtr vậy có nghĩa là ta đưa thêm không khí tồn
dư trong phổi ra ngoài. Xong rồi ta buông tay đề hai phổi tự
động đưa không khí trong lành vào. Chúng đưa vào được
bao nhiêu không khí thì đưa. Mình không nên cố gắng hít thêm.
Cố nhiên là chiều dài của hơi thở vào sẽ ngắn hơn chiều
dài của hơi thở ra. Nhưng ta nên đếm thầm dể biết nó
dài bao nhiêu.
Người
mới tập nên tập như thế trong nhiều tuần. Trong khi thở
luôn ý thức được mình đang thở và ý thức được chiều
dài của hơi thở vào và ra (nếu có chiếc đồng hồ trong
phòng có nhịp tíc tắc chậm thì ta cũng có thể sử dụng
nhịp ấy làm nhịp đếm). Trong khi đi bộ, đứng, ngồi, nhất
là ở những nơi thoáng khí ta cũng nên tập như thế. Khi đi
bộ ta có thể dùng bước chân dể đếm rất tốt.
Chừng
một thoáng sau khoảng cách giữa chiều dài của hơi thở vào
và chiều dài của hơi thở ra sẽ rút ngắn lại. Bây giờ
ta có thể cho hơi thở vào và ra bằng nhau, nghĩa là nếu thở
ra sâu thì thở vào cũng sâu. Tuy nhiên, nếu thấy hơi mệt
thì nên dừng lại. Nếu không mệt, ta cũng nên thực tập
có giới hạn, ví dụ từ 10 đến 20 hơi thở. Khi thấy hơi
mệt là tiêu chuẩn rất tốt, nó báo hiệu cho ta nên nghỉ
hay có thể tiếp tục. Khi đếm ta có thể dùng con số hay
dùng mệnh đề ta ưa thích, ví dụ nếu đó là số 6, ta có
thể dùng mệnh đề "Hiện hữu quanh tôi mầu nhiệm” hay
"Tâm tôi thanh tịnh an lạc”. Nếu đó là số 7, ta có thể
dùng mệnh đề 'Tôi bước từng bước trên trái đất” hay
“Nam mô bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật”. Khi đi bách bộ, mỗi
tiếng nhịp theo mỗi bước chân.
Hơi
thở phải thật nhẹ nhàng, đều đặn, trôi chảy tiếp nối
như một lạch nước trôi trên cát mịn. Hơi thở phải thật
im lặng, im lặng đến nỗi người gần cũng không nghe thấy
mình thở. Hơi thở nên uyển chuyển như một dòng sông, một
con rắn đang bò, chứ không thể như một dãy núi lởm chởm,
hay như nhịp phi của một con ngựa. Chủ động được hoi
thở của mình như thế tức la chủ động được thăn tâm
mình. Mỗi khi tâm ý tán loạn mà ta khó dùng những biện pháp
khác để nhiếp phục thì phương pháp quán sát hơi thở phải
được đem ra áp dụng. Mới ngồi xuống để thiền định,
người hành giả sau khi điều chỉnh tư thế ngồi liền điều
chỉnh ngay hơi thở. Ban đầu thở tự nhiên rồi làm cho hơi
thở dịu dần, êm dần, lắng dần, sâu dần và dài dần.
Trong
suốt thời gian ngồi xuống cho đến khi hơi thở đã trở
nên im lặng sâu thẳm, hành giả ý thức được tất cả những
gì đang trải qua. Kinh quán niệm nói : “Tôi đang hít vào
và biết rõ là tôi đang hít vào. Tôi đang thở ra và biết
rõ là tôi đang thở ra. Tôi đang thở vào một hơi ngắn và
biết rõ rằng tôi đang thở vào một hơi ngắn. Tôi đang thở
ra một hơi ngắn và biết rõ rằng tôi đang thở ra một hơi
ngắn. Tôi đang thở vào một hơi dài và biết rõ rằng tôi
đang thở vào một hơi dài. Tôi đang thở ra một hơi dài và
biết rõ rằng tôi đang thở ra một hơi dài. Tôi ý thức trọn
vẹn về cả chiều dài hơi thở mà tôi đang thở vào. Tôi
ý thức trọn vẹn chiều dài hơi thở mà tôi đang thở ra.
Tôi đang thở vào và điều hòa cho thân thể tôi trở nên
tĩnh lặng”.
Trong
khoảng 10 đến 20 phút, tâm ý của hành giả lặng xuống như
hồ nước trong và không bị lôi kéo và phăn tán nữa. Phương
pháp theo dõi hơi thở tĩnh lặng và điều phục hoàn toàn
hơi thở được gọi là phương pháp "tuỳ tức”. Tùy là
theo dõi, tức là hơi thở, tuỳ tức là theo dõi hơi thở.
Nếu
thấy phương pháp theo dõi hơi thở hơi khó, ta có thể theo
dõi bằng phương pháp đếm hơi thở. Thở vào đếm “1”,
thở ra đếm “1”. Thở vào đếm “2”, thở ra đếm “2”.
Thở cho đến hơi thở thứ 10 thì bắt đầu đếm lại từ
1. Trong lúc thở như vậy, sự đếm là sợi dây buộc tâm
vào hơi thở. Ban đầu đếm là để chú ý, kẻo nếu không
chú ý thì đếm lộn. Đó là hình thức định tâm sơ đẳng
nhất, cột được tâm vào sự đếm rồi, đạt tới cái định
tâm sơ đẳng ấy rồi thì bắt đầu bỏ sự đếm và chuyển
sang theo dõi hơi thở. Phương pháp đếm hơi thở được gọi
là phương pháp sổ tức. Sổ là đếm, tức là hơi thở.
Những
lúc tâm trí bị phân tán khó tập trung để quán niệm, ta
lại nắm lấy hơi thở, nắm lấy hơi thở cũng là quán niệm.
Hơi thỏ là một phương tiện thần diệu để nắm lấy tâm
ý. Giới thứ bảy của dòng tu Tiếp Hiện cũng dặc biệt
chú trọng tới hơi thở : "Không được buông thả theo (vọng)
loạn tưởng và hoàn cảnh để tự đánh mất mình, Phải
biết dùng hơi thở để nắm lấy thân tâm, thực hiện chánh
niệm, phát triển định tuệ và đi tới trên đường thành
tựu đạo nghệ.
MỖI
ĐỘNG TÁC LÀ MỘT LỄ NGHI
Thiều
ơi, tôi thường nghe một ví dụ này khá hay về hơi thở.
Có một bức tường cao không có cách gì leo lên đứng phía
trên được, duy chỉ có sợi chỉ mong manh vắt qua bức tường.
Người khôn khéo sẽ buộc đầu sợi chỉ ấy vào dây gai
rồi qua bên kia kéo đầu sợi chỉ xuống để cho sợi dây
gai vắt lên thay thế. Xong rồi, lại buộc đầu sợi gai với
đầu sợi dây thừng để kéo nó vắt qua bức tường. Sau
khi cột một đầu thừng xuống chân bức tường bên này,
ông ta sang bên kia tường bám vào sợi dây thừng mà trèo lên
đứng phía trên bức tường. hơi thở của ta là sợi dây
chỉ mỏng manh kia, nếu ta biết sử dụng thì ta có thể biến
nó thành một khí cụ thần diệu cứu ta ra khỏi những trường
hợp xem như vô vọng. Hơi thở cũng là một cây cầu bắt
từ thân sang tâm, hơi thở điều hòa cả thân và tâm, hơi
thở thiết lập sự thể giữa thân và tâm. Thân và tâm đều
có liên hệ tới hơi thở, và hơi thở có thể dùng để điều
hợp thân tâm, đưa đến trạng thái tĩnh lặng sáng chiếu
của cả hai.
Có
nhiều người và nhiều sách nói đến những ích lợi lớn
lao của sự tập thở đúng phương pháp. Người biết thở
là người biết sử dụng một kho tàng sinh lực vô tận :
Hơi thở thanh lọc buồng phổi, thanh lọc máu trong huyết quản,
thanh lọc và đổi mới cả cơ thể. Hơi thở quan trọng hơn
thức ăn. Những điều ấy rất đúng. Hồi xưa tôi từng bị
ốm nặng và qua mấy năm thuốc thang không lành, tôi đã dùng
đến phương pháp thở, phương pháp này đã cứu sống tôi.
Tuy
vậy trong câu chuyện mà tôi đang nói với Thiều đây, hơi
thở là dụng cụ và đối tượng của quán niệm. Hai lá phổi
tốt, một hơi thở khỏe là những thiện duyên rất lớn,
tuy nhiên không phải là mục đích lớn mà chỉ là những vật
phó sản (gous prodrets) của sự thực hiện quán niệm mà thôi.
ở
Paris tôi có hướng dẫn một lớp ngồi Thiền cho người ngoại
quốc. Trong số đó có nhiều người trẻ. Tôi nói với họ
mỗi
ngày ngồi một giờ đồng hồ thì tốt lắm, nhưng không đủ
thiếu gì. Phải tập thiền trong khi đi, đứng, ngồi, nằm
và làm việc. Tôi chỉ cho họ cách quán niệm trong khi rửa
tay, rửa bát, quét nhà, nói chuyện. Tôi nói trong khi rửa bát,
có thể ta nhớ tới tách trà và muốn rửa cho thật mau để
lên ngồi uống trà. Nhưng như thế là ta không thấy được
sự sống trong khi rửa bát. Trong khi ta rửa bát thì rửa bát
phải là chuyện quan trọng nhất trong đời. Trong khi ta đi
cầu, thì đi cầu là chuyện quan trọng nhất trong đời. Cứ
thế mà nhìn, bửa củi cũng là thiền mà gánh nước cũng
là thiền. Người hành giả tu 24 tiếng đồng hồ một ngày
chứ không phải chỉ tu trong giờ tụng kinh và ngồi thiền.
Mọi động tác đều được nhiếp phục trong chánh niệm.
Mỗi động tác là một lễ nghi. Dùng chữ lễ nghi thì hơi
nặng nề nhưng tôi phải dùng chữ ấy qua một lượt để
Thiều thấy tính cách sanh tử của sự tỉnh thức.
HÃY
LÀ NỤ CƯỜI
Ngày
nào cũng thực tập quán niệm, giờ nào cũng thực tập quán
niệm... Nói thì dễ nhưng thực hành cho được thường xuyên
là chuyện không dễ... Vậy cho nên tôi đề nghị những người
trong lớp thiền tập nên để dành một ngày trong tuần để
khởi sự thực tập. Đã đành trên nguyên tắc ngày nào cũng
là ngày của mình, giờ nào cũng là giờ của mình, nhưng trên
thực tế mình hoàn toàn chưa thể nào chủ động được và
mình có cảm tưởng gia đình, sở làm và xã hội chiếm mất
hết thì giờ của mình. Vì vậy tôi đề nghị họ lấy một
ngày trong tuần làm “ngày của mình”. Ngày này sẽ là bàn
đạp tạo nên thói quan tốt đẹp của sự thực tập quán
niệm.
Tác
viên xã hội ai cũng có quyền có 1 ngày như vậy mỗi tuần,
nếu không ta sẽ tự đánh mất mình một cách dễ dàng trong
cuộc đời náo động. Ta tạm gọi cái ngày thứ bảy kia là
ngày quán niệm. Muốn tổ chức ngày quán niệm ta hãy chuẩn
bị làm sao khi thức dậy trong buổi sáng, ta có thể nhớ ngày
dó là ngày quán niệm. Treo một cái gì ở trên trần nhà hay
ở trong mùng. Ví dụ như một chữ "quán” hay một cành thông
chẳng hạn, để khi thức dậy là ta có thể trông thấy và
biết đây là ngày quán niệm, ngày "của mình”.
Nhớ
ra như vậy rồi, ta nên mỉm cười để chứng tỏ rằng ta
đang có ý thức trọn vẹn và cũng là nuôi dưỡng ý thức
trọn vẹn đó. Nằm trên giường ta bắt đầu theo dõi hơi
thở, điều phục hơi thở, thở những hơi chậm, dài và ý
thức. Rồi ta từ từ vén chăn ngồi dậy (đừng tung chăn
chồm dậy như thường nhật). Nuôi dưỡng quán niệm trong
từng cử chỉ. Ta xúc miệng đánh răng, chải đầu, cạo râu
hay điểm trang một cách nhẹ nhàng, thong thả, cử động nào
cũng được nhiếp phục trong quán niệm. Theo dõi hơi thở,
nắm lấy hơi thở, đừng để tâm loạn động. Khi làm những
cử động thể dục buổi sáng cũng vậy. Các cử động thể
dục nên làm thong thả, đi đôi với nhịp thở dài và nhẹ.
Trong khi tập thể dục, duy trì nụ cười hàm tiếu trên môi.