|
c
TỨ NHƯ
Ý TÚC
Tác
giả: Joseph Goldstein
Dịch
giả: Nguyễn Duy Nhiên - Nhà xuất bản: Sinh Thức.
Đức
Phật có dạy về bốn con đường đưa ta đến thành công
và sự viên mãn. Đức Phật gọi chúng là Tứ Như Ý Túc,
những con đường lúc nào cũng dẫn ta tiến tới. Chúng là
bốn phẩm hạnh đặc thù trong cá tính chúng ta, mà mỗi con
đường phản ảnh một sức mạnh đặc biệt. Nếu ta biết
được phẩm hạnh nào là ưu điểm của mình, từ đó ta có
thể dựa trên sức mạnh sẵn có đó mà phát huy thêm và thực
hiện được những gì cần phải làm.
Đôi
khi người ta có một quan niệm cho rằng tu hành có nghĩa là
sống mà không còn một sự say mê nào nữa, dập tắt hết
những ngọn lửa trong tâm có nghĩa là ta phải có một thái
độ lạnh lùng, hoàn toàn thụ động, xa lìa thế sự. Nhưng
quan niệm nầy hết sức là sai lầm! Vì mỗi trong bốn con
đường đi đến giải thoát vừa kể đều đòi hỏi một
sự đam mê phi thường, một ngọn lửa rực cháy sáng trong
tâm. Đối với chúng ta, những người mà niềm đam mê ấy
đang khơi động, đạo pháp trở thành một lý tưởng tối
thượng của đời mình.
1.-
Con
đường thứ nhất để đi đến thành công, nuôi dưỡng
chí tu hành của ta, là Dục như ý túc. Dục ở đây tức là
một sự ham muốn thực hành, để thành tựu một việc gì.
Khi có phẩm hạnh nầy, ta sẽ biết rằng không có bất cứ
điều gì có thể ngăn trở mình được. Chúng ta không bao
giờ cảm thấy toại nguyện, trừ khi nào ta đạt đến mục
tiêu mình muốn. Đôi lúc, khi tôi nghĩ về phẩm hạnh nầy,
tôi liên tưởng đến lòng nhiệt thành và cái động lực
phi thường của các nhà thể thao thế vận hội, hay những
nhạc sĩ đại tài, hoặc là bất cứ những ai đã đem một
việc gì đến mức toàn mỹ. Phẩm hạnh của dục và lòng
nhiệt thành là động lực chính thúc đẩy họ đi trên con
đường đời: "Tôi sẽ làm chuyện ấy! Tôi sẽ thực hiện
được được việc ấy!" Và rồi với sức mạnh đó trong
tâm, của một nghị lực không thối chuyển, họ sẽ thành
công. Vì thế cho nên dục, tức là một hoài bảo và một
nhiệt tâm mãnh liệt, là một trong bốn con đường đưa ta
đến thành công.
2.-
Con
đường thứ hai là Tinh Tấn Như Ý Túc, đây là một phẩm
hạnh của nghị lực. Một người có đức tính cương quyết
này lúc nào cũng cảm thấy bị thách thức bởi ý nghĩ "Công
việc này đòi hỏi một nghị lực đáng kể. Và tôi sẽ thực
hiện được việc ấy". Những hạng người như vậy thì chẳng
những không sờn lòng trước khó khăn mà còn cảm thấy hứng
khởi vì sự thách đố. Họ quan niệm rằng: "Những việc
gì đòi hỏi sự cố gắng để đạt đến thành công, thì
tôi sẽ làm được!"
Thời
gian trước đây tôi có đọc một bài báo viết về cái chết
của một con ngựa đua nổi danh Secretariat. Bài báo tán tụng
về trái tim dũng cảm của con ngựa này, diễn tả lại cái
đảm khí của nó được biểu lộ một cách hùng tráng trong
những cuộc đua ra sao. Cũng thế, khi hành động của chúng
ta được xuất phát từ nơi ấy trong trái tim, gắng hết sức
không chút nghi ngại, nó sẽ phát sinh một sức mạnh và một
năng lực vô song! Dipa Ma, một vị thầy của tôi ở Ấn Độ,
là một thí dụ cho phẩm hạnh anh dũng bất thối chuyển này.
Trong thời gian tu tập, có lúc bà bị bệnh và yếu đến nổi
bà ta phải bò lên những nấc thang để đi lên thiền đường
và tiếp tục ngồi thiền. Không có gì khuất phục bà được.
Lần cuối tôi gặp bà trước khi bà mất, Dipa Ma quay sang bảo
tôi: "Chú biết không, chú nên thử gắng ngồi thiền trong
hai ngày". Bà không nói là một khoá thiền kéo dài hai ngày,
mà ý bà là một lần tọa thiền kéo dài hai ngày liên tục!
Chỉ ngồi thôi, hai ngày như vậy! Khi nghe bà nói thế, tôi
phá lên cười vì biết rằng hoàn toàn ngoài khả năng của
mình. Bà nhìn tôi với một ánh mắt từ bi sâu xa và nói:
"Chú đừng có lười biếng!" Dipa Ma có một khả năng cố
quyết đáng kính phục, và nó đã đem lại cho bà một kết
quả mà chỉ có thể phát xuất từ một tâm kiên cố. Những
ai với đức tính này, với sức mạnh này, là những người
có một khả năng tinh tấn, sẽ không bao giờ chán nản vì
con đường quá dài hoặc quá gian nan. Cho dù hành trình kéo
dài nhiều tháng hoặc nhiều năm, chuyện ấy không đáng kể
- vì họ là những người có đảm khí. Đức Phật cũng là
biểu tượng cho phẩm hạnh nầy. Trước khi thành đạo, khi
ngài vẫn còn đi tìm chân lý như chúng ta đây, ngài đã cương
quyết như sau: "Nếu mục tiêu có thể đạt được bằng sự
cố gắng của con người, tôi sẽ không bao giờ ngừng nghỉ
hoặc thối chuyển cho đến ngày thành đạt. Cho dầu chỉ
còn lại da, gân bọc xương. Cho dù thịt máu tôi có khô cạn.
Tôi nhất định sẽ không thối lui sự tinh tấn của mình,
cho đến ngày nào tôi đạt được những gì có thể đạt
được bằng khả năng, bằng sự cố gắng và kiên chí của
con người".
3.-
Con
đường thứ ba để đi đến thành công là tâm nguyện
tu tập theo đạo Pháp, hay là Niệm Như Ý Túc. Lòng yêu chân
lý này sẽ giữ cho tâm ta lúc nào cũng miệt mài với sự
tu tập. Tình yêu đó bao gồm một tâm thức thanh tịnh rất
lớn và một nhiệt tâm vô bờ bến. Như lần đầu tiên biết
yêu - theo thế gian thường tình - tâm bạn lúc nào cũng chỉ
biết tưởng nhớ đến người mình yêu. Tình yêu đạo pháp
cũng có một cường độ tương tợ như thế. Tình yêu ấy
sẽ trở thành con đường dẫn đến tuệ giác khi nó tràn
ngập tâm ta. Chúng ta lúc nào cũng tưởng nhớ đến đạo
pháp và thực hành theo, trên đời này không còn một chuyện
nào quan trọng hơn nữa. Tình yêu ấy giữ cho ta vững tiến.
Nó chính là tình yêu cao thượng nhất, quí giá nhất trong
ta!
4.-
Con
đường sau chót dẫn đến thành công là phẩm hạnh của
tư duy, tức sự tham cứu đạo lý. Nó cũng còn được gọi
là Tư Duy Như Ý Túc. Có những người có một sự ham thích
mạnh mẽ, muốn hiểu thấu được những khía cạnh sâu xa
nhất, uyên thâm nhất của Phật pháp. Họ không bao giờ bằng
lòng với sự hiểu biết tầm thường nông cạn bề ngoài.
Cái tâm tư duy quán chiếu sự vô tận của vòng sinh tử luân
hồi (samsara), sự vô bờ bến của các cõi sinh linh, và qua
cái nhìn bao la ấy, nó thấy được những vướng mắc của
ta trong cuộc sống. Một người với nhiệt tâm học hỏi,
sẽ quán chiếu và hiểu được các nguyên nhân tiềm ẩn của
khổ đau và thấy được khả năng giải thoát của mình. Họ
sẽ cảm thấy rất vui thú khi thám hiểm, bước vào vùng bí
mật thâm sâu nhất của tâm thức.
Bất
cứ ai được ban phú cho một trong bốn đức tính căn bản
này, không chóng thì chầy, rồi cũng sẽ đi đến giải thoát.
Chúng ta có thể giải thoát được nhờ sức mạnh của lòng
dục, tức cái tâm tham muốn và động năng thúc đẩy ta trên
con đường tu tập; chúng ta cũng có thể đi đến giải thoát
qua đức tinh tấn, cương quyết, một nghị lực mà không có
gì ngăn trở nổi; chúng ta có thể được giác ngộ nhờ ở
sụ say mê và lòng yêu quý đạo pháp; và chúng ta cũng có
thể kinh nghiệm được giải thoát bằng năng lực của quán
chiếu, một nhu cầu tham cứu và hiểu biết. Một trong bốn
đức tính ấy đều có thể là con đường đưa ta đến nơi
giải thoát.
Bổn
phận của chúng ta là làm sao nhận diện được đức tính
nào là ưu điểm của mình, và dựa trên đó để làm nền
tảng tu tập. Ta hãy nuôi dưỡng ưu tánh đó, phát triển nó
và làm sao cho mỗi ngày được vững mạnh thêm lên. Sự thách
thức lớn nhất của đời ta là thực hiện được sứ mạng
giải thoát, và làm sao để mang những đức tính giải thoát
ấy hội nhập vào giây phút hiện tại. Con đường tỉnh thức
hiện hữu trong mỗi giây, mỗi phút. Nó đang có mặt ngay bây
giờ và ở đây. Ta có thể nào giữ được viễn thức ấy
và cùng một lúc hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại
này không? Nhìn thấy những gì là chân thật, ta có cảm thấy
khích lệ không? Ta nên nhớ rằng sự tu tập này không phải
chỉ cho riêng mình mà thôi, nó còn vì hạnh phúc và lợi ích
của mọi chúng sinh.
Đức
Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng bốn con đường để
đi đến thành công viên mãn rồi đó. Phần còn lại là tùy
ở ta.
WP:
Trí Đạt
Bài
Đọc Thêm:
Ba
Mươi Ngày Thiền quán, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên Dịch
Giới
Thiệu về Thiền Vipassana
Thực
tập Thiền Minh Sát
Những
Bài Giảng Tóm Tắt của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày
Bốn
Sự Thật Nhiệm Mầu, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch
|