|
c
HÀNH
THIỀN
Một
nếp sống lành mạnh trong sáng,
Một
phương pháp giáo dục hướng thượng
Hòa
thượng Thích Minh Châu
Tỉnh
hội Phật giáo Thừa Thiên, 1993
Phần
I. Giới thiệu pháp Thiền Nguyên thủy của Ðức Phật
"Như Lai Thiền
trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh
trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là
một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền
mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền. Ở đây chúng tôi hạn
chế trong Kinh Tạng Pàli mà không đề cập đến A-tỳ-đàm
- Tạng Pàli, với chủ đích muốn giới thiệu cho các Phật
tử hiểu rõ Thiền nguyên thủy là gì, trước hết là ngang
qua kinh nghiệm bản thân của đức Phật khi ngài chưa thành
Ðạo, khi Ngài thành Ðạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp và
cuối cùng khi Ngài nhập Niết-bàn. Tiếp đến chúng tôi giới
thiệu pháp môn Thiền ngang qua những lời dạy của Ngài trong
kinh điển, chú trọng giới thiệu pháp môn Thiền như là một
nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục
hướng thượng có thể ứng dụng ngay trong đời sống hiện
tại, vừa là một tiến trình đưa đến giải thoát và giác
ngộ. Cuối cùng, chúng tôi xin giới thiệu một pháp môn Thiền:
Pháp môn Anapànasati, niệm hơi thở vô hơi thở ra, một Pháp
môn Thiền nguyên thủy do đức Phật giảng dạy, một pháp
môn Chỉ quán, Ðịnh Tuệ song tu mà mọi người có thể thực
hành, ngay trong hiện tại đối với bản thân mình.
Mọi trình bày
của chúng tôi đều nêu rõ xuất xứ, trích từ trong Kinh tạng
Pàli nào, để xác chứng đó là những lời dạy của đức
Phật, chứ không phải là những sản phẩm tưởng tượng
của din giả, và giúp cho những ai muốn tự mình nghiên cứu
tư liệu cũng có thể truy nguyên đến nguồn gốc một cách
chính xác.
Trước hết, chúng
tôi xin trình bày: Những kinh nghiệm cá nhân của đức Phật
về Thiền.
Thiền là một
pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập
bản thân của Ngài, không một ai dạy cho Ngài, và chính nhờ
kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một
pháp môn giải thoát và giác ngộ, rất độc đáo, tuyệt diệu;
đó là pháp môn: Giới Ðịnh Tuệ.
Kinh nghiệm Thiền
đầu tiên của đức Phật là khi Ngài đến học đạo với
Alara Kalama về pháp môn Vô-sở-hữu-xứ, và học đạo với
Uddaka Ramaputta về pháp môn Phi-tưởng Phi-phi-tưởng-xứ. Hai
pháp môn Thiền ngoại đạo, Ngài học, Ngài hành, Ngài chứng
và được hai vị ngoại đạo sư xác nhận là đã thật chứng.
Nhưng Ngài nhận
thấy hai pháp môn ấy không đem đến giải thoát nên Ngài
đã bỏ đi. Hai vị ngoại đạo sư ấy xác nhận: "Pháp mà
tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp
ấy hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú. Pháp
mà hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính
pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp
mà tôi biết, chính pháp ấy hiền giả biết; Pháp mà hiền
giả biết, chính Pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, hiền
giả là như vậy; hiền giả như thế nào, tôi là như vậy.
Nay hãy đến đây, hiền giả! Hai chúng ta hãy chăm sóc hội
chúng này". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là đạo
sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của người ấy ngang hàng
với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này
các Tỷ-kheo, rồi ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến
yếm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn
diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng
trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn,
mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính Pháp này, và từ khước
pháp ấy, Ta bỏ đi" (Trung Bộ Kinh).
Kinh nghiệm thứ
hai là kinh nghiệm của đức Phật khi chưa thành Ðạo, Ngài
muốn đoạn trừ các dục, nhưng vì Ngài chưa hành Thiền,
nên chưa đoạn trừ được tham sân si, như đoạn kinh sau đây
nêu rõ: "Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là vị Bồ-tát,
chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh đẳng, Chánh
giác, Ta khéo thấy như thật chánh kiến: "Các dục, vị ít,
khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây nhiều hơn".
Dầu ta khéo thấy với như thật chánh kiến như vậy, nhưng
Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp
sanh, hay một pháp nào khác cao thượng hơn, và như vậy, Ta
biết rằng ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma,
khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh quán: "Các dục, vui
ít, khổ nhiều, não nhiều, và sự nguy hiểm ở đây lại
nhiều hơn". Và ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất
thiện pháp sanh, hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy
ta mới khỏi các dục chi phối" (Trung Bộ Kinh)
Kinh nghiệm này
nêu rõ, chỉ một mình như thật quán các dục là vui ít khổ
nhiều chưa đủ, phải có hành Thiền, tức là chứng được
hỷ lạc do ly dục sanh mới có thể nhiếp phục và đoạn
trừ các dục. Chính do kinh nghiệm này, đức Phật sau này
đã hành Thiền định để nhiếp phục các dục và đã thiết
lập pháp môn Giới Ðịnh Tuệ, trong ấy có Thiền để đưa
hành giả đi đến giác ngộ giải thoát.
Kinh nghiệm thứ
ba của Sa-môn Gotama là khi tu hành sáu năm khổ hạnh đã xong,
Ngài nhận thấy khổ hạnh không đưa con người đến giác
ngộ và giải thoát, nên Ngài đã từ bỏ khổ hạnh và đi
đến Uruvela.
Tại đây, Ngài
tìm thấy một địa điểm khả ái, có con sông trong sáng chảy
gần, một khóm rừng thoải mái, một trú xứ thuận tiện
để hành Thiền. Ngài chọn lựa địa điểm ấy và quyết
định ngồi xuống tại đấy để tu trì. Nhưng ba ví dụ đã
khởi lên, giúp Ngài hiểu rõ phải hành Thiền như thế nào
mới có kết quả.
Ví dụ thứ nhất,
một người cầm lửa lấy một khúc cây đẫm ướt đầy
nhựa sống, đặt vào trong nước rồi cọ xát với dụng cụ
làm lửa để nhen lửa. Lẽ dĩ nhiên, với điều kiện này,
lửa không thể nhen nhúm được.
Ví dự thứ hai
cũng giống như trên, lần này khúc cây vẫn đẫm ướt, vẫn
đầy nhựa sống, nhưng được vớt ra khỏi nước, nếu có
cọ xát với dụng cụ làm lửa để nhen lửa, lẽ dĩ nhiên
với điều kiện này lửa cũng không thể nhen nhúm được.
Ví dụ thứ ba
nói đến khúc cây không có nhựa, được vớt khỏi nước,
và đặt trên đất khô. Nếu người này cọ xát khúc cây
ấy với dụng cụ làm lửa, thời lửa có thể hiện ra. Ví
dụ này giới thiệu cho Sa-môn Gotama rõ là muốn hành Thiền
cho có hiệu quả thời phải ly dục, ly bất thiện pháp mới
hy vọng chứng quả như đã ghi trong đoạn kinh Trung Bộ:
"Này Aggivessana,
những tôn giả Sa-môn hay Bà la môn nào sống không xả ly các
dục vọng về thân, về nội tâm chưa được khéo đoạn trừ,
chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy không có thể chứng được Vô thượng Chánh
đẳng giác... Nếu tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn nào sống xả
ly các dục vọng về thân... và nội tâm đã được khéo đoạn
trừ, đã được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn giả Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy có thể chứng được tri kiến Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác".
Ba ví dụ trên
đã giới thiệu cho Sa-môn Gotama biết là muốn hành Thiền
cho có kết quả thì phải ly dục, ly bất thiện pháp. Do vậy,
sau này khi dạy về hành Thiền điều kiện tiên quyết của
hành Thiền phải làm là "ly dục, ly bất thiện pháp". Còn
đắm say các dục, còn làm các hạnh bất thiện, thì không
thể hành Thiền cho có kết quả. Những kinh nghiệm quí báu
này điều được đức Phật áp dụng khi Ngài giảng dạy
về Thiền.
Một kinh nghiệm
nữa đến với Sa-môn Gotama: Sau khi tu hành khổ hạnh trong
6 năm không có kết quả, Ngài tự hỏi có con đường nào
khác có thể đưa Ngài đến giác ngộ, và sau đây là những
lời ghi nhận của Ngài khi Ngài hướng tìm một con đường
khác, như đã ghi trong Ðại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh:
"Nhưng ta với
sự khổ hạnh khốc liệt như thế này vẫn không chứng được
pháp thượng nhân, tri kiến thù thăng xứng đáng bậc Thánh.
Hay là có con đường nào khác đưa đến giác ngộ?".
"Này Aggivessana,
rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, dòng
họ Thích Ca, đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây
Diêm phù đề. Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm có tứ, khi an trú như vậy Ta nghĩ: "Theo con đường
này có thể đưa đến giác ngộ chăng"? Và này Aggivessana,
tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây
là con đường đưa đến giác ngộ". Với kinh nghiệm này,
Sa-môn môn Gotama thực hành Thiền định chứng Sơ thiền, Thiền
thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Rồi đến Thiền thứ
tư, Ngài hướng tâm và chứng được ba minh và cuối cùng,
Ngài thành Ðạo, chứng được Thánh quả, thành bậc Chánh
giác.
Chúng tôi ghi chép
sau đây kinh nghiệm hành Thiền, chứng đạo của Ngài như
đã được ghi trong Ðại Kinh Saccaka: "Và này Aggivessana, sau
khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục ly
bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Này Aggivessana,
như vậy là thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không
chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không
tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ
khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và
trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi
lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả
niệm xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta".
Rồi với tâm
định tĩnh trong Thiền thứ tư ấy, Sa-môn môn Gotama hướng
tâm đến Túc mạng minh, đến Thiên nhãn minh, đến Lậu tận
minh: "Nhờ hiểu biết như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục
lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối
với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu
biết: "Ta đã giải thoát". Ta đã biết: "Sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành. Việc cần làm đã làm. Không còn trở lui
trạng thái này nữa". Này Aggivessana, đó là Minh thứ ba, Ta
đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt minh sanh, mê
tối diệt ánh sáng sanh, do ta sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần" (Trung Bộ Kinh).
Sau khi đức Phật
thành Ðạo, nếp sống đặc biệt của Ngài như đã được
din ra trong Kinh tạng Pàli là thuyết pháp độ sanh, và hành
Thiền giải thoát. Thật sự ở nơi đây hai hình ảnh linh
động nhất của bậc giáo chủ đạo Phật là thuyết Pháp
và hành Thiền. Trong đời sống hàng ngày của đức Phật,
ngoài trách nhiệm thuyết Pháp độ sanh, đức Phật hoàn toàn
sống đời sống hành Thiền. Buổi sáng đi khất thực, độ
ngọ xong, Ngài đi sâu vào rừng núi để hành Thiền. Buổi
chiều, đức Phật thường từ Thiền tịnh độc cư đứng
dậy, tức là buổi chiều Ngài cũng hành Thiền. Ban đêm, trong
canh một Ngài đi kinh hành. Trong canh hai, Ngài đi kinh hành và
ngồi Thiền. Canh ba, Ngài nằm nghỉ với dáng nằm con sư tử.
Ngài thức dậy, lại đi kinh hành và ngồi Thiền. Khi Ngài
nhập Niết bàn, Ngài cũng từ nơi cảnh Thiền định mà nhập
Niết bàn: "Xuất Thiền thứ tư, Ngài nhập định Thiền thứ
ba. Xuất Thiền thứ ba, Ngài nhập định Thiền thứ hai. Xuất
thiền thứ hai, Ngài nhập định Sơ Thiền. Xuất Sơ Thiền,
Ngài nhập định Thiền thứ hai. Xuất Thiền thứ hai, Ngài
nhập định Thiền thứ ba. Xuất Thiền thứ ba, Ngài nhập
định Thiền thứ tư. Xuất Thiền thứ tư, Ngài lập tức
Nhập diệt" (Trung Bộ Kinh).
Và chúng ta thường
gặp hai lời khuyên này của đức Phật cho các Tỷ-kheo xuất
gia: "Này các Tỷ-kheo, khi các người hội họp lại, thường
có hai việc phải làm: một là đàm luận về Phật pháp, hai
là giữ im lặng của một bậc Thánh" (Trung Bộ Kinh).
Và sự im lặng của các bậc Thánh ở đây là hành Thiền.
Lời dạy thứ
hai là lời khuyên hành Thiền của đức Phật: "Này các Tỷ-kheo,
đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này
các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật, chớ có sanh
lòng hối hận về sau. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các
người". Và khi sắp Niết-bàn, đức Phật nhắc đi nhắc lại
nếp sống của một Tỷ-kheo tối thắng là tu Thiền định,
Thiền quán:
"Và này Ananda,
ở đời Tỷ-kheo quán thân trên thân... quán thọ trên các
cảm thọ.... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ưu
ở đời. Như vậy này Ananda, Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một
vị khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm
chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác. Những vị
ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo
của Ta" (Trường Bộ Kinh, Kinh Ðại Bát Niết Bàn). Lời
dạy nầy của đức Phật chính là một lời khuyên tu Thiền
và hành Thiền.
Với một bậc
Ðạo sư, trước khi thành Ðạo đã có nhiều kinh nghiệm về
Thiền như vậy, đã khám phá ra con đường Giới Ðịnh Tuệ
đưa đến giác ngộ giải thoát, trong ấy Thiền chiếm một
vị trí quan trọng, cho đến khi thành Ðạo và nhập Niết-bàn,
cũng điều là những kinh nghiệm bản thân về Thiền định.
Hơn nữa, từ khi thành Ðạo cho đến khi nhập Niết-bàn, Ngài
sống một đời sống hằng ngày hành Thiền để hiện tại
lạc trú và sách tấn các đệ tử tu hành, cho đến trong suốt
45 năm thuyết pháp, lời giảng dạy của Ngài chính là hành
Thiền. Ðến giờ phút gần nhập Niết-bàn, lời khuyến khích
cuối cùng cho các đệ tử cũng là những lời khích lệ hành
Thiền. Ðối với một bậc Ðạo sư như vậy, tự nhiên hành
Thiền chiếm một địa vị vừa ưu tiên, vừa quan trọng trong
những kinh điển Ngài dạy.
Vậy nay, chúng
ta hãy tìm hiểu Thiền là gì, và hành tướng của Thiền là
như thế nào? Chữ Thiền từ chữ Pàli là Jhàna, từ chữ
Sanskrit là Dhyàna, được Ngài Buddhaghosa định nghĩa như sau:
"Aramman, ùpanijjhànato paccanika - jhàpanato và jhapam" (Thanh
Tịnh Ðạo, 150) nghĩa là do Thiền trên các đối tượng
lựa chọn, và do đốt cháy những gì đối nghịch nên gọi
là Thiền. Như vậy, Thiền là có nghĩa lựa chọn một đối
tượng rồi Thiền tư trên đối tượng ấy, khiến cho khả
năng đốt cháy, thiêu hủy các pháp đối nghịch, ở đây,
chỉ cho các triền cái và các kiết sử phiền não.
Ðịnh nghĩa về
Thiền trong các kinh điển thường lồng vào trong khung cảnh
Giới Ðịnh Tuệ, và đề cập đến Ðịnh tức là Thiền
định, tức là Thiền. Những định nghĩa này có rất nhiều
chi tiết và ví dụ, và có thể được phân tích thành những
giai đoạn như sau:
- Sửa soạn
hành Thiền
- Ðoạn trừ các
triền cái
- Chứng Sơ thiền
cho đến Tứ thiền
A. Sửa soạn
hành Thiền
Sau khi thành tựu
Giới uẩn, nghĩa là thành tựu hộ trì các căn, tiết độ
trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, hành
giả: "Lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng,
gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời,
đống rơm. Sau khi đi khất thực và ăn xong, vị ấy ngồi
kiết già, lưng thẳng và an trú niệm trước mặt". (Kinh
Trung Bộ).
Trong sự sửa
soạn hành Thiền, chúng ta thấy rõ hành giả phải giữ Giới,
tức là phải sống một nếp sống trong sạch và lành mạnh,
mới có thể hành Thiền. Nói một cách khác, hành Thiền chỉ
có hiệu quả khi nếp sống của hành Thiền là phải ly dục,
ly bất thiện pháp. Những ai ăn nhiều, ngủ nhiều, tất nhiên
khó hành Thiền; những ai say đắm năm dục, say đắm về rượu
men rượu nấu, làm các hạnh bất thiện về thân, về lời,
về ý, tất nhiên khó hành Thiền. Nói tóm lại, người hành
Thiền phải sống một đời sống lành mạnh và trong sạch,
thời hành Thiền mới có kết quả.
B. Ðoạn
trừ các Triền cái
"Vị ấy từ bỏ
dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gội rửa
tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm
không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu
tình, gội rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy
miên, với tâm hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác,
gội rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử
hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, nội tâm
trầm lặng, gội rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ
nghi ngờ, vị ấy sống thoát ly khỏi nghi ngờ, không phân
vân lưỡng lự, gội rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện
pháp" (Kinh Trung Bộ).
Năm triền cái
này có khả năng làm uế nhim tâm và làm yếu ớt trí tuệ,
nên phải trừ khử để được sáng suốt và để trí tuệ
được phát triển. Trong kinh Tăng Chi, đức Phật có nêu rõ
những pháp giúp đoạn trừ năm triền cái này:
"Tướng bất tịnh,
này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh
không sanh khởi và dục tham đã sanh được đoạn tận... Từ
tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời
sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn
tận... Người tinh cần tinh tấn, này các Tỷ-kheo, hôn trầm
nhụy miên chưa sanh không sanh khởi, hôn trầm thụy miên đã
sanh được đoạn tận... Người có tâm tịnh chỉ, này các
Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi, hay nghi hoặc đã
được sanh đoạn tận".
"Này các Tỷ-kheo,
như một người mắc nợ, liền làm các nghề nghiệp, những
nghề này được phát đạt, người ấy không những trả được
nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy
nghĩ: "Ta trước kia mắc nợ nên ta làm các nghề nghiệp. Những
nghề này được phát đạt, ta không những trả được các
nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi vợ". Người ấy nhờ vậy
được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người
bị bệnh đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể
lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn
uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: "Ta
trước kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không
tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông,
thể lực khôi phục". Người ấy nhờ vậy được sung sướng
hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị nhốt trong ngục,
người ấy sau một thời gian được khỏi tù tội, an lạc
kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. Người ấy nghĩ:
"Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được khỏi tù tội,
an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn". Người ấy
nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như
một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người
khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời
gian thoát khỏi cảnh nô lệ được tự chủ, không lệ thuộc
người khác, một người giải thoát, được tự do đi lại.
Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị cảnh nô lệ, không được
tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại.
Nay ta thoát cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc
người khác, một người giải thoát, được tự do đi lại".
Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo,
như một người giàu có nhiều tài sản, đang đi qua bãi sa
mạc. Người ấy sau một thời gian đã đi khỏi bãi sa mạc
ấy, đến đầu làng, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản
không bị tổn giảm. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia giàu có,
nhiều tài sản, đi qua bãi sa mạc. Nay ta đã đi qua khỏi bãi
sa mạc ấy yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị
tổn giảm". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
Cũng vậy này
các Tỷ kheo, vị Tỷ-kheo tự mình quán năm triền cái chưa
xả ly, như món nợ, như bịnh hoạn, như ngục tù, như cảnh
nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ kheo, cũng như
không mắc nợ, như không bị bệnh tật, như được khỏi
tù tội, như được tự do, như được đất lành yên ổn,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái, khi chúng được
diệt trừ".
Như vậy đối
với người hành Thiền, năm triền cái có tác dụng như một
gánh nặng, như một trói buộc và giải thoát chúng có nghĩa
là làm vơi nhẹ những gánh nặng và làm giải tỏa những
trói buộc. Khi năm triền cái đã đoạn trừ, người hành
Thiền mới thật sự bước vào Thiền định, do một tiến
trình din tiến như sau, như được din tả trong kinh Trường
Bộ: "Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái, hân hoan sanh.
Do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an,
do thân khinh an lạc thọ sanh. Do lạc thọ, tâm được định
tĩnh".
C. Chứng
Sơ thiền cho đến Ðệ Tứ thiền
Ðức Phật giải
thích rất tỉ mỉ bốn Thiền được chứng đắc, theo thứ
tự trước sau, cùng với các Thiền chi:
"Sau khi đoạn
trừ năm triền cái này, những triền cái làm ô nhim tâm tư,
làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly ác pháp, chứng và
trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
với tầm với tứ. Người ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm
cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh,
không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục
sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một hầu tắm lão
luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm
trong thau đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột
tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước
ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không
chảy thành giọt. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, thấm nhuần,
tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với hỷ lạc
do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần".
"Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm
không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn tràn đầy thân này với hỷ lạc do định
sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc
do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một
hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Ðông không có
lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra,
phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có
lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn. Suối
nước mát từ hồ nước phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm
cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy với nước mát lạnh,
không một chỗ nào hồ nước ấy không được mát lạnh thấm
nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, vị ấy thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình, với hỷ lạc do
định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần".
"Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm
lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần,
tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ
không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không
được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo,
ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những
sen xanh, sen hồng, hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong
nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi
sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc r đều thấm
nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh
ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay
sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng
cậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm
cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ
ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ
không có hỷ ấy thầm nhuần".
"Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã
cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn
thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng không một chỗ nào
trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy
thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng
tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân
không được vải trắng che thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
vị ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân mình với thân thuần
tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được
thuần tịnh trong sáng ấy thuấm nhuần".
Với những đoạn
kinh trên, chúng ta có một số nhận xét như sau:
Thiền là một
tập trung tư tưởng trên một đối tượng, nhờ sức tập
trung ấy nên có khả năng thay đổi năm triền cái Dục Tham,
Sân, Hôn trầm thụy miên, Trạo hối, và Nghi, bằng năm Thiền
chi, tức là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm. Tầm thay thế
cho Hôn trầm thụy miên, Tứ thay thế cho Nghi, Hỷ thay thế
cho Sân, Lạc thay thế cho Trạo hối, và Nhất tâm thay thế
cho Dục tham.
Tầm nghĩa là
hướng tâm đến đối tượng. Tứ là gắn tâm trên đối
tượng. Tâm không còn chạy theo đối tượng khác, nhờ vậy
đối trị được hôn trầm thụy miên và nhờ tâm được
gắn chặt trên đối tượng, nên nghi ngờ phân vân không còn
nữa. Tiếp đến là hai Thiền chi Hỷ và Lạc, Hỷ là tâm
thoải mái, và Lạc là thân thoải mái. Như vậy tu Thiền đem
lại tâm thoải mái, thân thoải mái cho hành giả. Hỷ lạc
này do ly dục sanh thấm nhuần cùng khắp thân của hành giả,
không một chỗ nào không được thầm nhuần. Như bọt tắm
được nhồi với nước thấm nhuần nước ướt. Như suối
nước mát thấm nhuần tẩm ướt làm cho sung mãn tràn đầy
hồ nước. Như các loại bông sen sanh ra trong nước, lớn lên
trong nước, không vượt khỏi nước, từ r đến ngọn đều
thầm nhuần nước ướt. Như một người ngồi dùng tấm vải
trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không
được vải trắng ấy che thấu. Như vậy người hành Thiền
được cảm giác hỷ lạc thấm nhuần toàn thân, và lý do
này, Thiền được gọi là hiện tại lạc trú (Ditthadhammasukhavihàri).
Ðiều có thể làm cho mọi người bất ngờ là Thiền đưa
đến tâm thoải mái, khác với quan niệm của người đời
xem Thiền là cái gì khắc khổ, dị thường, bí mật và trốn
đời. Như vậy hai Thiền chi Hỷ Lạc sẽ thấm nhuần người
hành Thiền như là trợ duyên tốt đẹp cho hành Thiền, và
chính Hỷ và Lạc giúp đưa đến Thiền định như chúng ta
sẽ thấy theo tiến trình sau đây:
"Do hân hoan nên
hỷ sanh. Do hỷ sanh nên thân được khinh an. Do thân khinh an
nên lạc thọ sanh. Do lạc thọ nên định sanh" (Kinh Trường
Bộ). Như vậy định sanh nhờ lạc thọ. Lạc thọ sanh
nhờ thân khinh an, thân khinh an là nhờ tâm hoan hỷ, và tâm
hoan hỷ là nhờ tâm hân hoan. Hân hoan, hỷ thọ, lạc thọ
đóng một vai trò quan trọng phát khởi Thiền định, nói một
cách khác, trạng thái hỷ lạc là một trạng thái hỷ lạc
ấy đưa đến Thiền định. Do vậy, thật là kỳ lạ khi nghe
nói đến trường hợp tu Thiền bị điên loạn, bị bại chân
bại tay, bị nổ con mắt, v.v.... Vì làm sao mà trạng thái
hỷ lạc lại đưa đến những kết quả tai hại như vậy?
Ðây là điều không thể có!
Một nhận xét
nữa của chúng tôi là ở Sơ Thiền, năm Thiền chi - tầm,
tứ, hỷ, lạc và nhất tâm - được đầy đủ. Lên Thiền
thứ hai, tầm tứ được bỏ rơi. Lên Thiền thứ ba, hỷ được
bỏ rơi. Lên Thiền thứ tư, lạc được xả thay thế và như
vậy Thiền thứ tư chỉ còn xả và nhất tâm. Sự kiện này
nói lên trạng thái thanh lọc dần dần các Thiền chi có khả
năng làm cho tâm tư giao động. Ở Sơ Thiền, phải dùng tầm
để hướng tâm đến đối tượng, phải dùng tứ để dán
chặt vào đối tượng, do vậy tâm phải sinh hoạt mạnh mẽ
mới khỏi rơi vào hai triền cái hôn trầm thụy miên và nghi.
Vì phải hoạt động mạnh mẽ, nên tự nhiên có giao động.
Vì vậy lên Thiền thứ hai. Tầm tứ bị bỏ rơi và chỉ còn
hỷ lạc và nhất tâm. Nhưng hỷ của Thiền thứ hai cũng làm
chi Thiền thứ hai giao động, cho nên lên đến Thiền thứ
ba, thời hỷ bị bỏ rơi, và chỉ còn lại xả niệm lạc
trú. Rồi lên đến Thiền thứ tư, lạc cũng là một yếu
tố làm Thiền thứ tư giao động, do vậy lạc được xả
thay thế, còn xả và nhất tâm, và Thiền thứ tư được gọi
là xả niệm thanh tịnh.
Ðoạn kinh sau
đây (Trung Bộ Kinh) nói lên rõ ràng ba Thiền đầu còn
giao động, chỉ có Thiền thứ tư mới được gọi là bất
động:
"Ở đây này Udàyi,
Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có
tứ. Thiền này, này Udàyi, Ta nói rằng ở trong tình trạng
giao động. Ở đây chính tầm tứ chưa đoạn diệt, chính
tầm tứ này ở trong tình trạng giao động. Ở đây này Udàyi,
Tỷ kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh không tầm không tứ, nội
tĩnh nhất tâm. Thiền này, này Udàyi, Ta nói rằng ở trong
tình trạng giao động. Và ở đây cái gì giao động? Ở đây
chính là hỷ lạc chưa được đoạn diệt, chính hỷ lạc
này ở trong tình trạng giao động. Ở đây này Udàyi, Tỷ
kheo ly hỷ xả trú, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và
trú Thiền thứ ba. Thiền này, này Udàyi, Ta nói ở trong tình
trạng giao động. Và ở đây, cái gì giao động? Ở đây chính
là xả lạc chưa được đoạn diệt. Chính xả lạc này ở
trong tình trạng giao động. Ở đây này Udàyi, Tỷ kheo xả
lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh.
Thiền, này Udàyi, Ta nói là không ở trong tình trạng giao động".
Ðoạn kinh trên
nói lên sự thanh lọc các Thiền chi, từ Thiền thứ nhất
đết Thiền thứ tư.
Một hình ảnh
mới được Ðức Phật dùng đến là cây gai, và ở trong Thiền,
tiếng động được xem là cây gai cho Thiền, như đã được
din tả như sau (Tăng Chi Bộ Kinh):
"Với người chứng
Sơ Thiền, tiếng ồn là cây gai. Với người chứng Thiền
thứ hai, tầm tứ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ
ba, hỷ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ tư, hơi thở
vô hơi thở ra là cây gai. Sở dĩ gọi là cây gai, vì những
Thiền chi này làm trở ngại cho sự nhất tâm của người
hành Thiền và không đạt được Thiền chứng mong muốn".
Tóm lại, Thiền
là một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo
dục hướng thượng giúp đoạn trừ năm triền cái: dục tham,
sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối và nghi, thay thế bằng
năm Thiền chi tầm, tứ hỷ lạc và nhất tâm, những tâm tăng
thượng đem lại lạc trú và vì vậy bốn Thiền này cũng
được gọi là
Tăng thượng tâm hiện tại lạc trú.
Nay chúng ta bước
qua một vấn đề khác là hành Thiền đem lại những lợi
ích gì, hay nói một cách khác, Thiền định có những công
năng gì theo lời đức Phật dạy. Ở nơi đây, chúng tôi chỉ
đề cập đến bốn lợi ích hay bốn công năng của Thiền:
-- Một là Thiền
có khả năng đoạn trừ các dục, khiến cho ác ma không thấy
đường đi lối về.
-- Thứ hai là
Thiền có khả năng đối trị sợ hãi.
-- Thứ ba là Thiền
đem lại Thiền lạc cho người hành giả.
-- Và thứ tư
là Thiền đưa đến thành tựu trí tuệ, đưa đến giác ngộ
giải thoát, đưa đến Niết bàn.
Một công năng
của Thiền định là giúp thoát ly được sự chi phối của
năm dục trưởng dưỡng, nghĩa là nhờ Thiền định người
hành Thiền đoạn trừ được lòng dục một cách có hiệu
quả. Ðoạn kinh sau đây (Kinh Trung Bộ) nêu rõ công năng
đoạn dục của Thiền:
"Này các Tỷ-kheo,
những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm,
bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự
nguy hại của chúng, những vị ấy cần phải được hiểu
là: "Các người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa,
đã bị ác ma sử dụng theo nó muốn". Này các Tỷ-kheo, như
một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống, con nai
ấy cần phải được hiểu là: "Nó đã rơi vào bất hạnh,
đã rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như nó muốn,
khi người thợ săn đến, con nai không thể bỏ đi như nó
muốn". Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà- nào không bị
trói buộc, không bị tham đắm, không bị say mê bởi năm dục
trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ
sự xuất ly khỏi chúng và thọ dụng chúng, những vị ấy
cần phải được hiểu là: "Các người không rơi vào bất
hạnh, không rơi vào tai họa, không bị ác ma sử dụng như
nó muốn".
"Này các Tỷ-kheo,
như một con nai sống trong rừng, không bị sập bẫy phải
nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó không
rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó không bị
người thợ săn sử dụng như nó muốn, khi người thợ săn
đến, con nai có thể bỏ đi như nó muốn".
"Chư Tỷ-kheo,
vì như con nai sống trong rừng đi qua đi lại trong rừng, an
tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm nó ngồi, an tâm nó nằm.
Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi tầm tay
của người thợ săn.
"Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo ấy được gọi
là: "Một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết
tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma". Này các Tỷ-kheo, lại
nữa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không
tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được
gọi là.... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo,
lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả chánh niệm tĩnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo xả khổ, xả lạc, diệt
hỷ hưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ ba,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt,
đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác
ma".
Trong kinh Tiểu
Khổ Uẩn, Ðức Phật nói lên kinh nghiệm của mình khi chưa
thành Phật, đối với năm dục trưởng dưỡng, nếu không
có Thiền định thời không thể đoạn trừ chúng. Ðoạn kinh
viết như sau:
"Này Mahànàma,
thuở xưa khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề,
chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, ta khéo thấy với như thật
chánh kiến: "Các dục vị ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự
nguy hại ở đây lại nhiều hơn". Dầu ta khéo thấy với như
thật chánh kiến như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ
lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác
cao thượng hơn. Và như vậy, Ta biết rằng Ta chưa khỏi bị
các dục chi phối. Và này, Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với
như thật chánh kiến, các dục vui ít khổ nhiều, não nhiều.
Sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn và Ta chứng được hỷ
lạc do ly dục ly bất thiện pháp sanh hay một pháp nào cao
thượng hơn, như vậy ta khỏi bị các dục chi phối".
Trong Kinh Bẫy
Mồi (Kinh Trung Bộ), đức Phật dùng ví dụ bốn đàn
nai để nói lên công dụng của Thiền đối trị được các
dục trưởng dưỡng, làm cho Ác ma mù mắt không biết đường
đi lối về. Ðoàn nai đầu, thấy các bẫy mồi do các thợ
săn gieo và đặt liền xâm nhập, ăn các bẫy mồi ấy, trở
thành tham đắm và rơi vào trong tay các người thợ săn. Ðoàn
nai thứ hai, thấy kinh nghiệm của đoàn nai đầu, liền sợ
hãi bỏ chạy vào rừng, không dám đến gần các bẫy mồi.
Nhưng mùa hạ đến thiếu nước, thiếu đồ ăn, đoàn nai
thứ hai phải trở ra, xâm nhập và ăn các đồ bẫy mồi của
thợ săn và cuối cùng bị lâm nạn như đoàn nai đầu. Ðoàn
nai thứ ba tinh khôn hơn, thấy hai đoàn nai đầu bị nạn,
liền tìm một chỗ ẩn núp gần các bẫy mồi của các người
thợ săn, ăn các bẫy mồi nhưng không xâm nhập, không tham
đắm nên không rơi vào tay của các người thợ săn. Nhưng
các thợ săn lại tinh khôn hơn. Chúng dò la tông tích của
đoàn nai ấy, và tìm được chỗ ẩn nấp của đoàn nai thứ
ba, và đoàn nai này cuối cùng cũng rơi vào trong tay của các
người thợ săn. Ðoàn nai thứ tư rất tinh khôn, rút được
kinh nghiệm của ba đoàn nai trước tìm một chỗ ẩn nấp
không để lại một dấu vết gì khiến các ngưôụi thợ
săn có thể biết chỗ ẩn nấp của mình, và từ nơi chỗ
ấy đi đến các bẫy mồi nhưng không xâm nhập, không có
say đắm, nên cuối cùng thoát được cạm bẫy của người
thợ săn.
Các người thợ
săn tượng trưng cho Ác ma. Các bẫy mồi chỉ cho năm dục
trưởng dưỡng. Các đoàn nai chỉ cho các Sa-môn, Bà-la-môn
tu hành. Ðoàn nai thứ nhất chỉ cho các Sa-môn, Bà-la-môn xâm
nhập, đắm say năm dục trưởng dưỡng nên trở thành nạn
nhân của Ác ma. Ðoàn nai thứ hai din tả những Sa-môn, Bà-la-môn
học được kinh nghiệm của đoàn nai thứ nhất, hoàn toàn
từ bỏ các đồ mồi và các vật dụng thế gian, sống kham
nhẫn trong rừng sâu. Nhưng đến mùa hạ, cỏ nước kham hiếm,
thân hình các Sa-môn, Bà-la-môn trở thành gầy yếu, sức lực
kiệt quệ. Do vậy chúng trở lui lại các đồ mồi do Ác ma
gieo ra và các vật dụng thế gian. Chúng xâm nhập, tham đắm
các món ăn. Cho nên chúng trở thành nạn nhân của Ác ma như
đoàn nai thứ nhất. Ðoàn nai thứ ba học được kinh nghiệm
của hai đoàn nai đầu, không xâm nhập, không tham đắm, không
có chạy trốn vào rừng. Trái lại chúng làm một chỗ ẩn
nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế
gian, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ ăn
do Ác ma gieo ra và các vận dụng thế gian. Nhờ vậy chúng
không trở thành nạn nhân của Ác ma. Nhưng rồi chúng khởi
lên các tà kiến: "Thế giới là thường còn hay không thường
còn, thế giới là hữu biên hay vô biên" v.v... Do vậy, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn này không thoát khỏi như ý lực của Ác
ma. Ðoàn nai thứ tư tượng trưng cho hạng Sa-môn, Bà-la-môn
rút được kinh nghiệm của ba hạng Sa môn trước, không xâm
nhập, không tham đắm thọ dụng năm dục trưởng dưỡng,
cho nên Ác ma không thể tìm được dấu vết.... Chúng làm
một chỗ ẩn nấp khiến cho Ác ma và Ác ma quyến thuộc không
thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp xong, chúng không thể
xâm nhập không tham đắm ăn các đồ ăn do Ác ma gieo ra và
các vật dụng thế gian. Nhờ vậy chúng không trở thành mê
loạn và cuối cùng chúng không trở thành những vật bị làm
theo ý Ác ma muốn.
Và đức Phật
dạy: "Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác ma và Ác ma quyến thuộc
không thể đến được? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất....
chứng và trú Thiền thứ hai.... chứng và trú Thiền thứ ba...
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm,
thanh tịnh. Như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn
tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích khiến Ác ma không
thấy đường đi lối về".
Một sức mạnh
của Thiền là đem lại sự không sự hãi cho người hành Thiền.
Trong kinh Chư Thiên (Tăng Chi Bộ), có đề cập đến
chư Thiên đánh nhau với A-tu-la. Trong trận chiến này chư Thiên
bại trận và bỏ chạy, các A-tu-la đuổi theo. Chư Thiên dừng
lại đánh trận thứ hai, cũng bại trận và chạy dài, và
các A-tu-la đuổi theo. Chư Thiên dừng lại đánh trận thứ
ba, cũng bị bại trận và cũng chạy dài. Lần này chư Thiên
lại vào ẩn náu trong thành phố chư Thiên, và chư Thiên biết
rằng vào núp trong thành này, các A-tu-la không có thể đến
đánh. "Chư thiên suy nghĩ như sau: "Nay chúng ta đã đi đến
chỗ ẩn náu của những người sợ hãi. Hiện nay, chúng ta
sống với chúng ta, không có gì phải làm với các A-tu-la".
Này các Tỷ-kheo, các A-tu-la cũng suy nghĩ như sau: "Nay chư Thiên
đã đi đến chỗ ẩn náu của những người sợ hãi. Hiện
nay chúng sống với chúng nó, không có gì phải làm với chúng
ta".
"Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng
đạt và an trú Sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm, có tứ.... chứng đạt và an trú Thiền thứ
hai.... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.... chứng đạt
và an trú Thiền thứ tư... trong khi ấy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy suy nghĩ như sau: "Với sự đi đến chỗ ẩn náu của sợ
hãi, ta sống với tự ngã, không có việc gì phải làm với
Ác ma". Này các Tỷ-kheo chính Ác ma cũng suy nghĩ như sau: "Với
sự đi đến chỗ ẩn náu của sợ hãi, Tỷ-kheo sống với
tự ngã, không có việc gì phải làm với ta..." Này các Tỷ-kheo
như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt
của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường
đi lối về".
Trong kinh Upàli
(Tăng Chi Bộ), đức Phật nói đến sức mạnh của hành
Thiền, và khuyên chỉ có những Tỷ-kheo hành Thiền mới nên
ở tại các rừng núi xa vắng. Tôn giả Upàli, muốn tu hành
tại các trú xứ xa vắng, đức Phật dạy: "Thật không d dàng
sống tại các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Khó
khăn là đời sống vin ly, khó ưa thích là đời sống độc
cư. Ta nghĩ rằng các ngôi rừng làm loạn ý Tỷ kheo chưa được
Thiền định. Này Upàli, ai nói như sau: "Dầu tôi chưa được
Thiền định, tôi sẽ sống tại các rừng núi cao nguyên, tại
các trú xứ xa vắng, thời người ấy được chờ đợi như
sau: "Vị ấy sẽ chìm vắng, thời người ấy được chờ
đợi như sau: "Vị ấy sẽ chìm xuống đáy hay nổi lên trên
mặt nước".
Rồi đức Phật
dùng ví dụ một con voi lớn có thể lặn xuống hồ nước
lớn, tắm rửa và chơi các trò chơi của con voi, xong rồi
leo lên bờ một cách an toàn. Vì tự ngã to lớn của con voi,
tìm được chân đứng trong hồ nước. Trái lại một con mèo
hay một con thỏ, thấy con voi làm vậy cũng bắt chước làm
theo, nghĩ rằng con voi làm được thời mình cũng làm được.
Không suy nghĩ tính toán, nó nhảy xuống hồ nước. Với con
mèo hay con thỏ ấy, được chờ đợi là nó chìm xuống đáy
nước hay nổi lên trên mặt nước, vì tự ngã nhỏ bé của
nó không tìm được chân đứng trong hồ nước.
Cũng vậy này
Upàli, ai nói rằng: "Dầu tôi không được Ðịnh, tôi sẽ
sống trong các rừng núi cao nguyên tại các trú xứ xa vắng".
Với vị ấy, được chờ đợi rằng "Nó sẽ chìm xuống hay
nổi trên mặt nước". Như vậy Thiền đem lại cho chúng ta
một sự không sợ hãi, làm lắng dịu mọi hoảng hốt run
sợ, khiến người hành Thiền có thể sống trong rừng sâu
hoang vắng, không chút sợ hãi.
Ở đây, chúng
ta nhờ gương sáng của mười Tỷ-kheo-ni trong Tương Ưng Bộ
Kinh, từ Tỷ-kheo-ni Alavikà đến Tỷ-kheo-ni Vajirà, cả mười
Tỷ-kheo-ni này đối diện với Ác ma mà không một Tỷ-kheo-ni
nào hoảng hốt bỏ chạy, vì tất cả mười vị Tỷ-kheo-ni
này đều tu Thiền định.
Một khả năng
nữa của Thiền là đem lại sự hỷ lạc cho người hành Thiền,
từ Sơ Thiền với các hỷ lạc do ly dục sanh, đến nhị Thiền
do định sanh, đến Thiền thứ ba không có hỷ chỉ có xả
niệm lạc trú, đến Thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh,
mỗi hỷ lạc tuần tự vi diệu hơn hỷ lạc trước, và các
hỷ lạc này không chi phối tâm của người hành Thiền, trái
lại là cho người hành Thiền hiện tại lạc trú, đúng như
danh từ Ditthadhammasukhavihàri được định nghĩa cho Thiền.
Như vậy, Thiền còn đem lại hỷ lạc cho người hành Thiền,
và hỷ lạc có tác động như món ăn được gọi là xúc thực,
đem lại sự lạc quan, nỗ lực, tinh tấn, phấn chấn, nghị
lực cho người hành Thiền, chứ không phải đem lại bệnh
hoạn, điên cuồng, loạn tâm, chán đời, tiêu cực như người
ta đã gán một cách sai lạc cho hành Thiền.
Một trong những
công năng tuyệt diệu của Thiền là đưa đến trí tuệ, từ
trí tuệ đưa đến giải thoát, giải thoát tri kiến theo đúng
quá trình Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến.
Quá trình thứ
nhất là từ Thiền thứ tư, với tâm định tĩnh, thuần tịnh
trong sáng, không cấu nhim, không phiền não, nhu nhuyn, d sử
dụng, vững chắc bình tĩnh như vậy, hành giả hướng tâm
đến Túc mạng minh, đến Thiên nhãn minh, đến Lậu tận minh.
"Vị ấy biết như thật "Ðây là khổ", biết như thật "Ðây
là khổ tập", biết như thật "Ðây là khổ diệt", biết như
thật "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như
thật "Ðây là các lậu hoặc", biết như thật "Ðây là nguyên
nhân các lậu hoặc", biết như thật "Ðây là lậu hoặc diệt",
biết như thật "Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt".
Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị
ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi
vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy,
khởi lên sự hiểu biết "Ta đã giải thoát" vị ấy biết
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc cần làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". (Kinh Trung
Bộ).
Một quá trình
giải thoát được đề cập đến trong Bát thành Kinh (Kinh
Trung Bộ), trong quá trình này Ðịnh và Tuệ, Chỉ và Quán
đồng tu với nhau, từ Thiền thứ nhất hướng đến quán,
từ Thiền thứ hai hướng đến quán, từ Thiền thứ ba hướng
đến quán, từ Thiền thứ tư hướng đến quán... đưa đến
đoạn trừ các lậu hoặc:
"Ở đây này gia
chủ, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: "Sơ Thiền
này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy
là vô thường, chịu sự đoạn diệt. Vị ấy vững trú ở
đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ
pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi
phải trở lui đời này. Như vậy, này gia chủ, là pháp độc
nhất do Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo không phóng dật,
nhiệt tâm tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thì tâm vị ấy
chưa giải thoát được giải thoát và các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng
an tổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng
đạt". Cũng như vậy, đối với Thiền thứ hai, đối với
Thiền thứ ba, đối với Thiền thứ tư".
Nhìn một cách
tổng quát về Thiền, chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng
của Thiền trong quá trình Giới, Ðịnh, Tuệ và như vậy giúp
chúng ta đoạn trừ các dục, khiến cho ác ma không thấy đường;
Thiền giúp chúng ta đoạn trừ các sợ hãi; Thiền đem đến
cho chúng ta hỷ và lạc, thoải mái về tâm, thoải mái về
thân, Thiền đem đến sức khoẻ cho thân và cho tâm, và cuối
cùng Thiền định đưa đến trí tuệ, tâm giải thoát và tuệ
giải thoát.
Qua những định
nghĩa trên, chúng ta thấy Thiền định là một pháp môn có
những định nghĩa, những hành tướng đặc biệt và đa dạng.
Trước hết, Thiền định là một sự hòa hợp giữa nhân
lực và sức mạnh thiên nhiên, một sự hòa hợp nhờ vị
trí ngồi Thiền, thời gian ngồi Thiền, khung cảnh ngồi Thiền.
Thiền định lại còn một khả năng quyết trạch về thiện,
hướng thiện, và cứu cánh là thiện. Hơn nữa Thiền có thể
được xem là một sự giáo dục về cảm thọ, nuôi dưỡng
các cảm thọ tốt đẹp như hỷ, lạc, xả và từ bỏ các
cảm thọ không tốt đẹp, như khổ, ưu. Thiền định là một
sự giáo dục tâm lý, đoạn tận các tâm lý không tốt đẹp
như năm triền cái, tham sân si, và thay thế bởi những tâm
lý tốt đẹp là năm Thiền chi là không tham, không sân, không
si. Nói tóm lại, Thiền định là một giai đoạn tiếp theo
giới và bước vào tuệ tức là Thiền quán.
Ở đây, chúng
tôi xin giới thiệu một pháp môn tu Thiền mà chúng tôi tìm
ra được trong khi chúng tôi dịch bộ Samyutta Nikaya (Kinh
Bộ Tương Ưng). Chúng tôi xin tóm tắt trình bày để giới
thiệu với quý vị, nhất là quý vị có thể áp dụng thực
hành, để có thể đánh giá đứng đắn Pháp môn này và hưởng
được những kết quả do Pháp môn này đưa đến. Ðó là
pháp môn Anàpànasati, dịch là niệm hơi thở vô hơi thở ra,
và được din tả như sau trong kinh "Một pháp" (Tương Ưng,
V):
"Có một pháp,
này các Tỷ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có
quả lớn, có lợi ích lớn. Thế nào là một pháp? Niệm hơi
thở vô, hơi thở ra. Và này các Tỷ kheo, niệm hơi thở vô
hơi thở ra, tu tập thế nào, làm cho sung mãn thế nào, có
quả lớn, có lợi ích lớn?".
|