|
c
HÀNH
THIỀN
Một
nếp sống lành mạnh trong sáng,
Một
phương pháp giáo dục hướng thượng
Hòa
thượng Thích Minh Châu
Tỉnh
hội Phật giáo Thừa Thiên, 1993
Phần
III. Lợi ích của hành Thiền và trích dẫn kinh điển
Thiền nguyên thủy
hay pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra đơn giản và thuần
nhất; không gây một tác hại gì cho thân tâm. Không sợ bị
điên loạn, nổ mắt, đau tâm thần. Trái lại là một phương
pháp hiền thiện, điều hòa thân, điều hòa hơi thở, điều
hòa tâm, giúp cho người hành Thiện được phấn khởi, có
sức khoẻ, nhờ nếp sống lành mạnh, nhờ tâm tư an lạc
nên ngủ ngon giấc, không có ác mộng, thân thể được khoẻ
mạnh, con mắt được sáng lên.
Nhờ tu tập về
niệm, trí nhớ được huấn luyện nên nhớ lâu, nhớ nhiều
rất lợi cho học viên học hành và có khả năng phát triển
trí tuệ rất lớn.
Nhờ tu tập về
Thiền, người hành Thiền được Thiền lạc, thân tam thường
được hoan hỷ, sảng khoái, phấn khởi, tác động tốt cho
sức khoẻ thân và tâm.
Nhờ tu thiền
người hành giả có được Thiền lực, dồi dào ý chí và
nghị lực, đối trị được sợ hãi và rụt rè, có sức
mạnh để vượt qua những khó khăn và đạt cho được lý
tưởng tối thượng.
Chúng tôi xin trích
một số Kinh đề cập đến Hành Thiền và kết quả của
hành Thiền trong Kinh tạng Pàli:
I. Niệm hơi
thở ra, hơi thở vô, có quả lớn (Tương Ưng, V)
1. "Tu tập như
vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi
thở vô hơi thở ra, có quả lớn, có lợi ích lớn.
2. "Tu tập như
vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi
thở vô hơi thở ra, được chờ đợi bảy quả, bảy lợi
ích. Thế nào là bảy quả lợi ích?".
"Ngay trong hiện
tại lập tức thành tựu chánh trí. Nếu ngay trong hiện tại,
không lập tức thành tựu chánh trí, thời khi mệnh chung thành
tựu chánh trí. Nếu khi mệnh chung không thành tựu chánh trí,
thời sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được trung
gian Niết Bàn, được tổn hại Bát Niết Bàn, được vô hành
Niết Bàn, được hữu hành Bát Niết Bàn, được thượng
lưu, đạt đến sắc cứu cánh thiên".
"Tu tập như vậy,
này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô
hơi thở ra, được chờ đợi bảy quả, bảy lợi ích này".
II. Kinh Kappina
(Tương Ưng, V)
1. "Tại Savathi...
nói như sau:"
2. "Lúc bấy giờ
tôn giả Mahà Kappina đang ngồi kiết già, không xa bao nhiêu,
thân thẳng, để tưởng niệm trước mặt".
3. "Thế Tôn thấy
tôn giả Mahà Kappina ngồi kiết già, không xa bao nhiêu, thân
thẳng để niệm trước mặt, thấy vậy liền gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ kheo, các người có thấy Tỷ-kheo ấy, thân có
rung động hay có giao động không?".
"Bạch Thế Tôn,
chúng con thấy vị tôn giả ấy ngồi giữa tăng chúng hay ngồi
một mình, độc cư, chúng con không thấy vị tôn giả ấy
thân bị rung động hay giao động".
4. "Ðối với
một vị có thiền định như vậy, này các Tỷ kheo, nhờ tu
tập, nhờ làm cho sung mãn, nên thân vị ấy không rung động
hay giao động, nên tâm vị ấy không rung động hay không giao
động. Ðối với Tỷ kheo ấy, được định như vậy, không
có khó khăn, không có gian nan, không có mệt nhọc".
5. "... Này các
Tỷ kheo, do vị ấy tu tập, làm cho sung mãn định niệm hơi
thở vô, hơi thở ra nên thân không rung động hay không giao
động hoặc tâm không rung động hay không giao động.
III. Kinh Ngọn
đèn (Tương Ưng, V)
1. "Này các Tỷ-kheo,
Ta trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh đẳng giác khi còn
là Bồ-tát. Ta trú nhiều với trú nà. Này các Tỷ kheo, do
Ta trú nhiều với trú này, thân Ta và con mắt không có mệt
nhọc, và tâm Ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không
có chấp thủ".
2. "Do vậy, này
các Tỷ kheo, nếu Tỷ kheo ước muốn rằng: "Mong rằng: Thân
và mắt khỏi bị mệt mỏi, và mong rằng tâm tôi được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ", thời định
niệm hơi thở vô hơi thở ra này cần phải khéo tác ý".
3. "Do vậy, này
các Tỷ kheo, nếu Tỷ kheo ước muốn rằng: "Mong rằng: các
niệm các tư duy của Ta được đoạn tận", thời định niệm
hơi thở vô hơi thở ra này phải được khéo tác ý".
4. "Do vậy, này
các Tỷ-kheo, nêú vị Tỷ-kheo ước muốn: "Mong rằng: Ly dục,
ly pháp bất thiện, tôi sẽ chứng đạt và an trú sơ thiền,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ",
thời định niệm hơi thở vô hơi thở ra này phải được
khéo tác ý".
5. "Do vậy, này
các Tỷ kheo, nếu Tỷ kheo ước muốn: "Mong rằng: Làm cho tịnh
chỉ tầm và tứ, tôi sẽ chứng đạt và an trú thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không
tứ, nội tỉnh, nhất tâm", thời định niệm hơi thở vô
hơi thở ra này phải được khéo tác ý".
6. "Do vậy, này
các Tỷ kheo, nếu Tỷ kheo ước muốn: "Mong rằng: Ly hỷ trú
xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, tôi sẽ chứng đạt
và an trù thiền thứ ba", thời định niệm hơi thở vô hơi
thở ra này phải được khéo tác ý".
7. "Do vậy, này
các Tỷ kheo, nếu Tỷ kheo ước muốn: "Mong rằng: xả lạc,
xả khổ, chấm dứt hỷ ưu, đã cảm thọ trước, tôi chứng
đạt và an trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh", thời định niệm hơi thở vô hơi thở ra
này phải được khéo tác ý".
8. "Trong khi tu
tập định niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, này các
Tỷ-kheo, trong khi làm cho sung mãn như vậy, vị ấy cảm giác
lạc thọ. Vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là vô thường". Vị
ấy rõ biết.: "Không có chấp trước thọ ấy". Vị ấy rõ
biết: "Không có hoan hỷ thọ ấy". Nếu vị ấy cảm giác
khổ thọ, vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là vô thường". Vị
ấy rõ biết: "Không có chấp trước thọ ấy". Vị ấy rõ
biết: "Không có hoan hỉ thọ ấy". Nếu vị ấy cảm giác
không khổ không lạc thọ, vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là
vô thường". Vị ấy rõ biết: "Không có chấp trước thọ
ấy". Vị ấy rõ biết: "Không có hoan hỉ thọ ấy".
9. "Nếu vị ấy
cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm thọ, không bị trói
buộc. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được cảm
thọ, không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm giác không khổ,
không lạc thọ, thọ ấy được cảm thọ, không bị trói
buộc. Khi vị ấy đang cảm giác một cảm thọ tận cùng của
thân, vị ấy rõ biết: "Tôi cảm giác một cảm thọ tận
cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng
của sinh mạng, vị ấy rõ biết: "Tôi cảm giác một cảm
thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ
tận cùng của sinh mạng, vị ấy rõ biết. "Tôi cảm giác
một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng".
Khi thân hoại mạng chung, vị ấy rõ biết: "Ở đây tất cả
mọi cảm thọ đều trở thành thanh lương".
10. "Ví như, này
các Tỷ kheo, do duyền dầu, duyên tim, một cây đèn dầu được
cháy sáng. Nếu dầu và tim của ngọn đèn ấy đi đến tiêu
diệt, nhiên liệu không được mang đến, thời ngọn đèn
sẽ tắt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo cảm giác
một cảm thọ tận cùng của thân". Khi Tỷ-kpheo cảm giác
một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của
sinh mạng". Khi thân hoại mạng chung, vị ấy rõ biết: "Ở
đây tất cả những gì cảm thọ đều trở thành thanh lương".
IV. Kinh Vesali
(Tương Ưng, V)
1. "Rồi Thế Tôn
đi đến giảng đường, sau khi đến ngồi xuống trên ghế
đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Thế Tôn bảo các Tỷ kheo:
2. "Này các Tỷ-kheo,
định niệm hơi thở vô hơi thở ra này, được tu tập, được
làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất (asecanako)
lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh hay chưa
sanh, làm chúng biến mất, tịnh chỉ lập tức (thànaso)".
3. "Ví như, các
Tỳ-kheo, trong tháng cuối mùa hạ, bụi và nhớp bay lên, và
một đám mưa lớn trái mùa lập tức làm chúng biến mất,
chỉ tịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, định niệm hơi thở
vô hơi thở ra, được tu tập, được làm cho sung mãn, là
tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác,
bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức".
V. Kinh Kimbila
(Tương Ưng, V)
1. Lúc nào, này
Ananda, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô
dài". Hay khi Tỷ kheo thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở
ra dài". Hay khi Tỷ-kheo thở vô ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi
thở vô ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay khi
Tỷ-kheo thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn".
"Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. Này Ananda sống "Quán thân trên
thân", Tỷ-kheo trú trong khi ấy, nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì cớ sao?.
2. "Này Ananda,
Ta tuyên bố rằng tùy thuộc về thân, tức là hơi thở vô
hơi thở ra. Do vậy, này Ananda, "Quán thân trên thân", Tỷ kheo
trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời".
3. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo: "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. Trong khi ấy: "Quán thọ trên các cảm
thọ". Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì cớ sao?.
4. "Này Ananda.
Ta tuyên bố rằng: Tùy thuộc về thọ, tức là hơi thở vô
hơi thở ra được khéo tác ý. Do vậy, này Ananda, "Quán thọ
trên các cảm thọ", Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời".
5. Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo: "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Với
tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân
hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tính, tôi
sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tính, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Quán tâm trên tâm, tỷ kheo, trong khi ấy trú
nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Vì cớ sao?
6. "Này Ananda,
ta tuyên bố rằng sự tu tập định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra, không phải cho người thất niệm và không tĩnh giác.
Do vậy, này Ananda, "Quán tâm trên tâm", Tỷ-kheo trong khi ấy
trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời".
7. "Trong khi Tỷ-kheo,
này Anada "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly ly
tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán pháp trên các pháp", này Ananda. Tỷ kheo trong khi ấy trú
nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Ðoạn tận các tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, vị ấy
khéo trú xả. Do vậy, này Ananda, "Quán pháp trên các pháp",
vị Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời".
8. "Ví như, này
Ananda, một đống rác bụi lớn ở ngã tư đường, nếu từ
phương Ðông một cái xe đi đến, và làm cho đống rác bụi
ấy giảm bớt đi, nếu từ phương Tây..., nếu từ phương
Bắc..., nếu từ phương Nam, một cái xe đi đến và làm cho
đống rác bụi ấy giảm bớt đi, cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo
trong khi trú "Quán thân trên thân", làm cho giảm bớt đi các
ác bất thiện pháp, khi trú "Quán thọ trên các cảm thọ",
... khi trú "Quán tâm trên tâm"... khi trú "Quán pháp trên các
pháp"... làm cho giảm bớt đi các ác bất thiện pháp.
VI. Kinh Ananda
(Tương Ưng, V)
(I)
1. Ðịnh niệm
hơi thở vô, hơi thở ra tu tập như thế nào, làm cho sung mãn
như thế nào, làm cho viên mãn bốn niệm xứ?
2. Ở đây, này
Ananda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay
đi đến căn nhà trống... "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập.
3. Lúc nào, này
Ananda, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô
dài". Hay khi Tỷ-kheo thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở
ra dài". Hay khi Tỷ-kheo thở vô ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi
thở vô ngắn". Hay khi Tỷ-kheo thở ra ngắn, vị ấy rõ biết:
"Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này Ananda,
sống quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
4. Này Ananda, Ta
tuyên bố rằng, tùy thuộc về thân, tức là hơi thở vô,
hơi thở ra. Do vậy, này Ananda, quán thân trên thân, Tỷ-kheo
trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời.
5. Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo: "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. Trong khi quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo
trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Vì sao?
6. Này Ananda, Ta
tuyên bố rằng, tùy thuộc về thọ, tức là hơi thở vô,
hơi thở ra, được khéo tác ý. Do vậy, này Ananda, quán thọ
trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
7. Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo: "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với
tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân
hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. Trong khi quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú như vậy,
nhiệt tâm, tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
8. Này Ananda, Ta
tuyên bố rằng sự tu tập chánh niệm hơi thở vô, hơi thở
ra không phải cho người thất niệm và không tỉnh giác. Do
vậy, này Ananda, quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trong khi ấy, trú
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở
đời.
9. Trong khi Tỷ-kheo,
này Ananda, "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi quán pháp trên các
pháp, này Ananda, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, đoạn tận các tham
ưu; sau khi thấy với trí tuệ, vị ấy khéo trú xả. Do vậy,
này Ananda, quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
10. Ðịnh niệm
hơi thở vô, hơi thở ra, này Ananda, được tu tập như vậy,
được làm cho sung mãn như vậy, làm viên mãn bốn niệm xứ.
(II)
1. "Tu tập như
thế nào, này Ananda, làm cho sung mãn như thế nào, bốn niệm
xứ làm cho viên mãn bảy giác chi?".
2. "Trong khi, này
Anada, Tỷ-kheo trú quán thân trên thân, niệm được an trú,
trong khi ấy, này Ananda, Tỷ-kheo có niệm không phải thất
niệm. Trong khi này Andanda, Tỷ-kheo an trú niệm không phải
thất niệm, thời niệm giác chí trong khi ấy, đối với Tỷ-kheo,
được thành tựu. Trong khi này, này Ananda, Tỷ kheo tu tập
niệm giác chi, niệm giác chi trong khi ấy, được Tỷ kheoo
tu tập đi đến viên mãn. Vị ấy trú chánh niệm như vậy
với trí tuệ quyết trạch, tư sát, thành tựu quán pháp ấy".
3. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo sống chánh niệm như vậy, với trí tuệ quyết
trạch, tư sát và đi đến quán sát pháp ấy, trong khi ấy,
này Ananda, trạch pháp giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ
kheoo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi, trong
khi ấy, nhờ tu tập, trạch pháp giác chi đi đến viên mãn.
Trong khi vị ấy với trí tuệ, quyết trạch, tư sát và thành
tựu quán sát pháp ấy, thời tinh tấn không thụ động bắt
đầu phát khởi nơi vị ấy".
4. Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo với trí tuệ quyết trạch, tư sát và thành
tựu quán sát pháp ấy, thời tinh tấn không thụ động phát
khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tụ tập tinh tấn
giác chi, trong khi ấy nhờ tu tập, tinh tấn gaíc chi đi đến
viên mãn, với vị tinh cần tinh tấn, hỷ không liên hệ đến
vật chất khởi lên.
5. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo tinh cần, tinh tấn, hỷ không liên hệ đến
vật chất khởi lên, trong khi ấy, hỷ giác chi bắt đầu phát
khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tập hỷ giác chi,
trong khi ấy nhờ tu tập, hỷ giác chi đi đến viên mãn, với
vị có ý hoan hỷ, thân được khinh an, tâm được khinh an".
6. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo với ý hoan hỷ, thân được khinh an, trong khi
ấy khinh an giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy.
Trong khi Tỷ-kheo tu tập khinh an giác chi, trong khi ấy nhờ tu
tập, khinh an giác chi đi đến viên mãn, với vị có thân khinh
an, lạc hiện hữu, với vị có lạc, tâm được định tính".
7. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo có tâm khinh an, được an lạc, tâm được định
tính, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, định giác chi bắt đầu
phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập đi đến
viên mãn, vị ấy với tâm định tĩnh như vậy, khéo trú xả,
nhìn sự vật".
8. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo với tâm định tĩnh, khéo trú xả, nhìn (sự
vật) như vậy, trong khi ấy, này Ananda, xả giác chi bắt đầu
phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập xã giác
chi, trong khi ấy xả giác chi nhờ tu tập đi đến viên mãn".
9. "Trong khi, này
Ananda, Tỷ-kheo trú quán trọ trên các cảm thọ... quán tâm
trên tâm... quán pháp trên các pháp...
10. Tu tập như
vậy, này Ananda, làm cho sung mãn như vậy, bốn niệm xứ làm
viên mãn bảy giác chi.
(III)
1. "Tu tập như
thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, bảy giác chi làm viên
mãn minh và giải thoát?".
2. "Ở đây, này
Ananda, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến vin ly, liên
hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến
từ bỏ... tu tập xả giác chi, liên hệ đến vin ly, liên hệ
đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ
bỏ".
"Tu tập như vậy,
làm cho sung mãn như vậy, bảy giác chi làm viên mãn minh và
giải thoát".
VII. Kinh Nhập
tức Xuất tức Niệm (Anapanasati sutta, Trung Bộ Kinh)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tế
Tôn ở Savatthi, tại Ðông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc
Mẫu (Migaramatupasade), cùng với rất nhiều Thượng tọa có
thời danh, có danh xưng... như Tôn giả Sariputta (Xá lợi Phất),
Tôn giả Mahamoggallana (Ðại Mục Kiền Liên), Tôn giả Mahakaccayana
(Ðại Ca-chiên-diên), Tôn giả Mahakotthita (Ðại Câu-hy-la),
Tôn giả Mahakappina (Ðại Kiếp-Tân-na), Tôn giả Mahacunda (Ðại
Thuần-đà), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật0, Tôn giả Revata (Ly-bà-đa),
Tôn giả Anuruddha (A-na-luật), Tôn giả Revata (Ly-bà-đà) và
Tôn giả Anuruddha (A-na-luật0, Tôn giả Mahakappina (Ðại Kiếp-tân-na),
Tôn giả Mahacunda (Ðại Thuần-đà), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật),
Tôn giả Revata (Ly-bà-đa) và Tôn giả Ananda (A-nan), cùng với
nhiều bậc Thượng tọa đệ tử khác có thời danh, có danh
xưng. Lúc bấy giờ, các Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo,
giảng dạy các tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo
khuyến giáo, giảng dạy mười tân Tỷ-kheo. Một số Thượng
tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy hai mươi tân Tỷ-kheo.
Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ba mươi
tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng
dạy bốn mươi tân Tỷ-kheo. Và các tân Tỷ-kheo được các
Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ý thức rõ ràng
những quả vị cao diệu, tiệm thứ, thù thắng đã chứng
đạt. Lúc bấy giờ Thế Tôn, vào ngày Bồ Tát, ngày rằm,
vào đêm trăng tròn sau ngày Tự tứ, đang ngồi giữa trời
với chúng Tỷ-kheo đoanh vậy.
Thế Tôn nhìn
quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng, rồi
bảo các Tỷ-kheo:
-- Ta được thỏa
mãn, này các Tỷ kheo, với đạo lộ này. Tâm ta được thỏa
mãn, này các Tỷ kheo, với đạo lộ này. Do vậy, này các
Tỷ kheo, hãy tinh tấn hơn nữa, để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc,
để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Ta sẽ ở đây;
tại Savatthi cho đến tháng tư, lÍ Komudi.
Những Tỷ-kheo
địa phương được nghe: "Thế Tôn sẽ ở đây, tại Savatthi,
cho đến tháng tư, l Komudi". Các Tỷ-kheo địa phương tụ họp
tại Savatthi để yết kiến Thế Tôn. Và các Thượng Tọa
Tỷ-kheo lại càng khuyến giáo, giảng dạy các tân Tỷ-kheo
nhiều hơn nữa. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo
dạy mười tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa khuyến giáo
dạy mười tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến
giáo, giảng dạy hai mươi tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa
Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ba mươi tân Tỷ-kheo. Một
số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy bốn mươi
tân Tỷ-kheo. Và những tân Tỷ kheo được các Thượng tọa
Tỷ-kheo khuyến giáo giảng dạy ý thức rõ ràng những quả
vị cao diệu, tiệm thứ, thù thắng đã chứng đạt. Lúc bấy
giờ Thế Tôn vào ngày Bồ Tát, ngày rằm, vào đêm trăng tròn,
ngày l Komudi vào tháng tư, Thế Tôn đang ngồi ngoài trời,
chung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vậy.
Rồi Thế Tôn
sau khi nhìn chung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức
yên lặng liền bảo các Tỷ kheo:
-- Hội chúng này,
này các Tỳ-kheo, không có lời thừa thãi. Hội chứng này,
này các Tỷ-kheo, không có lời dư thừa, đã được an trú
trong lõi cây thanh tịnh. Chúng Tỷ kheo như thế này, này các
Tỷ-kheo, hội chứng như thế này, này các Tỷ-kheo là một
hội chứng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng,
đáng được cúng dường, đáng được chấp tay, là phước
điền vô thượng ở đời. Chúng Tỷ kheo như thế này, này
các Tỷ-kheo, hội chứng như thế này, này các Tỷ-kheo, là
một hội chúng bố thí ít, được (phước báo) nhiều, bố
thí nhiều, càng được (phước báo) nhiều hơn nữa. Chúng
Tỷ kheo như thế này, này các Tỷ kheo, hội chứng như thế
này, này các Tỷ kheo, là một hội chứng khó thấy ở đời.
Chúng Tỷ kheo như thế này, này các Tỷ kheo, là một hội
chứng xứng đáng đi nhiều do tuần (yojana) vớ một bao lương
thực trên vai để yết kiến. Chúng Tỷ-kheo này là như vậy,
này các Tỷ kheo; hội chứng này là như vậy, này các Tỷ
kheo.
Này các Tỷ kheo,
trong chúng Tỷ kheo này, có những Tỷ kheo là những A-la-hán,
các lậu hoặc đã đoạn trừ. Phạm hạnh đã thành, các việc
nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã
thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được
giải thoát nhờ chánh trí. Này các Tỷ-kheo, có những bậc
Tỷ-kheo như vậy trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm
hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ ở đấy được nhập
Niết Bàn, không còn phải trở lại đời này nữa. Các bậc
Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo
đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân,
si là bậc Nhất lai, sau khi sanh vào đời này một lần nữa,
sẽ đoạn tận khổ đau. Các bậc Tỷ kheo như vậy, này các
Tỷ kheo, trong chúng Tỷ-kheo này có những Tỷ-kheo đã đoạn
trừ ba kiết sử, là bậc Dự-lưu, không còn đọa vào ác
đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ.
Các bậc Tỷ kheo
như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này,
có những Tỷ-kheo là những vị sống chuyên tâm, chú tâm,
tu tập bốn niệm xứ. Các bậc Tỷ kheo như vậy, này các
Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo là những
vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập bốn chánh cần. Các
bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong hội
chứng này, có những Tỷ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập bốn như ý túc. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập năm căn. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo có
mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúg Tỷ-kheo
này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập năm
lực. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm,
chú tâm tu tập bảy giác chi. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này
các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỳ-kheo này. Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỳ-kheo này có những Tỳ-kheo sống chuyên tâm,
chú tâm, tu tập Thánh đạo tám ngành. Các bậc Tỷ-kheo như
vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúnng Tỷ-kheo này, có
những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập từ (tâm).
Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập bi (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập hỷ (tâm). Các bậc Tỷ kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này, Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập xả (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập bất tịnh. Các bậc Tỳ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này có những Tỷ-kheo sống chuyên tâm, chú tâm tu
tập vô thường tưởng. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các
Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo sống chuyên tâm,
chú tâm tu tập nhập tức xuất tức niệm. Nhập tức xuất
tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn, đưa đến quả lớn công đức lớn. Nhập tức xuất
tức niệm, được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho bốn
niệm xứ được viên mãn. Bốn niệm xứ được tu tập, làm
cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn, bảy giác
chi được tu tập, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
Bốn niệm xứ được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho bảy
giác chi được viên mãn, bảy giác chi được tu tập, làm
cho sung mãn, khiến cho minh giải thoát (vijjavimutti) được viên
mãn. Và này các Tỷ-kheo, như thế là tu tập nhập tức xuất
tức niệm? Như thế nào làm cho sung mãn? Như thế nào là quả
lớn, công dức lớn?
Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay
đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và
trú niệm trước mặt.
Chánh niệm, vị
ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị
ấy biết; "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết:
"Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở
vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn".
"Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác toàn thân", tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác hỷ
thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh
tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác về
tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra" vị ấy tập.
"Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán vô thường,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán
đoạn diệt", tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Nhập xuất tức
niệm, này các Tỷ-kheo, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như
vậy, được quả lớn, được công đức lớn.
Và như thế nào,
này các Tỷ kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập?
Như thế nào, làm cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ được
viên mãn?
Khi nào này các
Tỷ kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô
dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết: "Tôi thở ra dài". Hay
thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở
ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn
thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. Trong khi quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân,
Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, trong khi quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ: "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thô, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Cảm
giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm
hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hàny, tôi
sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. Trong khi quán thọ trên các thọ, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để
chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo đối với các
cảm thọ. Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do
vậy này các Tỷ-kheo, trong khi quán thọ, trên các cảm thọ,
Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời.
|