Phần
2
Con
Đường Hạnh Phúc
Giáo
Lý Căn Bản của Phật
Tuệ
Giác Căn Bản: Bác Ba và Ông Ngoại Tôi
Bản
đồ của đức Phật trình bày về hành trình đi đến tuệ
giác và hạnh phúc hấp dẫn được nhiều người, vì chúng
rất là đơn giản. Chủ yếu, đức Phật dạy rằng khi ta
đi buồn bực về những chuyện mà mình không thể kiểm soát
được, việc ấy chẳng có ích lợi gì. Chúng ta không hề
có một sự chọn lựa nào về những tay bài mà ta được
chia cho trong cuộc sống. Sự chọn lựa duy nhất mà ta có,
là thái độ của mình về những lá bài trên tay và sự khéo
léo trong việc chơi ván bài ấy.
Hơn
hai ngàn năm trăm năm trước đây, khi đức Phật truyền dạy
những tư tưởng của ngài, có rất nhiều người lảnh hội
được ngay, họ hiểu đức Phật thông suốt đến độ khi
vừa nghe ngài nói xong, họ lập tức đạt được một sự
an lạc đời đời. Và những người chưa hiểu đức Phật
ngay lúc ấy, họ về thực tập thiền quán và rồi họ cũng
hiểu.
Giáo
lý của đức Phật bao gồm một vũ trụ quan mênh mông, nhưng
thông điệp chánh của ngài về một lối sống lành mạnh
và an vui, đối với tôi, nó cũng giống như bác Ba sống ở
cuối phố cùng dãy với tôi, và của ông Ngoại tôi mất cách
đây mười năm.
Bác
Ba đã chín mươi tuổi, và ông vẫn còn rất thích trồng trọt.
Bác Ba và vợ bác, một người bạn đời trên gần bảy mươi
năm trời, đã chính tay chăm sóc một mảnh vườn rộng bảy
mẫu tây, và hai ông bà thường bày bán trái cây ngoài nhà
xe của họ. Một buổi đẹp trời mùa hè năm ngoái, tôi lái
xe xuống nhà bác Ba để mua vài trái củ hành, tôi thấy cánh
cửa nhà xe rộng mở. "Ồ!" Tôi tự nghĩ. "Xem kìa, bác Ba đã
tự tạc cho mình một bức tượng của bác ngồi trước nhà
xe, trông cứ như là người thật vậy!"
Nhưng
nhìn kỹ lại thì tôi nhận thấy đó chính là bác Ba trước
nhà xe, ngồi yên như một pho tượng, chờ đợi. Ông không
đọc, cũng không viết, không sắp soạn những món hàng của
mình, cũng không gọt chuốt một vật gì, ông không làm một
việc gì hết chỉ ngồi yên chờ đợi. Mà chẳng phải là
gian hàng của bác Ba nằm trên một con đường chánh nào hết,
để ông có thể ngồi nhìn xe cộ qua lại. Nhà xe nằm ở
phía sau căn nhà của bác, và ngôi nhà lại nằm trên một
con đường nhỏ vắng vẻ. Không có gì qua lại hết. Chỉ
vì bác Ba không có một việc nào cần phải làm, nên bác không
làm gì cả. Tôi chưa bao giờ luận bàn triết học với bác,
nhưng tôi đoán rằng có lẽ bác sẽ nói, "Nếu nó không hư,
thì đừng có sửa," và "nếu nó có hư, và ta sửa không được,
thì đừng thèm lo gì thêm cho mệt."
Tôi
đậu xe lại, bước xuống, đi lại nhà xe trước khi bác Ba
cử động. Tôi chợt nhớ là mình có để máy chụp hình trong
xe, tôi nói, "Bác Ba, cháu muốn chụp một tấm hình của bác
được không?" "Được," bác trả lời. Bác không hề hỏi
"Tại sao?"
Tấm
hình ấy đẹp lắm, bác Ba ngồi yên cạnh thùng cà tô-mách
và những trái zuchini. Tôi phóng lớn tấm ảnh, đóng khung
và treo trong văn phòng của mình, cạnh bức hình của đạo
sư Meher Baba, người mà tôi rất ngưởng mộ. Tôi rọi lớn
một tấm nữa, đóng khung và đem tặng cho bác Ba. Bác nói,
"Cám ơn."
Ông
Ngoại tôi thọ chín mươi tám tuổi, ông mất vì tuổi già.
Tim của ông cuối cùng ngừng hoạt động, nhưng đầu óc của
ông thì vẫn tỉnh táo cho đến giây phút cuối. Ông sống
lâu hơn má tôi, đứa con gái trưởng, và lâu hơn cả ba người
vợ của ông. Ông đã sống qua những giai đoạn đen tối nhất
của nền kinh tế Hoa kỳ. Ông ngoại tôi đến Hoa kỳ từ
Âu châu khi còn là một thanh niên, bỏ lại sau lưng ba má,
anh, chị, em ở Áo, và không bao giờ có dịp gặp lại. Ông
đã tìm làm những công việc lao động tay chân, vì ông không
biết đọc cũng không biết viết. Tôi nhớ ngày còn bé, hay
nhìn ông Ngoại dùng một loại xà phòng vụn đặc biệt để
rửa tay cho sạch. Ông là một người nhiệt tình và dễ xúc
động. Khi ba má tôi làm cho tôi một buổi tiệc sinh nhật,
ông Ngoại chảy nước mắt khi nghe mọi người hát bài "Mừng
sinh nhật".
Khi
má tôi mất năm bà bốn mươi bảy tuổi, ông Ngoại tôi lúc
ấy cũng đã bảy mươi bảy. Cái chết của má tôi là một
đòn thật nặng giáng xuống cho ông. Lúc đưa đám tang má
tôi ông buồn thảm vô cùng, tôi lo không biết ông có qua được
khỏi ngày hôm đó không. Ông Ngoại tôi không hề che dấu
nỗi đau của mình với chính ông hoặc với bất cứ một
ai.
Má
tôi mất vào tháng tám. Mùa hè những năm ấy ông Ngoại đang
còn làm nhân viên trưởng trông coi việc bảo trì cho những
dãy nhà nghỉ mát ở Maine. Vài ngày sau đám tang má tôi, ông
Ngoại lấy lại sự quân bình, về tinh thần lẫn thể chất,
và trở lại đi làm. Ông lập lại câu nhân sinh quan của ông,
mà tôi đã nghe biết bao nhiêu lần: "Thôi thì làm gì được
bây giờ? Đời là vậy!" Lúc ấy tôi thấy ông giống như
là một nhà đại triết gia vậy. Ông tiếp tục làm việc
thêm nhiều năm nữa, tục huyền và vui thú với đám cháu
chắt nội ngoại. Ông Ngoại lúc nào cũng là một người bạn
thân tình đối với Ba tôi, cũng như đối với người vợ
mới của ba tôi khi ông tái giá. Ông không bao giờ trở lại
căn nhà ngày xưa mà má tôi đã từng sống. Trở về nơi ấy
gợi cho ông quá nhiều thương nhớ.
Tôi
thường hay ghé qua thăm ông Ngoại khi ông đã già, già lắm,
sống trong một cộng đồng dành cho những vị cao niên ở
niền nam Florida. Mỗi ngày hai lần, sau buổi điểm tâm và
ăn trưa, ông hay rủ tôi đi dạo với ông. Chuyến đi thật
dài vì ông bước rất chậm. Ông giải thích rằng đây là
chuyến đi thưởng ngoạn của ông, một cuộc tập thể dục
hằng ngày. Tôi hỏi, "Ông Ngoại nghĩ gì khi ông Ngoại đi
dạo?" Ông nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. "Con nói nghĩ gì có
nghĩa là sao?" ông hỏi lại. "Khi đi thì mình chỉ có đi, vậy
thôi!" Lúc ấy tôi nhìn ông Ngoại tôi và nghĩ rằng ông chính
là đức Phật.
Bác
Ba cũng như ông Ngoại, chưa bao giờ được nghe ai nói gì về
thiền. Tôi nghĩ là họ biết chú ý đến đời sống của
họ và trở nên minh triết. Đối với đa số chúng ta, những
người không có được tuệ giác một cách tự nhiên, thiền
tập là một phương tiện giúp ta đạt được việc ấy.
Chân
Đế Thứ Nhất:
Nỗi
Đau, Không Tránh Được,
Nỗi
Khổ, Không Cần Thiết.
Bản
đồ chánh đức Phật sử dụng để trình bày hành trình đi
đến hạnh phúc và giải thoát được gọi là Tứ Diệu Đế,
hay là Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm.
Trong
Chân Đế Thứ Nhất đức Phật giải thích rằng "ta không
thể nào trốn tránh được nỗi đau đớn của cuộc đời,
nhưng khổ não thì tùy thuộc vào sự chọn lựa của ta." Thật
ra đức Phật không nói hẵn như vậy, ngài nói bằng tiếng
thổ ngữ của thời ấy. Lối giải thích của tôi bằng ngôn
ngữ của thời nay, cố gắng chuyên chở cái ý nghĩa mà đức
Phật muốn truyền đạt, và tôi hy vọng làm như vậy tôi
không bị mang tiếng là bất kính đối với ngài.
Cuộc
đời là khó khăn. Ông Scott Peck viết câu ấy mở đầu cho
quyển The Road Less Traveled, và đã bán được hơn mấy trăm
ngàn bản. Đôi khi tôi nghĩ có lẽ khi người ta đọc câu
đầu tiên ấy, họ cảm thấy hứng khởi vì thấy có người
đã nói lên một sự thật về kinh nghiệm của cuộc sống,
và vì thế họ mua quyển sách ấy. Cuộc đời cũng rất là
bí mật. Dầu ta có chuẩn bị, dự định kỹ lưỡng bao nhiêu,
bản chất của đời sống bao giờ cũng là không thể đoán
trước được. Mấy năm nay, tôi có dán trên tấm kiếng trong
phòng tắm một tờ giấy để nhắc nhở mỗi ngày, "Cuộc
đời là những gì xảy đến với ta trong khi ta bận rộn dự
định cho những việc khác." Nhưng cũng vậy thôi, tôi lúc
nào cũng bỏ thì giờ ra cố gắng sửa chữa hiện tại, để
hy vọng rằng mình sẽ được an vui hơn trong một tương lai
huyền thoại nào đó.
Vào
giữa tuổi ba mươi mấy, tôi chợt ý thức, với một nỗi
hốt hoảng lớn, là tôi hoàn toàn không trang bị đủ để
đối phó với sự to tát và cái đáng sợ của sự sống.
Tôi đã luôn phải xoay xở để tự dối mình về một sự
quân bình tế nhị mà chúng ta cần phải có, để duy trì một
hạnh phúc đang treo mong manh trong mỗi giây, mỗi phút. Tôi
lớn lên và thành đạt hết những gì người ta cho là sẽ
bảo đảm cho mình một hạnh phúc. Tôi đã theo đuổi, học
hỏi một ngành chuyên môn mà tôi đã có thể sinh sống bằng
nghề ấy, và cảm thấy rất mãn nguyện. Tôi lập gia đình,
có được bốn đứa con tuyệt trần và tôi thương yêu chúng
vô cùng. Nhưng vì chưa bao giờ nghĩ đến sự mong manh của
chúng, nên tôi cũng không hề nghĩ ngợi hay thắc mắc gì về
ý nghĩa của cuộc sống.
Một
hôm, ở cuối dãy phố nơi tôi ở, hai đứa bé gái trên đường
đi đến trường bị một xe hơi lạc tay lái đụng tử thương.
Đó là hai chị em, đứa lên sáu và đứa lên bảy. Tôi không
quen biết chúng nhưng nghe kể, vì chúng là bạn học với con
gái tôi. Đột nhiên, tôi tỉnh dậy và ý thức được sự
thật là ta đang sống giữa những hiểm nguy, và mỗi giây
phút của cuộc sống quý giá vô ngần. Nếu sự thật ấy
đã đánh thức tôi dậy trong quân bình, hoặc ít nhất là
nếu tôi chín mùi hơn một chút, có lẽ tôi đã kinh nghiệm
được sự chuyển hóa mà ta thường nghe nói trong kinh điển,
và sau đó cuộc đời tôi sẽ thay đổi hoàn toàn và được
sống trong sự trong sáng vĩnh viễn. Nhưng chuyện ấy đã không
xảy đến với tôi. Thay vì vậy, tôi lại bị lao đầu xuống
hố sâu của ảm đạm và thất vọng. Tôi không tưởng tượng
được vì sao người ta vẫn có thể tiếp tục sống trong
một cuộc đời mà cuối cùng chỉ có sự chết chóc, và lúc
nào cũng đầy dẫy những bất ngờ. Tôi ý thức rằng tất
cả những mối liên hệ trên đời này đều chấm dứt bằng
một sự mất mát, và sự mất mát nào cũng đau đớn. Tôi
không hiểu vì sao chúng ta lại có thể chịu đựng được!
Sự
thật là bây giờ tôi có thể nhắc lại giai đoạn này của
đời mình một cách nhẹ nhàng, điều ấy không có nghĩa là
tôi đã không đau khổ trong thời gian ấy. Có chứ! Tôi đã
đọc về những triết gia theo trường phái hiện sinh như là
Camus và Sartre, và tự hỏi làm sao tôi đã có thể xoay xở
để che dấu sự thật khủng khiếp này với chính mình trong
những năm qua. Tôi tự hỏi, sao những người khác lại không
có một ai nhận thấy nó hết! Làm sao mọi người lại có
thể sống như là mọi việc đều tốt đẹp, trong khi tôi
chắc chắn rằng nó không phải là vậy? Tôi còn nhớ khi dạy
những sinh viên trường tâm lý học về "mặc cảm hiện sinh",
tôi thường hay kể cho họ nghe câu chuyện vui về Kierkegaard.
Có người nói với Kierkegaard, "Tôi sẽ gặp lại ông thứ
ba tuần tới nhé," và ông ta trả lời, "À, tôi sẽ gặp lại
anh thứ ba tới nếu, khi anh ra khỏi nhà không có miếng ngói
nào rơi trúng đầu anh, và khi băng qua đường, anh không bị
chiếc xe ngựa nào đụng phải hết," và ông còn tiếp thêm
nhiều cái "nếu" khác nữa. Thật ra thì câu chuyện vui ấy
không có gì đáng cười hết. Tôi không thể nào nói "Má gặp
lại con chiều nay" với những đứa con mình trước khi chúng
đến trường, hoặc là "Anh đi chơi vui vẻ nha" với bất cứ
một ai, mà không nghe thấy trong đó có những điềm xấu xa
vang vọng bên tai.
Một
phần tôi cảm thấy tuyệt vọng vì tôi nghĩ rằng, hình như
chỉ duy có mình là thấy như vậy. Chung quanh tôi, dường như
ai cũng cảm thấy cuộc đời này là tốt đẹp, chẳng có
gì đáng lo cả. Thật là một niềm vui lớn khi lần đầu
tiên tôi đi tham dự một khóa tu thiền, và nghe người ta nói
lên sự thật hết sức rõ ràng - Sự Thật Mầu Nhiệm Thứ
Nhất là sự sống thì khó khăn và đau đớn, tự tánh của
chính nó là vậy, chứ không phải vì chúng ta đã làm một
cái gì sai trật hết. Tôi cảm thấy vô cùng thoải mái và
vui sướng khi được gặp những người dám chấp nhận rằng
cuộc đời này là khó khăn, thường khi là đau đớn, mà vẫn
có vẻ bình an trong khi họ công nhận sự thật ấy. Điều
quan trọng là họ trông có vẻ rất an lạc. Sự kiện ấy
làm an tâm tôi vô cùng. Tôi tự nghĩ, "Đây là những người
giống như tôi, có một đời sống y như tôi, họ biết được
sự thật và dám gọi tên nó mà vẫn cảm thấy an ổn."
Chân
Đế Thứ Hai: Dính Mắc là Khổ Đau
Chân
đế, tức sự thật mầu nhiệm, thứ nhất đã không ngần
ngại gì và tuyên bố thẳng thừng rằng, đau đớn là tự
tánh cố hữu của sự sống vì tất cả mọi vật đều biến
đổi không ngừng. Chân đế thứ hai giải thích, khổ đau
có mặt khi ta chống cự với những kinh nghiệm của cuộc
sống, thay vì biết cởi mở và chấp nhận chúng với một
thái độ thông minh và từ ái. Hiểu được chỗ này, ta sẽ
thấy rằng giữa đau đớn (pain) và khổ não (suffering) có
một sự khác biệt rất lớn. Đau đớn thì không thể tránh
né được, sự sống đi kèm với đau đớn. Nhưng khổ thì
không bắt buộc. Nếu khổ là những gì xảy ra khi ta vùng
vẫy chống cự lại những kinh nghiệm của mình, vì thiếu
khả năng chấp nhận, thì khổ là một điều dư thừa, không
cần thiết.
Tôi
đã từng hiểu lầm điểm này, khi mới bắt đầu tu tập
tôi cứ đinh ninh rằng nếu tôi công phu thiền tập cho đúng
mức, mọi đớn đau của tôi sẽ biến mất. Đó là một lầm
lẫn lớn. Tôi rất thất vọng khi khám phá ra sự sai lầm
ấy và cũng hơi xấu hổ vì sự ngây thơ của mình. Rõ ràng
là ta sẽ không bao giờ có thể nào chấm dứt được hết
những đớn đau trong cuộc đời này.
Đức
Phật có dạy, "Những gì ta yêu quý sẽ đem lại cho ta đớn
đau." Tôi nghĩ đó là sự thật. Thường thì ít khi nào tôi
nhắc đến lời ấy với những thiền sinh mới bắt đầu,
tôi không muốn họ hiểu lầm là đạo Phật bi quan. Nhưng
sự thật là vậy. Vì mọi việc đều biến đổi luôn, những
mối liên hệ của ta đối với những gì ta yêu quý, hoặc
mối liên hệ của chúng đối với ta, rồi cũng sẽ thay đổi.
Và rồi ta sẽ chịu nỗi đau của sự mất mát, chia lìa. Chúng
ta đã chọn cuộc sống tương giao ấy, vì ta chấp nhận sẵn
sàng trả giá bằng sự đau đớn.
Đối
với tôi, thấy được sự khác biệt giữa một thái độ
dững dưng đối với kinh nghiệm của sự sống và một thái
độ vui vẻ, nhiệt tình đối với kinh nghiệm của sự sống
mà không bị dính mắc, luôn luôn là một thử thách lớn (trong
nhà thiền có lẽ họ gọi đó là một công án.) Theo tôi thì
chuyện ấy có thể thực hiện được. Nhưng vì trong mỗi
giây, mỗi phút của cuộc sống bao giờ cũng có một sự chọn
lựa giữa sự "dễ chịu" và "khó chịu", khó có thể nào
ta lại không muốn sự "dễ chịu". Thật ra thì rất khó để
mà không muốn gì hết.
Người
ta kể thánh John of the Cross có lời cầu nguyện rằng, "Thượng
đế, xin hãy ban cho con được thấy ảnh tượng của ngài!"
Khi mới bắt đầu tập thiền, tôi cũng muốn được thấy
hình ảnh này nọ. Thời ấy là vào cuối thập niên sáu mươi,
ban nhạc trẻ the Beatles và đạo sư Maharishi Mahesh đang phổ
cập hóa pháp môn định tâm, và nền văn hóa lúc ấy đang
có một tính chất "ảo hóa." Và tôi cũng mong muốn có một
việc kỳ lạ nào đó xảy đến cho mình.
Vài
năm sau đó cũng đã có những chuyện "kỳ lạ" xảy đến
cho tôi. Trong một thời gian nỗ lực tích cực hành thiền,
tôi kinh nghiệm được con người của tôi tràn ngập ánh sáng,
và tỏa chiếu nữa. Thật là kỳ diệu vô cùng. Trong lãnh
vực của sự hành thiền nghiêm túc thì kinh nghiệm ấy chẳng
có gì là to tát hết, nhưng đối với tôi thì nó huyền diệu
vô cùng. Và sau một thời gian, tôi bắt đầu cho rằng nó
cũng chưa kỳ diệu đủ. Tôi nhớ lại câu chuyện của thánh
Paul, bị mù lòa vì ánh sáng chói rực trên đường đi đến
Damacus, và vì tôi chưa bị mù, tôi bắt đầu mong ước được
thấy thêm ánh sáng nữa. Nhưng tôi không bao giờ dám thú nhận
điều ấy với bất cứ một ai, vì trong giới tu hành, mong
muốn được thêm lạc thú thì chẳng có vẻ thiền một chút
nào hết - mặc dù tôi là thế!
Chân
Đế thứ hai của đức Phật là tham muốn bất cứ một việc
gì cũng đều là khổ đau hết. Thường thường thì người
ta hay diễn dịch rằng "nguyên nhân của khổ đau là lòng tham
muốn," nhưng theo tôi nghĩ thì điều đó cũng không thật chính
xác. Nguyên nhân thì có vẻ như là cái này xảy ra trước
và rồi nó sẽ sinh ra một kết quả đặc biệt nào đó. Như
ta hay nói, "Mong muốn bây giờ, đau khổ sau này." Nhưng tôi
tin là "Mong muốn bây giờ, đau khổ bây giờ."
Có
lần tôi nghe một người nào đó nói, dấu hiệu của sự
giác ngộ là khi ta lúc nào cũng đều có thể nói, và thật
sự tin nữa, "Tôi đâu có muốn đâu, nhưng đó là những gì
tôi có, thì cũng là tốt vậy!"
Má
vợ của đứa con trai tôi không những có một thái độ khoan
dung đối với những sự khó chịu, mà bà còn biết tán thưởng
nó nữa. Bà ta là người duy nhất mà tôi đi xe chung trên xa
lộ ở Los Angeles, với hằng trăm chiếc xe phóng ào ào, xuyên
qua lại ngang ngược, trong một không khí đầy bụi bậm, khói
xăng, kẹt cứng, bực bội, mà vẫn nói với một giọng ngạc
nhiên chân thành, "Chà! Coi kìa người ta đi đâu đông quá!"
Lẽ
dĩ nhiên, từ chuyện xa lộ cho đến những nạn đói kém,
cho đến chiến tranh, khoảng cách ấy xa vời lắm, nhưng khi
ta nhận thấy được rằng thái độ chấp nhận khoan dung của
con người là có thể được, việc ấy sẽ khích lệ ta nhiều
lắm. Sự thực nghiệm tâm linh có lẽ là để khám phá ra
tiềm năng ấy trong ta và khai mở nó ra. Và chân đế thứ
ba cho ta biết việc đó chắc chắn có thể thực hiện được.
Chân
Đế Thứ Ba: Một Tin Vui Tuyệt Vời
Một
yếu tố chủ yếu trong sự tu tập của đạo Phật được
gọi là Chánh Kiến (Right View). Chánh Kiến có nghĩa là thấy
biết và hiểu một cách chân chánh. Một khía cạnh của Chánh
Kiến là ý thức được rõ rệt mục đích của con đường
tu tập chánh niệm. Nhưng bước chân của tôi vào con đường
tu tập chánh niệm đã được hoàn toàn thúc đẩy bởi Tà
Kiến (Wrong View), tức một cái thấy sai lầm. Tôi đã tưởng
rằng nếu mình công phu tu tập đúng mức, tôi sẽ không còn
kinh nghiệm những đớn đau nữa. Lẽ dĩ nhiên cái thấy biết
đó rất là sai lầm. Không thể nào khi ta vẫn còn mang thân
này, sống trong cuộc đời, mà lại tránh khỏi được sự
đau đớn.
Sau
khi khám phá ra được sự sai lầm ấy, tôi đã tự an ủi
bằng niềm tin là dầu sao đi nữa tôi vẫn có thể chấm dứt
được nỗi khổ của mình. Và đó chính là Chân Đế Thứ
Ba. Chân Đế Thứ Ba nói rằng giải thoát, an lạc và hạnh
phúc là những chuyện ta có thể thực hiện được - ngay trong
chính cuộc đời này. Đó quả thật là một ý tưởng hết
sức tuyệt diệu!
Trong
vài năm trước, tôi có dạy về môn tôn giáo Đông phương
cho một trường đại học Thiên Chúa giáo. Sinh viên đa số
là những thiếu niên, thiếu nữ vừa học xong cấp trung học
của một trường trung học Thiên Chúa giáo gần đó. Các em
lớn lên, phần đông, có một đời sống gia đình thoải mái,
đầy đủ và rất sùng đạo, giữa một kỷ nguyên hòa bình.
Các em có vẻ cảm thấy rất hoang mang khi tôi bắt đầu dạy
về đạo Phật, và giới thiệu ngay đến khái niệm về khổ.
Nhưng làm sao tôi có thể tránh được việc ấy. Ý niệm về
khổ và sự chấm dứt khổ đau là giáo lý chủ yếu của
đạo Phật. Ngày xưa đức Phật có lần đã tuyên bố như
thế với một người đệ tử của ngài. Theo truyền thuyết
thì người đệ tử ấy đến bắt bẻ đức Phật. Anh ta trách
đức Phật đã không hề dạy gì cho anh về vũ trụ quan và
triết học như anh đã hy vọng. Truyện kể đức Phật trả
lời, "Ta chỉ dạy có một điều và mỗi một điều mà thôi
- Khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau."
Những
em sinh viên trẻ của tôi lộ vẻ lo âu khi nghe tôi nói, mặc
dù mọi việc dường như có vẻ là vui thú đó, nhưng cuối
cùng rồi tất cả sẽ làm cho ta thất vọng, vì không có gì
là trường tồn mãi mãi. Khi tôi cố gắng giải thích và cho
thí dụ "Cũng giống như nhiều khi các em muốn một việc gì
đó mà không được," thì chúng không đồng ý. Đa số các
em có hết những gì mà chúng muốn. Theo ý kiến của các em
thì đạo Phật dường như hơi bi quan, và các em hỏi tôi,
"Những người Phật tử có tổ chức tiệc ăn mừng sinh nhật
không cô?"
Tôi
hết sức cố gắng để tìm những trường hợp khổ đau nào
mà các em sinh viên của tôi có thể liên tưởng đến được.
"Có bao giờ các em bị một người bạn trai hoặc bạn gái
nào đó bỏ em không? Lúc đó em có cảm thấy đau khổ không?"
"Ồ,"
họ trả lời, "nếu khổ đau là vậy thì em có thể liên tưởng
đến được!" Dù vậy, tôi cũng cảm thấy chút gì bất mãn
khi thấy mình phải là một người mang tin buồn đến cho những
người trẻ ấy.
Nhiều
khi tôi thấy mình lướt qua hai Chân Đế đầu tiên để giảng
ngay đến Chân Đế Thứ Ba, để tôi có thể nói đến cái
tin vui. Chúng ta có thể sống hạnh phúc được. Mỗi người
chúng ta có một khả năng phát triển một tâm rộng lớn đủ
để có thể thương yêu, tỉnh thức, đáp ứng, quan tâm đến
mọi việc, và không cần phải tranh đấu. Đó không phải
chỉ là một tin vui thôi, mà là một tin vui tuyệt vời.
Tam
Tổ của Thiền Tông và Nhất Tổ của Berkeley
Tăng
Xán, vị tổ thứ ba của thiền tông Trung Hoa sống vào thế
kỷ thứ sáu, viết, "Chí đạo vô nan, Duy hiềm giản trạch,"
có nghĩa là Đạo lớn không khó chỉ hiềm vì ta có sự lựa
chọn mà thôi. Khi đọc những lời ấy, tôi nghĩ, "Chắc mình
sẽ không bao giờ đạt đạo nổi!" Dường như mỗi kinh nghiệm
trong đời đều mang lại cho tôi một cơ hội để có sự
ưa ghét, và tôi lúc nào cũng thiên vị.
Lúc
đầu tiên khi được nghe giáo lý ấy, đứa con gái nhỏ của
tôi đang theo học môn vũ ba-lê rất chuyên cần, và vị giáo
sư của nó cho rằng nó rất có khiếu. Vào mỗi mùa giáng
sinh, nó được vũ trong vở tuồng Nutcracker của đoàn, và
mỗi năm được giao cho đóng một vai quan trọng hơn. Mặc
dầu đứa con gái của tôi chỉ là một cô bé, tôi vẫn tưởng
tượng đến rồi một ngày nào đó, nó sẽ được đóng vai
chánh Snow Queen, và tôi không tin rằng đến lúc ấy, tôi sẽ
có một thái độ dững dưng về việc con mình sẽ được
thủ vai chánh ấy hay là một cô bé nào khác. Tôi có một
sự thiên vị.
Tôi
có thể hiểu được giáo lý vô phân biệt này trên một lãnh
vực bình thường. Tôi biết mình sẽ không bao giờ bước
vào một tiệm kem và nói "Bán cho tôi loại kem nào cũng được,"
nhưng tôi cũng biết chắc là mình sẽ không khổ tâm lắm
nếu họ đã bán hết kem sô-cô-la. Bởi vì còn biết bao nhiêu
loại kem khác cũng thơm ngon như vậy. Đây là một bình diện
phân biệt, chọn lựa được biểu hiện qua bằng sở thích
và thị hiếu bình thường cá nhân.
Điều
mà tôi đã không thể hiểu tới là làm sao việc ấy cũng
có thể đúng đối với những ý thích sâu xa của ta nữa!
Thật ra, tôi đã không tưởng tượng nổi vì sao người ta
lại muốn mình không còn có một sự phân biệt nào hết.
Đối với tôi thì dường như chính sự chọn lựa ấy mới
làm cho cuộc đời hào hứng và lý thú. Lúc ấy, quan điểm
của tôi hoàn toàn đi ngược lại với giáo lý của kinh Kim
Cang: "Tâm vô sở trụ", có nghĩa là một tâm không bị dính
mắc vào đâu hết. Nhưng rõ ràng, điều tôi không hiểu là
sự sống này vẫn có thể được hào hứng và lý thú, và
ta vẫn có thể có những dự án, hy vọng và đeo đuổi chúng
hết lòng, mà vẫn sẵn sàng buông bỏ nếu chuyện không thành.
Tôi
học bài học lớn ấy từ Bill, một người bạn của tôi
đã qua đời cách đây hơn hai thập niên. Tôi thường nghĩ
đến anh như là vị Tổ Thứ Nhất của vùng Berkeley. Bill bị
bệnh ung thư vào năm anh ta còn rất trẻ, mới bốn mươi tuổi.
Anh có vợ, một sự nghiệp đang lên và những đứa con thật
dễ thương. Khi biết rằng cái chết gần kề, anh viết một
lá thư để gửi đến bạn bè sau khi anh qua đời. Trong thư,
anh viết về cuộc đời của mình, "Tôi còn muốn nhiều chuyện
muốn làm nữa, nhưng không bao giờ tôi muốn nó sẽ là gì
khác hơn!" Tôi nghĩ, nếu tôi có thể sống cuộc đời mình
được như vậy thì kỳ diệu vô cùng, muốn thêm nhiều nữa
là một sự tán thưởng đối với cuộc đời, nhưng tôi sẽ
không bao giờ muốn nó là gì "khác hơn."
Tôi
có một người bạn là một vị thầy dạy Zen, anh ta kể cho
tôi nghe về một bài tử thơ. Có một tập sách sưu tầm về
các bài tử thơ này để lại bởi những thiền sư - mà cho
là được các ngài nói lại bằng hơi thở cuối trước khi
viên tịch, theo truyền thống Zen. Anh bạn kể cho tôi nghe về
một bài tử thơ viết, "Tử thơ là chuyện láo lếu. Chết
chỉ là chết."
Vị
thiền sư ấy nhắc tôi nhớ đến một người bạn khác là
Pat, cũng qua đời vì chứng bệnh ung thư vào năm bốn mươi
mấy tuổi, để lại bốn đứa con, nhiều bạn hữu và một
sự nghiệp luật sư lý thú. Tôi học được từ cô là chúng
ta vẫn có thể có sự thiên vị, một sự thiên vị sâu sắc,
không bao giờ thối chí, và cũng không hề đắng cay về nó.
Pat sống được thêm vài tháng, sau khi biết là cuộc chiến
đấu với cơn bệnh của cô đã hết còn hy vọng. Cô ta dùng
thời gian còn lại để hàn gắn mối liên hệ với người
chồng củ, hoàn tất hết những công việc luật còn dở dang,
tâm sự với bạn bè và bộc lộ hết với họ những gì cô
hằng muốn nói. Có những chuyện cô muốn giải quyết, và
tuy chúng rất rắc rối về tình cảm, nhưng cô vẫn cứ làm.
Lúc gần cuối, cô nói với tôi, bằng một giọng hết sức
bình thường và thực tế, "Chị biết không, tôi đã trưởng
thành rất nhiều về mặt tình cảm nhờ chứng bệnh ung thư
này. Tôi đã làm những chuyện mà tôi không bao giờ dám làm
giá như tôi không có bệnh. Nhưng thành thật mà nói, tôi vẫn
ước gì mình không mắc bệnh và không phải trưởng thành."
Một
sự thật rất đơn sơ. Trưởng thành cũng không hay ho gì.
Sống thì vẫn thú vị hơn. Được trao cho những gì không
thể thay đổi được, cô ta đã sống những ngày cuối của
đời mình bằng một thái độ vui vẻ và sẵn sàng. Một ngày
trước khi mất, tôi bắt gặp cô ngồi trên giường đọc
báo. "Tôi đã làm hết mọi chuyện rồi," cô nói, "bây giờ
thì chỉ còn chờ đợi thôi." Tôi nghĩ việc ấy đủ cho cô
xứng đáng làm vị Tổ Thứ Nhất của vùng San Anselmo.
Đứa
con gái của tôi không bao giờ được đóng vai chánh Snow Queen.
Nó đã không trở thành một vũ công, và thái độ chấp nhận
của nó cho phép tôi buông bỏ những kỳ vọng của chính tôi.
Tôi vẫn còn thích xem tuồng Nutcracker, và tôi rất vui thú
tưởng tượng đến cái cảm xúc của má của cô bé đang
thủ vai Snow Queen. Tôi cũng cảm thấy nỗi vui ấy khi xem những
trận đấu banh trên ti-vi, khi nhìn thấy má của một cầu
thủ đứng reo hò trên khán đài, ngay sau khi con mình vừa thắng
điểm. Tôi cảm động vô cùng, đôi khi đến chảy nước
mắt. Tôi cũng khóc khi thấy những chuyện bất hạnh xảy
đến cho người ta. Không có một vị thuốc nào có thể chữa
được tiếng khóc. Và tôi rất mừng về sự bất lực ấy.
Chân
Đế Thứ Ba Rưỡi
Đức
Phật dạy rằng, chấm dứt khổ đau là chuyện có thể được.
Ngài dạy, chúng ta có thể điều kiện tâm mình, giữ cho nó
được trong sáng và rộng lớn, để mọi kinh nghiệm của
ta đến và đi trong một đại dương bao la của tuệ giác.
Khổ đau và an lạc sẽ đến rồi đi, thỏa mãn và thất vọng
sẽ đến rồi đi, và tâm ta vẫn giữ được sự tĩnh lặng
muôn thuở của nó. Ý thức được rằng ta không cần phải
được thỏa mãn mới có hạnh phúc, là một tự do rất lớn.
Nhưng
dù sao thì tôi vẫn chưa chấm dứt được khổ đau, tôi biết
không phải vì tôi chưa khao khát đủ. Tôi khao khát lắm chứ!
Cũng không phải vì tôi không hiểu. Trong thâm tâm tôi tin giải
thoát là chuyện có thể được. Tôi biết, chúng ta tranh đấu
vất vả vì ta chấp và cho những câu chuyện xảy ra là của
riêng mình, thay vì thấy chúng là một phần của một vở
tuồng vũ trụ to lớn đang khai mở. Tôi biết chắc là mọi
việc đều do duyên khởi và ít nhiều tôi tin vào karma, tức
luật nhân quả. Tuy nhiên, tôi vẫn vất vả tranh đấu và
tôi đau khổ. Nhưng dù sao thì bây giờ tôi cũng ít khổ đau
hơn, và tôi cũng không còn bị tuyệt vọng vì những nỗi
khổ, như trong quá khứ.
Vì
vậy, tôi cộng thêm một nửa Chân Đế nữa. Nửa chân đế
ấy là "Khổ đau có thể chăm sóc được (manageable)." Còn
thiếu một chút nữa là chấm dứt được khổ đau, mà tôi
hoàn toàn tin là có thể được, nhưng tôi hài lòng với việc
mình có thể đối trị được khổ đau một cách tốt đẹp
hơn. Vì biết rằng tôi có thể săn sóc được khổ đau của
mình, tôi không còn sợ hãi những đau đớn như khi trước.
Ngày nay, tôi thường nói thẳng với học trò của mình, mặc
dù đức Phật có dạy là ta có thể chấm dứt được khổ
đau, nhưng chính tôi chưa đạt đến trình độ ấy. Học trò
của tôi không thất vọng. Và tôi cũng không hề mất đi một
điểm nào. Nghe được rằng ta có thể săn sóc được những
khổ đau của mình, đối với họ đã là một tin vui lắm
rồi.
Một
nửa Chân Đế phụ thêm đó, còn giúp cho tôi có lòng từ
bi đối với chính mình và người khác hơn. Tôi có thể thấy
được tôi đã bị dính mắc ra sao, tôi đã vất vả, khổ
đau như thế nào, tôi đã mong muốn những gì, và cuối cùng
rồi thì mọi việc cũng đã thay đổi và giải quyết ra sao.
Tôi thương mình hơn, khi hiểu tôi đã tạo nên biết bao nhiêu
đau đớn trong tâm cũng vì những bám víu bị điều kiện
của mình. Ý thức được nỗi khổ của mình, mặc dù đã
nhiều năm tu tập và dù đã có một hiểu biết nào đó, tôi
vẫn rất nhạy cảm đối với một nỗi đau chắc phải là
rất to tát của tất cả mọi người đang cùng với tôi chia
xẻ trái đất này.
Tim
Tôi Vẫn Còn Níu Kéo
Trong
một bài nhạc tình, câu "Tim em gắn bó với anh" là một lời
yêu thương rất nồng nàn tha thiết. Chúng ta muốn trái tim
và ý nghĩ của người mình yêu gắn chặt với mình. Nhưng
theo sự hiểu biết của nhà Phật thì chính sự bám víu, dính
mắc này là nguyên nhân của khổ đau. Mặc dù vậy, trái tim
của tôi vẫn còn rất dính mắc. Vào những ngày tốt trời
thì nó ít bị dính mắc hơn một chút.
Lúc
mới bắt đầu tu tập, một trong những việc mà tôi thích
nhất là được nghe kể chuyện về đức Phật và Phật pháp.
Trước khi tôi ý thức được là ta cũng có khả năng tĩnh
tâm và cảm nhận được giải thoát là gì, tôi rất thích
được nghe kể những câu chuyện về giải thoát.
Những
câu truyện về đức Phật bao giờ cũng rất là kỳ diệu.
Thường thì câu truyện được bắt đầu bằng sự diễn tả
về nơi chốn đức Phật thuyết pháp, tên của những nhân
vật chánh đến thính pháp. Thường thì câu truyện kể lại
có một vị nào đó "từ chỗ ngồi của mình trong đại chúng,
đứng dậy, đảnh lễ đức Phật, xong ngồi xuống và nghe
pháp." Và tiếp theo "Đức Như Lai nói như vầy," rồi truyện
trình bày một bài pháp trong đó đức Phật giải thích về
chân tánh của mọi vật. Câu truyện thường được chấm
dứt bằng "Sau khi nghe Phật nói xong, các vị ... đều được
giác ngộ hoàn toàn" hoặc là "Nghe xong, tất cả đại chúng
đều được hoàn toàn giác ngộ." Lời kết ấy thường được
viết như vầy: "Và tâm các ngài, nhờ không còn bị dính mắc,
được giải thoát khỏi những sự ô nhiễm." Tôi yêu những
lời ấy vô cùng. Trải qua biết bao nhiêu năm tu tập cho đến
ngày hôm nay, mỗi khi có dịp được nghe ai thuyết pháp, tôi
đều tưởng tượng rằng có thể đây là lúc mình sẽ đạt
được sự giác ngộ hoàn toàn và cuối cùng, như những vị
ấy. Sự kiện là nó đã xảy ra trong thời đức Phật, đã
để lại cho ta một tiền lệ rất tốt. Có điều là nó chỉ
chưa xảy đến cho tôi mà thôi!
Tôi
nghĩ việc ấy đã không xảy đến dễ dàng cho chúng ta, là
vì tâm ta đã bị điều kiện bởi những phản ứng theo thói
quen quá nặng nề. Thói quen của tâm rất khó thay đổi. Tôi
thường hay bị nhức đầu mỗi khi bị tức giận, vì tôi
không biết cách nào để biểu lộ sự bất mãn của mình
ra cho được tự nhiên. Bây giờ tôi có thể bày tỏ cảm
xúc tức giận của mình thoải mái hơn, nhưng đôi khi tôi
cũng cần một cơn nhức đầu để nhắc nhở là mình đang
giận. Và tôi cũng hoàn toàn tin rằng khổ đau phát sinh mỗi
khi tôi gắng chống cự lại với những biến cố nào trong
đời mà tôi không thay đổi được. Dù biết vậy, đôi lúc,
tôi vẫn cứ khăng khăng chống cự. Thói quen thì rất khó
mà chuyển đổi.
Tôi
có một giả thuyết về vì sao thói quen của tâm lý và tâm
linh lại khó có thể mà xóa bỏ hoàn toàn được. Tôi gọi
đó là giả thuyết chiếc-áo-thun-của-sự-thay-đổi trong tâm.
Đã lâu rồi, trên ti vi trong một tiết mục quảng cáo, có
chiếu một bà mẹ đưa lên một chiếc áo thun của đứa con
trai mình, cho thấy những nơi bị dính dơ bởi bơ đậu phụng,
mứt, chỗ cậu ta làm rớt kem sô-cô-la, và những nơi cậu
ta lăn lộn chơi banh trên đất bùn. Bà ta bỏ chiếc áo thun
dính bẩn ấy vào máy giặt và cộng thêm với loại xà bông
mà họ muốn quảng cáo với khán giả. Sau đó khi bà lấy
ra khỏi máy giặt, chiếc áo trở nên trắng tinh như mới,
không còn một tì vết nào. Trong đời kinh nghiệm giặt đồ
của tôi, tôi chưa bao giờ từng thấy một chiếc áo nào lấy
ra khỏi máy giặt mà trông hoàn toàn như mới. Lúc nào cũng
còn một vài chỗ bị phai màu, và ngay cả những trường hợp
hiếm hoi khi mọi chỗ dính bẩn đều được giặt sạch, chiếc
áo vẫn không bao giờ có thể thẳng thớm như khi còn mới.
Những dấu vết cho thấy chiếc áo đã được mặc rồi, dính
vào nó mãi mãi. Tôi nghĩ đối với tâm ta cũng vậy, và tôi
nghĩ việc ấy cũng bình thường thôi. Nếu chúng ta biết bên
nào của chiếc áo bị ngắn hơn, ta có thể nhét bên ấy vào
cho chặt hơn một chút, và rồi thì nó cũng xem rất chỉnh
tề.
Nếu
như tâm tôi không bị dính mắc, tôi sẽ hoàn toàn vô úy.
Không có gì đe dọa tôi được, vì không có một vật gì
tôi sợ phải đánh mất, và cũng không có một vật gì tôi
cần cho hạnh phúc của mình. Nhưng tâm tôi vẫn còn dính mắc,
nên đôi khi tôi vẫn sợ rằng không có được những gì mình
nghĩ là cần thiết, hoặc sẽ đánh mất những gì tôi nghĩ
là mình muốn. Nhưng dầu sao đó cũng không còn là một vấn
đề lớn nữa, vì sự sợ hãi không còn làm tôi kinh khiếp
như xưa. Tôi biết nó có mặt là do sự dính mắc của mình,
và tôi biết nó rồi sẽ đi qua. Tôi có thể tự nhủ, "Tôi
đang sợ hãi, bởi vì mặc dù tôi biết cái gì là chân thật,
nhưng ngay lúc này tôi đã quên mất. Nhưng tôi biết khả năng
ấy hiện hữu." Và khả năng ấy, niềm tin tưởng ấy, đã
đem lại cho tôi thật nhiều hy vọng, giữa những cơn dông
tố hãi hùng trong cuộc đời.
Chân
Đế Thứ Tư: Vòng Tròn Bát Chánh
Giả
sử như chúng ta dùng hình ảnh về một cuộc hành trình để
biểu thị cho sự tầm đạo của mình. Một tấm bản đồ
chánh mà đức Phật đã để lại cho chúng ta, cho hành trình
đi đến hạnh phúc và an lạc, được gọi là Bát Chánh Đạo,
tức Con Đường của Tám Nguyên Tắc Hành Động Chân Chánh.
Nhưng tôi thường nghĩ ta gọi là Vòng Tròn Bát Chánh thì đúng
hơn. Một con đường thì phải đi từ một nơi này đến một
nơi kia, và khi ta đến gần nơi kia hơn, ta sẽ cách xa nơi
này hơn. Và con đường thì có tính cách tiến triển từng
bước một. Cũng như một chiếc thang, ta không thể nào đột
nhiên nhảy ngang vào nấc thứ năm rồi bắt đầu leo lên được.
Trên một con đường thật sự cũng thế, ta phải bắt đầu
từ điểm khởi đầu và tiến bước đều đặn có thứ tự
cho đến điểm cuối cùng. Nhưng với một vòng tròn thì ta
có thể bắt đầu ở bất cứ một điểm nào, và nó cũng
vẫn là nằm trên cùng một vòng tròn.
Khi
giảng về con đường Bát Chánh của ngài, đức Phật dạy
rằng nó có một số những thành tố đặc biệt. Người ta
có thể vững tin là mình đang đi đúng đường nếu họ thấy
một trong những tám bảng hiệu đặc biệt ấy. Tám bảng
đánh dấu đường đó là: thấy biết chân chánh (chánh kiến),
suy nghĩ chân chánh (chánh tư duy), nói năng chân chánh (chánh
ngữ), hành động chân chánh (chánh nghiệp), mưu sinh chân chánh
(chánh mạng), siêng năng chân chánh (chánh tinh tấn), thiền
định chân chánh (chánh định), và nhớ nghĩ chân chánh (chánh
niệm). Người khách du hành nhìn thấy một trong những bảng
chỉ đường này sẽ biết là mình đang đi về hướng của
an lạc và hạnh phúc.
Thứ
tự mà người du hành nhìn thấy những bảng hiệu ấy trên
đường nó không quan trọng. Vì nếu nhìn cho sâu sắc, ta sẽ
thấy rõ: trong một cái có tàng chứa hết tất cả những
cái khác. Chỉ cần một chút của sự thấy biết chân chánh
thôi, ví dụ như một ý nghĩ cho rằng ta có thể có an lạc
cho dù không được thoả mãn, sẽ khơi dậy sự suy nghĩ chân
chánh thúc đẩy ta cố gắng siêng năng chân chánh để phát
triển thêm sự thấy biết chân chánh ấy. Và bất cứ một
ai muốn tu tập nói năng chân chánh, muốn mỗi lời mình nói
ra đều hữu ích và đúng với sự thật, sẽ khám phá rằng
ta không thể nào không có sự nhớ nghĩ chân chánh. Nhớ nghĩ
chân chánh có nghĩa là biết chú ý trong mỗi giây mỗi phút,
và những ai thực tập điều đó đều biết rằng nó cần
phải có sự thiền định chân chánh. Ta không thể nào nói
rằng, "Bát Chánh Đạo sao phức tạp quá. Tôi chỉ muốn tu
Nhất Chánh Đạo thôi!" Việc ấy không thể nào có được.
Tất cả đều có liên hệ mật thiết với nhau.
Vì
vậy, trên hành trình đi đến an lạc và hạnh phúc, bạn có
thể bắt đầu ở bất cứ một điểm nào. Tôi cũng hơi do
dự về việc gọi sự tu tập ấy là một vòng tròn. Vì một
vòng tròn, cho dù là nhỏ bé, cũng choáng một khoảng không
gian. Và không gian sẽ tạo nên một ý niệm về nơi này và
nơi kia. Thật ra chẳng có một nơi kia nào hết. Khi chúng ta
tỉnh thức và an lạc, chúng ta đang thật sự sống ở nơi
này hơn bao giờ hết. Nhưng vì sự tỉnh thức ấy có xảy
ra và sự tu tập có hiệu quả, nên chúng ta cần phải gọi
đó là gì. Tôi nghĩ có lẽ ta nên gọi đó là Bát Chánh Điểm.
Chánh
Kiến: Bạn Tôi Alta và Vô Thường
Khi
người ta nói đến phương thức tạo hạnh phúc của đức
Phật, người ta thường bắt đầu bằng sự thấy biết chân
chánh, tức chánh kiến. Thấy biết chân chánh có nghĩa là
tin rằng, ít nhất cũng đôi chút, là tuy cuộc sống có nhiều
sự thất vọng không tránh được, nhưng ta vẫn có thể có
hạnh phúc. Khi nghe vậy, có nhiều người chú ý ngay đến
sự kiện là có một phương thuốc chữa trị cho nỗi khổ
trong cuộc đời, nhưng lại miễn cưỡng không muốn nghĩ đến
cái phần không tránh được kia. Nhưng chính cái phần không
tránh được ấy mới thật sự có một công năng khai phóng,
vì không có nó chúng ta sẽ nghĩ rằng mọi việc có thể tốt
đẹp mãi mãi, nếu ta biết khôn khéo hoặc biết cố gắng
đúng mức. Nhưng không có gì sẽ hoàn hảo mãi mãi, vì không
có gì trên đời này là thường hằng cả.
Ý
thức về vô thường là một thành phần chủ yếu của tuệ
giác. Và mặc dù đức Phật đã giảng dạy rất nhiều việc,
nhưng chính ra đức Phật đã dạy về lý vô thường trong
hơi thở cuối của ngài. Truyền thuyết kể rằng, đó là
lời nói trước câu tuyên bố cuối cùng mà đức Phật để
lại trước khi ngài nhập diệt: "Tất cả các pháp hữu vi
đều vô thường." Có nghĩa là, "Mọi vật đều thay đổi."