|
.
THIỀN QUÁN,
CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC
Sylvia
Boorstein - Việt dịch: Nguyễn Duy Nhiên
Nhà
Xuất Bản Sinh Thức
|
|
Phần
4
Một
Cái Nhìn Sáng Tỏ:
Tuệ
Giác và Từ Bi
Tự
Tánh Của Tâm
Khi
người ta nghe nhà Phật nói về sự trống không, khi họ nghe
tâm ta được diễn tả như là một khoảng không gian thênh
thang rộng lớn, họ lại tưởng tượng đến tâm tĩnh lặng
cũng giống như là một điểm đen (black hole) trong vũ trụ
vậy. Và từ đó họ có thể đâm ra sợ hãi và nói, "Tôi
càng lúc càng trở nên thoải mái trong khi ngồi thiền, nhưng
rồi tôi hoảng sợ là tôi sẽ quên đi mình là ai," hoặc "Tôi
sợ là mình lạc đi đâu đó và rồi không còn biết đường
mà trở về nữa."
Nói
chung thì chuyện ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Chúng ta lúc
nào cũng vẫn nhớ mình là ai. Và thường thì tác dụng của
thiền quán là để giúp chúng ta có mặt trong hiện tại hơn,
bây giờ và ở đây, chứ không phải đưa ta đến một nơi
chốn xa xôi, lạ kỳ nào khác. Một tâm rộng lớn và không
xao động, không có nghĩa là tâm ta sẽ trống vắng không còn
một ý nghĩ hoặc ý niệm hoặc cảm thọ nào nữa. Nó chỉ
có nghĩa là tâm ta không còn xao động, thế thôi!
Khi
tôi còn bé, thành phố nhỏ nơi tôi ở có thông qua một sắc
lệnh là cấm làm "ồn ào nơi công cộng." Tôi thường thắc
mắc không biết thế nào là làm ồn ào nơi công cộng. La
hét ở chỗ đông người chăng? Hay là ca hát trên đường
phố? Ngày nay, giữa đời sống phức tạp ở thành phố, ý
niệm về việc giữ cho một nơi chốn nào đó được thinh
lặng thật là một việc hết sức kỳ diệu.
Tự
tánh của tâm ta là tĩnh lặng. Đối với tôi thì khám phá
ấy, ít nhất trong thời gian đầu, vừa đem lại một tin vui
mà cũng vừa mang một tin buồn. Tin buồn là vì một tâm thư
thái, một tâm không bị động loạn, trạng thái ấy thì không
có gì là kỳ diệu hoặc phiêu diêu, biến hóa như tôi đã
từng mơ tưởng hết. Còn tin vui là vì sự tĩnh lặng ấy
lại chính là một trạng thái nhiệm mầu nhất của tâm ta,
và nó không bao giờ nhàm chán hoặc buồn tẻ hết. Chúng ta
có thể kinh nghiệm được nó mãi mãi. Và sở dĩ chúng ta
có thể kinh nghiệm được nó mãi mãi bởi vì nó chính là
tự tánh của ta.
-ooOoo-
Không
Có Một Cây Tùng Rực Lửa
*
Annie
Dillard đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với tôi vào
những năm tôi mới bắt đầu bước chân vào con đường tu
tập. Tôi đã đọc quyển Người Hành Hương tại Con Suối
Tinker của bà rất nhiều lần. Trong quyển ấy có một đoạn
đã làm tôi xúc động thật mạnh. Bà ghi lại, có một lần
trong khi bà đi xuyên qua rừng, trên đường trở về căn nhà
gỗ của mình tại Con Suối Tinker, nơi đây bà sống suốt
một năm trời trong rừng vắng để tiếp xúc với thiên nhiên.
Rõ ràng là lúc ấy tâm bà rất tĩnh lặng, sự chú ý của
bà rất cao, và bà đang sống trong một trạng thái như tiếp
xúc được hết với mọi sinh vật có mặt chung quanh bà. Lẽ
dĩ nhiên, đây là một trạng thái tâm thức mà từ đó người
ta có thể có được những tuệ giác rất khác thường.
Ngày
hôm ấy trên đường trở về căn nhà nhỏ, bà chợt thấy
một cây tùng bên đường bốc rực lửa. Tôi biết, khi đọc
những dòng ấy, không phải bà muốn nói là cây tùng ấy đang
bốc cháy thật sự. Tôi nghĩ có lẽ bà muốn diễn tả cây
tùng ấy có tỏa ra một hào quang hoặc một ánh sáng chói
chang nào đó. Sự kiện ấy, tự chính nó, tôi nghĩ không có
gì là lạ thường hết, nhưng vì bà đã nhìn nó bằng một
con mắt khác thường. Bà diễn tả lại giây phút ấy như
có một năng lượng chuyển hóa rất lớn, và viết rằng bà
sống cho những ảnh tượng như vậy.
Và
tôi cũng muốn mình sẽ có được một cây tùng rực lửa
giống như thế. Tôi nghĩ rằng nếu tâm ta tĩnh lặng đủ,
nó sẽ bùng sáng lên như một ngày lễ lớn, có pháo bông
rực sáng trong nội tâm, không cần biết bên ngoài là đêm
hay ngày. Tôi nghĩ có lẽ tôi cũng ít nhiều đã bị ảnh hưởng
vì cuốn phim Yellow Submarine của ban nhạc the Beatles, trong màn
đầu mọi vật đang trắng đen đột nhiên trở nên đầy màu
sắc. Tôi muốn thế giới của tôi được bừng sáng, rực
rở màu sắc.
Khi
tiếp tục thiền tập, đôi khi tôi cũng có lúc kinh nghiệm
được những giây phút có những sự kiện thú vị xảy ra
trong thân và tâm. Có lúc tôi cảm thấy cơ thể mình lâng
lâng vui sướng, thân tôi rung động mạnh vì một niềm hoan
lạc, màu sắc chung quanh tôi dường như sắc sảo hơn, đường
viền của những chiếc lá chừng như rõ nét hơn. Thực phẩm
trong khóa tu có những hương vị thơm ngon hơn bình thường.
Nhưng nó không có nghĩa là một trái táo khô sẽ trở nên
mọng nước hơn. Một trái táo khô sẽ vẫn là một trái táo
khô, tôi biết vậy. Và hương vị ngọt ngào sẽ vẫn là hương
vị ngọt ngào, và tôi cũng biết vậy. Nhưng không có gì bốc
lửa, không có gì tỏa hào quang, và cũng không có một trời
hoa pháo nào xảy ra trong tâm tôi. Một hôm, sau nhiều năm tu
tập, trong một khóa tu thiền, tôi đi dạo ra bên ngoài tu viện
và ngồi xuống trên một chiếc băng gỗ cạnh cửa sau, chờ
vài phút cho đến giờ ăn trưa. Ngày hôm ấy trời có nhiều
sương mù và mây xám. Tu viện là một tòa nhà cũ kỹ nằm
yên trong một khung cảnh buồn tẻ. Trời tháng hai California
u ám và tẻ nhạt. Chiếc băng ghế ngồi lạnh lẽo. Phía trước
mặt tôi là một thân cây, vẫn còn trơ trọi vì những nụ
lá xanh chưa nở. Tôi tự nghĩ, "Không biết đây có phải là
cây tùng của mình không!"
Tôi
nhắm mắt lại và chú ý đến hơi hở của mình. Tôi cảm
thọ được thân mình đang ngồi trên chiếc băng ghế lạnh.
Tôi cảm thọ được không khí ẩm ướt chung quanh. Tôi cảm
thấy rất thư thái. Tôi bắt đầu thấy thích chiếc băng
ghế lạnh, tôi thích sự cứng chắc của nó, tôi thích hơi
sương lành lạnh chung quanh tôi. Tôi ý thức là mình đang có
hạnh phúc. Tôi thấy hơi đói nhưng vẫn thấy là hạnh phúc.
Rồi chuông báo hiệu giờ ăn trưa vang lên. Tôi nghe tiếng
chuông, tôi thích âm thanh ấm áp ấy, nhưng tôi không cảm
thấy một sự thúc đẩy nào bảo tôi phải đứng dậy để
đi vào trong nhà sắp hàng. Tôi vẫn ngồi yên đó. Đột nhiên,
tôi ý thức được đây là một kinh nghiệm khá đặc biệt,
và sự kiện là không có một sự thúc đẩy nào khởi lên
trong tôi bắt tôi đi làm một chuyện khác, là phi thường
lắm. Đây là một tiếng chuông kêu gọi tôi đi vào nhà làm
một công việc thú vị hơn, trong một khung cảnh ấm cúng
hơn, và dù vậy trong tâm tôi không hề có một ý muốn nào
khởi lên bảo tôi phải thay đổi hoàn cảnh hiện tại của
mình. Tôi hoàn toàn mãn nguyện. Tôi tự nghĩ, "Hay thật! Mãn
nguyện là một trạng thái tâm thức kỳ diệu nhất. Nó khác
thường vô cùng." Tôi lại nghĩ tiếp, "Có lẽ đây là giây
phút giác ngộ của tôi. Có lẽ nếu tôi mở mắt ra, thân
cây trước mặt tôi sẽ ngời sáng và tỏa chiếu hào quang."
Tôi rụt rè nhút nhát, từ từ mở mắt ra. Thân cây trước
mặt tôi vẫn không có một chút gì thay đổi, nó vẫn thật
tầm thường. Nhưng tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Thỉnh
thoảng trong tôi cũng vẫn còn có một ước vọng về một
cây tùng rực lửa. Thường thường, những lúc nào tôi cảm
thấy thật tĩnh lặng và an lạc, tôi lại có một ý nghĩ,
"Cảm giác này thật kỳ diệu, có lẽ bây giờ là lúc cây
tùng bốc lửa của mình xuất hiện đây!" Nhưng chuyện ấy
chưa bao giờ xảy ra! Mà thật ra tôi nghĩ đó cũng là một
điều may mắn cho tôi. Nếu tôi có thấy được một lần,
nó chắc chắn sẽ không kéo dài lâu và rồi cũng qua đi, nhưng
tôi lại bắt đầu tìm kiếm để mong được thấy thêm một
cây tùng khác nữa. Nó sẽ thành một chướng ngại lớn.
Những
cây tùng rực lửa ấy hiếm hoi và khó mà xảy ra lắm. Nhưng
những giây phút an lạc thì có thể có mặt trong mỗi giây
mỗi phút trong cuộc đời. Thật ra, mỗi giây phút của ta
đều có tàng chứa sự an lạc. Sở dĩ ta không tiếp xúc được
với chúng, cũng bởi vì tâm ta vẫn chưa dừng lại đó thôi.
-ooOoo-
Ba
Con Dấu Của Thực Tại
*
Đức
Phật có nói đến ba sự thật về những kinh nghiệm trong
cuộc sống, về tất cả những kinh nghiệm trong cuộc sống
của ta. Chúng bảo đảm sẽ đem lại cho ta hạnh phúc và an
lạc nếu ta có thể thật sự hiểu được chúng. Thật ra
thì ba sự thật ấy rất là hiển nhiên, mỗi khi tôi đem ra
dạy, người ta thường hay nói, "Chỉ có vậy thôi sao? Ai mà
lại không biết việc đó!" Đúng vậy, chúng là những sự
thật hết sức bình thường, và mọi người có lẽ ai cũng
đều biết chút ít về chúng. Nhưng tôi tin rằng điều quan
trọng trên phương diện tu tập là ta phải hiểu cho thật
thẳm thấu, làm thế nào để chúng có thể giúp ta bớt sợ
hãi hơn và có hành động từ ái hơn.
Ba
sự thật ấy còn được gọi là ba con dấu, trong kinh điển
gọi là Tam Pháp Ấn, là ba đặc tính của mọi kinh nghiệm
trong cuộc sống của ta: anicca, dukkha và anatta. Anicca có nghĩa
là vô thường, tất cả mọi việc đều biến đổi không
ngừng. Không có gì trên đời này là có thể tồn tại mãi
được. Sự việc hiện lên từ một chân trời giả tưởng
mà ta gọi là "tương lai," chúng đi qua như những kinh nghiệm,
và biến mất vào trong một khoảng trống không mà ta gọi
là "quá khứ." Và ngày hôm qua của ta cũng nằm trong cùng với
một khoảng trống không như cuộc Thế Chiến vừa qua. Dukkha
có nghĩa là sự không vừa lòng, bất toại nguyện. Vì chung
quanh ta không có gì là bền vững, không một nơi nào cho ta
an nghỉ, nên cuộc sống là một chuỗi dài của những sự
điều chỉnh liên tục để đi tìm hạnh phúc. Và con dấu
thứ ba, Anatta, có nghĩa là vô ngã, không có một thực thể
riêng biệt. Nó có nghĩa là tất cả những kinh nghiệm của
ta chỉ là một dòng sông trôi chảy không ngừng nghỉ, nó
khởi lên, hiển lộ ra, và rồi biến mất đi. Và chỉ là
vậy! Ý niệm cho rằng có một người nào đó riêng biệt
đứng bên ngoài nhìn dòng sông ấy, chỉ là một ảo tưởng
mà thôi.
Nếu
những sự thật ấy quá đơn giản và ai cũng biết, thì tại
sao chúng ta phải cần đến sự tu tập làm gì? Nói cho cùng,
trong chúng ta có những người có tuệ giác một cách tự nhiên.
Nhưng còn đa số chúng ta, một cái biết kiến thức dường
như vẫn là chưa đủ. Sự tu tập vì vậy rất cần thiết,
vì nó có thể đem lại cho chúng ta một cái thấy sáng suốt
và sâu sắc, và nó còn có một tác dụng chuyển hóa nữa.
Trong kinh điển, sự chuyển hóa này còn được gọi là một
sự phát triển tuệ giác. Bạn không thể nhìn thấy được
tuệ giác, nhưng bạn có thể thấy được những phản ảnh
của chúng. Những phản ảnh của chúng chính là sự an lạc,
không sợ hãi và lòng từ ái của bạn.
-ooOoo-
Như
Bọt Nước, Sương Mai
*
Trên
một chuyến xe buổi sáng ở Massachusetts, tôi một mình với
chú tài xế trên đường đến phi trường Logan. Chú trông
cũng trạc tuổi tôi nên tôi đoán có lẽ chú cũng đã có
con, cháu. Chỉ trong vài phút, chúng tôi đã thăm hỏi nhau hết
về những chi tiết cần thiết - có bao nhiêu con cháu, trai
hay gái, mấy tuổi. Và rồi chúng tôi lại bàn tiếp đến
sự kỳ diệu của tính chất di truyền, như là màu tóc đỏ
của ông nội và tánh nhút nhát ghê gớm của dì nó đã biểu
hiện thật rõ ràng nơi đứa cháu trai bốn tuổi.
Vui
miệng, câu chuyện tự nhiên từ đó bắt sang những niềm
hạnh phúc: đứa cháu trai của chú là một diễn viên, cháu
trai tôi biết nói tiếng Thụy Điễn, gia đình của chú ai
cũng biết thương và lo lắng cho nhau, gia đình tôi cũng thế.
Và sau một hồi, chúng tôi lại sang đến những khó khăn:
đứa nào có những vấn đề về sức khỏe, về công ăn việc
làm, về chuyện vợ chồng...
Tôi
để ý thấy rằng cuộc đời của chúng ta ai cũng giống như
nhau, có những niềm hạnh phúc và nỗi khổ đau tương xứng,
chỉ duy có tên tuổi nhân vật là thay đổi mà thôi. Chú gật
gù đồng ý và mỉm cười, khi nhớ lại một kỷ niệm xưa.
"Chúng tôi vui lắm," chú kể, "diện quần áo thật kẻng cho
mấy đứa con nít để đi lễ. Đứa lớn nhất được mười
chín tuổi khi em nó mới sanh, cả gia đình tôi cùng bước
vào một lượt trông thật đẹp mắt, tất cả là tám người.
"Ngày
lễ Giáng Sinh," chú tiếp tục, "đó mới thật là nhộn nhịp.
Vào lúc ấy cái gì thấy cũng là quan trọng vô cùng, và bây
giờ nhìn lại thì như là chưa từng xảy ra. Tôi đã làm việc
cho sở bưu điện hơn ba mươi bốn năm trời, trước khi về
hưu và bắt đầu lái xe, mà bây giờ nhìn lại cũng thấy
dường như chuyện sở bưu điện ấy cũng chưa xảy ra bao
giờ!"
Kinh
Kim Cang đã diễn tả sự thật ấy rất hào hùng, khuyên ta
nên nghĩ đến "cuộc sống vô thường" này như là "mộng huyễn,
như bọt nước, như sương mai, như ánh chớp" (Nhất thiết
hữu vi pháp, như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ, diệc như
điển, ưng tác như thị quán.) Những học trò của tôi, đôi
khi cũng gặp khó khăn với những ý niệm như là sự trống
không hoặc là không có một thực thể riêng biệt. Vì trong
giây phút này mọi vật thấy dường như là rất thực, rất
quan trọng và rất vững chắc. Tôi nghĩ, có lẽ vì sự dũng
mạnh của ý kinh hoặc những hình ảnh ví dụ đã làm cho
họ bị rắc rối. Chỉ cần chiêm nghiệm lại kinh nghiệm
của chính cuộc đời mình, ta sẽ biết rằng những điều
kinh nói là sự thật.
-ooOoo-
Anicca:
Vô Thường
*
Anicca
là chân lý về vô thường, về cái tự tánh thay đổi và
biến chuyển liên tục của mọi kinh nghiệm. Lẽ dĩ nhiên,
chúng ta ai mà lại không biết rằng sự vật sẽ thay đổi,
rằng không có gì là tồn tại mãi mãi. Tôi không biết một
người nào mà lại thích đi gặp nha sĩ, nhưng chúng ta ai cũng
đã phải đi, và ít nhiều gì cũng tương đối cảm thấy
thoải mái, cho dù có vấn đề gì đi chăng nữa. Và tôi dám
chắc là sẽ không ai dám đi gặp nha sĩ nếu mỗi buổi hẹn
đều kéo dài vô tận, không biết khi nào ta mới được bước
ra khỏi phòng thuốc. Chúng ta biết là việc gì rồi cũng sẽ
đổi khác, cái gì rồi cũng sẽ qua, những khi mình đi gặp
nha sĩ. Nhưng trong cuộc sống, đôi khi ta lại quên việc ấy,
nhất là khi mình bị bối rối. Buồn rầu làm ta bối rối,
mất mát và muộn phiền làm cho ta sợ hãi. Nếu chúng ta có
thể giữ cho tâm mình được trong sáng một chút thôi, và
ý thức được rằng cái gì cũng chỉ là tạm thời, chúng
ta sẽ có thể đối diện với những hoàn cảnh phức tạp,
khó khăn bằng một sự ung dung.
-ooOoo-
Cái
Này Rồi Cũng Sẽ Qua
*
Đứa
con thứ tư của tôi chào đời khi đứa đầu tiên được
năm tuổi. Tôi rất vui mừng với hoàn cảnh của mình, và
niềm hân hoan ấy tràn ngập tâm tôi. Tôi vẽ hàng chữ "Cái
này rồi cũng sẽ qua," trên khung cửa nhà bếp. Và ngày ấy
cũng đã trôi qua. Bây giờ hồi tưởng lại những ngày tháng
đó tôi cảm thấy thật nhiều thương nhớ. Khi tôi hiểu được
thời gian lướt qua rất nhanh và những việc trong đời tôi
đã trôi ngang như một bóng mờ, tôi chợt ý thức rằng ngày
mai đây khi thức dậy, nhìn lại mình tôi sẽ thấy đã già
tám mươi tuổi. Khi mẹ chồng tôi đã lớn tuổi, bà ta thường
hay thở dài và nói, "Mới quay lưng một chốc mà rồi xong
hết!" Tôi thường nghĩ đó chỉ là kinh nghiệm cá nhân của
bà về cuộc đời. Bây giờ thì tôi biết đó là sự thật.
-ooOoo-
Không
Có Sự Dễ Chịu Nào là Lâu Dài
*
Căn
nhà tôi đang ở cũng đã được một trăm tuổi. Khi chúng
tôi mới dọn vào, ở trước cửa chánh có một hàng rào để
vịn tay dọc theo những bậc thang dẫn lên nhà. Những người
chủ trước, các cụ đã lớn tuổi, dọn đến một căn nhà
khác dễ dàng cho sự ra vào của họ hơn. Vì hàng rào vịn
tay ấy trông không được đẹp mắt cho lắm, và chúng tôi
vẫn còn trẻ trung, khoẻ mạnh, lúc vừa mới dọn vào chúng
tôi đã cho người tháo gỡ nó xuống.
Mới
đây, chúng tôi đã cho dựng gắn chiếc hàn rào vịn tay ấy
lên lại. Chúng tôi chưa cần đến nó nhưng đa số bạn bè
chúng tôi cần. Điều thật lạ lùng là tôi có cảm tưởng
như là mình mới tháo gỡ nó xuống ngày hôm qua đây thôi!
Nếu tôi kể lại một câu chuyện về cuộc đời vô thường,
bắt đầu bằng, "Cuộc đời tôi trôi qua như bóng mây..."
thì tôi có thể trở thành bi quan. Lòng thương cảm phải được
sử dụng để giúp ta trân quý giây phút hiện tại này hơn
thì mới có ích lợi. Còn nếu ta chỉ biết thương nhớ, tiếc
nuối về những gì mình đã bỏ lỡ, chúng sẽ chỉ trì kéo
ta xuống thêm mà thôi.
Phyllis
là một trong những người mà tôi biết ngày nay phải cần
đến chiếc hàng rào vịn tay ấy. Mười năm trước khi mới
gặp chị, chị có thể lên xuống những bậc thang trước
nhà tôi hết sức dễ dàng. Bây giờ cơ thể chị quá mỏng
mảnh, chị phải cần đến một chiếc ghế đặc biệt mới
có thể ngồi thoải mái. Tuần rồi, trong khi sắp xếp lại
mấy chiếc gối dựa lưng cho chị, tôi hỏi, "Chị có cảm
thấy dễ chịu hơn không?"
"Đở
lắm," chị trả lời một cách nuối tiếc, "nhưng không có
sự dễ chịu nào là được lâu hết!"
-ooOoo-
Dukkha:
Bất Toại Nguyện
*
Khi
ta nói, "Cuộc đời này không toại nguyện," việc ấy có vẻ
hơi thiếu lịch sự, như là chúng ta đang phàn nàn về một
cái gì. Tôi nhớ khi lên lớp Ba, tôi bị cô giáo phê "Không
vừa ý" trong mục "Làm việc và chơi đùa với bạn." Bây giờ
mỗi lần nghĩ lại tôi vẫn còn cảm thấy hơi bất mãn. Tôi
nghĩ, có lẽ tôi bị điểm xấu vì khi so sánh với những
người khác, họ đã làm việc và chơi với nhau hay hơn tôi.
Nhưng làm sao mà cuộc sống lại có thể là "không toại nguyện"
được? Ta so sánh nó với cái gì đây?
Con
dấu thứ hai của những kinh nghiệm trong cuộc sống là sự
bất toại nguyện, tức dukkha. Đức Phật dạy rằng sự bất
toại nguyện cơ bản nhất của ta phát sinh từ một ý thức
về sự vô thường. Đáng lẽ điều ấy phải khai phóng ta
mới phải! Vì khi ta "hiểu" được tính cách tạm bợ của
mọi vật, ta cũng sẽ "hiểu" là nếu mình bám víu vào bất
cứ một cái gì, chẳng những hành động ấy hoàn toàn vô
ích mà còn sẽ mang lại cho ta nhiều khổ đau nữa.
Không
một việc gì mà có thể tồn tại mãi được. Có lần tôi
hướng dẫn một khóa tu dài một tuần cho toàn những thiền
sinh mới. Đa số những phương pháp thiền tập, kể cả phương
pháp thiền quán mà tôi hướng dẫn, đều bắt đầu bằng
cách yêu cầu mỗi người chú ý đến cảm thọ của hơi thở.
Lý do là vì chúng ta ai cũng thở, hơi thở rất bình dị và
ai cũng có thể cảm nhận được nó rất dễ dàng. Biết chú
ý vào kinh nghiệm của hơi thở sẽ đem lại cho ta sự tĩnh
lặng và một khả năng tập trung sáng tỏ.
Tôi
cố diễn đạt những lời hướng dẫn của tôi sao cho mọi
người có thể chú ý và kinh nghiệm được sự biến đổi
liên tục đang xảy ra trong họ và chung quanh họ. Tôi cố ý
làm việc ấy. Vì hy vọng của tôi khi hướng dẫn mọi người
là không những họ sẽ được trở nên tĩnh lặng, mà còn
phát sinh được tuệ giác, và sẽ tự chứng nghiệm được
những chân lý giải thoát mà đức Phật đã dạy. Tôi nói
những lời như, "Khi bạn đặt sự chú ý của mình vào kinh
nghiệm của hơi thở, bạn hãy nhớ ghi nhận sự sinh lên và
diệt đi của chúng. Hể cái gì có sinh thì sẽ có diệt."
|