|
.
ÐẠI NIỆM
XỨ
Thiền
sư U Silananda - Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch Việt
Như
Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ 1999
 |
 |
[04]
Quán
Sát Pháp Trong Pháp
Ðến
đây chúng ta đã nghiên cứu ba trong bốn niệm xứ đó là:
Quán sát thân (hay niệm thân), quán sát thọ (hay niệm thọ),
quán sát tâm (hay niệm tâm). Bây giờ chúng ta bắt đầu nói
đến phần quán sát cuối cùng đó là quán sát pháp (hay niệm
pháp).
Quán
sát thân hay niệm thân là quán sát cơ thể vật lý hay phần
vật chất của cơ thể. Quán sát thọ là quán sát những gì
mà tâm kinh nghiệm được: "khổ, lạc, vô ký" của cảm giác
vật chất. Quán sát tâm cũng còn được gọi là quán sát
những sự việc thuộc về tâm, tâm sở. Quán sát pháp là
quán sát cả hai, vật chất cũng như tinh thần. Nếu xét theo
ngũ uẩn thì quán thân là quán sát sắc uẩn, quán thọ là
quán sát thọ uẩn, quán tâm là quán sát thức uẩn và quán
pháp là quán sát cả năm uẩn.
Chữ
dhamma được phiên âm là "pháp" chứ không dịch bởi vì thật
khó tìm ra một chữ bao trùm trọn vẹn nghĩa của chữ dhamma.
Chữ dhamma thường được dịch là những "đối tượng của
tâm". Ðiều này không chính xác cũng không rõ ràng bởi vì
đối tượng của thiền được nói đến trong Chương này
thuộc về hai nhóm thân cũng như tâm. Khi "đối tượng của
tâm" có ý nghĩa là đối tượng hay đề mục của tâm, thì
cơ thể cũng là đối tượng của tâm, cảm thọ và tâm cũng
là đối tượng của tâm. Khi "đối tượng của tâm" mang ý
nghĩa là đối tượng thuộc về phần tâm, thì vấn đề là
vật chất cũng là một trong những đối tượng quán niệm.
Vậy tốt nhất là để nguyên chữ dhamma, đừng dịch; hãy
cố gắng hiểu nghĩa chữ dhamma nói đến trong kinh Ðại Niệm
Xứ này.
Trong
Chương "Niệm Pháp" này, chúng ta sẽ nói đến: "năm chướng
ngại", "ngũ uẩn thủ", "sáu căn, sáu trần", "Thất giác chi",
"Tứ Diệu Ðế". "Năm chướng ngại" thuộc về tâm. "Ngũ uẩn
thủ" thuộc về vật chất và tâm. "Sáu căn, sáu trần" thuộc
về vật chất và tâm. "Thất giác chi" thuộc về tâm, và "Tứ
Diệu Ðế" bao gồm cả vật chất và tâm.
A.
Năm Chướng Ngại
Bất
kỳ bạn làm việc gì, bạn đều cảm thấy có một vài loại
chướng ngại hay cản trở cần phải vượt qua. Chướng ngại
là những yếu tố gây bất lợi cho việc hành thiền. Nó che
lấp hay cản trở khiến thiền sinh không thể tập trung tâm
ý được.
Ðức
Phật đã nói đến chướng ngại như sau :
Ở
đây này các tỳ khưu, tỳ khưu quán sát pháp trong pháp qua
năm chướng ngại:
Thế
nào là thầy tỳ khưu quán pháp trong pháp qua năm chướng ngại?
Thế nào là năm chướng ngại?
1.
Tham ái
Ở
đây, này các tỳ khưu, khi tham ái có mặt thầy tỳ khưu biết
rằng: "Có tham ái trong tôi", hay khi tham ái vắng mặt, thầy
tỳ khưu biết: "Không có tham ái trong tôi", thầy tỳ khưu
cũng biết lý do tham ái chưa sanh được sanh khởi, thầy tỳ
khưu cũng biết lý do tham ái đã sanh bị diệt trừ, thầy
tỳ khưu cũng biết lý do tham ái đã được diệt trừ không
còn khởi sanh trong tương lai.
Phần
dạy trên đây của Ðức Phật đã chỉ dẫn cho chúng ta cách
thức đương đầu với "tham ái". Tham ái là chướng ngại
đầu tiên trong mục này. "Tham ái" có nghĩa là tham luyến,
dính mắc vào những đối tượng giác quan. Có thể dùng nhiều
danh từ để chỉ trạng thái này như tham ái, dục ái, tham
lam, dính mắc, ái dục... Tất cả những chữ trên đều chỉ
sự tham luyến vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (pháp
ở đây nói đến cả sắc pháp lẫn danh pháp). Khi tham ái
hiện khởi trong tâm thiền sinh, thiền sinh biết: "có tham ái
trong tôi". Trong lúc hành thiền nếu có những tư tưởng tham
lam, tham dục, luyến ái hay dục vọng khởi lên thì bạn phải
ý thức sự có mặt của những tham ái này. Bạn phải ý thức
rằng đang có tham ái hiện diện trong bạn và ghi nhận hay
niệm thầm: "tham lam, tham lam, tham lam" hay "dính mắc, dính mắc,
dính mắc" hoặc: "muốn, muốn, muốn".
Chữ
"có mặt" ở đây có nghĩa là một vật gì đó đang hiện
hữu vì nó đã xảy ra nhiều lần. Ý nghĩ tốt hay ý nghĩ
xấu (thiện tư duy hay tà tư duy) không thể xuất hiện cùng
lúc. Những tư tưởng này không thật sự có mặt vào lúc
thiền sinh ghi nhận hay biết được chúng bởi vì tư tưởng
không thể có mặt cùng lúc với sự nhận biết tư tưởng.
Nhưng những tư tưởng này được gọi là hiện hữu vào lúc
thiền sinh quán sát chúng bởi vì chúng khởi sinh lập đi lập
lại nhiều lần. Thực ra vào lúc thiền sinh quán sát các chướng
ngại này thì chúng đã ra đi rồi. Chúng tồn tại chỉ trong
một thời gian rất ngắn, có thể chỉ một phần giây. "Có
mặt" có nghĩa là cái gì xảy ra ngay trong chính sát na đó.
Bạn cần phải nhận ra cái gì có mặt, hiện hữu hay lập
đi lập lại nhiều lần. Khi tham ái có mặt, thiền sinh biết:
"có một loại tham ái như vậy trong tôi". Và khi tham ái vắng
mặt, thiền sinh cũng biết: "không có tham ái trong tôi".
"Vắng
mặt" ở đây có hai nghĩa: Trước hết, có nghĩa là không
hiện hữu vì không xảy ra hoặc đã bị loại bỏ. Thứ hai,
có nghĩa đơn giản là không khởi sinh. Hoặc là thoạt đầu
nó khởi sinh ở thiền sinh, khi thiền sinh quán sát nó, nó
liền biến mất. Khi nó đã biến mất thì có nghĩa là nó
vắng mặt. Ðôi khi thiền sinh cảm thấy tham ái vắng mặt,
đó chỉ có nghĩa là tham ái không khởi dậy trong tâm thiền
sinh. Ðôi lúc thiền sinh cảm thấy có tham ái, thiền sinh bèn
ghi nhận tham ái này. Khi ghi nhận như thế tham ái biến mất.
Thiền sinh bèn ghi nhận sự biến mất của tham ái. Bởi vậy,
ở vào trường hợp nào đi nữa bạn cũng phải chánh niệm
ghi nhận sự vắng mặt của tham ái khi tham ái vắng mặt.
Tỳ
khưu cũng biết lý do tham ái chưa khởi sinh nay được sinh
.
Có
những nguyên nhân làm khởi sinh tư tưởng thiện và tư tưởng
bất thiện. Chúng ta gọi chúng là "thái độ" hay "quan điểm".
Một cách tổng quát có hai loại mà chúng ta gọi là "tư duy
" hay "suy nghĩ". Chúng là "chánh tư duy" và "tà tư duy". "Chánh
tư duy" dẫn đến tư tưởng thiện và "tà tư duy" dẫn đến
tư tưởng bất thiện. "Tà tư duy" là suy tư không thích đáng,
suy tư tà vạy. Ðó là loại suy tư cho vô thường là thường
còn, cho sự bất toại nguyện là toại nguyện, cho sự vô
ngã là hữu ngã, và cho xấu xa là tốt đẹp. Bởi vậy, khi
bạn cho rằng một vật nào đó là trường cửu, toại nguyện,
có bản chất đẹp đẽ, đáng yêu, đáng quyến luyến thì
bạn có sự "tà tư duy". Những sự suy nghĩ trên được gọi
là tà vì nó là nguyên nhân khiến cho những tư tưởng bất
thiện khởi sinh. Như vậy, tà tư duy là nguyên nhân chính làm
khởi sinh tư tưởng bất thiện.
Chánh
tư duy là tư duy một cách chánh đáng, thích nghi, đúng theo
chánh đạo. Ðây là loại suy nghĩ cho vô thường là vô thường,
bất toại nguyện là bất toại nguyện, vô ngã là vô ngã,
xấu là xấu, không đáng yêu là không đáng yêu. Ðó là đường
lối đúng đắn để nhìn sự vật. Ðức Phật dạy rằng
mọi vật đều vô thường, bất toại nguyện và không có
bản chất. Bạn không nên dính mắc, tham luyến vào bất cứ
vật gì. Khi bạn nhìn sự vật theo cách này thì bạn có chánh
tư duy, suy niệm có trí tuệ hay có sự suy nghĩ chơn chánh,
sáng suốt. Ðó là suy nghĩ một cách đúng đắn, chính xác
hay có một quan niệm đúng đắn về sự vật.
Tham
ai khởi sinh trong bạn bởi vì bạn có " tà tư duy" hay có sự
suy tư không sáng suốt. Có những đối tượng làm điều kiện
hay tạo duyên cho tham ái phát sanh. Khi bạn nhìn một vật mà
bạn cho là đẹp, khả ái, rồi bạn tham luyến, dính mắc
vào vật này thế là tham ái phát sinh. Tham ái này phát sinh
vì bạn có thái độ sai lầm về sự vật. Bạn đã suy tư
không đúng đắn về vật này. Bởi vậy, mỗi khi tham ái phát
sinh trong tâm thiền sinh, thiền sinh phải ghi nhận rằng đang
có tham ái khởi sinh trong ta bởi vì ta suy tư không chính đáng.
Vì có quan điểm sai lầm về các đối tượng của giác quan
nên thiền sinh nghĩ rằng chúng trường cửu, toại nguyện,
có bản chất và đẹp đẽ. Khi hành thiền, thiền sinh phải
ghi nhận điều này và ý thức về chúng: "Bởi vì ta suy nghĩ
không sáng suốt nên tham ái này mới khởi sinh trong tâm ta".
Thầy
tỳ khưu cũng biết lý do tại sao tham ái đã sanh bị diệt
trừ.
Tham
ái có thể bị loại trừ bằng hai cách: Bằng cách quán sát
tham ái và bằng cách tạo ra một sự suy tư sáng suốt về
đối tượng, cho rằng đối tượng có bản chất ô trược.
Nghĩa là quán sát hay suy tư sáng suốt rằng đối tượng có
bản chất ô trược. Thiền sinh có thể đạt được các tầng
thiền nhờ quán sát sự ô trược.
Ðức
Phật dạy rằng cơ thể này chẳng đáng yêu, không tốt đẹp.
Suy tư một cách sáng suốt trên cơ thể này giúp ta loại bỏ
tham ái. Khi thiền sinh đạt được các tầng thiền lấy ý
niệm ô trược làm đề mục cũng có thể loại bỏ được
tham ái. Trong Thiền Minh Sát, bạn chỉ cần chuyên tâm chánh
niệm thì tham ái cũng bị loại trừ. Khi ý thức được sự
vắng mặt của tham ái, bạn biết được nguyên nhân của
sự biến mất tham ái này: "Nhờ ta có sự suy tư sáng suốt,
có thái độ đúng đắn hay có quan niệm đúng đắn về đối
tượng này nên tham ái sẽ biến mất".
Ðôi
khi thiền sinh ghi nhận nguyên nhân của sự biến mất tham
ái rồi thì thiền sinh cũng biết được lý do tại sao tham
ái đã được loại trừ này không xuất hiện nữa trong tương
lai. Ðiều này có nghĩa là khi thiền sinh trở thành một vị
Alahán thì tham ái đã được loại trừ sẽ không bao giờ
trở lại nữa.
Thầy
tỳ khưu cũng biết lý do tham ái đã được diệt trừ không
còn khởi sanh trong tương lai.
Thiền
sinh biết rằng nhờ đạt được đạo tâm, do nguyên nhân
đạo tâm, những phiền não đã bị loại trừ sẽ không bao
giờ trở lại nữa. Nhờ đạt đạo tâm, tham ái hoàn toàn
bị tận diệt. Ðiều này xảy ra khi thiền sinh đã đắc quả
Alahán. Thế nên, khi thiền sinh có tham ái, thiền sinh sẽ biết
tại
sao tham ái phát sinh. Thiền sinh biết được lý do tại sao
tham ái biến mất và thiền sinh cũng biết được lý do tại
sao tham ái đã bị loại trừ trong sát na hay loại trừ tạm
thời.
Bạn
phải làm gì khi tham ái phát sinh? Bạn hãy lấy tham ái này
làm đề mục hành thiền. Bạn trú trên tham ái . Bạn ghi nhận
tham ái này. Chỉ bằng cách ghi nhận thôi, tham ái sẽ biến
mất. Chú giải đã ghi ra sáu cách giúp cho thiền sinh loại
trừ tham ái. Thiền sinh có thể áp dụng sáu cách này khi thiền
sinh không hành Thiền Minh Sát:
1.
Thiền sinh có thể dùng đề mục "cơ thể ô trược", quán
sát xác chết hay niệm ba mươi hai thể trược. Thiền sinh
học hỏi rồi thực hành tốt đẹp loại thiền này thì có
thể loại bỏ tham ái.
2.
Thiền sinh có thể "thực hành đề mục ô trược cho đến
khi thiền sinh đạt được các tầng thiền". Khi thiền sinh
đạt được các tầng thiền, thiền sinh có thể loại trừ
được tham ái .
3.Thiền
sinh có thể "chế ngự lục căn". Nghĩa là thiền sinh chế
ngự mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm để không có một tư
tưởng bất thiện nào có thể khởi sinh qua sáu cửa này.
4.Thiền
sinh "Tiết độ trong vật thực". Tiết độ trong vật thực
sẽ giúp thiền sinh diệt trừ được tham ái. Khi bạn ăn quá
nhiều bạn sẽ có nhiều tham ái dục. Bạn cũng sẽ có nhiều
tham muốn về thực phẩm nữa. Bởi vậy, thiền sinh được
khuyên nên ăn vừa đủ. Còn khoảng bốn năm bụm nữa sẽ
no, thiền sinh hãy ngừng lại đừng ăn. Nhiều xứ Á Châu
tỳ khưu thường ăn bằng tay. Một nhúm tay thức ăn được
gọi là một bụm, thay vì ăn thêm bốn năm bụm nữa, thiền
sinh sẽ uống nước để thế vào. Ðiều này có nghĩa là
khi ăn tỳ khưu đừng dồn đầy bụng mà để chỗ cho nước.
Ăn chừng đó đã có đủ sự thoải mái để tỳ khưu tu hành
đạt đến Niết Bàn.
5.Thiền
sinh cần có một "người bạn tốt". Người bạn tốt đúng
nghĩa là người đi với ta trên đường giác ngộ. Người
Tây Phương gọi đó là "bạn tinh thần". Có bạn tốt là điều
rất cần thiết, vì người bạn tốt có thể khuyên bảo khuyến
khích ta, ta có thể học hỏi từ bạn và lấy bạn làm mô
mẫu cho mình noi theo. Bởi thế, một người bạn tốt, không
có tham ái, sẽ giúp thiền sinh loại trừ tham ái.
6.
Thiền sinh phải "có lời nói thích hợp". Muốn loại bỏ tham
ái, thiền sinh nên nói đến sự ô trược của cơ thể, nên
nói đến những hậu quả xấu xa của lòng tham ái...
2.
Sân Hận
Sân
hận ở đây có nghĩa là nóng nảy, giận dữ, cũng còn có
nghĩa là sự sợ hãi băn khoăn, phản kháng và không kiên nhẫn.
Khi
sân hận có mặt, thầy tỳ khưu biết, "có sự sân hận trong
tôi". Khi sân hận vắng mặt, thầy tỳ khưu biết "sân hận
vắng mặt trong tôi".
Có
hai loại tư duy. Khi tư duy không sáng suốt, bạn sẽ có sân
hận. Khi tư duy sáng suốt bạn sẽ không có sân hận. Trong
lúc hành thiền, sân hận thường phát sinh nơi thiền sinh.
Thiền sinh có thể sân hận với chính mình hoặc sân hận
với người khác. Chẳng hạn có ai làm ồn khiến thiền sinh
không thể tập trung tâm ý được thì chẳng bao lâu thiền
sinh sẽ bị bất an hay sân hận. Ðôi khi sân hận hay ác tâm
nổi lên bởi vì bạn nghĩ đến một người nào đó mà bạn
đã gây gỗ trước đây, và bạn cảm thấy tức giận người
đó. Bởi vậy, mỗi khi có những mối cảm xúc khởi sinh,
thiền sinh phải ý thức sự hiện diện của tâm sân hận
này và ghi nhận: Ta đang có sự sân hận hay chỉ ghi nhận
"sân hận, sân hận, sân hận". Khi ác tâm khởi sinh thì bạn
ghi nhận: "ác tâm, ác tâm, ác tâm". Bạn có thể ghi nhận
sự ghét hay đôi khi sự sợ hãi bằng cách ghi nhận: "sợ,
sợ, sợ". Bởi vì bạn đang ghi nhận sự sân hận và đang
niệm ba, bốn lần nên sân hận biến mất. Khi sân hận đã
biến mất, bạn phải ý thức sự biến mất này và ghi nhận:
không còn có sân hận nữa...
Tỳ
khưu cũng biết được lý do sân hận chưa sinh khởi nay được
sinh .
Hãy
suy tư một cách sáng suốt: "Mọi vật đều vô thường. Ðối
tượng của sự sân hận này cũng vô thường". Khi thiền sinh
hiểu biết và suy tư một cách sáng suốt trên sự vô thường
của các đối tượng sân hận này thì thiền sinh sẽ không
còn sân hận chúng nữa. Nhưng khi thiền sinh suy tư không sáng
suốt, thì thiền sinh sẽ bị những đối tượng này chi phối.
Bởi vậy, trong lúc hành thiền, bạn phải ghi nhận: "Ta có
sân hận bởi vì ta đã suy tư không sáng suốt, có thái độ
sai lầm đối với sự vật, có quan điểm sai lầm về sự
vật". Khi bạn ý thức được điều này tức là bạn ý thức
được nguyên nhân phát sinh sân hận.
Tỳ
khưu cũng biết được lý do những sân hận đã sinh được
loại trừ.
Khi
bạn có sự sân hận và ghi nhận sự sân hận này thì đồng
thời bạn cũng quán sát sự biến mất của nó. Khi sân hận
biến mất bạn ý thức được sự biến mất của sân hận.
Bạn biết được rằng sân hận biến mất nhờ bạn ghi nhận
nó. Cũng vậy, khi bạn suy tư một cách sáng suốt, đặc biệt
là hành thiền từ ái (mettaa), thì sân hận cũng biến mất.
Như vậy, suy tư sáng suốt là nguyên nhân diệt trừ sân hận.
Ngoài
Thiền Minh Sát, còn có sáu cách thực hành để loại trừ
sân hận:
1.
Tập "hành thiền từ ái" hay niệm tâm từ, tức là rãi tâm
từ ái, thân thiện đến tất cả chúng sanh.
2.
"Thực hành thiền từ ái cho đến khi đạt được các tầng
thiền", khi thiền sinh đạt được các tầng thiền, thiền
sinh có thể loại bỏ được sân hận.
3.
Suy nghĩ đến: "Nghiệp là gia tài của chúng ta". Suy nghĩ đến
nghiệp là gia tài của chúng ta là một sự suy tư rất quan
trọng với nhiều lý do. Khi bạn sân hận, bạn có thể tự
nhủ: "Ta đang giận dữ ai đây?". Bạn sinh ra trên thế gian
này là do kết quả của nghiệp trong quá khứ. Bạn cũng sẽ
tái sinh sau này tùy theo nghiệp mà bạn đã tích lũy trong hiện
tại. Bởi thế chúng sanh được sanh ra và chết đi tùy theo
nghiệp của họ. Bởi vì tùy theo nghiệp của mình mà chúng
sanh sinh ra hay chết đi nên bạn không có lý do gì để giận
dữ người nào. Người giận dữ chẳng khác nào kẻ đang
cầm hòn sắt nóng đỏ để ném người khác; chính người
giận dữ sẽ bị đau khổ trước khi làm cho người khác đau
khổ. Thế nên, thiền sinh hãy suy tư đến nghiệp của chính
mình để nhận lấy trách nhiệm. Ðời sống của chúng ta
được sắp xếp tùy theo nghiệp lực của chúng ta đã tạo.
4.
Hãy "suy tư đến sự tốt đẹp, lợi ích của lòng từ ái
(mettaa) và sự xấu xa nguy hại của tâm sân hận". Nghĩa là
cố gắng nhìn thấy những lợi ích mà lòng từ ái đã đem
lại và những bất lợi do sự nóng giận gây ra. Suy tư đến
sự tốt đẹp, lợi ích của lòng từ ái và sự xấu xa nguy
hại của tâm sân hận sẽ giúp thiền sinh loại bỏ được
sân hận, nóng giận, ác tâm.
5.
"Có bạn lành" (kalyaa.na mitta). Người bạn lành luôn giúp ta
loại bỏ những tư tưởng bất thiện, ở đây là loại bỏ
những tư tưởng sân hận. Một người có đầy lòng từ ái
có thể ảnh hưởng đến người khác khiến họ cũng có lòng
từ ái như mình. Bởi thế, khi thân cận với một người
bạn hay với một người đầy lòng từ ái thì ta có thể
loại trừ được tính nóng giận của mình. Ta có thể lấy
người bạn tốt làm mô mẫu cho mình noi theo.
6.
"Nói lời thích hợp". Là nói đến lòng từ ái, nói đến
những lợi ích do lòng từ ái đem lại và những tai hại do
sự sân hận gây ra. Lời nói thích hợp sẽ giúp loại bỏ
sân hận.
Tỳ
khưu cũng biết lý do những sân hận đã sinh được loại
trừ, tỳ khưu cũng biết được lý do những sân hận đã
được loại trừ không còn khởi sinh nữa trong tương lai.
Ðoạn
trên liên quan đến lúc thiền sinh đạt Ðạo Tâm. Khi thiền
sinh đạt được tầng Thánh thứ ba thì sân hận sẽ được
loại trừ hoàn toàn.
3.
Dã dượi buồn ngủ
"Dã
dượi buồn ngủ", hay gọi một cách đơn giản là buồn ngủ
có thể đến với thiền sinh bất kỳ lúc nào. Mọi người
chúng ta đều trải qua dã dượi buồn ngủ trong lúc hành thiền.
Khi
dã dượi buồn ngủ có mặt tỳ khưu biết "có dã dượi buồn
ngủ trong ta", hay dã dượi buồn ngủ vắng mặt tỳ khưu biết
"dã dượi buồn ngủ vắng mặt trong ta".
Khi
thiền sinh cảm thấy buồn ngủ thì thiền sinh phải cảnh
giác và ghi nhận sự buồn ngủ này. Thông thường chỉ cần
ghi nhận thì buồn ngủ sẽ biến mất. Khi buồn ngủ biến
mất, thiền sinh cũng phải ý thức sự biến mất này: "không
có dã dượi và buồn ngủ trong ta, dã dượi và buồn ngủ
đã biến mất".
Tỳ
khưu cũng biết nguyên nhân khởi sinh của dã dượi buồn ngủ
chưa sinh khởi.
Ở
đây một lần nữa sự suy tư không sáng suốt về tình trạng
chán nản, lười biếng, uể oải và trì trệ của tâm là
nguyên nhân gây ra dã dượi buồn ngủ. "Suy tư không sáng suốt"
có nghĩa là nghĩ rằng chán nản, trì độn, làm biếng, lề
mề... không đem lại tai hại gì cả. Thiền sinh có sự suy
tư sáng suốt và có thái độ đúng đắn đối với sự tinh
tấn có thể loại bỏ được dã dượi buồn ngủ. Bởi vậy,
khi bạn buồn ngủ bạn phải làm hai việc, trước tiên là
ghi nhận sự buồn ngủ của bạn: "buồn ngủ, buồn ngủ,
buồn ngủ". Tiếp đến là đẩy mạnh tinh tấn hay chú tâm
vào đề mục hành thiền. Nhờ tinh tấn, dã dượi buồn ngủ
có thể bị loại trừ. Khi dã dượi buồn ngủ đã được
loại trừ hay vắng mặt, thiền sinh biết rằng dã dượi buồn
ngủ đã bị loại trừ hay vắng mặt.
Tỳ
khưu cũng biết lý do của dã dượi buồn ngủ chưa sanh khởi
nay khởi sinh. Tỳ khưu cũng biết được lý do loại trừ dã
dượi buồn ngủ đã sinh, và Tỳ khưu cũng biết được lý
do dã dượi buồn ngủ đã được diệt trừ sẽ không khởi
sinh trong tương lai.
Dã
dượi buồn ngủ được loại trừ hoàn toàn khi đạt quả
Alahán. Chỉ khi nào đắc quả Alahán, thiền sinh mới hoàn
toàn loại trừ dã dượi buồn ngủ. Thiền sinh ý thức rằng
dã dượi buồn ngủ đã được loại trừ bởi vì thiền sinh
đã thực sự đạt được tầng Thánh cuối cùng này.
Dã
dượi buồn ngủ là hai dây trói buộc, hai tâm sở khác nhau
nhưng chỉ kể là một chướng ngại vì chúng có cùng công
năng, cùng nguyên nhân và cùng sự đối kháng. Dã dượi và
buồn ngủ có cùng công năng là "lười biếng", có cùng nguyên
nhân là "sự trì độn, biếng nhác", có cùng sự đối kháng
là "tinh tấn".
Có
sáu cách để tạm thời loại trừ dã dượi buồn ngủ:
1.
"Nhìn thấy nguyên nhân của dã dượi buồn ngủ là do ăn quá
no". Nghĩa là bạn phải biết rằng khi ăn quá no bạn sẽ cảm
thấy buồn ngủ. Khi bao tử đầy thức ăn thì nó sẽ cần
nhiều máu hơn nên lượng máu đưa lên não phải chạy vào
bao tử vì thế mà bạn cảm thấy choáng váng và buồn ngủ.
Biết được điều này bạn sẽ có tiết độ trong sự ăn
uống, và nhờ thế bạn có thể loại trừ dã dượi buồn
ngủ.
2.
"Thay đổi tư thế". Nếu bạn cảm thấy buồn ngủ trong khi
đang ngồi bạn có thể thay đổi tư thế. Bạn có thể đứng
dậy và hành thiền trong tư thế đứng hay bạn có thể đi
tới đi lui. Như vậy, do thay đổi tư thế bạn có thể loại
trừ dã dượi buồn ngủ .
3."Suy
nghĩ đến ánh sáng". Bạn có thể cố gắng để thấy ánh
sáng trong tâm bạn, ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng,
ánh sáng của các ngôi sao hay ánh sáng của đèn điện... Suy
nghĩ đến ánh sáng sẽ giúp bạn loại bỏ sự buồn ngủ.
Bạn chỉ cần nhắm mắt lại và cố gắng nghĩ đến ánh
sáng hay cố gắng nghĩ đến những vật gì sáng sủa. Bằng
cách này bạn có thể loại trừ dã dượi buồn ngủ.
|