Chương
2: Tu tập
Tu
tập thì không phải là
Nhiều
người tu tập và có khái niệm rõ ràng về thế nào là tu
tập và tu tập ra sao. Cái mà tôi muốn nhấn mạnh lúc
này là (từ nhiều góc độ khác nhau), thế nào tu tập thì
không phải là.
Đầu
tiên, tu tập thì không phải để tạo ra sự thay đổi về
tâm lý. Nếu chúng ta tu tập với sự hiểu biết tri thức,
chuyển biến tâm lý sẽ phát sinh; tôi không nghi ngờ về điểm
này — sự thật, nó rất kỳ diệu. Tôi muốn nói là,
sự tu tập được ra công để hướng về một mục đích
khác. Thay đổi tâm lý là sản phẩm phụ sẽ xảy ra
trên con đường đi đến mục đích đó. Nó không là
cứu cánh.
Tu
tập thì không phải để hiểu biết về bản chất vật lý
của thiên nhiên một cách tri thức, nguồn gốc cấu tạo và
vận hành của vũ trụ. Nếu tu tập nghiêm chỉnh, chúng
ta có chiều hướng sở đạt phần nào đó trong lãnh vực
này. Nhưng nó không phải là mục đích của tu tập.
Tu
tập thì không phải để đạt được trạng thái tĩnh lặng,
hạnh phúc, thấy viễn ảnh, màu sắc (xanh, đỏ, trắng, hồng..).
Tất cả những trạng thái này có thể và sẽ xảy ra nếu
chúng ta tọa thiền đúng và đủ tiến bộ. Nhưng đây
cũng không phải là mục đích cơ bản.
Tu
tập thì không phải để vun bồi cho có được công năng đặt
biệt. Có nhiều loại công năng và mỗi người dù ít
hay nhiều đều có nó một cách tự nhiên. Ở trung tâm
thiền này, tôi thĩnh thoãng có khả năng thấy được cách
hai ngăn phòng, người trong nhà trù sẽ chuẩn bị món ăn tối
là gì. Và nếu họ có món tôi không thích, tôi sẽ không
đến. Những khả năng như thế tuy có chút kỳ lạ nhưng
vẫn không phải là mục đích của sự tu tập.
Tu
tập thì không phải để rèn luyện Định lực cá nhân —
sức mạnh do rèn luyện trong tọa thiền nhiều năm. Định
lực cũng chỉ là sản phẩm phụ trong Tọa thiền chứ không
phải là cứu cánh.
Tu
tập thì không phải để có được những cảm giác sung sướng,
vui vẽ. Hoặc là để cho mình có cảm giác thánh thiện, đạo
đức. Lý do hay sản phẩm hay mục đích của tu tập không
phải là để luôn luôn được trầm tĩnh hay tập trung.
Một lần nữa, nếu chúng ta công phu nổ lực, thì những điểm
này sẽ xuất hiện nhưng nó không phải là điều trọng yếu.
Tu
tập thì không phải để luyện cho cơ thể tránh được bệnh
hoạn, hay ít đau đớn trong lúc có bệnh tật. Tư thế
ngồi có lợi cho một số người có được sức khỏe tốt
hơn, nhưng đôi khi có kết quả trái ngược. Nếu muốn
tìm cách để có được sức khỏe tốt hơn, thì tu tập Thiền
không phải là cách; mặc dù sau nhiều năm tu tập có nhiều
ảnh hưởng tốt cho sức khỏe của một số người, nhưng
không có gì làm bảo đãm cả.
Tu
tập thì không phải để đạt đến lãnh vực thông thái của
một người biết mọi chuyện, hay một người có khả năng
chinh phục con người và các vấn đề của thế gian.
Thiền sinh có thể hiểu rõ ràng hơn trong một số vấn đề,
nhưng người thông minh thông thường lại là người nói và
làm những chuyện ngớ ngẩn, đần độn. Quán triệt
thông thái vẫn không phải là đối tượng cả tu tập.
Tu
tập thì không phải để trở thành thánh thiện như là người
thế gian diễn tả. Nó thì không phải là gì cả. Vậy
trừ phi là, chúng ta thấy rằng, chúng ta không thể trở nên
“thiện lành”, thì chúng ta sẽ trở thành đối tượng cho
sự quyến rũ xa đọa và tai hại.
Tu
tập cũng không phải là phân loại sự việc tốt và xấu;
rồi loại bỏ tất cả những gì mà ta cho là “xấu” đi.
Xét cho cùng, không có gì là “Tốt” hay “Xấu” theo Chân
đế. Đấu tranh, đấm đá với tự thân để trở nên
là tốt, đó không phải là tu tập. Loại rèn luyện đó
là một hình thức tế nhị của sự đào tạo thân thể.
Chúng
ta có thể tiếp tục bản liệt kê về mặt này mãi mãi không
bao giờ dứt. Thật sự, bất cứ ai trong tu tập đều
có một số ảo tưởng trên. Chúng ta ai cũng mong thay
đổi, mong đến một nơi nào đó. Chính sự mong muốn
đó đã là sai lầm rồi. Hãy xem sét, suy tư lòng mong
muốn này để hiểu nó rõ ràng; chính quá trình tư duy đó
(về sự mong muốn) sẽ tác động làm thay đổi cuộc sống
của chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu hiểu thấu rằng,
lòng mong cầu của mình — sự thay đổi bản thân tốt hơn,
đạt đến nơi nào đó — là ảo tưởng, là nguồn gốc của
khổ đau.
Nếu
chiếc bè chở đầy những hy vọng, ảo tưởng, tham vọng
(đạt đến đâu, thánh thiện, hoàn mỹ, giác ngộ) bị lật
úp. Chiếc bè trống đó là gì? Chúng ta là ai? Chúng ta
nhận diện được gì trong ý thức hệ đời sống? Và cái
gì là tu tập?
Tu
tập là gì?
Tu
tập thì rất đơn giản. Nó không có nghĩa là, nó sẽ
không chuyển hướng cuộc đời và lối sống của chúng ta,
dù thế nào đi nữa, tôi muốn duyệt xét lại những gì chúng
ta làm trong lúc Tọa thiền. Nếu bạn nghĩ là bạn đã
vượt qua giai đoạn này, thì có thể không cần phải nghe
vậy.
Ngồi
thật ra là một hình thức đã được đơn giản hóa.
Cuộc sống hằng ngày của chúng ta là di động không ngừng:
nhiều sự cố xảy ra, nhiều cuộc đàm thoại, nhiều tiết
mục. Trong những thứ đó xoay quanh liên tục, chúng ta
khó mà cảm nhận được rõ về đời sống của mình là gì.
Khi ta đơn giản hóa hoàn cảnh (trong lối ngồi), tạm thời
chúng ta đặt mình vào vị thế tách rời cái thế gian mình
đang sống trong đó: từ tiếng điện thoại reo, truyền hình,
khách khứa, dắt chó đi bộ, .. cho chúng ta có cơ hội —
tin tưởng rằng đáng giá làm vậy — để đối diện với
chính mình. Thiền định không phải là cho một trạng
thái, mà là cho tự thân của hành giả. Nó không phải
là những hoạt động cụ thể, hoặc sửa chửa một điều
gì, hoặc hoàn tất một công trình gì; mà là cho chính bản
thân ta. Nếu chúng ta không đơn giản tình trạng đang
có, thì cái cơ hội nhìn thấy được bản tâm rất ư là
nhỏ — bởi vì chúng ta luôn luôn có chiều hướng nhìn những
thứ khác hơn là tâm mình. Mỗi khi có gì không ổn, chúng
ta nhìn vào những gì? Chúng ta nhìn xem cái gì bất ổn
và đổ lỗi cho người khác đã là nguyên nhân của cái tình
trạng sai trái của ta. Chúng ta luôn nhìn ra bên ngoài
trong mọi thời, chứ không bao giờ chịu nhìn vào bên trong.
Khi
tôi nói thiền định là hướng về người hành thiền, tôi
không có ý là chúng ta sẽ bị lôi cuốn vào sự tự phân.
Điều đó cũng không đúng. Vậy thì chúng ta làm cái gì?
Khi
chúng ta có một tư thế tốt nhất — vừa dễ chịu và thăng
bằng, chúng ta chỉ ngồi và tọa thiền. “Chỉ ngồi”
là như thế nào? Nó là nhu cầu cần thiết nhất trong
tất cả mọi sinh hoạt. Thường thường trong thiền định
chúng ta không nhắm mắt lại. Nhưng ở giai đoạn lúc
này, tôi mong bạn hãy nhắm mắt và chỉ ngồi đó. Cái
gì đang xảy ra? Đủ tất cả mọi thứ. Một bắp
cơ co nơi vai trái, sức ép tăng dần ở nơi hông.. Chú
ý mặt của bạn một chút. Cảm giác nó. Nó có chổ
nào bị gồng cứng lên không? Nơi vùng miệng, nơi vùng trán?
Di chuyển xuống một chút. Cảm giác ở phạm vi chung
quanh cổ của bạn. Kế đến là hai bên vai, sau lưng,
trước ngực, vùng bụng, hai cánh tay, hai vế. Tiếp tục
cảm giác bất cứ những gì bạn có thể cảm giác được.
Cuối cùng là cảm giác cái hơi thở ra và vào. Đừng
điều khiển nó, chỉ cảm nhận nó thôi. Bản
năng đầu tiên của ta là muốn điều khiển nó. Hãy
để nó tự nhiên, nó có thể vào đến ngực hoặc nó có
thể đi sâu xuống vùng bụng, nó có thể căng phồng.
Chỉ kinh nghiệm hơi thở như-nó-là. Chỉ cảm giác nó
thôi, cảm tất cả về hơi thở. Nếu chiếc xe chạy
ngang qua, nghe tiếng xe. Nếu phi cơ bay qua, nhận biết
điều đó. Bạn có thể nghe tiếng máy lạnh chạy và
ngừng, chỉ nhận biết thế. Chỉ vậy thôi, đó là tất
cả những gì bạn cần phải làm, một cách triệt để tất
cả những gì bại phải làm: kinh nghiệm những thứ đó
và bám chặt theo nó. Bây giờ bạn có thể mở
mắt ra.
Nếu
bạn có thể làm như thế thôi, liên tục không bị gián đoạn
trong vòng ba phút thời gian thì đã là một điều kỳ diệu
lắm rồi. Thông thường sau chừng một phút là chúng ta bắt
đầu suy nghĩ. Sở thích của chúng ta về những diễn
tiến ở hiện tại (những gì chúng ta đang làm) thật là tệ.
“Thầy muốn nói tất cả những thứ này là Tọa thiền đó
sao?” Chúng tôi không thích vậy. “Chúng tôi đi tìm
sự giác ngộ kia mà, phải không?” Sự thật ở hiện
tại chừng như không hấp dẫn đối với chúng ta chút nào
cả. Dường như là không! Chúng ta muốn suy nghĩ.
Chúng ta muốn lo lắng về tất cả mọi sự việc mà đang
làm cho ta suy tư. Chúng ta muốn giải đáp và sắp đặt
đời sống. Do đó, trước khi chúng ta biết được những
điều đó; chúng ta đã hững hờ đánh mất cái cuộc sống
hiện tại đang có của mình ngay bây giờ; chúng ta luôn thả
hồn theo những thứ như: bạn bè, người tình, con cái, việc
làm, nỗn lo lắng đang tồn tại trong tâm hồn .. Thật
ra không có gì là tội lỗi khi phát sinh những mơ mộng, chỉ
là khi chúng ta đắm chìm trong đó, chúng ta mất đi những
thứ giá trị khác. Khi chúng ta đắm say trong suy nghĩ,
trong mơ mộng, chúng ta mất những gì? Chúng ta mất
phút giây hiện tại; đời sống đã rời khỏi tầm tay của
chúng ta rồi.
Đây
là những gì con người đang làm; không phải chúng ta chỉ
thỉnh thoãng làm, mà chúng ta luôn luôn làm vậy. Tại
sao chúng ta làm thế? Dĩ nhiên, bạn đã biết câu trả lời.
Chúng ta làm thế vì bởi chúng ta đang luôn cố gắng bảo
vệ bản ngã của mình; chúng ta muốn thoát khỏi những khó
khăn hiện đang có, hoặc là ít nhất hiểu được nó. Không
có gì sai đối với tâm vị kỷ, chỉ là khi chúng ta đồng
hóa với chúng, thì hiện cảnh đời sống về sự thật của
chúng ta bị khuất lấp. Vậy chúng ta nên làm gì khi tư
tưởng nổi lên? Chúng ta nên đặt tên (Niệm) tư
tưởng. Nên cụ thể trong khi Niệm: không phải
là ở mức độ hời hợt như là “suy nghĩ, suy nghĩ” hoặc
“lo lắng, lo lắng” mà cho một cái tên chi tiết hơn.
Thí dụ: “Có tư tưởng là cô ta sao hống hách quá.” “Có
tư tưởng là anh ta xử thế bất công với tôi.” “Có tư
tưởng là tôi không bao giờ làm việc gì đúng.” Nên cụ
thể. Nếu tư tưởng tuông ra lẹ quá chúng ta không thể
niệm kịp được gì cả, ngoại trừ sự mơ hồ, thì đặt
tên mớ hổn loạn kia là “mơ hồ”. Nhưng nếu bạn
kiên trì thử tìm đời sống của từng chập tư tưởng, sớm
muộn gì rồi bạn sẽ bắt được.
Khi
chúng ta tu tập theo cách này, chúng ta học làm quen với chính
mình, cuộc sống của mình vận hành ra sao, chúng ta đang phản
ứng thế nào với nó. Nếu ta nhận thấy được vài
loại tư tưởng trổi dậy hàng trăm lần, là chúng ta biết
được vài điều về chính mình mà ta đã chưa từng biết
trước đây. Có thể là trước đây, chúng ta cứ triền
miên lang bạt vào quá khứ hay tương lai. Một số người
thì hay nghĩ về những sự kiện đã xảy ra; cũng có người
thích nghĩ về người khác; hoặc là có người thích luôn
luôn nghĩ về bản thân mình. Một số người chỉ muốn không
ngừng phê phán người khác. Chỉ khi nào chúng ta lập
Niệm tư tưởng của mình ít nhất bốn hay năm năm, thì may
ra ta mới có thể hiểu được phần nào về chính mình.
Khi chúng ta niệm tư tưởng một cách chặc chẽ và chính xác,
thì cái gì sẽ xảy ra đối với chúng (tư tưởng)? Chúng
sẽ thưa dần. Chúng ta đâu cần phải đàn áp để loại
bỏ nó. Khi nó bớt nổi lên, chúng ta quay trở lại với
sự kinh nghiệm về thân và hơi thở; và cứ thế mà tái lập
Niệm lần này sang lần khác. Mặc dù tôi đã nhấn mạnh
rất nhiều lần, nhưng tôi dẫn cảm thấy không bao giờ đủ;
chúng ta không những lập lại cái chu kỳ này ba lần, thậm
chí mười-ngàn lần; và khi ta làm như vậy, cuộc đời
của ta sẽ biến chuyển. Đó là trên lý thuyết
đã mô tả về tọa thiền. Nó đơn giản; không có gì
là phức tạp cả.
Bây
giờ hãy lấy một thí dụ cụ thể trong đời sống.
Giả sử bạn làm việc trong một xưởng kỷ nghệ hàng không,
và bạn được biết rằng (do tin tức hay lời đồn) hợp
đồng hiện có với chính phủ xắp hết hạn và có thể sẽ
không được tái lập. Bạn tự bảo lấy mình, “Tôi
sẽ bị mất việc. Tôi sẽ không có tiền lương để
lo cho gia đình. Thật là khốn khổ!” Cái gì sẽ xảy
ra đây? Đầu óc bạn sẽ lẫn quẫn với vấn đề này.
“Rồi đây sẽ ra sao? Tôi phải làm sao?” Đầu óc bạn
sẽ quay cuồng càng lúc càng nghiêm trọng hơn với sự lo lắng.
Không
có gì là không đúng về việc trù định cho tương lai; chúng
ta phải kế hoạch, dự kiến. Nhưng khi chúng ta bị hổn
loạn, chúng ta không chỉ kế hoạch, mà chúng ta còn bị nó
ám ảnh. Chúng ta bóp méo, vặn vẹo vấn đề theo hàng
ngàn lối khác nhau. Nếu chúng ta không hiểu biết đường
lối của tâm lo lắng biến chuyển ra sao, thì làm sao biết
được cái gì sẽ xảy ra sau đó? Tư tưởng sẽ
tạo ra cảm giác và cảm giác sẽ làm cho chúng ta càng bị
dao động hơn. Tất cả những cơn dao động cảm
quan đều do tâm tạo. Và nếu chúng ta cứ để tiến
trình này xảy ra trong khoảng thời gian dài, chúng ta sẽ bị
bệnh tật về thân thể và suy nhược về thần kinh.
Nếu tâm không duy trì bảo quản hoàn cảnh với sự tỉnh
giác, thì thân thể sẽ làm thay cho nó. Thân thể này
sẽ nói, “Nếu bạn không lo gì về hiện trạng này, tôi
nghĩ tôi sẽ phải làm vậy.” Và nó sẽ làm bằng phản
ứng của riêng nó, bằng cách phát sinh: cảm cúm, phát ban,
nổi mụn, loét bao tử,.. hoặc là gì đó tùy theo kiểu cách
của mỗi cá nhân. Một cái tâm không tỉnh giác thường
tạo ra bệnh tật. Đây không phải là sự chỉ trích.
Tôi không biết một người nào mà không từng bệnh qua, kể
cả bản thân tôi. Khi sự lo lắng trở thành quá to tát,
chúng ta gầy dựng lên biết bao khó khăn, chướng ngại cho
chính mình. Với sự tu tập đều đặn, chúng ta sẽ bớt
được vấn đề này dần dần. Bất cứ gì mà chúng
ta không hoặc có sự chú tâm, đều tạo ra quả tương ưng,
trên phương diện này hay khía cạnh khác.
Từ
góc độ nhân sinh, những gì xảy ra không tốt trong đời sống
của chúng ta có thể chia ra làm hai loại. Một loại là
những sự kiện xảy ra ở bên ngoài ta, và loại kia là những
biến chuyển tác động bên trong, ví dụ như là bệnh hoạn
trên thân. Cả hai điều là sự tu tập của chúng ta,
và có thể giải quyết cùng một chiều hướng giống nhau.
Chúng ta lập Niệm tất cả những gì xảy ra chung quanh chúng,
và kinh nghiệm chúng trên thân thể cả chính mình. Quá
trình đó là thực chất của sự tu tập Thiền.
Nói
về điểm này thì thật là dễ dàng, nhưng để làm được
tốt thì thật là cực kỳ khó khăn. Tôi chưa biết được
lấy một người có thể làm được trọn vẹn trong mọi lúc.
Tôi có biết một ít người có thể làm tốt trong khoảng
thời gian nào đó. Nhưng khi chúng ta dụng công theo pháp
tu này, trở nên tỉnh thức về mọi sự kiện tác động vào
cuộc đời chúng ta (cả bên trong lẫn bên ngoài), thì cuộc
đời của chúng ta sẽ biến đổi. Khi chúng ta có được
khả năng, trí tuệ nội quán, và ngay cả sự giác ngộ, thì
nó cũng đơn giản là kinh nghiệm về bản chất chân thật
của đời sống vô phân biệt, như-nó-là. Vốn không
có gì là huyền bí cả.
Nếu
bạn là người mới bắt đầu tu tập thiền, điều rất quan
trọng cần nên hiểu rằng, chỉ đơn giản ngồi vào tọa
cụ trong mười-lăm phút là một sự chiến thắng to lớn cho
chính mình rồi. Chỉ ngồi với tư thế hoa sen, và có
mặt trong hiện tại ở đây là sự bắt đầu tốt lắm rồi.
Nếu
chúng ta sợ ở trong nước và không biết bơi lội, thì chiến
thắng đầu tiên sẽ là khi ta nhúng mình vào trong nước; rồi
bước kế tiếp là ngâm mặt dưới mực nước. Nếu chúng
ta là người bơi lội tài giỏi thì thử thách có thể là
đưa tay vào trong nước với góc độ nào đó và đánh bơi.
Vậy có nghĩa là người bơi lội này tài giỏi hơn người
kia chăng? Không đúng! Cả hai đều là người hoàn hảo ở
mức độ của mình. Tu tập ở bất cứ trình độ nào
cũng là hiện hữu với mình trong phút giây này, mà không có
nét phán xét tốt xấu, giỏi dỡ. Thỉnh thoãng
sau buổi nói chuyện của tôi có người nói, “Tôi không hiểu
những điều đó.” Và điều đó cũng tốt nữa. Trình
độ hiểu biết của chúng ta sẽ tăng trưởng theo thời gian
tu tập, nhưng ở bất cứ thời điểm nào chúng ta đều nên
là chính mình, ở mức độ và khả năng hiện tại vào điểm
đó.
Chúng
ta bắt đầu học được rằng, duy chỉ có một cá thể trong
đời mà chúng ta có thể tùy thuộc hay nương tựa vào.
Cá thể đó là gì? Chúng ta có thể nói, “Tôi trông
cậy nơi người hôn phối của tôi.” Chúng ta có thể
thương yêu người vợ hoặc người chồng của mình; nhưng
chúng ta không thể nào hoàn toàn nương tựa vào họ; bởi
vì những người khác (giống như bản thân của chúng ta) thì
luôn luôn ở một chừng mức nào đó không đáng tin cậy.
Đương nhiên, chúng ta có thể thương yêu hay thân thiện với
người khác; nhưng không có một cá nhân nào trên cõi đời
này mà chúng ta có thể hoàn toàn tin cậy được. Theo
góc độ nhìn này, chúng ta có thể nương tựa vào cái gì
trong đời sống, nếu đó không là một con người? Tôi
đã từng hỏi nhiều người, có một lần cô ta nói, “Bản
thân tôi.” Bạn có thể nương tựa nơi bản thân mình
không? Trông cậy vào tự thân thì rất tốt, nhưng một
cách hiển nhiên nó thì rất là giới hạn.
Có
một “tư tưởng hệ” trong đời sống là bạn có thể luôn
luôn (nếu không muốn nói là tuyệt đối) tùy thuộc vào:
Trạng thái của thực chất đời sống. Hãy phát triển
quan điểm này rõ ràng hơn. Giả sử có những gì đó
mà tôi thật sự rất là mong muốn: Có lẽ, tôi muốn chắc
chắn kết hôn với một người nào đó, hoặc lấy được
bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ, hoặc có được đứa con ngoan, khõe
mạnh. Nhưng biến diễn cuộc đời lại có thể xảy
ra một cách hoàn toàn trái ngược lại những gì tôi mong muốn.
Chúng ta không thể nào biết chắc được rằng chúng ta sẽ
kết hôn chính xác với một người nào đó. Nếu được
như ý, người đó có thể bị chết đi ngày mai. Chúng
ta có thể hoặc không thể lấy được bằng cấp cao học.
Có thể là sẽ có, nhưng chúng ta không thể tính được là
có lúc này. Chúng ta không thể nào dựa vào bất cứ
một điều gì cả trong tương lai ở trong phút giây hiện tại.
Đời sống thì luôn luôn thay đổi theo chiều hướng riêng
của nó. Vậy tại sao chúng ta không thể nương
tựa vào sự thực? Có gì khó khăn đâu về điểm này?
Tại sao chúng ta lại bức xúc như vậy? Giả dụ như
căn nhà bạn mới vừa bị san bằng bởi một cơn địa chấn,
và bạn mất một cánh tay, và mất sạch cả số tiền tiết
kiệm của một đời làm việc. Bạn có thể nào tùy
thuộc vào sự thật cuộc đời như-nó-là không? Bạn có thể
chấp nhận hoàn cảnh này không? Nếu không, bạn có thể
thay đổi khác hơn không?
Tin
tưởng vào dòng sống cuộc đời (nó xảy ra theo chiều hướng
của nó) là một bí quyết sinh tồn, cũng là để đạt được
sự bình thản nội tâm. Nhưng chúng ta không muốn
nghe như thế. Tôi tuyệt đối tin tưởng rằng cuộc đời
tôi ở năm tới sẽ thay đổi, sẽ khác hơn, nhưng theo chiều
hướng của nó (có thể tốt hơn hay xấu hơn). Nếu ngày
mai tôi bị vỡ mạch tim, tôi có thể chấp nhận nó, bởi
vì nếu tôi bị thì tôi bị vậy thôi! Tôi có thể bình
thản trôi theo dòng đời như-nó-là.
Khi
chúng ta làm một việc gì (ví như làm việc thiện), trong tư
tưởng của chúng ta có một cái “Tôi” hiện hữu (giống
như Krishnamurti nói trong nhiều cuốn sách Thiền của ông),
thì rồi mọi việc không còn suông sẽ nữa. Đó là lý
do tại sao chúng ta phải luôn Chánh Niệm, để giữ cái việc
làm độc lập mà không bị dính theo bởi nhân ngã. Khi
chúng ta tu tập đủ lâu, chúng ta có thể nhận thấy được
rằng, tư tưởng cũng chỉ là cảm xúc (đối tượng) giác
quan của Ý căn, giống như âm thanh đối với Nhĩ căn hay hình
sắc đối với Nhãn căn. Và chúng ta có thể nhận diện
tâm ta biến chuyển theo từng giai đoạn của dòng vận hành
từ lúc phát sinh: ban đầu, chúng ta luôn tin là tư tưởng
của ta là thật, cho nên chúng ta nảy sinh lòng luyến đắm
tự kỷ; từ đó ta nhìn đời qua cái lăng kính Tự kỷ ám
thị đó. Do đó, ta không còn thấy người và cảnh một
cách trung thực nữa; bởi vì chúng ta bị kẹt cứng trong lăng
kính tự kỷ kia rồi. Bản thân của tư tưởng chỉ là
đối tượng giác quan (Ý căn), là một mãnh vỡ không tròn
vẹn của một năng lượng lớn hơn, có vậy thôi. Nhưng
chúng ta lại sợ khi thấy thực chất của tư tưởng là thế.
Khi
chúng ta thiết lập Niệm, là chúng ta bước lùi ra sau một
bước để tạo nên một khoãng cách. Chúng ta tách rời
(tạm thời) sự tiếp xúc với đối tượng giác quan.
Có sự khác biệt to tát giữa hai tên cho cùng một niệm, “Cô
ta thật phi lý” và “Có một tư tưởng rằng cô ta thật
là phi lý.” Nếu chúng ta kiên trì lập Niệm cho mỗi
tư tưởng, thì bộ mặt giả tạo của cảm giác sẽ bị rớt
xuống, chỉ còn trơ trẽn một mãnh vỡ của năng lượng không
tên mà chúng ta không còn lý do gì để bị vướng mắc vào.
Nhưng nếu chúng ta nghĩ tư tưởng đó là thật, chúng ta sẽ
bị nó sai khiến. Nếu chúng ta làm theo sự điều khiển
của nó, thì cuộc sống của chúng ta sẽ bị xáo trộn.
Một lần nữa tôi muốn nói, tu tập là chúng ta phải thực
hành Niệm ở lãnh vực này mãi cho đến khi nào nó trở thành
một bản năng thứ hai của chúng ta. Tu tập không phải
là đạt đến sự nhận thức trong đầu, nó phải do thực
tập để thể nhập vào thói quen (vào tới xương tủy) của
chúng ta. Dĩ nhiên chúng ta phải có tư tưởng-tri thức:
làm theo cách hướng dẫn nấu ăn, làm sao lợp mái nhà, dự
kiến cho cuộc nghĩ hè. Nhưng chúng ta vốn không cần
sự hoạt động của cảm giác tự kỷ trong lúc làm những
việc này. Đó không phải là suy nghĩ; nó là sự lầm
lạc của suy nghĩ.
Thiền
là do đời sống mà có, nó nên thể nhập vào đời sống.
Khi chúng ta biết được tâm ta và cảm giác mà do sự suy nghĩ
tạo ra, chúng ta có chiều hướng nhìn và ứng xử về sự
việc trước mặt, trong cuộc đời tốt hơn. Thiền là
một đời sống tích cực, chớ không thụ động ngồi ì ra
đó không làm gì cả. Nhưng tất cả mọi hành động
của chúng ta đặt bản chất của thực tế. Khi nào chúng
ta có cách hành xử dựa trên nền tảng của phương thức
suy nghĩ sai lầm (tức bị điều kiện hóa — méo mó bởi
cảm giác tự ngã), thì đó là những hành động không phù
hợp với pháp. Khi chúng ta thấu suốt được sự vận
hành của tư tưởng, chúng ta có thể thấy được chúng ta
cần nên làm gì.
Những
gì chúng ta đang làm, không phải sửa lại bản năng của chúng
ta, mà là giải phóng chúng ta ra khỏi vòng kềm tỏa của bản
năng tự ngã, bằng cách thấy được rằng, tự ngã là không
thật có. Nếu sửa lại nó, thì chỉ là tiến trình thay đổi
bằng cách nhảy từ căn tù này sang qua căn tù khác, rồi lế
lối phản ứng và cách hành xử vẫn như cũ. Giả dụ,
tôi có một lập trình gọi là, “Tôi thiếu tự tin.”
Và tôi quyết định tôi sẽ thay đổi nó trở thành, “Tôi
có tự tin.” Thì cả hai lập trình không thể nào đứng
vững dưới sự tác động thay đổi của dòng thác lũ cuộc
đời; bởi vì có cái “Tôi” trong đó. Cái “Tôi”
rất là dễ vỡ, không thật — và dễ dàng bị lừa dối.
Sự thật vốn không có cái “Tôi”. Cái điểm quan trọng
là thấy nó trống rỗng, ảo tưởng; chứ không phải là muốn
phân hủy nó. Khi tôi nói, nó trống rỗng là ý nói, nó
không có thực chất; nó chỉ là sản phẩm do tư tưởng tự
kỷ tạo ra.
Tu
tập Thiền thì không bao giờ đơn giản như là nói về nó.
Ngay cả một thiền sinh đã có được một mớ hiểu biết
về phương pháp, và đã tu tập qua một thời gian, vẫn có
xu hướng nhảy vọt qua phần cơ bản. Nhưng khi chúng
ta ngồi tốt thì mọi thứ khác nương theo đó mà thể nhập,
tuần tự, và trôi chảy. Do đó, không khác gì giữa người
đã ngồi năm năm, hai-mươi năm, hay mới bắt đầu, là phải
ngồi đúng đắn và tỉ mỉ.
Ngọn
lửa của sự Chú tâm
Khoảng
năm 1920, khi ấy tôi chừng tám hay mười tuổi và sống ở
New Jersey. Nơi đó mùa đông thì lạnh lắm, chúng tôi
phải có lò sưởi than trong nhà. Đó là sự kiện dễ
nhớ; trong khu phố mỗi khi chiếc xe vận tải đến từng nhà
để cung ứng than vào từng kho than của mỗi nhà. Tôi
được biết có hai loại than trong kho: than hầm mỏ (than đá)
và than bùn (than mềm). Cha tôi bảo rằng sự khác nhau
là sự cháy của than ra sao. Than đá cháy rất sạch và
để lại rất ít tro; còn than mềm thì lại khác nó để lại
rất nhiều tro. Khi than bùn được dùng thì lò trở nên
đầy lọ và một ít có thể bay lên trên lầu và phòng khách.
Mẹ tôi chắc chắn sẽ có vài lời về vấn đề này.
Vào buổi tối, cha tôi sẽ phải tấn ngọn lửa, và tôi cũng
học cách làm thế. Ngăn ngọn lửa nghĩa là bao chung quanh
một lớp than rồi đóng cửa thông hơi lên trên ống thổi
hơi nóng, vậy là lửa phải cháy ở độ thấp. Đêm
đi qua thì nhiệt độ trong nhà sẽ lạnh xuống; buổi sáng
ngọn lửa sẽ được khơi lên và ống thông hơi sẽ được
mở ra để đi lên ống thổi, sưởi ấm nhà.
Những
thứ này có dính dáng gì với sự tu tập của chúng ta?
Tu tập là để cắt đứt sự vướng mắc vào cái tự ngã.
Cái quá trình này đôi khi được gọi là thanh lọc tâm.
“Thanh lọc tâm” không có nghĩa là chúng ta trở thành thánh
thiện hoặc trở thành một người khác hơn là chính mình;
nó chỉ có nghĩa là từ bỏ đi những gì ngăn trở chúng ta
sống cách tốt nhất — giống như lò sưởi được đốt
với than đá. Nhưng không may là những gì trong chúng ta
chỉ toàn là than bùn. Trong quyển kinh thánh có nói: “Con
người giống như ngọn lửa trong lò luyện kim.” Đó
là sự tương tợ có thể tìm thấy trong các tôn giáo khác.
Tọa thiền qua một khóa tu học giống như ngồi trên ngọn
lửa của lò luyện kim. Thiền sư Eido có một lần nói,
“Thiền đường này không phải là một thiên đường hạnh
phúc, mà nó là một cái buồng cháy dùng để đốt sự ít
kỷ, sự mê mờ, ngu dốt.” Thiền đường không
phải là một nơi cho ta hạnh phúc và thư giản, mà là cái
lò chuyên đốt tính ít kỷ, mê muội. Dụng cụ nào chúng
ta cần phải dùng? Chúng ta ai cũng biết nhưng lại rất ít
khi dùng đến. Nó được gọi là “sự chú tâm.”
Sự
chú tâm là thanh kiếm. Trong sự tu tập của chúng ta nên dùng
thanh kiếm này càng nhiều càng tốt. Không ai thích dùng
thanh kiếm này; nhưng khi ta dùng — dù trong vài phút ngắn
ngủi — thì nó có tác dụng tức thì. Tất cả mọi
sự thực hành đều không ngoài mục đích tăng trưởng khả
năng chú ý này, không phải chỉ trong lúc tọa thiền, mà là
trong từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trong lúc chúng ta ngồi, chúng ta hiểu thấu rằng tiến trình
khái niệm tư tưởng khởi sinh là không thật; và càng hiểu
rõ vấn đề này thì khả năng chú ý vào thực trạng của
chúng ta càng nhạy bén. Tổ Hoàng Bá có nói: “Nếu bạn
có thể, chỉ cần thu dọn tư tưởng khái niệm, thì bạn
sẽ có cơ hội hoàn tất chuyện lớn. Nhưng nếu bạn
chỉ tìm hiểu phương pháp, mà không thực hành thu dọn tư
tưởng khái niệm trong một chớp mắt, mặc dù bạn phấn
đấu trong thời gian dài vô tận (kiếp sống này sang kiếp
sống kế tiếp), bạn sẽ không bao giờ hoàn thành vấn đề
sanh tử.” Chúng ta “dọn dẹp tư tưởng khái niệm”
khi — bằng cách duy trì quán sét — chúng ta nhận diện cái
bản chất không thật của tư tưởng tự kỷ. Được
vậy, chúng ta trở về bản thể của mình, điềm tĩnh và
không còn bị tác động bởi chúng. Đó không có nghĩa
là chúng ta trở thành người lạnh lùng vô cảm. Mà là,
chúng ta không còn bị vướng mắc và lôi cuốn vào trong vòng
lẫn quẫn của hoàn cảnh hổn loạn chung quanh.
Đa
số người trong chúng ta thì không làm được vậy. Vừa
bắt đầu một ngày của cuộc sống, là chúng ta khám phá
ra, là chúng ta không có sự điềm tĩnh chút nào cả.
Chúng ta có quá nhiều ý kiến từ cảm giác và luôn phê phán
về mọi sự việc; cảm giác của chúng ta rất dễ bị người
tổn hại. Chúng ta không có một chút nào gọi là “điềm
tĩnh và không dễ bị tác động” bởi điều kiện chung quanh.
Vậy, rất ư là tối quan trọng ghi nhớ rằng, mục đích chính
yếu của khóa tu học là để thiêu đốt tư tưởng bằng
ngọn lửa chú tâm, để cuộc sống của chúng ta có thể trở
nên “điềm tĩnh và không còn bị tác động” bởi điều
kiện bên ngoài. Tôi nghĩ không có ai trong chúng ta ở
đây làm được việc này trọn vẹn. Nhưng sự tu tập
của chúng ta là để làm việc đó. Nếu chúng ta thật
sự hoàn tất sự đốt cháy những vướng mắc, thì không
cần phải tọa thiền làm gì cả. Nhưng tôi không nghĩ
là có ai có thể nói thế. Chúng ta cần khoảng thời
gian thích hợp mỗi ngày để tọa thiền, để chú ý xem cái
gì đang xảy ra trong thân và tâm của mình. Nếu chúng
ta không ngồi thường xuyên, chúng ta không thể nào thấu hiểu
được cách áp dụng nó một cách triệt để vào những công
việc trong đời sống hàng ngày, như rửa xe, nói chuyện với
quản lý trong văn phòng, vv…
Tổ
Lâm Tế nói, “Chúng ta không thể tháo gỡ Nghiệp trong quá
khứ ngoại trừ sống trong giây phút hiện tại. Khi mặc
áo thì mặc áo. Khi đi bộ thì đi bộ. Đừng có
một ý tưởng nào trong tâm về việc đi tìm Phật tánh.”
Một lần có người hỏi tôi, “Joko, có bao giờ thầy nghĩ
là sẽ đạt đạo và chứng ngộ rốt ráo chăng?” Tôi
trả lời, “Tôi hy vọng là một ý tưởng như thế đừng
bao giờ nảy sinh trong tâm tôi.” Không có thời gian hay
địa điểm đặt biệt cho sự giác ngộ bùng nổ. Tổ
Hoàng Bá nói, “Không có gì phân chia giữa Chân lý tuyệt
đối và thế giới cảm giác.” Nó không ngoài, đậu
xe, mặc áo, tản bộ. Nhưng nếu than bùn (vọng tưởng)
là thứ mà ta đang đốt, thì chúng ta sẽ không đi đến đâu
cả. Đốt than bùn cũng giống như ta đốt đời ta trong
vọng tưởng. Chúng ta không thể chặt đứt những rau
mơ, rễ má khi chúng ta đụng độ chúng. Mà thủ phạm
lại chính là cảm giác chấp thủ của chúng ta đối với
điều kiện chung quanh. Ví dụ, xếp của bạn muốn bạn
làm một việc gì thật là phi lý. Trong phút giây đó,
sự khác biệt là loại than nào ta nên đốt? Hoặc là
bạn phải đi tìm một việc làm mới — nhưng những việc
làm chúng ta có thể được toàn là việc làm mà chúng ta không
thích cả. Hoặc là, đứa con của bạn bị vướng vào
sự rắc rối ở trường.. Đối phó với những tình
trạng này, sự khác biệt là chọn loại than gì để đốt?
Nếu không có được sự thấu hiểu về sự khác biệt, chúng
ta đã phí bỏ bao thời gian cho khóa tu học rồi. Phần
lớn chúng ta đến đây để đi tìm Phật tánh (hay Tánh giác).
Nhưng Tánh giác chính là làm cách nào xử thế đối với xếp
ở sở làm hay với con cái ở nhà, với người mình yêu hoặc
người hôn phối, hay bất cứ ai. Cuộc sống của chúng
ta thì luôn luôn là tuyệt đối: Nó lúc nào cũng là một tổng
thể trọn vẹn. Sự thật không ở nơi nào khác.
Nhưng chúng ta lại có cái tâm (Vô minh) luôn cố gắng nghiền
nát quá khứ hoặc ngấu nghiến tương lai. Sống với
(đối diện) hiện tại — Phật tánh — thì chúng ta luôn
tránh né.
Khi
ngọn lửa trong lò được tấn than chung quanh, nếu bạn muốn
ngọn lửa lớn mạnh thì phải làm gì? Bạn phải cho
không khí vào. Chúng ta cũng là ngọn lửa vậy; khi
tâm lắng dịu, chúng ta có thể thở sâu hơn và không khí
đi vào phổi nhiều hơn. Chúng ta đốt trọn vẹn
những gì đi vào, và hành động của chúng ta cũng phát sinh
từ ngọn lửa vô nhiễm đó. Thay vì cố phân tích trong
đầu để tìm một phương thức hành xử; chúng ta chỉ cần
sự trong sáng tự thân, và trong sự trong sáng đó ta thấy
được ta sẽ phải làm gì. Tâm lắng dịu bởi vì chúng
ta quán sát nó thay vì lặn ngụp trong nó. Sau khi hơi thở
trở nên sâu, đó là lúc ngọn lửa đốt hữu hiệu nhất,
không có thứ gì mà không bị đốt sạch; khi đó ngay cả
cái Ngã cũng không thể tồn tại nổi, tất cả trong ngoài
trở thành một, không còn cái Ngã cách ngăn.
Chúng
ta không thích chấp nhận là chúng ta chỉ là thật thể vật
lý; nhưng toàn thể của sự chuyển hóa của tọa thiền là
ở phương diện vật lý. Nó không phải là phép mầu
gì xảy ra trong đầu của ta. Khi chúng ta đốt than bùn,
là chúng ta đang xử dụng tâm không đúng; do đó những mơ
mộng, ý kiến, tham vọng, suy đoán, phân tích làm nghẹt, trói
buộc ta — và chúng ta vùng vẫy một cách vô vọng mong tìm
một hành động đúng để thoát ra khỏi cái vũng lầy đó.
Khi cuộc sống chúng ta có trắc trỡ, chúng ta cố gắng làm
gì? Chúng ta ngồi đó, phân tích nó, nghiền ngẫm nó, suy luận
nó. Những việc đó không giải quyết được gì cả.
Cách giải quyết là nhận biết tâm lý sai lầm của mình —
nó không phải suy tư thật sự. Chúng ta quan sát tư tưởng
cảm giác. “Vâng, tôi không thể hiểu cô ta! Cô ta thật phi
lý!” Chúng ta chỉ nhận biết, nhận biết, nhận biết.
Rồi thì tâm và thân ta sẽ lắng dịu, ngọn lửa có cơ hội
bùng lên, cháy sạch những vướng mắc tạo chỗ trống cho
suy tư thật sự làm việc, và khả năng thấy được hành
động thích hợp nhất cho vấn đề hiện tại hiện ra.
Tính linh động là một nghệ thuật được sinh ra từ ngọn
lửa chú tâm cao độ đó.
Chúng
ta muốn suy nghĩ, suy đoán, mơ mộng, giải quyết vấn đề,
biết được bí mật vũ trụ. Khi chúng ta ở trong trạng
thái đó, cũng giống như ngọn lửa đang bị tấn một lớp
than bùn thiếu không khí. Rồi chúng ta ngạc nhiên tại
sao chúng ta bị bệnh, tinh thần lẫn thể xác. Hệ thống
cháy bị nghẹt, hơi nóng không ra chỉ có bụi bặm và lọ
thôi; và lọ than không chỉ làm cho ta dơ, nó còn làm bẩn
những thứ khác. Vậy rất là quan trọng để tọa thiền
mỗi ngày, nếu không thì, do sự hiểu biết lờ mờ thì sẽ
làm ngọn lửa trong tâm lúc nào cũng bị bao phũ (thiếu không
khí). Chúng ta phải tọa thiền mỗi ngày — mười phút
vẫn tốt hơn không ngồi gì cả. Khóa tu cũng rất quan
trọng cho những hành giả tích cực; ngồi mỗi ngày có thể
giúp ngọn lửa cháy ở độ thấp, nhưng ít khi (không có nghĩa
là không có) nó bùng lên thành ngọn lửa xanh.
Vậy
hãy tiếp tục với khóa tu. Không có điều gì mà bạn
không gặp trước khi bạn có được sự thành tựu: giận
dữ, ganh tị, hạnh phúc, buồn chán. Quan sát tự thân
trong lúc bạn bị vướng mắc để cảm thấy buồn cho chính
mình; ngay trong lúc chấp chặt vào phiền não, hay vào hoàn
cảnh tăm tối của cuộc đời. Đó là diễn kịch của
đời bạn. Sự thật mà nói, chúng ta rất thích thú tuồng
kịch của đời mình thật là nhiều. Người ta kể cho
tôi nghe là, họ muốn siêu thoát những khó khăn của họ;
nhưng khi họ lặn ngụp trong những rau mơ rễ má của chính
họ, mà họ vẫn muốn gìn giữ, ôm ấp cái thế giới giả
tạo mà họ đang có. Chúng ta yêu thích tuồng kịch cuộc
đời của chúng ta. Chúng ta thích phàn nàn, khổ sở và
rên rĩ (và các thứ tình tiết bi đát triền miên). “Thật
là khổ sở! Tôi cô đơn quá! Không ai yêu tôi cả.”
Chúng ta vui vẽ với mớ than bùn của chúng ta. Nhưng những
cù cặn sau quá trình cháy vỡ có thể để lại những thãm
kịch cho tôi và cho bạn. Hãy thực tập tốt.
Thúc
đẩy cho Kinh nghiệm tự chứng
Dòng
chữ mà tôi thích nhất trong Trung Dung Lục: “Trên một cội
cây héo tàn, có một bông hoa đang nở.” Khi tất cả
sự vướng mắc và lòng tham dục bị phân hóa, Trí tuệ và
lòng bi mẫn phát sinh. Đây là trạng thái giác ngộ. Theo
tôi, không có người nào hoàn toàn sống trong trạng thái này;
hoặc có vài người đạt được lãnh vực này trong lịch
sử nhân loại. Nhưng chúng ta lầm lẫn giữa người có
công năng đặt dị và người chứng quả giác ngộ. Vậy
hãy nhìn vào cái tiến trình của sự giác ngộ, mà dụng công
theo con đường ngược.
Trở
thành bậc giác ngộ hoàn toàn (và có lẽ trên giả thuyết),
thì sẽ thể nhập tuyệt đối. Không có gì trong vũ trụ
có thể sánh bằng, Nam mô đại bổn sư, “Thể nhập với
Chứng Quả Bồ Đề”. Bạn và tôi không thể nói cái
này hoàn toàn thích hợp với mọi thứ. Chúng ta có thể
làm là, cố gắng, nổ lực tận hết khả năng để làm (tu
tập). Nhưng chỉ vị Phật mới là người có thể nói
điều đó (thể nhập Chân lý), không còn bị giới hạn và
cách biệt với mọi vấn đề trong vũ trụ.
Trước
khi giác ngộ triệt để, thì người đó phải đạt đến
trạng thái ung dung tự tại thật sự. Dĩ nhiên người
này vẫn còn giới hạn (theo vật lý), hạn chế (theo tinh thần),
cho nên ở một chừng mực nào đó trạng thái (tự tại) này
sẽ bị gãy (tới tột đỉnh của nó). Tuy nhiên, đó
chỉ là sự hòa hợp thân và tâm (tự chủ), kỳ diệu và
khác thường. Phần lớn trong chúng ta cũng đang ở trong
giai đoạn tiến dần theo chiều hướng để đến đó, có
nghĩa là chúng ta có phần nào (không phải toàn bộ — thỉnh
thoảng có sự căng kéo trong thân) làm chủ được thân ta.
Cho nên ta chỉ nói, chúng ta có thân này, chứ không nói là,
chúng ta là thân này. Rồi ở gian đoạn trước hơn đó
(khi chúng ta chưa có quan hệ với thân này), chúng ta có thể
nghĩ là, chúng ta chỉ là cái tâm. Rồi ngay cả giai đoạn
trước hơn đó (chúng ta không thật sự điều khiển những
chập tâm) nữa; chúng ta tách những chập tâm đó ra theo từng
nhóm.
Tuỳ
thuộc vào điều kiện hiện tại, chúng ta có thể thấy ở
chừng mực nào đó và nắm giữ ở một mức độ nào đó
thôi. Trạng thái tôi đã nhắc trên chỉ là tầm nhận
xét hạn hẹp, thật nhỏ đến nỗi bất cứ những gì hơi
lớn hơn được mang ra để nói sẽ dẫn đến sự sợ hãi.
Nếu nói quá sớm đôi khi còn có hại hơn là có lợi cho sự
tu tập; vì đây là phạm vi mà chúng ta va chạm với tác dụng
không bình thường và có hại của sự tu tập. Đối
với một người giới hạn, họ thấy vũ trụ tương đương
với tia sáng lớn bằng mũi kim, nếu cho họ thấy được tia
sáng như mặt trời, vì họ không thể chịu nổi, có thể
họ sẽ phát điên.
Tôi
đã trãi qua nhiều khóa tu học, nơi mà có những cảnh trạng
la hét, quát mắng, xô đạp: bạn phải dụng công! bạn (cái
Ngã) phải chết! Những đàn ông, đàn bà khóc thâu đêm, còn
đối với vài người đã có nội hàm vững chắc thì mọi
sự không thành vấn đề. Những người (thường là những
thanh niên và thiếu nữ có tinh thần) chưa sẳn sàng — bỏ
qua giai đoạn căn bản ban đầu, giai đoạn xây dựng khả
năng để thấy phút giây hiện tại, để cho họ có một “lối
vào” — mà nhảy vọt. Có tốt không? Không! Không tốt.
Những ai đã sẳn sàng, kinh nghiệm mới sẽ là điều kỳ
diệu trên đời. Họ có thể cảm nhận được nó, trước
khi họ có được nó và họ chuẩn bị sẳn sàng đón nhận
nó. Nhưng những ai chưa đủ khả năng, thì không những
không có kết quả ích lợi, mà trái lại còn có những tai
hại to lớn là điều không thể tránh.
Một
người thầy, có thể giúp thiền sinh bằng cách, cho mỗi người
một công án để thâu nhỏ cái tầm nhìn và hạn chế khoãng
không gian cho thiền sinh dễ tập trung, giống như Mã Tổ. (Mã
Tổ: Một công án được đưa ra cho một thiền sinh mới để
nghiền ngẫm bằng cách gom tâm về một chỗ. Từ ngữ
“Không” hay “Trống rỗng” không diễn đạt hết được
tầm quan trọng của tu Thiền.) Nhưng một người
chưa có khả năng bén nhạy về mặt cảm giác, thì những
nổ lực như thế có thể sẽ tốt hơn bằng một pháp tu khác.
Cảnh giác cao độ đòi hỏi nhiều thời gian thực tập; kinh
nghiệm tự chứng lúc còn non kém chưa phải là một điều
tốt. Để có loại kinh nghiệm đó (kinh nghiệm giác ngộ),
nền tảng cơ bản phải gầy dựng trên chánh-tri-kiến —
Vô Ngã và không có gì tồn tại trong vũ trụ một cách vĩnh
hằng (mà là luôn thay đổi) — Vô thường. Chúng ta sẽ
đối đầu với trở ngại to lớn nhất đó là bản thân.
Khi nào chúng ta nhận chân (thể nhập và kinh nghiệm chứ không
chỉ hiểu biết theo tri thức) được sự thật này, thì chúng
ta sẳn sàng cho sự giải thoát. Nhưng đối với một
người chưa sẳn sàng, thì đó là sự hủy diệt hoàn toàn.
Ngay cả cho một người đã sẳn sàng cho loại kinh nghiệm
ấy, có thể còn mất rất nhiều năm tu tập (đi quanh quẫn,
dọn dẹp những cù cặn) cho sự trưởng thành để làm cho
nó trở nên sáng tỏ ra.
Vài
người thầy có những kinh nghiệm dồi giàu ở lãnh vực cao,
nhưng lại không có nhiều (hay không từng trãi qua vì căn cơ
sai khác) với giai đoạn cơ bản. Dĩ nhiên họ thấy cả,
nhưng căn cơ không hợp (không có duyên), sự hòa hợp giữa
cá nhân và pháp môn không khế hợp có thể mang đến tai hại
mà không có kết quả tốt đẹp.
Chúng
ta có thể tin tưởng rằng, kinh nghiệm tự chứng thì giống
như ăn một miếng bánh sinh nhật. “Nghe hấp dẫn quá! Tôi
muốn được.” Nhưng có người diễn tả loại kinh nghiệm
này như là mang một món đồ trang sức nặng nề, đau đớn.
Ngoại trừ khi thân thể người mang nó đủ to lớn, mạnh
khỏe, bằng không nó sẽ đè thân người đang mang nó gãy
đổ. Do đó, chọn bất cứ ai đang đi ngoài đường kia,
rồi thôi thúc (bắt họ khán thoại đầu hay tham công án)
họ; đó không phải là một hành động thông minh. Vài vị
thầy không chịu hiểu vấn đề đó: Họ làm việc theo trực
giác mà không hiểu thấu căn cơ của mỗi người. Nhiều
năm trước tôi có hỏi một người đánh dương cầm giỏi,
“Làm cách nào tôi có thể cải tiến tốt hơn khi đánh bài
nhạc này? Tôi thật sự có rất nhiều khó khăn khi đánh
nó.” Cô ta trả lời, “Ồ! thật là dễ. Cứ đánh
thế này.” Đối với cô thì rõ ràng và dễ dàng, nhưng
với tôi thì không giúp ích được gì cả. Vấn đề
vẫn tồn tại.
Thứ
mà tôi đòi hỏi nơi bạn là sự kiên nhẫn. Tôi đã
gặp nhiều người từng tọa thiền trong thời gian dài và
có được mức độ thành tựu đáng kể, nhưng tất cả đều
bị hõng bởi vì sự phát triển của họ không thăng bằng.
Trạng thái thăng bằng thì không phải là vấn đề đơn giản
gì. Khi tọa thiền, chúng ta biết được cái tâm của
chúng ta phức tạp như thế nào; và có muôn ngàn cơn xoáy
cuốn trong cái Ngã huyền bí ấy, cho nên chúng ta cần nhiều
người hiểu biết trên nhiều lãnh vực khác nhau giúp đỡ
ta. Thiền không thể nào chăm sóc và cải thiện mọi
thứ. Khi cường độ của sự tu tập lên đến mức
mãnh liệt vào thời kỳ quá sớm, sẽ có nguy hiểm của sự
mất thăng bằng, chúng ta cần phải chậm lại. Chúng
ta không nên thấy quá nhiều, quá sớm.
Tại
sao lại phải nói về sự giác ngộ? Khi một người đã sẳn
sàng (khi trình độ đã đến chứ không phải do cái tư tưởng
nhị nguyên tò mò muốn biết), người đó có sự khát khao
để biết rất mạnh; vị thầy có thể nhận thấy rõ ràng
và chỉ cho thiền sinh cái gì cần phải làm kế tiếp.
Chúng ta cần phải nhẫn nại với cuộc đời của mình, với
lòng tham về dục lạc, quyền lực, an ninh — không ai tránh
khỏi những điểm này gồm cả bản thân tôi. Vậy tôi
mong rằng bạn hãy kiểm soát lại tư tưởng của mình về
sự mong muốn đựợc giác ngộ, rồi đối mặt với nó.
Đây là một việc cần phải làm một cách thông minh và phải
làm liên tục, bền bĩ. Với sự tu tập chuyên cần, đời
sống của ta có thể tăng trưởng liên tục trong khả năng
kiểm soát (tự thân) và tính hài hòa (với hoàn cảnh chung
quanh); khả năng kiểm soát bên trong và bên ngoài sẽ tạo
ra nhiều lợi lạc trong mọi lãnh vực.
Mỗi
khi chúng ta kéo tâm về phút giây hiện tại, khả năng kiểm
soát tăng dần thêm một lần. Mỗi lần chúng ta tỉnh
giác được tâm ta lang thang khỏi hiện cảnh, khả năng kiểm
nhận tăng lên một lần. Rồi sự trầm tỉnh và trong
sáng của tâm và thân sẽ hiển lộ. Nó rất rõ — chúng
ta có thể nhận ra khi một người có trạng thái đó khi bạn
gặp họ.
Trong
kiếp này, nếu chúng ta tu tập tốt, thì chúng ta đi dọc theo
con đường thanh tịnh đạo, có thể có được phần nào kinh
nghiệm giác ngộ trên con đường trong lúc tu — Đó là điều
tốt. Nhưng chúng ta đừng bao giờ đánh giá thấp sự
liên tục trong tu tập, chúng ta phải tấn công những hiểu
biết sai lầm, thứ này sẽ làm cản bước tiến của chúng
ta trên cuộc hành trình đi tìm chân lý. Xem xét bức tranh
chăn trâu của Thiền Tông, ví dụ: một người muốn đi từ
bước thứ nhất cho đến bước thứ mười. Nhưng chúng
ta có thể đang ở bước thứ chín và tuột về bước thứ
hai. Sự tiến bộ không phải luôn luôn là tồn tại và
chắc chắn. Chúng ta có thể ở tầng thứ mười trong
vài giờ, rồi ngày sau lại rơi xuống tầng thứ hai.
Trong nhập thất, tâm chúng ta trở nên trong sáng và im lặng
— nhưng nếu có người đến chỉ trích ta thì sao?
Mười
bức tranh chăn trâu của Thiền tông: Bức tranh mô tả tiến
trình tuần tự trong pháp tu Thiền từ mê đến ngộ. Nó được
phát họa trong quá trình một người chăn con trâu.
“Trên
một cội cây héo tàn, có một bông hoa đang nở.” Hoặc trong
kinh Thánh, “Để cho anh chết, anh sẽ không còn tái sinh.”
Dĩ nhiên, sự tu tập của chúng ta là từ bỏ đi dần dần,
từng bước, những thứ gì mà ta bị ràng buộc vào (cái Ngã).
Nếu chúng ta còn bị trói buộc vào bất cứ đâu, nghĩa là
chúng ta (cái Ngã) chưa chết. Ví dụ như chúng ta còn
vướng mắc với gia đình của mình. Buông xả chấp thủ
với người thân không có nghĩa là chúng ta không còn thương
yêu họ nữa. Chẳng hạn như là: vợ, chồng, người
yêu — đó là lệ thuộc. Càng tu tập lâu dài, sự lệ
thuộc sẽ dần dần giãm thiểu. Tình thương thì
tăng thêm và lệ thuộc thì giảm đi. Chúng ta không
thể yêu thương cái chúng ta lệ thuộc vào. Nếu chúng
ta lệ thuộc vào sự chấp nhận của ngoại vật (con người
và sự kiện) thì chúng ta không thể từ bỏ được.
Nếu chúng ta lệ thuộc vào quyền lực, vào địa vị, không
thể chấp nhận được khi làm công việc của một người
đày tớ, thì chúng ta chưa từ bỏ được. Chúng ta chưa
buông xả đúng tinh thần của giáo pháp. Tôi chỉ nhận
biết về sự vướng mắc và tôi xả ly chưa đến mức.
Nhưng khi nói, có sự buông xả nghĩa là không có sự
chấp thủ vào khách trần ở đó (nên hiểu là,
buông xả là buông xả sự vướng mắc chứ không phải buông
xả khách trần). Theo ý nghĩa này: Giác ngộ thật sự
thì không còn là con người nữa rồi — và tôi không biết
có người như vậy. Tôi đã quen biết nhiều người xuất
sắc, phi thường nhưng không có người nào như thế cả.
Vậy hãy mãn nguyện với hiện trạng của chúng ta và nổ
lực từ đây. Đối với chúng ta ở thời điểm và không
gian này là hoàn hảo nhất.
Khi
chúng ta chấp chặc ít chừng nào, chúng ta lại có nhiều hơn
trong đời sống của mình, đây là lời nguyền của đức
phật A Di Đà. Cho đến khi sự tu tập của chúng ta chín
mùi, chúng ta lại có nhiều hơn nữa, và chúng ta có thể giúp
đỡ được nhiều người hơn; đó là cái tinh thần của Thiền.
Tọa thiền là phương cách, vậy hãy tận lực tu tập.
Tôi chỉ có thể là, tôi ở lúc này và nơi đây; tôi có thể
kinh nghiệm trạng thái đó và làm việc với nó (trạng thái
hiện tại). Có thế thôi. Những thứ còn lại khác
chỉ là viễn ảnh không thật của tự ngã.
Cái
giá cho sự Tu tập
Khi
chúng ta gặp những khó khăn, bất toại nguyện trong đời
sống, chúng ta cố gắng trốn chạy những vấn đề đó bằng
nhiều phương pháp, cơ chế thật vi tế khác nhau. Trong
lúc cố gắng thử như thế, chúng ta đối diện với cuộc
sống của mình mà trong đó bao gồm một cái “Ta” và một
nhóm khác “đời sống ngoài Ta”. Bao giờ chúng ta còn
nhận diện cuộc đời qua cái nhân sinh quan như thế, chúng
ta sẽ vặn méo tất cả mọi phấn đấu của chúng ta, bằng
cách thức là đi tìm một thứ gì đó hay là một người nào
đó để xử lý cuộc đời của ta thay cho ta. Chúng ta
có thể tìm người mình thương, vị thầy, vị linh hướng,
một trung tâm — một người, sự kiện, một nơi chốn, để
cáng đáng những khó khăn cuộc đời của ta dùm cho ta.
Chừng nào chúng ta còn thấy cuộc sống này qua lăng kính tương
đối nhị nguyên; chúng ta đã luôn bị gạt gẫm chính mình
và tin tưởng từ bấy lâu nay rằng, chúng ta không cần phải
trả cái giá nào cả mà vẫn có thể nhận ra thực chất của
đời sống. Tất cả chúng ta đều chia sẽ nhau sự hiểu
biết sai lầm này ở một chừng mực khác nhau; và để nó
dẫn dắt chúng ta vào những ngỏ cụt, tăm tối của cuộc
đời.
Trong
khi sự tu tập của chúng ta tiến dần, thì cũng chính là lúc
những ảo tưởng đang bị tấn công. Từ từ chúng ta
bắt đầu cảm nhận (khủng khiếp!) được rằng, chúng ta
phải trả một cái giá cho sự giải thoát; mà bản thân ta
phải trả cái giá đó, không ai có thể thay thế. Khi
tôi nhận biết được sự thật đó, quả đã làm cơn sửng
sốt lớn trong đời tôi. Cuối cùng tôi hiểu rằng, sớm
hay muộn rồi tôi cũng phải trả cái giá cho sự hiểu biết
này; không ai có thể thay thế cho tôi. Chừng nào chúng
ta còn chưa hiểu rõ sự thật này, thì chúng ta vẫn còn trì
trệ trong việc tu tập. Dù cho sau khi chúng ta đã nhận
rõ sự thật này, những trở ngại cũng vẫn còn xảy ra nhưng
đã bớt đi nhiều. Rất là khó mà duy trì sự hiểu biết
ở mức cao độ trong mọi lúc.