|
X
THAM
THIỀN YẾU CHỈ
Hòa Thượng
Hư Vân
Hòa Thượng
Thích Thanh Từ Việt dịch
I.
ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TIÊN
CỦA
SỰ THAM THIỀN.
Mục
đích tham thiền là cầu được minh tâm kiến tánh. Muốn thế,
phải gạn lọc các thứ nhiễm ô của tự tâm, thấy rõ mặt
thật của tự tánh. Nhiễm ô tức là vọng tưởng chấp trước.
Tự tánh là đức tướng trí tuệ Như Lai. Đức tướng trí
tuệ Như Lai, chư Phật và chúng sanh đồng có đủ, không hai
không khác. Nếu rời vọng tưởng chấp trước là chứng được
đức tướng trí tuệ Như Lai của mình; phải thế là Phật,
không phải thế là chúng sanh. Chỉ vì chúng ta từ vô lượng
kiếp đến nay mê muội đắm chìm trong sanh tử, nhiễm ô đã
lâu, không thể trong chốc lát thoát được vọng tưởng, thật
thấy bản tánh, vì thế nên phải tham thiền. Điều kiện
quyết định đầu tiên của sự tham thiền là trừ diệt vọng
tưởng. Phương pháp trừ vọng tưởng như thế nào? Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni nói phương pháp rất nhiều, nhưng rất
giản lược chẳng qua một chữ hết, hết là Bồ-đề.
Thiền tông do Tổ sư Đạt-ma truyền sang Trung Hoa, sau đến
đức Lục Tổ, tông phong bủa khắp sáng chiếu cổ kim.
Câu rất
khẩn yếu mà đức Tổ sư Đạt-ma và Lục Tổ khai thị cho
môn đồ là “Trừ sạch các duyên, một niệm không sanh”.
Trừ sạch các duyên tức là vạn duyên buông hết. Hai câu:
“Vạn duyên buông hết, một niệm không sanh” chính là điều
kiện quyết định đầu tiên của sự tham thiền. Hai câu ấy
nếu thực hiện không được, tham thiền chẳng những nói
không thành công mà vào cửa cũng không thể được. Bởi vì
vạn duyên còn ràng buộc, niệm niệm mãi sanh diệt, ông làm
sao tham thiền được?“Vạn duyên buông hết, một niệm không
sanh” là điều kiện quyết định đầu tiên của sự tham
thiền, dĩ nhiên chúng ta đã biết. Nhưng phải làm thế nào
mới có thể thực hiện được? Có hai cách:1- Bậc thượng,
một niệm hằng dứt, thẳng đến vô sanh liền chứng Bồ-đề,
không còn một mảy may ràng buộc.2- Bậc thứ, dùng lý trừ
sự, biết rõ tự tánh xưa nay vẫn thanh tịnh, phiền não Bồ-đề,
sanh tử Niết-bàn đều là giả danh không can dự gì đến
tự tánh của ta. Muôn sự muôn vật đều là việc chiêm bao,
huyễn hóa, hòn bọt, cái bóng. Sắc thân tứ đại của ta
đây và sơn hà đại địa ở trong tự tánh như hòn bọt ngoài
bể cả, mặc tình sanh diệt không ngại gì bản thể. Ta không
nên theo sự sanh, trụ, dị, diệt của tất cả cái huyễn
hóa ấy mà khởi ưa, chán, thủ, xả. Toàn thân buông hết
như người chết không khác, tự nhiên căn, trần, thức, tâm
tan biến; tham, sân, si, ái diệt sạch. Mọi việc đau nhức,
khổ vui, đói lạnh, no ấm, vinh nhục, sanh tử, họa phước,
kiết hung, chê khen, được mất, an nguy, khó dễ v.v... nơi
thân một mực đẩy chúng ra ngoài. Có thế mới mong buông
hết. Một buông, tất cả đều buông, mãi mãi buông gọi là
vạn duyên buông hết. Vạn duyên buông hết rồi, vọng tưởng
tự tiêu, phân biệt không khởi, các chấp trước hằng xa
lìa. Khi ấy, một niệm không sanh, tự tánh sáng suốt, toàn
thể hiện bày. Được vậy là điều kiện tham thiền đã
đầy đủ, lại dụng công chân thật tham cứu mới có thể
được minh tâm kiến tánh.
Hằng ngày
thường có các vị tu thiền đến hỏi câu thoại đầu. Phàm
là pháp vốn không phải pháp, một khi rơi vào ngôn ngữ tức
không phải thật nghĩa. Biết được một tâm này xưa nay là
Phật, ngay đó vô sự muôn việc hiện thành, nói tu nói chứng
đều là ma thuyết. Đức Đạt-ma sang Trung Hoa “Chỉ thẳng
tâm người, thấy tánh thành Phật”. Chỉ bày rành rõ tất
cả chúng sanh đều là Phật. Thẳng đó nhận được tự tánh
thanh tịnh này, tùy thuận không nhiễm ô, trong hai mươi bốn
giờ đi đứng ngồi nằm tâm không khởi vọng, ấy là hiện
thân thành Phật; chẳng cần dụng tâm dụng lực, cũng chẳng
cần tạo tác thi vi, không nhọc một mảy may suy nghĩ nói năng.
Do đó, nói thành Phật là việc rất dễ dàng, rất tự tại,
đạt được là tại nơi ta, không phải cầu bên ngoài.
Tất cả
chúng sanh trên thế giới này, nếu thật không cam chịu trường
kiếp trầm luân trong tứ sanh lục đạo, hằng đắm chìm nơi
bể khổ, muốn thành Phật được thường, lạc, ngã, tịnh,
phải tin lời chân thật của Phật Tổ “buông hết tất cả,
không nghĩ nhớ thiện ác”, mỗi người khả dĩ liền đó
thành Phật. Chư Phật, Bồ-tát và lịch đại chư vị Tổ
sư phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh, không phải là
không bằng cứ, đâu phải chỉ hứa nguyện suông. Đã nói
ở trên, pháp vốn như vậy, Phật Tổ lắm phen dạy rõ căn
dặn kỹ càng, là chân ngữ thật ngữ, không một mảy hư
dối. Phật do lòng đại từ bi không nệ tất cả chúng sanh
từ vô lượng kiếp đến nay mê muội chìm đắm trong biển
khổ sanh tử, vừa ra lại vào, luân chuyển không dừng, mê
lầm điên đảo, trái tánh giác hợp vọng trần. Ví như vàng
ròng bỏ vào hầm phẩn, không những chẳng dùng được mà
lại nhơ nhớp quá lắm. Ngài bất đắc dĩ nói ra tám muôn
bốn ngàn pháp môn, tùy căn cơ chẳng đồng của chúng sanh
dùng đối trị tham, sân, si, ái v.v... tám muôn bốn ngàn bệnh
tập khí vi tế. Như vàng đã dính các thứ nhơ nhớp, mới
dạy người dùng sạn, bàn chải, nước, vải v.v... để mài
giũa, chùi rửa nó.
Sở dĩ Phật
nói pháp, mỗi môn đều là diệu pháp, đều có thể liễu
thoát sanh tử, thành Phật đạo. Chỉ có vấn đề hợp cơ
hay không hợp cơ, không cần phân biệt pháp môn cao hay thấp.
Pháp môn lưu truyền ở Trung Hoa rất phổ thông là Tông, Giáo,
Luật, Tịnh, Mật. Năm pháp môn này tùy căn tánh và chỗ hứng
thú của mỗi người thực hành môn nào cũng tốt. Quan trọng
là trong một môn được thâm nhập, trải thời gian lâu không
đổi thay, như vậy khả dĩ thành tựu.
Về Tông
môn chủ trương tham thiền, tham thiền cốt “Minh tâm kiến
tánh”, cần tham suốt được cái “bản lai diện mục của
mình”, nên nói: “Giác ngộ tự tâm, thấy suốt bản tánh”.
Pháp môn này phát nguyên từ hội Linh Sơn, Phật đưa cành
hoa sen, ngài Ca Diếp cười chúm chím, đến Tổ sư Đạt-ma
truyền sang Trung Hoa, về sau chỗ hạ thủ công phu đã từng
thay đổi.
Các bậc
Thiền đức trước đời Đường, đời Tống phần nhiều
nghe một lời, hoặc nửa câu được ngộ đạo. Thầy trò
truyền nhau chẳng qua dùng tâm ấn tâm, không có một thật
pháp. Ngày thường thưa hỏi, trả lời cũng chẳng qua tùy
cách phá chấp, theo bệnh cho thuốc mà thôi.
Từ đời
Tống về sau, người học đạo căn tánh yếu ớt cạn hẹp,
nói được mà làm không được. Ví như nói “buông hết tất
cả”, “không nghĩ thiện ác”, thảy đều buông mà không
hết, không nghĩ thiện thì nghĩ ác. Đến thời đại này Tổ
sư bất đắc dĩ dùng biện pháp lấy độc trừ độc, dạy
người học tham công án hay khán thoại đầu. Thậm chí thiết
tha cắn chặt một câu “Tử thoại đầu”, dạy phải nghiến
ngầm cấp bách không một sát-na lơi lỏng, giống như con chuột
khoét rương cắn mãi một chỗ, chưa phủng thì không dừng.
Dạy như vậy, mục đích lấy một niệm trừ muôn niệm. Kỳ
thật, đó cũng là một biện pháp bất đắc dĩ, như mụt
nhọt độc trong thân, nếu không dùng dao mổ thì bệnh khó
lành.
Công án của
cổ nhân rất nhiều, sau này chuyên dạy khán thoại đầu,
khán “Mang thây thúi ấy là gì?”, khán “Trước khi cha mẹ
chưa sanh, thế nào là mặt thật xưa nay của ta?”. Gần đây,
các nơi phần nhiều dùng một câu thoại đầu khán “Niệm
Phật là gì?”. Kỳ thật, những câu thoại đầu đều cùng
một loại, đều rất bình thường không có gì kỳ lạ đặc
biệt. Có thể ta nói: khán “Niệm kinh là gì?”, khán “Trì
chú là gì?”, khán “Lễ Phật là gì?”, khán “Đi đường
là gì?”, khán “Ngủ mới thức là gì?”... đều cùng một
loại như nhau. Sau chữ gì là đáp án, nó vốn là tâm.
Thoại (lời nói) từ tâm khởi, tâm là đầu của thoại. Niệm
từ tâm khởi, tâm là đầu của niệm. Muôn pháp đều từ
tâm khởi, tâm là đầu của muôn pháp. Kỳ thật, thoại đầu
tức là niệm đầu, trước niệm chính là tâm. Nói thẳng,
trước khi một niệm chưa sanh là thoại đầu. Do đây, chúng
ta biết khán thoại đầu tức là quán tâm. Trước khi cha mẹ
chưa sanh, mặt thật xưa nay tức là tâm. Khán trước khi cha
mẹ chưa sanh, mặt thật xưa nay là quán tâm. Tánh cũng tức
là tâm. Câu “Phản văn văn tự tánh” (xoay cái nghe nghe tự
tánh) là phản quán quán tự tâm. Câu “Viên chiếu thanh tịnh
giác tướng” (chiếu khắp tướng giác thanh tịnh), thanh tịnh
giác tướng tức là tâm, chiếu tức là quán. Tâm tức là
Phật, niệm Phật tức là quán Phật, quán Phật tức là quán
tâm.
Sở dĩ nói
“khán thoại đầu” hoặc nói “khán niệm Phật là gì ”,
đều là quán tâm, quán chiếu giác thể tự tâm thanh tịnh,
là quán chiếu Phật tánh của mình. Tâm tức là tánh, tức
là giác, tức là Phật, không có hình tướng chỗ nơi, trọn
không thể được, saün vậy thanh tịnh, khắp cả pháp giới,
không ra không vào, không qua không lại, chính là xưa nay hiện
thành Pháp thân Phật thanh tịnh. Hành nhân thu nhiếp lục căn
“khán từ chỗ một niệm mới sanh”, soi xét một câu thoại
đầu này, khán đến chỗ tự tâm thanh tịnh ly niệm. Lại
tiến lên, càng thầm kín dày dặc, lặng lẽ yên tịnh, tuy
tịch mà chiếu, thẳng đó ngũ uẩn đều không, thân tâm đều
vắng lặng, hoàn toàn không có một việc. Từ đây ngày đêm
đi đứng ngồi nằm như như không động, càng lâu công phu
càng dày liền được thấy tánh thành Phật, vượt qua mọi
khổ ách.
Xưa Tổ sư
Cao Phong nói: “Người học đạo hay khán một câu thoại đầu,
như gieo hòn gạch xuống hồ sâu muôn trượng, rơi thẳng tận
đáy, được vậy trong bảy ngày, nếu không khai ngộ, Lão
tăng xin dâng thủ cấp”. Bạn đồng tham thiền! Câu nói của
người xưa là chân ngữ, thật ngữ, không phải lời nói dối
trá lừa đảo đâu!Nhưng, tại sao người hiện thời khán
thoại đầu rất nhiều, mà không có mấy người ngộ đạo?
Ấy là do người hiện thời căn cơ không bằng người xưa,
cũng tại người học đạo đường lối tham thiền khán thoại
đầu đa số không rành rõ.
Có người
tham đông hỏi tây, cầu nam thỉnh bắc, kết quả chỉ là
loạn động đến già, một câu thoại đầu vẫn không rành
rõ, không biết thế nào là thoại đầu thì làm sao khán thoại
đầu? Một đời chỉ chấp trước ngôn cú, danh tướng, dụng
tâm tại thoại vĩ (đuôi lời nói) mà thôi. Hoặc có người
khán “Tham Phật là gì?”, hoặc “Chiếu cố thoại đầu”,
khán qua khán lại, tham tới tham lui cùng câu thoại đầu đông
tây chạy ngược nhau. Như vậy, làm sao hội ngộ được cái
vô vi đại đạo bản nhiên này? Làm sao đến được cái vương
vị tất cả không thọ? Hoặc có người bỏ mạt vàng vào
con mắt, con mắt bị mù, làm sao được phóng quang sáng suốt?
Đáng thương thay! Đáng thương thay! Có những người hảo
tâm xuất gia chí nguyện phi phàm, mà kết quả chỉ một bề
nhọc công vô ích, rất đáng thương xót!
Người xưa
nói: “Thà đành ngàn năm không ngộ, không cam một ngày sai
lầm”.Người tu hành ngộ đạo dễ mà khó, khó mà dễ, giống
như vặn nút đèn điện, biết thì khoảng khảy móng tay đèn
cháy sáng trưng, cái đen tối muôn năm liền hết, không biết
thì vặn máy hỏng đèn hư, phiền não càng tăng trưởng.
Có một ít
người tham thiền khán thoại đầu bị ma phát điên, thổ
huyết, mắc bệnh, bởi vì lửa vô minh quá to, chấp nhân ngã
thật dày, đó là những gương rất rõ ràng. Sở dĩ người
dụng công cốt khéo điều hòa thân tâm, cần phải tâm bình
khí hòa, không chướng ngại, không nhân ngã, đi đứng ngồi
nằm khéo hợp với máy huyền diệu.Pháp tham thiền xưa nay
không có phân biệt, chỉ do công phu tu tập, sơ tham có khó
và dễ, lão tham cũng có khó và dễ.
Cái khó của
người sơ tham là thế nào? – Vì thân tâm không thuần thục,
đường lối chưa rành rõ, dụng công không đến nơi, nếu
trong tâm không chấp cấp bách thì bị bệnh ngủ gật qua ngày,
kết quả thành: “năm đầu sơ tham, năm thứ hai lão tham,
năm thứ ba không tham”.
Cái dễ là
sao? - Chỉ cần đầy đủ tín tâm, tâm lâu bền và vô tâm.
Tín tâm, một là tin tâm ta đây xưa nay là Phật, cùng chư
Phật mười phương và chúng sanh không khác; hai là tin pháp
của đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói mỗi pháp đều được
liễu sanh thoát tử và thành Phật đạo. Tâm lâu bền, phải
tuyển chọn nhất định một pháp, trọn đời thực hành,
cho đến đời sau và đời sau nữa đều như thế hành trì.
Nếu là tham thiền thì cứ như thế mà tham, nếu niệm Phật
thì cứ như thế mà niệm, nếu trì chú thì cứ như thế mà
trì, nếu học giáo lý thì cứ từ văn, tư, tu mà thực hành.
Dù tu một
pháp môn nào cũng lấy giới làm căn bản. Nếu đúng như vậy
mà thực hành sau này nhất định thành công. Qui Sơn Lão nhân
nói: “Nếu có người hay thực hành pháp này (tham thiền)
ba đời không lui sụt, quả vị Phật quyết định có ngày”.
Vĩnh Gia Lão nhân nói: “Nếu dùng vọng ngữ lừa chúng sanh,
hằng đọa địa ngục Bạt Thiệt số kiếp như cát bụi”.
Vô tâm chính
là buông hết tất cả, giống hệt như người chết, trọn
ngày tùy chúng làm việc mà không khởi một điểm phân biệt
chấp trước, thành một vị đạo nhân vô tâm. Người sơ
tham đầy đủ ba tâm ấy rồi, nếu tham thiền khán thoại
đầu, nên khán “Niệm Phật là gì?”. Ông tự thầm niệm
ít tiếng “A Di Đà Phật”, khán cái niệm Phật đó là gì?
Một niệm ấy từ chỗ nào phát khởi? Nên biết, một niệm
ấy không phải từ miệng ta khởi, cũng không phải từ thân
thịt ta khởi. Nếu từ thân miệng ta khởi, khi ta chết rồi
thân miệng vẫn còn sao không thể niệm? Phải biết, một
niệm này là từ tâm ta khởi, tức từ chỗ tâm niệm khởi
phải chăm chăm nhìn thẳng nơi đó, như mèo rình chuột, toàn
thể tinh thần tập trung vào một chỗ này, không có niệm
thứ hai. Chỉ cần giữ trung bình giữa hoãn và gấp, không
cho gấp quá sẽ phát bệnh chướng. Đi đứng ngồi nằm đều
giữ như vậy, lâu ngày công phu đầy đủ, thời tiết nhân
duyên đến, một phen xúc chạm quả dưa chín cuống rụng bỗng
nhiên đại ngộ. Khi ấy, như người uống nước lạnh nóng
tự biết, thẳng đến chỗ không nghi ngờ, như thấy chữ
Thập đầu đường đi thẳng về nhà gặp cha rất an vui.
Cái khó dễ
của người lão tham thế nào? - Lão tham là người đã gần
gũi thiện tri thức, dụng công nhiều năm, đã trải qua một
phen luyện lọc thân tâm thuần thục, đường lối rành rõ,
dụng công một cách tự tại không thấy cay đắng. Cái khó
của bậc Thượng tọa lão tham chính là dừng trụ trong chỗ
tự tại sáng suốt, nghỉ trong Hóa thành không đến Bảo sở.
Hay tịnh không hay động, không thể được cái chân thật
thọ dụng; thậm chí gặp cảnh sanh tình thủ xả như xưa,
ưa chán cũng hiện rõ. Vọng tưởng thô và tế vẫn nguyên
vẹn bền chắc, chỗ dụng công như hòn đá ngâm nước lạnh
không có tác dụng, lâu dần cũng sanh mỏi mệt, trọn không
thể đắc quả khởi dụng. Thượng tọa lão tham! Biết được
cái khốn khó này rồi, lập tức đề khởi câu thoại đầu
cũ, phấn chấn tinh thần, đầu sào trăm trượng lại bước
vượt lên, thẳng đến đảnh núi cao chót vót mà đứng, tận
đáy biển sâu thăm thẳm mà đi, buông tay tung hoành, cùng gặp
gỡ chư vị Phật Tổ, những cái khốn khó đâu còn, không
dễ là gì?
Thoại đầu
tức là nhất tâm, cái nhất tâm này của chúng ta không phải
ở trong, ngoài và chặng giữa, mà cũng ở trong, ngoài và chặng
giữa, như hư không không động mà khắp tất cả chỗ. Sở
dĩ thoại đầu không nên đem lên trên, cũng không nên đè
xuống dưới. Đem lên trên thì dẫn khởi tán loạn, đè xuống
dưới thì rơi vào hôn trầm, trái với tánh chất bản tâm,
đều không phải là Trung đạo.
Các vị sợ
vọng tưởng, cho hàng phục vọng tưởng là rất khó khăn.
Tôi xin thưa quí vị, không nên sợ vọng tưởng cũng không
cần phí sức hàng phục vọng tưởng. Các vị chỉ cần nhận
ra vọng tưởng, không chấp trước nó, không tùy thuận nó,
cũng chẳng cần xua đuổi nó, chỉ không cho tiếp tục thì
vọng tưởng tự lìa. Nên nói: “Vọng khởi liền biết, biết
vọng liền lìa”. Nếu khéo lợi dụng vọng tưởng khởi
công phu, khán “Vọng tưởng này từ chỗ nào phát sanh?”.
Vọng tưởng không tánh chính nó là không, tức là tâm tánh
vốn không của ta, tự tánh thanh tịnh pháp thân Phật ngay
đây được hiện tiền. Xét thật mà nói, chân vọng một
thể, chúng sanh và Phật không hai, sanh tử Niết-bàn, phiền
não Bồ-đề đều là bản tâm bản tánh, không cần phân biệt,
không cần ưa chán, không cần thủ xả. Tâm thanh tịnh này
xưa nay là Phật, không nhận một pháp, làm gì có nhiều mối?
Tham!
Xem Thêm:
-
THAM
THIỀN
-
Trong
"Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân" Việt Dịch: Thích Hằng
Đạt
|