|
.
KINH
PHÁP BẢO ĐÀN
Đôn
Hoàng Bản
LỤC
TỔ HUỆ NĂNG
Bản
dịch tiếng Việt: Hòa thượng Thích Mãn Giác
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội PL. 2547 - DL. 2003
|
|
NAM
TÔNG ĐỐN GIÁO TỐI THƯỢNG THỪA
MA
HA BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH
Lục
Tổ Đại sư Huệ Năng thí Pháp Đàn kinh,
một
quyển, ở chùa Đại Phạm, Thiều Châu.
Hoằng
Pháp đệ tử, kiêm thọ Vô tướng giới đệ tử Pháp Hải
biên tập.
Bản
tìm được ở động Đôn Hoàng.
Lời
đầu sách
LỤC
TỔ HUỆ NĂNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Sự
thực lịch sử về việc hình thành Thiền tông được khai
quật từ động Đôn Hoàng ở vùng sa mạc Tân Cương tại
Trung Á
Nguyên
bản Pháp Bảo Đàn kinh mà tôi dịch đây là bản mới tìm
được từ động Đôn Hoàng, vùng sa mạc Tân Cương, miền
Trung Á. Bản này đã được viết ra vào khoảng năm 830 và
trễ nhất là năm 860 (theo giảo nghiệm lối viết chữ thảo
ở thời đó, do một chuyên viên danh tiếng, giáo sư Akira Fujieda
của Đại học Tokyo). Đây là bản Pháp Bảo Đàn xưa nhất
của thế giới hiện nay. Trước đây, ở Việt Nam, tôi được
biết ít nhất có ba bản dịch Việt của ba dịch giả (Hòa
thượng Thích Minh Trực, ông Đoàn Trung Còn, và ông Tô Quế),
nhưng cả ba bản dịch này được dựa theo bản chữ Hán Pháp
Bảo Đàn kinh được viết vào thế kỷ thứ XIII (năm 1291),
gọi bản Tông Bảo; bản này không khác lắm với bản Đức
Dị được in vào năm 1290 tại Nam Hải (bản Đức Dị đã
được du nhập vào Triều Tiên vào năm 1316 và tất cả bản
Pháp Bảo Đàn kinh bằng tiếng Triều Tiên đều xuất phát
từ bản Đức Dị). Bản Pháp Bảo Đàn kinh được thông dụng
nhất hiện nay ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chính là
bản Tông Bảo được viết vào năm 1291 và được in trong
Đại Tạng kinh ở đời Minh. Ngoài những bản vừa kể, ít
nhất chúng ta được biết có gần mười bản Pháp Bảo Đàn
kinh khác nhau, ngoài bản xưa nhất tìm lại được ở động
Đôn Hoàng, viết vào khoảng những năm 830-860 (chính là bản
tôi dịch), những bản khác là bản Huệ Hân (năm 967), bản
Thiều Hồi (năm 1013), bản Tồn Trung (năm 1116), bản Bắc Tống
(năm 1153). Ngoài ra có hai bản đáng lưu ý và được coi đầy
đủ nhất là hai bản ở Nhật Bản, bản Đại Thừa Tự (Daijòji)
và bản Hưng Thánh Tự (Kòshòji); bản Đại Thừa Tự thì
dựa vào bản Tồn Trung, còn bản Hưng Thánh Tự thì dựa vào
bản Bắc Tống và bản Thiều Hồi. Tất cả những bản Pháp
Bảo Đàn kinh khác nhau vừa kể trên đều xuất phát từ bản
duy nhất còn tìm lại được: chính là bản Đôn Hoàng (830-860)
mà tôi dịch ở đây. Bản Đôn Hoàng là bản ngắn gọn nhất
và chỉ gồm có mười hai ngàn chữ, còn những bản khác (bản
đời Nguyên và Minh) gồm khoảng hai mươi mốt ngàn chữ. Bản
chữ Hán tôi dịch ở đây được dựa theo bản chữ Hán đã
được san định kỹ lưỡng do công phu uyên bác của giáo
sư Philip B.Yampolsky của Đại học Columbia (The Platform Sutra
of the Six Patriarch, the Text of the Tun-Huang Manuscript with Translation,
Introduction, and Notes by Philip B.Yampolsky, Columbia University Press,
New York, 1967). Trong phần mở đầu của quyển sách, giáo sư
uyên bác Yampolsky đã cống hiến cho độc giả những dữ kiện
lịch sử rõ rệt về sự thành hình của Thiền tông, căn
cứ theo những tài liệu được khai quật từ động Đôn Hoàng;
giáo sư đã chịu khó tham khảo hàng ngàn thiên khảo cứu
Trung Hoa và Nhật Bản, cho độc giả nhìn thấy lại sự diễn
biến của Thiền tông tại Trung Hoa từ những thế kỷ thứ
VI, VII, VIII và IX, giáo sư đã tham khảo tất cả những tài
liệu dữ kiện liên hệ đến Thiền tông ở những thế kỷ
ấy, mà ngay rất nhiều học giả Trung Hoa và Nhật Bản cũng
ít biết đến. Bản dịch này được dựa theo bản chữ Hán
do giáo sư Yampolsky san nhuận thấu đáo, nhưng tôi không hẳn
hoàn toàn đồng ý với giáo sư ở nhiều điểm quan trọng,
và khi dịch thì tôi dựa hẳn theo nguyên tắc chữ Hán và
không đồng ý với giáo sư trong vài ba chi tiết ở nguyên
bản. Giáo sư đã tự ý sửa đổi nhiều và thường lấy
tiêu chuẩn nơi bản Hưng Thánh Tự. Tôi thì chỉ chú trọng
giữ lại sắc thái độc đáo của nguyên bản động Đôn
Hoàng, chỉ trừi ra có những điểm chép sai quá lộ liễu
thì tự ý sửa lại cho đúng văn pháp. Khi dịch, tôi cũng
dịch trung thành theo những thành ngữ thông tục ở đời Đường,
chẳng hạn thành ngữ “đệ nhất vật” (phân đoạn 13 của
bản kinh) là một thành ngữ thông tục ở đời Đường có
nghĩa là “không bao giờ trông bất cứ trường hợp nào”
chứ không có nghĩa ngày nay là “vật thứ nhất”, chẳng
hạn thành ngữ “ưng thị” (phân đoạn 35 bản kinh) cũng
là chữ thông tục đời Đường có nghĩa là “tất cả”.
Còn chữ “đường” (phân đoạn 35), tôi không đồng ý với
Yampolsky mà dịch là “Trung Quốc” (hiểu theo nghĩa đời
Đường). Tôi hiểu “đường” ở đây có nghĩa là “hành
lang”, “con đường đi từ thềm ra cửa”; ý kiến này cũng
đồng ý với giáo sư Nhật nổi tiếng về Thiền học Ui Hakuju,
tác giả bộ Zenshu shi kenkyu, cuốn II, trang 148 (Tokyo, 1939-43).
Tôi tạm đưa ra vài thí dụ vừa rồi có tính cách kỹ thuật
về phương diện khảo cứu ngôn ngữ học, nhưng có một điểm
cần phải nhấn mạnh nơi đây, trong mọi trường hợp thảo
luận và quyết định về những điểm dị đồng trong những
bản khác nhau trong kinh điển Phật giáo, tiêu chuẩn quyết
định vẫn là nội dung giáo lý căn bản; nói một cách khác,
không thể chỉ thuần túy đứng về mặt khảo sát ngôn ngữ
học mà có thể quyết định việc san nhuận kinh điển mà
đồng thời phải lấy ánh sáng căn bản của giáo lý được
thuyết minh trong chính kinh điển ấy để soi chiếu và giải
minh những vấn đề dị biệt ở bình diện hình thức văn
từ có tính cách lịch sử cục bộ giới hạn. Có nắm được
giáo lý căn bản của ngài Huệ Năng thì tất cả những vấn
đề nan giải về sử học và ngôn ngữ học sẽ được giải
quyết một cách nghiêm chỉnh. Nói một cách khác hơn nữa,
phải nhìn con người và hành trạng của ngài Huệ Năng, phải
nhìn bản Pháp Bảo Đàn kinh với cái nhìn của một thiền
sư, một người đã được nuôi dưỡng trong truyền thống
của Thiền tông, thì mới thấy được những gì mà những
người khác, dù là học giả uyên bác nhất, cũng không có
đủ điều kiện tâm linh để nhìn thấy được. Đó là lý
do tại sao tôi cảm thấy cần thiết phải dịch lại nguyên
bản xưa nhất của Pháp Bảo Đàn kinh và nhất là giới thiệu
cho dân tộc Việt Nam một nền đạo lý chính thống đã nuôi
dưỡng dân tộc ta suốt từ mười mấy thế kỷ nay. Không
có ngài Huệ Năng thì chẳng bao giờ có đời Lý và đời
Trần, hai triều đại quyết định tất cả tinh túy hồn tính
của Việt Nam. Chẳng những ở Việt Nam mà thôi, nếu không
có ngài Huệ Năng thì chẳng bao giờ có cái đạo Thiền, gọi
là Thiền tông Trung Hoa và Triều Tiên, Zen của Nhật Bản và
tất cả những gì người ta nói đến Thiền hiện nay ở Tây
phương; Thiền đã ảnh hưởng thế nào đến học thuật văn
hóa Tây phương ở thế kỷ XX thì mọi người đều biết;
Thiền đã tác động đến cả một nền văn chương Hoa Kỳ
ở hạ bán thế kỷ XX này (không kể văn hào Henry Miller đã
đi trước trong việc lãnh hội Thiền từ những năm 1932-34,
mà chỉ cần kể những tên tuổi nổi tiếng khắp thế giới
của thế hệ văn, thi sĩ Hoa Kỳ như J.D.Salinger, William Burroughs,
Jack Kerouac Allen Ginsberg và nhất là đại thi sĩ Gary Snyder,
người mở đầu khai thị Thiền tông cho cả một thế hệ
và nhiều thế hệ văn, thi sĩ Hoa Kỳ, vừa mới đây Gary Snyder
có đến thăm Phật tử và gặp tôi tại chùa Việt Nam Los
Angeles, nhân đến nói chuyện với giới trí thức Mỹ tại
Đại học UCLA). Thiền tông đã ảnh hưởng toàn bộ đến
văn hóa, học thuật Tây phương ở thế kỷ XX, và người
đã thực sự sáng tạo ra Thiền tông lại chính là Huệ Năng
chứ không phải Bồ Đề Đạt Ma; ngài Bồ Đề Đạt Ma chỉ
là được truyền thống Thiền chọn lựa đứng tên danh dự
mà thôi để linh động hóa tinh thần tạ ơn đối với Aán
Độ, quê hương tâm linh của Phật giáo nhân loại. Một người
độc thân duy nhất đã thay đổi toàn triệt truyền thống
Phật giáo Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản, và ảnh hưởng
toàn diện đến văn hóa học thuật Á Đông và hiện nay của
cả thế giới, người ấy là Huệ Năng, và Huệ Năng là người
Việt Nam mà chính toàn dân Việt Nam lại không hề biết đến,
và ngay cả truyền thống Phật giáo Việt Nam lại bỏ quên
ngài và coi ngài như bao nhiêu vị sư tổ Trung Hoa khác. Những
nhà học giả Trung Hoa rất hãnh diện về ngài Huệ Năng và
cho rằng ít nhất ngài ngang hàng với Lão Tử, Khổng Tử,
Trang Tử và Mạnh Tử, chẳng hạn giáo sư John C.H.Wu, Viện
trưởng Viện Đại học Văn hóa Trung Hoa ở Đài Loan, hãnh
diện quả quyết như vầy: “Huệ Năng nhất định là một
trong những thiên tài cao lớn nhất, vĩ đại nhất mà đất
Trung Hoa đã sinh sản ra. Huệ Năng đứng chung ngang hàng với
Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử và Trang Tử”. (Hui Neng is assuredly
one of the superlative geniuses that China has ever produce. He belongs
to the company of Lao Tseu, Confucius, Mencius and Chuang Tzu) (xin đọc
John W.C.H.Wu, The Golden Age of Zen, trang 56. NXB United Publishing Center,
Đài Loan, 1975). Lần lượt sau đây, chúng ta sẽ thấy rằng
Huệ Năng là người Việt Nam và điều này đã được chứng
minh dứt khoát rõ ràng trong tất cả những bản khác nhau của
Pháp Bảo Đàn kinh, dù cho những đời sau cố tình thêm bớt
che giấu sự thật thì tất cả những bản kinh khác đều
còn giữ lại những câu quyết định nhất để nói lên sự
thực lịch sử quyết định trầm trọng rằng ngài Lục Tổ
Huệ Năng là người Việt Nam. Dù tất cả di bản, bia ký,
tài liệu, văn thư, sách vở của Trung Hoa còn để lại đều
để tạo ra cảm tưởng sai lầm rằng Huệ Năng là người
Trung Hoa, nhưng chính đồng thời tất cả những tài liệu
lịch sử còn giữ lại đó đã giúp đỡ đưa ta đi đến
những kết luận nghịch hướng và không thể chối cãi được
rằng ngài Huệ Năng là một người Việt Nam. Đây là một
khám
phá lớn nhất cho cả dân tộc, và chúng ta có đặc ân khai
thác và bảo tồn như viên ngọc quý nhất của dân tộc. Tôi
xin khiêm tốn trao tặng viên ngọc quý này cho nền Quốc học
Việt Nam.
LỤC
TỔ HUỆ NĂNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Trước
khi đi đến những dữ kiện, tài liệu lịch sử để chứng
minh Huệ Năng là người Việt Nam, tôi xin cụ thể gợi lại
đây cho ta thấy “bản lai diện mục” của ngài Huệ Năng
qua cái nhìn của tôi từ những dữ kiện rõ ràng có thể
thấy được, dưới một luồng ánh sáng khác chiếu rọi trên
con đường cô độc của một đạo sĩ Việt Nam cách đây
trên 13 thế kỷ. Điều sai lầm lớn nhất là mỗi khi ta nhắc
đến ngài Huệ Năng thì lập tức chúng ta hình dung rằng ngài
có hình dáng một cụ Hòa thượng già nua, mường tượng như
những hình ảnh ta nhìn thấy trong sách vở Tàu; tất cả những
hình ảnh của ngài và ngay cả hình ảnh chụp nhục thân của
ngài đều là những hình ảnh do những đời sau nguỵ tạo.
Chúng ta cần phải thành kính thờ lạy tất cả những hình
ảnh về ngài do những thế hệ đã qua để lại, vì tất
cả những di ảnh ấy đều là những biểu tượng cần thiết
hữu hình về ngài; chúng ta phải cần có những biểu tượng
hữu hình để thờ lạy, vì cơ cấu tâm thức của chúng ta
cần phải nương tựa thành kính vào một hình tượng cụ
thể để mới có khả năng vượt qua hình tượng, chứ không
thì dễ rơi vào chủ nghĩa hư vô. Nhu yếu vô hình và siêu
hình của tâm hồn phải cần nương tựa vào một hình tượng
nhất định để rồi siêu hóa và chuyển hóa tất cả những
hình tượng. Chính ngay đương thời với ngài Huệ Năng, theo
truyền thuyết, có đệ tử tạc tượng ngài, nhưng chính ngài
Huệ Năng ngó tượng và mỉm cười: “Ngươi chỉ có tài
nặn hình mà chẳng hiểu được tánh Phật”. Dù đây chỉ
là đoạn văn do người sau thêm vào Tông Bảo của Pháp Bảo
Đàn kinh, nhưng vẫn nói lên được cụ thể cái tinh thần
vô tướng của nguyên ngữ khí của Huệ Năng. (Bản Tông Bảo
có điều vô lý là ghi rằng Phương Biên, người tạc tượng,
đã gặp Bồ Đề Đạt Ma, đến trước Huệ Năng năm đời
Tổ). Chúng ta thường hình dung nét mặt của ngài Huệ Năng
là nét mặt hiền hậu của một cụ già, nhưng chúng ta đã
quên rằng Huệ Năng đã từng rất trẻ, và chính tuổi trẻ
của Huệ Năng quyết định hết tất cả sự nghiệp tâm linh
vĩ đại của Huệ Năng, vì tất cả những bản khác nhau của
Pháp Bảo Đàn kinh đều giống nhau ở chỗ nói lên tuổi trẻ
của Huệ Năng, khi ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Ba
điều cần nhấn mạnh về tuổi trẻ của ngài Huệ Năng:
- Thứ
nhất: Huệ Năng đã đắc đạo vừa lúc mới nghe người lạ
tụng kinh Kim Cang trước khi ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn;
- Thứ
hai: Huệ Năng là một thanh niên đầy tự tin, hãnh diện về
sự chứng ngộ tâm linh của mình và không hề có một mặc
cảm tự ti nào cả khi mới vừa gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
Theo tiêu chuẩn lễ nghi, lễ phép ở tông môn thì cách đối
đáp của Huệ Năng (vừa mới gặp Ngũ Tổ lần đầu tiên)
quả thực là rất “vô lễ”.
Ngay
ở Việt Nam ngày nay, cũng không thấy một thanh niên trẻ măng
mới đến chùa xin đi tu mà dám cả gan đối đáp như vậy
với một vị Hòa thượng nổi tiếng (như Hoằng Nhẫn), huống
chi đây là một thanh niên ngoại quốc ở vùng nhược tiểu
“man rợ” mà dám đối đáp với Đại lão Hòa thượng đại
cường quốc thống trị Trung Hoa thịnh Đường như vậy; Hoằng
Nhẫn giả vờ hỏi một câu chê trách về nguồn gốc Việt
Nam của Huệ Năng thì Huệ Năng trả đũa ngay lập tức như
một kẻ đã chứng ngộ rồi mới dám khẳng định rằng:
“Con người tuy có Tàu có Việt, tuy thân mọi rợ này không
giống với thân Hòa thượng, nhưng Phật tánh trong Hòa thượng
và trong tôi chẳng có gì là sai biệt”. (Chúng ta phải hiểu
chữ “Bắc” trong kinh có nghĩa là “Trung Quốc” và “Nam”
có nghĩa là Việt Nam; ngày xưa người Trung Hoa coi nước Việt
Nam là thuộc địa miền Nam của họ);
- Thứ
ba: Huệ Năng không được Hoằng Nhẫn dạy đạo gì cả và
chỉ ở chùa với Ngũ Tổ có tám tháng mà thôi, và được
Ngũ Tổ trao truyền y pháp và ngôi Lục Tổ, lúc Huệ Năng
mới có được khoảng 22 tuổi và chỉ non khoảng 23 tuổi.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chỉ giữ vai trò danh dự là ấn chứng
cho Huệ Năng, vì thế Ngũ Tổ mới lén lút kêu gọi Huệ Năng
đêm khuya vào gặp riêng Ngũ Tổ để ngài trao y pháp và giảng
cho một thời kinh Kim Cang gọi là lấy lệ thôi, rồi sau đó
Ngũ Tổ âm thầm lén lút đưa tiễn Huệ Năng đến trạm Cửu
Giang, và đuổi khéo Huệ Năng trở về rừng rú Việt Nam,
không dám giữ lại đất Trung Hoa, vì Ngũ Tổ đã làm một
việc can đảm phi thường nhất đáng ngại: trao ngôi vị lớn
nhất của Thiền tông (lúc đó chưa có tên là “Thiền tông”
mà chỉ có tên là Đông Sơn pháp môn) cho một thanh niên “mọi
rợ” mới chưa đầy 23 tuổi.
Có
một điều không nên quên đó là lần đầu tiên và có thể
là lần cuối cùng độc nhất trong lịch sử Phật giáo Trung
Hoa mà ngôi vị Tổ sư của một tông pháp lớn nhất của
Phật giáo lại được trao truyền cho một người ngoại quốc
còn rất trẻ tuổi và chưa thọ giới xuất gia gì cả (Huệ
Năng chỉ làm lễ thế phát xuất gia theo điệu hình thức
lúc gần 40 tuổi, vì “phương tiện thiện xảo”, vì từ
bi để hoằng pháp và gìn giữ ý nghĩa siêu việt của chữ
“Tăng” trong Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), nhưng chi tiết này
cũng do những bản đời sau của Pháp Bảo Đàn kinh thêm vào
để cho “cụ túc” hình tướng cần thiết hóa độ). Chúng
ta phải tán thán công đức siêu phàm của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
ở đây: Hòa thượng đã nhìn nhận ra tất cả vĩ đại phi
thường của một anh con nít, chưa đầy 23 tuổi, lại thuộc
giống người “mọi rợ”, chưa xuất gia; và Hòa thượng
khéo léo kín đáo trao truyền tất cả trách nhiệm tâm linh
nặng nề nhất của đạo pháp, khéo léo khuyên Huệ Năng lui
trở về Việt Nam và trốn tránh ở Việt Nam, chứ đừng ra
mắt xuất hiện ở đất Trung Hoa nữa; Huệ Năng đã nghe lời
dạy của Ngũ Tổ và đã mất dạng ở đất Trung Hoa trong
vòng mười sáu năm; ngài trở về ẩn náu ở vùng rừng núi
Việt Nam và đến mười sáu năm sau mới xuất hiện giữa
vùng biên cương hai nước để thuyết pháp.
Từ
ba điều cần nhấn mạnh trên, bây giờ chúng ta thử hình
dung người thanh niên Huệ Năng. Chúng ta thử hình dung cách
đây trên 13 thế kỷ, lúc đó tại vùng miền Bắc nước Việt
Nam, quanh quẩn đâu đó thuộc vùng thượng du Bắc Việt, có
một đứa con nít Việt Nam ra đời khoảng năm 638, tại vùng
đất gọi là Lĩnh Nam, tức là Việt Nam, lúc đó nước Việt
Nam đã mất chủ quyền độc lập, gọi là thời Bắc thuộc
lần thứ ba, vào thời nhà Đường (cuộc Bắc thuộc dã man
này kéo dài từ năm 603 cho đến năm 939). Tất cả những gì
huy hoàng nhất của Việt Nam trong giai đoạn ấy đều bị
Trung Hoa đồng hóa sát nhập vào sở hữu của họ). Cũng xin
mở dấu ngoặc ở đây: Phật giáo Việt Nam lúc ấy rất huy
hoàng và có nhiều vị sư Việt Nam đã được triệu thỉnh
về triều đình Trung Hoa để dạy đạo Phật cho vua quan học;
đó là chưa nói đến Trung tâm Phật giáo Đại thừa có từ
trước đời Đường ít nhất ba, bốn thế kỷ là nước Vu
Điền (Khotan) ở Trung Á đã sản xuất bao nhiêu đạo sĩ truyền
giáo Đại thừa cho Trung Hoa, hầu hết tất cả những vị
này đã mang kinh điển Phật giáo đến Trung Hoa từ thế kỷ
thứ hai và mấy thế kỷ sau; hầu hết tất cả những vị
truyền giáo vùng Trung Á này đều đi bằng đường biển đến
Trung Hoa và bắt buộc phải ghé Việt Nam trước khi đổ bộ
sang Trung Hoa (ngay cả Bồ Đề Đạt Ma, người vùng Trung Á,
chứ không phải Ấn Độ, vì không có sách Phật giáo Ấn
Độ nào nói đến Bồ Đề Đạt Ma cả, ngay cả tài liệu
Tây Tạng về Phật giáo Ấn Độ cũng không có nói đến Bồ
Đề Đạt Ma), ngay đến Bồ Đề Đạt Ma, người vùng Trung
Á, cũng phải đi đường biển và mất hết ba năm trời mới
đến Trung Hoa, như thế trong thời gian ba năm đó, Bồ Đề
Đạt Ma cũng phải lưu lại Việt Nam trước khi sang Trung Hoa.
Việt Nam đã từng chịu ảnh hưởng mạnh về hình thức Phật
giáo Trung Hoa, nhưng ngược lại Việt Nam đã ảnh hưởng lại
Trung Hoa rất mãnh liệt mà ít ai thấy được, và trường
hợp Huệ Năng là một thí dụ điển hình. Phật giáo Việt
Nam đã ảnh hưởng mãnh liệt đến Phật giáo nước ngoài,
như một trường hợp điển hình khác ít ai biết: năm 735,
Thiền sư Việt Nam tên là Phật Triệt đã đến Nhật Bản
và dạy chữ Phạn cho những Tăng sĩ Nhật Bản, và đồng
thời Tổ sư trao truyền nhạc Phật giáo cho nền vũ nhạc
triều đình Nhật Bản mà ngày nay người Nhật rất hãnh diện
đã giữ lại nền vũ nhạc tuyệt vời ấy và coi như “một
trong những kỳ quan của thế giới” và chính người Nhật
cũng công nhận rằng đó là nền vũ nhạc mà chính một người
Việt Nam đã trao truyền cho họ vào thế kỷ thứ VIII đang
khi đó ở Việt Nam chúng ta đã quên mất hết tất cả những
gì gọi là tinh túy của dân tộc(1). Đây là một trường
hợp đáng lưu ý cho những người quan tâm đến quốc học
mà tôi sẽ đề cập trong dịp khác. Bây giờ xin đóng dấu
ngoặc lại và trở về ngài Huệ Năng.
Chúng
ta thử tưởng tượng hình dung một đứa con nít Việt Nam
khi sinh ra đời thì nước Việt Nam đã trở thành lãnh thổ
của nước Trung Hoa. Chúng ta chỉ biết đứa con nít ấy tên
là Năng (chữ “Huệ” có thể do Ngũ Tổ đặt thêm cho Năng).
Không ai biết rõ tung tích của đứa bé ấy, chỉ biết rõ
rằng đứa bé ấy là người đất Lĩnh Nam (tức là Việt
Nam). Ngay đến tên tuổi cha mẹ của Huệ Năng trong bản Đôn
Hoàng và những bản sau của Pháp Bảo Đàn kinh đều do những
thế hệ sau thêm vào (bản Đôn Hoàng Pháp Bảo Đàn kinh xuất
hiện sau năm viên tịch của Huệ Năng ít nhất trên một thế
kỷ sau). Khi đứa trẻ ấy lớn lên khoảng ngoài hai mươi
tuổi, ở vùng gần biên giới Trung Hoa, nghèo khổ, phải đi
bán củi nuôi sống, người nhỏ bé, ốm yếu, gầy đét, nhưng
thông minh siêu phàm xuất chúng; tình cờ chỉ nghe một người
tụng kinh Kim Cang mà giác ngộ; Huệ Năng biết nói tiếng Tàu,
nhưng nói đại khái thôi và không rành lắm: dữ kiện lịch
sử đã chứng minh rằng Huệ Năng nói không rành tiếng Tàu
(đã được những hậu bản kinh Pháp Bảo Đàn ghi chép) dù
Huệ năng có nói tiếng Tàu theo giọng Quảng Đông đi nữa
thì không có lý do gì mà Huệ Năng phải cần tự biện hộ
(ngài đối đáp với Hoằng Nhẫn) lúc Ngũ Tổ đưa ngài đến
trạm Cửu Giang để trở về Việt Nam, nhất là trong một
lúc nghiêm trọng như sắp vĩnh biệt Ngũ Tổ. Chẳng hạn đọc
lại bản Tông Bảo của Pháp Bảo Đàn kinh:
“Lúc
vào canh ba, Huệ Năng lãnh được y bát rồi thì mới hỏi:
“Năng này gốc gác là người Việt Nam, vốn chẳng biết
đường đi vùng núi này, làm thế nào mà ra vàm sông?”. Ngũ
Tổ đáp, con chẳng cần đi, tự ta sẽ đưa con đi. Tổ đưa
Huệ Năng thẳng tới trạm Cửu Giang. Rồi Tổ bảo Huệ Năng
lên thuyền, ngài cầm mái chèo lấy, nhưng Huệ Năng nói: “Xin
Hòa thượng ngồi và hãy để đệ tử chèo lấy mới phải”.
Tổ nói: “Đáng lẽ ta độ cho người”. Huệ Năng trả lời:
“Khi mê thì thầy độ cho, ngộ rồi thì mình độ lấy mình.
Chữ “độ” tuy có một mà chỗ dùng chẳng giống nhau. Huệ
Năng này sinh ở chốn biên thùy xa xôi, thành ra tiếng nói
không được đúng. Nhờ thầy truyền pháp rồi và nay đã
đắc ngộ rồi thì chỉ tự mình mà độ lấy mình thôi”.
Chúng ta thấy gì trong lời ghi chép trên? Hiển nhiên chữ Hán
“độ” có nghĩa là “đưa” mà cũng có nghĩa là “cứu
độ”. Khi Huệ Năng trả lời: “Lúc mê thì Tổ sư độ,
ngộ rồi thì tự độ lấy mình. Huệ Năng này sanh tại xứ
dã man và giọng nói không đúng, nhờ Tổ sư truyền pháp,
nay đã được tỏ sáng thì chỉ nên mình tự độ lấy mình”.
Đoạn này mới nghe qua tưởng dễ hiểu. Nếu chúng ta biết
nhìn thấy qua bên trong sự việc thì chúng ta sẽ thấy được
mật ý của đoạn văn. Đây không phải lúc mà Huệ Năng có
thể “chơi chữ” với Tổ sư, vì đây là giây phút vô cùng
nghiêm trọng và ngôn ngữ ở đây là ngôn ngữ bí mật giữa
hai thiền sư; ngôn ngữ bí mật nằm giữa hai biên giới, biên
giới Sống và Chết: một Tổ sư rút lui về sự Chết và
một Tổ sư khác mới khai sinh. Huệ Năng đã hiểu mật ý
của Ngũ Tổ và muốn nói với Ngũ Tổ rằng: “Thầy muốn
đưa con về Việt Nam là để cứu thoát con để khỏi bị
lâm nạn ở đất Tàu, vì con nói tiếng Tàu không rành, là
người mọi rợ, lại lên ngôi vị Tổ sư, nhưng thầy đưa
con đi đây có nghĩa rằng thầy muốn cứu thoát con, dù con
nói không rành tiếng Tàu, nhưng con cũng hiểu ý của thầy
khi thầy muốn “đưa” con đi và đồng thời muốn “cứu
thoát” con (“độ”), con đã hiểu ý thầy rồi thì con phải
tự cứu thoát lấy mình và trở về Việt Nam”. Tất cả
mật ý trên chỉ muốn nói lên điều duy nhất: Huệ Năng hiểu
lý do tại sao Ngũ Tổ đưa trả Huệ Năng về Việt Nam, vì
rất nguy hiểm cho tính mệnh của một người thanh niên trẻ
tuổi, người “man rợ dã man” mà được trao truyền ngôi
vị Tổ sư thống lãnh tất cả Đông Sơn pháp môn, trường
phái nổi tiếng nhất của Trung Hoa hồi đó. Chỉ có thể
hiểu như vậy mới không thấy cái “lố bịch” của Huệ
Năng khi tỏ vẻ “khôn vặt” chơi chữ với chữ “độ”
trong một giây phút linh thiêng nhất, lúc giã biệt thầy. Sau
đó, chàng thanh niên Huệ Năng phải mai danh ẩn tích ở rừng
núi Việt Nam trong khoảng mười sáu năm trời, rồi mới dám
xuất đầu lộ diện thuyết pháp ở vùng biên giới Trung -
Việt.
Ngài
Huệ Năng thuyết pháp trên ba mươi mấy năm trời chung quanh
vùng Quảng Đông và vùng biên giới Trung - Việt, và cả nước
Trung Hoa lúc ấy không ai biết đến tên tuổi ngài cả, lúc
ấy Thần Tú được trọng đãi ở triều đình Trung Hoa và
được chính thức coi như Lục Tổ của Đông Sơn pháp môn
(lúc đó chưa có phân biệt “Bắc Tú, Nam Năng” như ta thấy
trong bản Đôn Hoàng và những hậu bản Pháp Bảo Đàn kinh).
Danh tiếng, uy thế của Thần Tú và đệ tử Phổ Tịch lẫy
lừng vang dội và được vua Trung Hoa coi như Quốc sư, đang
khi ấy ngài Huệ Năng chỉ là một ông đạo sĩ “man rợ”
tối tăm ở biên cương, chỉ có được một số môn đệ
người Trung Hoa trung thành sùng bái, trong số đó có một người
tên là Thần Hội; chính Thần Hội sau này đã khôi phục lại
ngôi vị Tổ sư thứ sáu cho Huệ Năng và rao truyền đạo
lý Đốn ngộ Bát nhã của Huệ Năng và đẩy lùi tất cả
những trường phái Thiền tông khác đi vào bóng tối của
lịch sử. Tất cả tư tưởng đạo lý của Thần Hội đều
được rút ra trực tiếp từ Huệ Năng. Vai trò quyết định
của Thần Hội đối với lịch sử Phật giáo Thiền tông
Trung Hoa và Nhật Bản chỉ mới được Hồ Thích khám phá
ra từ những tài liệu đào ra được ở động Đôn Hoàng,
lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris. Tác phẩm của Thiền
sư Thần Hội đã thất lạc từ lâu ở Trung Quốc và Nhật
Bản, chỉ nhờ Hồ Thích khám phá ra ở thư loại Pelliot tại
Paris mà lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung Hoa đã được
viết lại hết, chẳng những tài liệu của Hồ Thích thôi
mà còn bao nhiêu tài liệu khác từ Đôn Hoàng đã giúpc ho
các học giả Nhật và phương Tây thấy rằng sự thực lịch
sử về sự thành hình của Thiền tông không giống như những
tài liệu lịch sử Phật giáo Trung Hoa như chúng ta từng quen
biết từ lâu. Những gì chúng ta biết được về những Tổ
sư Trung Hoa từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Năng đều do
những truyền thuyết nguỵ tạo ở những thế hệ sau. Tất
cả những sử gia Trung Hoa và ngoại quốc muốn viết gì về
Huệ Năng đều lấy tài liệu chứng minh từ bộ Toàn Đường
văn (Đài Bắc, 1961, 20 cuốn), nhưng theo giáo sư Yampolsky thì
bộ “Bộ sách Toàn Đường văn” được biên soạn vào năm
1814 và sử dụng tạp nhạp tất cả những tài liệu một
cách bừa bãi, và nhiều tài liệu đã được viết ra sau này
và rất gần đây, thành ra không thể tin vào giá trị của
những tài liệu ấy” (Yampolsky, op. cit., trang 31). Sau khi khảo
xét rất kỹ lương xtất cả tài liệu liên quan đến Huệ
Năng trong bộ Toàn Đường văn, Yampolsky phải đi đến kết
luận rằng tất cả đều là ngụy tạo (op. cit., trang 59).
Sau khi đã duyệt qua hàng ngàn tài liệu Trung Hoa và Nhật Bản,
cùng những tài liệu khai quật ở Đôn Hoàng, Yampolsky đi đến
kết luận rằng: “Chúng ta không có được những dữ kiện
nào về Huệ Năng cả… (For Hui-Neng we have no facts…” op.
cit., trang 60). “Chúng ta chỉ có thể kết luận rằng thực
ra gần như không có gì để chúng ta có thể nói thực sự
về Huệ Năng” (“We may only conclude that there is infacts, almost
nothing that we can really say about him”, op. cit., trang 69). Theo
Yampolsky, chúng ta chỉ biết chắc có một điều là có một
người tên là Huệ Năng, một thiền sư có đôi chút tiếng
tăm đương thời và sống đâu đó ở vùng miền Nam Trung Hoa”.
Theo Yampolsky, chỉ có hai tài liệu đáng tin cậy: thứ nhất
là Lăng Già sư tử ký (khai quật ở Đôn Hoàng), và tài liệu
này chỉ nhắc đến tên Huệ Năng như là một trong mười
học trò của Hoằng Nhẫn, chỉ thế thôi và không có ghi chép
sự kiện gì khác; tài liệu thứ hai là bia ký của thi hào
Vương Duy vào khoảng năm 740. Còn tất cả những tài liệu
khác đều do những thời đại sau ngụy tạo. Trong bia ký của
thi hào Vương Duy mà Yampolsky đã trích dịch ở trang 66-67 (op.
cit.), chúng ta chỉ thấy Vương Duy ghi rằng: “Nơi quê quán
của Thiền sư Huệ Năng không ai biết. Thiền sư sinh sống
ở một thôn làng mọi rợ. Khi trẻ, học đạo với Hoằng
Nhẫn, thiên tài của ngài được Ngũ Tổ ghi nhận và được
trao truyền y pháp; Ngũ Tổ bảo ngài phải lìa bỏ (tức là
lìa bỏ đất Trung Hoa), và trong mười sáu năm, ngài sống
ẩn trốn với phường buôn bán dân ngu khu đen (tức là phường
dân ngu khu đen ở Việt Nam). Từ hai dữ kiện lịch sử trên
và dựa theo tất cả những bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn
kinh, và loại bỏ tất cả những gì có tính cách thần thoại
hay truyền thuyết (và ngay cả bản Đôn Hoàng Pháp Bảo Đàn
kinh chỉ được chép vào năm 830-860, gọi là do Pháp Hải ghi
lại, chưa hẳn là nguyên bản của Pháp Bảo Đàn kinh mà những
học giả Nhật cho rằng đã có một nguyên bản khác đã được
viết vào khoảng năm 713-714 sau khi Huệ Năng viên tịch, bản
này đã mất và chưa tìm lại được); dựa vào tất cả những
dữ kiện kiểm chứng được, chúng ta chỉ có thể có những
kết luận sau đây:
- Huệ
Năng là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam;
- Lĩnh
Nam là đất Việt Nam (ngày xưa Lưỡng Quảng: Quảng Đông
và Quảng Tây cũng thuộc Việt Nam). Ngay đến Yampolsky cũng
đã chú thích rất rõ: “Lĩnh Nam là những vùng ở Quảng
Đông, Quảng Tây, và miền “Bắc Đông Dương Việt Nam”
(“Ling-nan indicates the areas of Kwangtung, Kwangsi, and Northern Indochina”,
op. cit., trang 126). Còn địa danhh “Nam Hải” ghi trong tất
cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh thì theo Yampolsky đó là
Phiên Ngung, tức là thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày xưa (xin
đọc Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, trang 37: “Triệu
Đà đánh được An Dương vương, sát nhập nước Âu Lạc
vào quận Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt,
tự xưng làm vua, tức là Vũ vương, đóng đô ở Phiên Ngung”).
Ngoài
ra, còn một điểm đáng lưu ý mà Yampolsky đã nêu ra: Bài
thuyết pháp quan trọng nhất của Huệ Năng là ở chùa Đại
Phạm, nhưng theo Yampolsky thì, không ai có thể truy tìm cho ra
chùa Đại Phạm ở đâu, chỉ biết chùa ấy còn có tên là
chùa Báo Ân. Ngôi chùa quan trọng nhất, nơi xảy ra bài thuyết
pháp quan trọng nhất của Huệ Năng và là nội dung quan trọng
nhất của tất cả các bản Pháp Bảo Đàn kinh mà không có
học giả nào truy ra được địa điểm đích xác, đang khi
đó, một sự kiện lạ lùng, là chúng ta đã thấy cái tên
chùa Báo Ân rất nhiều lần trong quyển Việt Nam Phật giáo
sử luận của Nguyễn Lang, cuốn 1, trang 342 và 344; và điều
lạ lùng nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam: trong Thiền
phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi có hai tên khuyết lục vào thế hệ
thứ năm và thế hệ thứ sáu, vào thế kỷ thứ VII và thế
kỷ thứ VIII, đồng thời với Huệ Năng và Thần Hội (mà
Thần Hội ở chùa Hà Trạch, Hà Trạch nào, phải chăng là
Hà Trạch ở Lạc Dương hay Hà Trạch ở Việt Nam?), vì trong
Lĩnh Nam chích quái có ghi rằng: “Thiền sư Không Lộ kết
làm đạo hữu với Giác Hải, lần đến chùa Hà Trạch nương
thân…” (trang 90). Và riêng về tài liệu Phật giáo Việt
Nam có một nghi vấn mà chưa ai trả lời được và còn ghi
lại trong Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (trang
224 và 98): có hai hệ phái Đại Điên và Bát Nhã không được
chép vào lịch sử những thế hệ truyền thừa. Chúng ta cũng
nên nhớ rằng Huệ Năng và Thần Hội thuộc vào hệ phái
Bát Nhã và chống lại hệ phái Lăng Già của Thần Tú và
Phổ Tịch. Có một điều đáng nói hơn nữa, đang khi Huệ
Năng đương thời không được người Trung Hoa biết đến,
và mãi sau đến sự xuất hiện hoằng pháp của Thần Hội
(sau khi Huệ Năng đã chết lâu rồi) thì ảnh hưởng của
Huệ Năng lớn mạnh như vũ bão quét sạch tất cả tông phái
khác ở đất Trung Hoa, đang khi ấy nước Trung Hoa không có
một tổ đình nào mang tên là Lục Tổ thì trái lại tại
Việt Nam đã có một tổ đình rất lâu đời, mang tên là
Tổ đình Lục Tổ (xin đọc Nguyễn Lang, trang 218, trang 98,
trang 101). Như trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì Tổ đình
Lục Tổ đã có tới trên 400 năm, tính kể từ cuối thế
kỷ thứ XII, tức là Tổ đình Huệ Năng đã có từ thế kỷ
thứ VIII, thời đại của Huệ Năng (Huệ Năng viên tịch vào
thập niên đầu thế kỷ VIII, tức khoảng năm 713) (Nguyễn
Lang, op. cit., trang 101). Thiền sư Thần Hội, đệ tử của
Huệ Năng chỉ xuất hiện ở những kinh đô Trung Hoa để vũ
bão quét sạch tất cả những tông phái Thiền của Phổ Tịch
(đệ tử Thần Tú) và lấy lại ngôi vị Lục Tổ cho Huệ
Năng, bắt đầu từ năm 732, và Thần Hội đã chiến thắng
vẻ vang rực rỡ và mất đi vào năm 758 hay 760, thì đang lúc
đó ở Việt Nam đã có một tổ đình mang tên là Lục Tổ.
Còn một điều nữa là quyển Nam Tông tự pháp đồ (ghi lại
lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt Nam) đã bị mất,
và chính mấy chữ “Nam Tông” đáng cho chúng ta lưu ý, vì
mấy chữ ấy chỉ xuất hiện với sự xuất hiện của Thần
Hội vào khoảng từ năm 732 trở đi. Còn một điểm lịch
sử vô cùng quan trọng đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Thiền
sư Việt Nam La Quý An quyên góp tài sản và đúc một tượng
Lục Tổ bằng vàng, chôn ở gần tam quan để khỏi bị trộm
cắp, dặn rằng khi nào có bậc minh vương ra đời để giúp
dân cứu nước thì đào lên”. Đây có ngụ ý chính trị
gì đối với dân tộc Việt Nam lúc ấy, và nhất là một
điểm khác sau đây: “Ngày Lý Công Uẩn được suy tôn hoàng
đế trong cung thì Thiền sư Vạn Hạnh đang ở chùa Lục Tổ
(đọc Nguyễn Lang, op. cit., trang 243-24). Nơi đây chứa đựng
những bí mật nào về lịch sử của dân tộc mà chúng ta
không còn để ý tới? Nhất là phải cần nhớ rằng Huệ
Năng là đại diện cho ý thức độc lập của Việt Nam chống
lại Trung Hoa, chẳng những về phương diện đạo lý mà còn
đại diện ý thức độc lập tự chủ chính trị của chính
trị Việt Nam đối với Trung Hoa; chúng ta phải cần nhớ lại
rằng Thần Hội đã bị triều đình Trung Hoa bắt giam và lưu
đày vì bị kết án là “muốn âm mưu chính trị có hại
cho chính quyền Trung Quốc”. (cf. Yampolsky, op. cit., trang 36).
Và chính Thần Hội đã tạo ra vai trò Bồ Đề Đạt Ma (truyền
thừa y bát của Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Năng) và cũng
chính Thần Hội lật đổ vai trò tối ư quan trọng của Thần
Tú và Phổ Tịch (đệ tử Thần Tú) lúc bấy giờ và giành
lại ngôi vị Lục Tổ cho Huệ Năng và đưa Thiền Việt Nam
của Huệ Năng thống trị cả Phật giáo Trung Hoa. Đây không
phải chỉ là sự chiến thắng về mặt ý thức đạo lý Việt
Nam mà cũng là sự chiến thắng của tư tưởng Bát nhã đối
với tư tưởng Lăng già (của phái Lăng Già tông, tức là
tất cả trường phái Thiền Trung Quốc đương thời mà đại
diện là Pháp Như, Thần Tú và Phổ Tịch). Tất cả bản kinh
khác nhau của Pháp Bảo đàn kinh đều xác nhận hai điều
quan trọng:
Thứ
nhất: Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ
Tàu;
Thứ
hai: Huệ Năng sinh trưởng tại Lĩnh Nam và hoằng pháp chung
quanh vùng Nam Hải, tức là Phiên Ngung (thuộc lãnh thổ Việt
Nam thời đó).
Và
điều quan trọng là tất cả các bản khác nhau của Pháp Bảo
Đàn kinh đều còn giữ lại ít nhất hai lần, nếu không muốn
nói là năm sáu lần những câu đại loại sau đây để chứng
tỏ Huệ Năng không phải là người Hán tộc mà là người
Việt Nam:
- Hoằng
Nhẫn mắng Huệ Năng: “Mi là dân Lĩnh Nam, vốn là đồ mọi
rợ, làm thế nào thành Phật được?” (phân đoạn 3, bản
Đôn Hoàng).
- “Thực
không ai ngờ nơi đất Lĩnh Nam lại được phúc có Phật sinh
ra nơi ấy” (phân đoạn 37, bản Đôn Hoàng).
Mấy
chữ “đồ mọi rợ” ở đây là dịch mấy chữ chửi thề
ở đời đường “các lão” mà Yampolsky đã chú thích như
sau: “Ko-lao” (các lão) là một tiếng mắng chửi, có nghĩa
là dân dã man, gần như súc vật ở phương Nam nước Trung
Hoa (tức là Việt Nam)” (op. cit., trang 127).
Chỉ
nội mấy chữ “các lão” trên cũng đủ để chứng minh
Huệ Năng không phải người Trung Hoa mà là người Lĩnh Nam.
Và riêng mấy chữ “Lĩnh Nam”, chúng tôi xin trở lại Lĩnh
Nam chích quái: theo giáo sư Lê Hữu Mục, dịch giả Lĩnh Nam
chích quái thì “Lĩnh Nam chích quái còn mang nhiều giá trị
lịch sử, lịch sử vẻ vang của tổ tiên trong công cuộc
xây dựng đất nước” (trang 28). Từ đó, chúng ta có thể
kết luận rằng: Nếu nói Lĩnh Nam là của Trung Hoa thì chúng
ta phải bôi hết Lĩnh Nam chích quái và phải bôi hết “lịch
sử vẻ vang của tổ tiên trong công cuộc xây dựng đất nước”
(Lê Hữu Mục). Nếu có người Việt Nam nào lên tiếng nói
rằng Huệ Năng người đất Lĩnh Nam là người Trung Hoa, thì
tôi phải kết luận rằng “người Việt Nam” ấy cho tới
thế kỷ thứ XX vẫn chấp nhận “sự Bắc thuộc lần thứ
ba” của Trung Hoa, vì lúc đó vào thời Huệ Năng, chúng ta
bị coi như lệ thuộc Trung Hoa. Mặt khác, nếu có người Trung
Hoa nào muốn chứng minh Huệ Năng là người Trung Hoa thì phải
bôi mấy chữ “các lão” và “Lĩnh Nam” trong tất cả những
bản Pháp Bảo Đàn kinh được chép ra liên tiếp trong mười
ba thế kỷ.
Giữa
những khó khăn lớn lao đang xảy đến cho Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tại quê hương, giữa những ngày khó khăn trong
thời gian phải đối diện và hóa giải những thử thách gay
gắt dành cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ mà
tôi là đại diện lãnh đạo, mỗi khuya tôi đã thức dậy
tụng kinh Lăng Nghiêm, sau đó, tôi đã kiên nhẫn âm thầm
yên lặng trong ba tháng An cư kiết hạ ngồi dịch lại tiếng
nói của ngài Huệ Năng, trả lại tiếng nói của ngài về
đúng tiếng mẹ đẻ của ngài: tiếng Việt Nam, để cho tất
cả chúng ta, những người Phật tử Việt Nam ở hải ngoại,
trong tình cảnh sống tha phương trên đất khách, được nghe
lại tiếng nói của hồn Dân tộc và Đạo pháp, tiếng nói
của một thiên tài vĩ đại nhất Việt Nam và một trong những
thiên tài tâm linh lớn nhất của nhân loại. Dù bất cứ chúng
ta lưu lạc ở phương trời nào, mỗi khi chúng ta không quên
được tiếng nói của quê hương, tiếng nói suối nguồn trong
khiết của đạo lý, thì “chính thân thể mình là quê hương”
như ngài Huệ Năng đã nói, và dù có ai đã đem vô minh đen
tối đến cho quê hương và đạo pháp, nhưng chơn lý vẫn
luôn luôn chiến thắng như ngài Huệ Năng đã nhắn lại với
chúng ta: “Cũng như một ngọn đèn có thể trừ được một
ngàn năm bóng tối thì một ánh sáng của trí tuệ cũng có
thể diệt được một vạn năm ngu si đen tối”.
Los
Angeles, ngày 1 tháng 9 năm 1985
Hòa
thượng THÍCH MÃN GIÁC
KINH PHÁP BẢO
ĐÀN
1.
Đại sư Huệ Năng lên tòa cao trong giảng đường chùa Đại
Phạm giảng giáo lý Bát nhã Ba la mật và truyền Vô tướng
giới. Lúc ấy dưới tòa có trên mười ngàn Tăng, Ni, đạo,
tục. Thiều Châu thứ sử Vi Cứ cùng hơn ba mươi vị quan
liêu và trên ba mươi nho sĩ đều thỉnh Đại sư giảng giáo
lý Bát nhã Ba la mật. Thứ sử còn bảo môn nhân tăng Pháp
Hải ghi chép lại ngõ hầu lưu truyền cho đời sau để cho
những người học đạo noi theo tông chỉ này mà truyền thọ
cho nhau, coi những lời dạy này là nơi nương tựa.
2.
Đại sư Huệ Năng nói: “Các thiện tri thức, hãy tịnh tâm
mình mà tập trung vào giáo lý Bát nhã Ba la mật”. Rồi Đại
sư im lặng, tự tịnh tâm thần mình. Hồi lâu sau mới nói
tiếp: “Các thiện tri thức, xin im lặng lắng nghe. Cha hiền
của Huệ Năng vốn là một quan viên ở Phạm Dương, sau đó
người bị giáng chức và phạt làm thường dân ở Tân Châu,
Lĩnh Nam. Lúc Huệ Năng còn nhỏ, cha mất sớm, mẹ già và
con thơ dọn về Nam Hải. Gian khổ nghèo nàn đến mức phải
đi bán củi ngoài chợ. Hốt nhiên có một người khách mua
củi, bảo Huệ Năng gánh theo về ngôi khách điếm dành cho
các quan viên kia. Sau khi khách lấy củi đi rồi, Huệ Năng
được tiền, đang bước ra cửa thì bỗng gặp một vị khách
khác đang tụng kinh Kim Cang. Huệ Năng vừa nghe thấy, tâm đã
bừng sáng giác ngộ. Huệ Năng tôi bèn hỏi người khách:
“Ngài từ đâu tới mà trì tụng kinh này vậy?”. Khách cười
đáp: “Tôi đã bái kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Hòa thượng
ở Đông Phùng Mộ Sơn, Hoàng Mai huyện, Kỳ Châu. Hiện giờ
ở đó môn nhân của ngài có hơn một ngàn người. Lúc còn
ở đó, tôi từng nghe ngài khuyên các đồ đệ, Tăng cũng
như tục, rằng chỉ cần trì một quyển kinh Kim Cang là thế
nào cũng được kiến tánh thành Phật rốt ráo”. Huệ Năng
tôi nghe nói thế, biết rằng mình có duyên từ kiếp trước,
bèn từ giã mẫu thân, đến ngay Phùng Mộ Sơn ở huyện Hoàng
Mai, để bái lạy Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Hòa thượng.
3.
Hoằng Nhẫn Hòa thượng hỏi Huệ Năng: “Chú là người phương
nào mà đến núi này bái lạy ta? Nay chú đến đây với mục
đích cầu cái gì vậy?”. Huệ Năng đáp: “Đệ tử là người
Lĩnh Nam, vốn chỉ là một tên thường dân ở Tân Châu. Nay
lặn lội từ phương xa đến bái lạy Hòa thượng, không để
cầu vật gì khác, mà chỉ cầu Phật pháp thôi”. Đại sư
bèn quở Huệ Năng rằng: “Chú là dân Lĩnh Nam, vốn là đồ
mọi rợ, làm thế nào mà thành Phật cho được?”. Huệ Năng
nói: “Con người tuy có Nam Bắc, Phật tánh lại chẳng có
Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ này không giống với thân Hòa thượng,
Phật tánh trong chúng ta có gì là sai biệt?”. Đại sư đang
định bàn luận thêm, song chợt nhìn thấy chung quanh có người,
ngài bèn thôi không nói nữa mà chỉ khiến tôi đi theo chúng
để làm việc. Lúc ấy có một hành giả dẫn Huệ Năng vào
phòng giã gạo và Huệ Năng tôi đạp máy giã gạo ở đó
suốt tám tháng trời.
4.
Một hôm, bỗng nhiên Ngũ Tổ cho gọi tất cả các môn nhân
lên. Sau khi họ đã tụ tập đầy đủ, Ngũ Tổ nói: “Để
tôi nói cho các ông nghe, đối với người đời thì sanh tử
là việc lớn, song môn nhân các ông suốt ngày cúng dường,
chỉ cầu phước điền mà chẳng cầu việc xuất ly khỏi
biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh của các ông mà mê mờ thì
phước cũng chẳng làm sao mà cứu các ông được. Các ông
mau quay về phòng tự nhìn vào chính mình, người nào có trí
tuệ chắc chắn sẽ nắm bắt được cái bổn tánh của trí
Bát nhã, rồi mỗi người làm một bài kệ trình lên cho tôi
xem. Tôi sẽ đọc kệ của các ông, nếu như có người nào
giác ngộ được đại ý của Phật pháp, tôi sẽ trao lại
y pháp cho người ấy và tuyên dương làm vị Tổ thứ sáu.
Các ông mau lên cho”.
5.
Sau khi được phân phó, các môn nhân ai nấy quay về phòng
mình, rồi bàn bạc với nhau rằng: “Chúng mình chẳng cần
tịnh tâm cố gắng làm kệ trình lên cho Hòa thượng để
làm gì. Thượng tọa Thần Tú là giáo thọ sư. Sau khi ngài
đắc pháp rồi, chúng mình có thể nương cậy vào ngài, xin
đừng ai làm kệ làm gì”. Ai nấy cũng đều hết có ý muốn
cố gắng làm kệ. Lúc ấy, trước phòng của Đại sư có
một hàng hiên ba gian. Trên tường dưới hành lang được dành
ra
để dự định cho vẽ hình về những mẩu chuyện và giáo
lý của kinh Lăng Già, cũng như việc Ngũ Tổ Đại sư truyền
thọ y pháp để lưu lại cho đời sau ghi nhớ. Họa sư Lư
Trân đã xem xét vách tường và chuẩn bị hôm sau ra tay.
6.
Thượng tọa Thần Tú tư duy: “Mọi người không ai trình
tâm kệ cả, bởi vì mình là giáo thọ sư của họ. Nếu như
mình không trình tâm kệ, làm sao mà Ngũ Tổ có thể thẩm
định được kếin giải trong tâm minh thâm thiển ra sao. Nếu
minh trình tâm kệ lên Ngũ Tổ với ý định cầu làm Tổ,
thì là việc không tốt, bởi vì như thế thì mình cũng chẳng
khác gì bọn phàm phu toan tranh đoạt thánh vị. Song nếu mình
không trình kệ, mình sẽ chẳng bao giờ đắc pháp được”.
Thượng tọa Thần Tú tư duy hồi lâu, trong lòng lấy làm khó
xử vô cùng.
Đến
nửa đêm, không để ai thấy, ngài bèn ra viết tâm kệ lên
vách tường ở chính giữa khu hành lang phía Nam, mong cầu đắc
pháp. “Nếu như ngày mai Ngũ Tổ trông thấy kệ mà hài lòng,
thì mình sẽ bước ra mà nhận là của mình. Còn nếu như
ngài bảo là chưa đắc thì kể như túc nghiệp của mình còn
nặng, không đủ tư cách để đắc pháp. Thánh ý khó dò,
lòng mình lập tức sẽ không còn hoài mong gì nữa”.
Thế
rồi nửa đêm, Tú Thượng tọa thắp đuốc viết kệ lên
vách tường ở chính giữa khu hành lang phía Nam, không để
ai hay biết. Kệ rằng:
“Thân
là cây bồ đề
Tâm
như đài gương sáng
Luôn
siêng năng lau chùi
Đừng
để cho bụi bám”.
7.
Sau khi viết xong bài kệ, Thượng tọa Thần Tú quay về phòng
nằm, không hề có ai trông thấy. Sáng hôm sau, Ngũ Tổ gọi
Lư họa sư đến để vẽ hình về kinh Lăng Già dưới hàng
hiên phía Nam, Ngũ Tổ bỗng trông thấy bài kệ, sau khi đọc
xong, bèn nói với Lư họa sư: “Hoằng Nhẫn tôi xin tặng
ông ba ngàn tiền để đền công lao lặn lội từ xa đến,
song tôi quyết định không họa hình nữa. Kinh Kim Cang nói,
tất cả những gì có hình tướng đều là hư vọng. Sao bằng
để bài kệ này, khiến những kẻ còn mê mờ đọc. Nếu
họ theo đó tu hành thì sẽ không bị đọa vào ba con đường
ác. Tất cả những người theo đó mà tu hành, đều sẽ được
ích lợi lớn”.
Đại
sư bèn gọi tất cả các môn nhân đến, thắp hương trước
bài kệ. Mọi người vào xem, đều sinh lòng cung kính.
Ngũ
Tổ nói: “Các ông ai cũng nên đọc bài kệ này (thì mới
có thể kiến tánh được). Y theo đó mà tu hành thì sẽ không
đọa lạc”. Môn nhân đều đọc, ai cũng sinh lòng cung kính,
kêu lên: “Lành thay!”.
Ngũ
Tổ bèn gọi Tú Thượng tọa vào phòng của ngài, hỏi rằng:
“Có phải ông làm bài kệ này không? Nếu như ông làm, ông
đáng đắc pháp của ta”.
Tú
Thượng tọa nói: “Đắc tội với Hòa thượng, quả thực
bài kệ là do Thần Tú đây làm. Con không dám cầu làm Tổ,
chỉ xin Hòa thượng từ bi, xem coi đệ tử có chút trí tuệ
nào để lãnh hội đại ý “của Phật pháp” hay không?”.
Ngũ
Tổ nói: “Ông làm bài kệ này, thấy ngay rằng kiến giải
chưa đến chỗ rốt ráo. Ông chỉ mới đến trước cửa,
chưa vào được bên trong. Phàm phu theo bài kệ này mà tu hành,
chắc chắn sẽ không đọa lạc. Chứ bằng vào kiến giải
như thế này mà cầu Vô thượng Bồ đề thì chưa có thể
được. Ông tạm về phòng tư duy thêm một hai bữa nữa, rồi
làm một bài kệ khác trình lên cho tôi. Nếu như ông vào được
trong cửa, thấy được bổn tánh, tôi sẽ trao y pháp cho ông”.
Tú Thượng tọa về phòng, song đến mấy hôm sau vẫn không
làm được bài kệ nào khác.
8.
Có một đồng tử đi qua phòng giã gạo vừa tụng bài kệ
kia. Huệ Năng tôi vừa nghe thấy, đã biết ngay rằng người
viết bài kệ ấy chưa thấu được đại ý của Phật pháp.
Huệ Năng bèn hỏi đồng tử: “Bài kệ mà vừa rồi chú
tụng là dạy gì vậy?”. Đồng tử đáp: “Huynh không biết
à? Đại sư nói sanh tử là việc lớn, ngài muốn truyền y
pháp cho nên mới dạy môn nhân mỗi người làm một bài kệ
trình lên cho ngài xem, người nào ngộ được đại ý của
Phật pháp sẽ được trao truyền y pháp và tuyên dương làm
Tổ thứ sáu. Có một Thượng tọa tên Thần Tú, viết một
bài kệ vô tướng dưới hàng hiên phía Nam, Ngũ Tổ dạy tất
cả các môn nhân tụng, người nào thấu triệt được bài
kệ này sẽ thấy được tự tánh mình, người nào y theo đó
tu hành sẽ đạt được giải thoát”.
Huệ
Năng đáp: “Tôi ở đây đạp máy giã gạo đã hơn tám tháng
trời, chưa bao giờ có dịp ra trước sảnh đường. Xin chú
dẫn Huệ Năng đây ra hàng hiên phía Nam để tôi được bái
lạy trước bài kệ ấy. Tôi cũng nguyện được trì tụng,
mong kết duyên lành trong kiếp sau, ngõ hầu được vãng sanh
nơi đất Phật”.
Đồng
tử bèn dắt Huệ Năng ra dưới hàng hiên phía Nam. Huệ Năng
bèn đảnh lễ bài kệ ấy. Bởi vì không biết chữ, cho nên
tôi nhờ một người đọc hộ. Vừa nghe xong, Huệ Năng tôi
đã thấu triệt đại ý của bài kệ. Rồi lại nhờ một
người biết viết, viết hộ lên vách tường phía Tây, để
tôi có cơ hội trình bổn tâm mình. Nếu như không biết bổn
tâm, có học pháp cũng vô ích, biết tâm thấy tánh mới giác
ngộ được đại ý của Phật pháp. Bài kệ của Huệ Năng
tôi như sau:
Bồ
đề vốn không cây
Gương
sáng cũng không đài
Phật
tánh thường thanh tịnh
Chỗ
nào để nhuốm bụi?
Lại
một bài kệ nữa rằng:
Tâm
là cây bồ đề
Thân
là đài gương sáng
Gương
sáng vốn thanh tịnh
Chỗ
nào để nhuốm bụi?
Các
đồ chúng trong viện thấy Huệ Năng tôi làm bài kệ ấy đều
lấy làm kinh ngạc, trong khi đó tôi lại trở về phòng giã
gạo. Ngũ Tổ hốt nhiên thấy Huệ Năng tôi khéo thấu hiểu
đại ý của Phật pháp, song sợ chúng nhân biết, ngài bèn
nói với họ rằng: “Bài kệ này cũng vẫn chưa rốt ráo”.
9.
Đến nửa đêm, Ngũ Tổ gọi Huệ Năng vào phòng của ngài
và giảng kinh Kim Cang. Vừa nghe qua một lần, tôi đã lập
tức giác ngộ và đêm ấy tôi thọ pháp mà không hề có ai
hay biết. Ngũ Tổ bèn truyền thọ pháp môn đốn ngộ và y
chó tôi. Ngài nói: “Bây giờ ông là Tổ đời thứ sáu, y
này là bằng cớ, phải được truyền từ đời này qua đời
khác, pháp này phải truyền từ tâm qua tâm, và mọi người
phải tự mình giác ngộ lấy”. Ngũ Tổ nói: “Huệ Năng,
kể từ xưa việc truyền pháp đã như dây tơ. Nếu ông lưu
lại ở đây, chắc chắn sẽ có người ám hại ông. Ông nên
đi mau thôi”.
10.
Sau khi đắc pháp rồi, nửa đêm Huệ Năng tôi bèn cấp tốc
ra đi. Ngũ Tổ đích thân tiễn Huệ năng tới đến mãi tận
trạm Cửu Giang. Tôi giác ngộ lập tức. Ngũ Tổ lại dặn
dò: “Ông phải nỗ lực, đem pháp về phương Nam, trong vòng
ba năm không được hoằng pháp, nếu không e sẽ có pháp nạn.
Sau đó rồi ông hãy hoằng hóa, khéo dẫn dắt kẻ mê mờ.
Nếu như ông khai mở được tâm họ thì họ cũng không khác
gì ông”. Sau khi tạ từ xong, tôi bèn đi về phương Nam.
11.
Trong vòng hai tháng, tôi đến Đại Dữu Lãnh, không ngờ rằng
sau lưng có hơn hai trăm người theo đuổi, toan ám hại Huệ
Năng tôi để đoạt y pháp. Đi được nửa đường lên núi,
hầu như tất cả bọn họ đều quay về, chỉ trừ có một
ông Tăng họ Trần tên Huệ Minh. Ông ta trước đây vốn là
tam phẩm tướng quân, tánh tình hành vi thô lỗ và hung ác.
Lúc lên đến đỉnh núi, ông ta bắt kịp tôi và toan xâm phạm
tôi. Huệ Năng tôi bèn trao pháp y lại cho ông ta, song ông ta
lại không dám nhận, mà lại nói: “Tôi từ xa lặn lội đến
cầu pháp chứ không muốn y này”. Thế là trên đỉnh núi
ấy, Huệ Năng tôi truyền pháp cho Huệ Minh. Huệ Minh nghe pháp,
lập tức tâm được khai mở. Huệ Năng tôi bèn khiến ông
ta đi về phương Bắc mà khai hóa thiên hạ.
12.
Huệ Năng tôi đến nương náu nơi này kể như là có cái nhân
từ nhiều kiếp trước với chư vị quan liêu, tăng, tục.
Giáo lý mà tôi giảng dạy là do các thánh nhân đời trước
truyền lại, không phải do Huệ Năng tôi tự biết. Chư vị
nếu muốn nghe giáo lý của các thánh nhân đời trước, mỗi
người phải thanh tịnh tâm mình. Sau khi nghe xong, phải nguyện
tự trừ bỏ sự mê mờ của mình, như thế chư vị cũng sẽ
chẳng khác gì với các thánh nhân thuở trước”. Sau đây
là giáo pháp.
Đại
sư Huệ Năng gọi: “Này các thiện tri thức, thế nhân ai
nấy đều vốn sở hữu Bồ đề và trí Bát nhã, chỉ bởi
vì tâm bị mê mờ mà họ không thể tự giác ngộ lấy được,
cho nên mới cần phải cầu bậc Đại thiện tri thức để
chỉ đạo cho họ pháp kiến tánh. Các thiện tri thức, gặp
được giác ngộ tức là thành tựu được Phật trí.
13.
Này các thiện tri thức, pháp môn này của tôi, lấy định
tuệ làm căn bản. Dù bất cứ trong mọi hoàn cảnh nào thì,
tuyệt đối không nên bao giờ được mê mờ nói rằng định
và tuệ là khác biệt. Định tuệ là một thể chứ không
phải là hai. Định chính là thể của tuệ, tuệ chính là
dụng của định. Lúc có tuệ thì định hiện hữu trong tuệ,
lúc có định thì tuệ hiện hữu trong định. Các thiện tri
thức, như thế có nghĩa là định và tuệ bình đẳng. Các
người học đạo cần phải lưu ý, đừng bao giờ nói rằng
định có trước rồi mới phát sinh ra tuệ, hoặc tuệ có
trước rồi mới phát sinh ra định, hoặc định tuệ khác
nhau. Chấp thứ kiến giải này hàm ngụ pháp có hai tướng,
miệng nói thiện, tâm không thiện, định tuệ sẽ không bình
đẳng. Nếu tâm và khẩu đều thiện, nội ngoại là một,
định và tuệ lập tức bình đẳng. Pháp tu tự ngộ không
cốt ở chỗ tranh biện ngoài miệng. Nếu lo tranh biện rằng
định tuệ cái nào trước cái nào sau, lập tức chư vị trở
thành những kẻ mê mờ, rốt cuộc khó mà phán đoán thắng
phụ, lại đâm ra chấp trước vào Pháp và Ngã, không giải
thoát khỏi bốn tướng sanh, lão, bệnh, tử được.
14.
“Nhất hạnh tam muội” tức là cái chơn tâm thường hằng
trong tất cả mọi thời cũng như mọi hành vi đi, đứng, nằm,
ngồi. Kinh Tịnh Danh nói: “Chơn tâm là đạo tràng, chơn tâm
là Tịnh độ”. Đừng bao giờ trong tâm xảo trá mà ngoài
miệng lại nói về cái ngay chính của pháp. Miệng nói nhất
hạnh tam muội mà không thực hành chơn tâm, kẻ ấy chẳng
phải là đệ tử của Phật. Chỉ cần thực hành chơn tâm,
không chấp trước bất cứ pháp nào, đó gọi là nhất hạnh
tam muội. Người mê nệ vào các tướng của pháp, chấp trước
nhất hạnh tam muội, cho rằng chơn tâm có nghĩa là ngồi bất
động, trừ vọng tưởng không để cho bất cứ gì khởi lên
trong tâm, cho đó tức là nhất hạnh tam muội. Nếu như thế
thì pháp này cũng giống hệt như vô tình, đó là nguyên nhân
chính chướng ngại sự đạt đạo. Đạo phải là một cái
gì thông suốt lưu chuyển, làm sao có thể trệ ngại được.
Nếu tâm không đình trệ nơi pháp, đạo lập tức thông suốt
lưu chuyển; nếu tâm đình trệ nơi pháp, thì đó gọi là
tự trói buộc. Nếu ngồi bất động là đúng, Duy Ma Cật
đã chẳng có lý do để quở Xá Lợi Phất mãi ngồi bất
động trong rừng.
|