Pháp
Yếu Truyền Tâm
Thiền Sư
Đoạn Tế Ở Núi Hoàng Bá (Tiếp theo)
CHÁNH
VĂN:
Phàm
nhân khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn đều không, bốn
đại vô ngã, chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến,
khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi,
yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Chỉ hay quán như
thế liền đó chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc
bèn là người xuất thế.
GIẢNG:
Người
tu thiền khi sắp lâm chung phải làm sao? Ngài dạy chỉ quán
năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã như trong kinh Bát-nhã.
Chân
tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng
chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt,
tâm cảnh nhất như. Nói rằng quán năm uẩn đều không, bốn
đại vô ngã điều này nhiều người quán được. Nhưng tới
chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến làm sao biết?
Đã không biết vì sao nói chân tâm không tướng, chẳng đi
chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng
chẳng đi? Không biết mình có chân tâm mà bảo quán chân tâm
làm sao quán? Đó là một vấn đề.
Ai
cũng nói có chân tâm, mà nó hiện lúc nào ra sao lại không
biết. Khi đọc kinh sách tưởng như mình hiểu, thực ra chỉ
hiểu trên danh từ thôi, chớ thực chất chưa nắm được.
Quí vị muốn thấy chân tâm thì phải dùng trí tuệ sẵn có
muôn đời của mình mà nhận. Thường mọi người luôn lấy
ý thức sanh diệt làm tâm mình. Như vậy tất cả nghĩ phải
nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ tốt nghĩ xấu v.v… đều
cho là tâm mình. Người nào nghĩ khéo, nghĩ trúng thì khen tâm
họ sáng, ai nghĩ trật nghĩ sai thì nói tâm họ mù mịt, đần
độn quá.
Trăm
người như một đều nhận suy nghĩ phân biệt đối đãi làm
tâm mình, không biết đó là tâm động, tâm sanh diệt. Nó
đâu có nghĩ hoài một việc mà thay đổi luôn luôn. Nó là
động, là sanh diệt mà chúng ta nhận là tâm mình, nhận thân
tứ đại sanh diệt làm thân mình thì đang sống với cái gì?
Sống với cái tạm bợ, hư dối sanh diệt. Đã lấy tạm bợ
hư dối sanh diệt là mình, thì cái này hoại bám cái khác,
cái khác hoại bám cái khác nữa, liên tục cho nên tiếp tục
trong vòng sanh tử không cùng tận. Đó là nỗi khổ của chúng
sanh, cứ như vậy triền miên sanh tử kiếp kiếp đời đời,
không dừng được. Cho nên đức Phật hết sức thương xót.
Ngày
nay chúng ta tu muốn thoát ly sanh tử, mà cứ bám vào thân tâm
sanh diệt ấy, làm sao thoát ly được. Như người muốn qua
sông lớn mà nương chiếc xuồng lủng, chiếc ghe bể thì sao?
Thì chết chìm. Muốn qua sông lớn ít ra cũng có thuyền chắc
hay tàu lớn, cái không bền chắc mà dùng vượt sông biển
thì không thế nào được. Tu hành cũng vậy, chúng ta phải
biết cái gì là chân tâm, cái gì là vọng tâm hư dối. Nắm
vững để chúng ta không bị kẹt trong tướng sanh diệt, mà
nhận lấy cái bất sanh bất diệt, nhà Phật gọi là Niết-bàn.
Chân tâm là nhân của Niết-bàn sẵn có nơi mỗi người, mà
không ai chịu nhận. Thật đáng tiếc.
Lục
Tổ hỏi ngài Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác,
cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Đó
là Ngài đã chỉ chân tâm cho Thượng tọa Minh rồi. Chúng
ta cứ nói tâm chân, tâm vọng mà hỏi tâm là gì cũng không
biết, cứ cho suy nghĩ hai bên là tâm. Sự thật ngài Khuê Phong
định nghĩa rõ ràng “Tâm là cái biết”. Cái biết nào thuộc
về hư dối sanh diệt gọi là biết vọng. Cái biết không
sanh không diệt là biết chân. Cái biết nghĩ phải nghĩ quấy,
nghĩ hơn nghĩ thua là cái biết sanh diệt. Không dùng cái biết
sanh diệt, mình vẫn biết đó là chân.
Vì
chúng ta không gan dạ, không dám nhìn thẳng để nhận ra cái
thật, cứ chạy theo những dấy nghĩ cho là tâm mình nên quên
mất cái thường biết lặng lẽ. Như vậy có tủi không? Chúng
ta quả tang là chàng bất hiếu cùng tử, ông cha sung sướng
giàu có mà bỏ chạy tha hương, tới chừng thức tỉnh mới
tìm trở về. Đâu phải cha đuổi mà chính mình bỏ nhà đi
hoang. Cũng thế, chân tâm hiện giờ ai cũng có, mà không chịu
nhận. Vì vậy chúng ta ngồi thiền để dừng nghĩ phải, nghĩ
quấy, dừng vọng tâm. Vọng tâm dừng lúc đó chân tâm hiện
ra. Biết tất cả đó là tâm, mà không động.
Các
vị Tổ hồi xưa nói “đêm đêm ôm Phật ngủ”, ôm ông
Phật ngủ mà không nhớ Phật, lại gác tay gác chân đè Phật,
“ngày ngày cùng Phật đi”, mà không thèm ngó ngàng tới
Phật, toàn là ngó theo chúng sanh. Thấy cây dù xanh lo nhìn
cây dù xanh, thấy chậu hoa đỏ lo nhìn chậu hoa đỏ, cứ
phân biệt theo cảnh bên ngoài, không nhớ mình có ông Phật
đang đi theo đây. Bởi vậy đi đứng nằm ngồi không rời
chân tâm, mà chúng ta lại không bao giờ nhận nó, cứ nhận
cảnh vật bên ngoài, trách gì không luân hồi muôn kiếp. Bây
giờ muốn dừng luân hồi phải nhớ mình có tâm chân thật.
Đó là cái không nghĩ suy tính toán, lặng lẽ thường
biết hiện tiền. Diễn tả nó làm sao? Nó không là gì hết,
vì không có hình dáng. Có hình dáng là tướng vô thường
sanh diệt. Nó không phải vô thường sanh diệt nên không hình
dáng mà hằng tri hằng giác.
Mỗi
ngày chúng ta ngồi thiền là để sống lại với tâm thật
của mình, không tìm cầu bên ngoài. Nhưng khổ nỗi nhiều
người ngồi thiền mong thấy hào quang, mà không biết chính
tâm lăng xăng loạn tưởng dừng, luôn luôn tỉnh sáng, đó
là tâm chân thật hiện tiền. Cho nên nói ôm tâm chờ ngộ
là sai. Có gì đâu phải chờ, chỉ cho bọn giặc lặng xuống,
đừng rối loạn lăng xăng nữa thì cái thật hiện ra. Thiền
sư lúc sống với đạo thường như ngu như ngây, khờ khạo.
Khờ khạo với lanh lợi phân biệt, nhưng biết thấu tột
cả vũ trụ nhân sinh, thấy tường tận cội gốc của nó.
Còn chúng ta ngày nay lanh lợi quá, chỉ biết chuyện hơn thua
phải quấy thôi, nên tu hoài vẫn không hết vô minh phiền
não.
Chúng
sanh quá khờ dại, những chuyện không có quyền can thiệp,
không có quyền xử sự mà cứ muốn biết, còn cái thật đang
sống với mình lại bỏ qua, đáng thương không? Vì vậy chư
Phật Bồ-tát thị hiện ra đời là vì chúng sanh, muốn độ
chúng thoát ly sanh tử. Thoát ly sanh tử không phải thân này,
không phải tâm hơn thua phải quấy. Thoát ly sanh tử là nhận
ra cái chân thật mà mình bỏ quên nên cứ trầm luân mãi.
Phật thương nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu kinh điển,
mà nào có mấy người hưởng ứng? Như tôi nói pháp mười
năm nữa cũng vậy thôi. Nói qua rồi quí vị quên, chỉ nhớ
chuyện bên Tây bên Tàu, chớ không nhớ mình có ông Phật
chân thật ngay đây. Tu như vậy tới gần chết quýnh lên không
biết mình ra sao? Tại vì cứ bám vào thân sanh diệt, tâm sanh
diệt cho là mình, tới khi nó sắp hoại mất thì sợ sệt
hoảng hốt. Còn biết mình sẵn tâm chân thật rồi thì thân
tạm bợ này hoại diệt có sao đâu, việc gì phải khổ.
Cho
nên các Thiền sư cười trước khi chết, vì thấy thân là
đồ bỏ không đáng giá chi, tạm mượn nó sống tu. Bây giờ
hết duyên thì đi, các ngài xem nhẹ sự sống chết như thế.
Chúng
sanh ngược lại, cho thân là thật nên một lần mất nó là
một lần đau khổ vô cùng. Chẳng những đau khổ vì mất
nó, mà đau khổ không biết sẽ đi đâu. Tổ Qui Sơn nói: “Đường
trước mờ mờ chưa biết về đâu?” Vì vậy chúng ta học
đạo cốt để tu, đừng phụ bạc ông chủ mình nữa. Người
nào đừng để tâm chạy ngược chạy xuôi, dừng nghỉ hết
lăng xăng, tỉnh táo vui vẻ đó là người sống với chân
tâm. Được như vậy người đó khi nhắm mắt đi với cái
không sanh diệt tức là nhập Niết-bàn. Ngược lại cứ sống
với phải quấy hơn thua thương ghét, thì đi với tâm sanh
diệt tạo nghiệp, dẫn trong sáu nẻo luân hồi.
Bây
giờ quí vị biết quán chân tâm là sao chưa? Quán chân tâm
là biết rõ tất cả niệm khởi thuộc tướng sanh diệt, cái
hằng giác hằng tri không dấy động là mình. Cứ nhớ bao
nhiêu đó thì sống với ông chủ, ra đi tự tại, thảnh thơi
biết mấy. Tổ bảo khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn
không thật, bốn đại vô ngã. Cái hằng tri giác không sanh
không diệt nên khi sanh tánh nó không đến, khi tử tánh nó
không đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như.
Người
nào quán được như vậy thì liền chóng liễu ngộ, chẳng
bị ba đời ràng buộc, bèn là người xuất thế. Bao nhiêu
kinh điển đều chỉ một đoạn này, người thấy được
đường tu thì rất gần. Nếu người còn đa mang tâm sanh diệt,
luyến tiếc tướng tứ đại thì đi theo chiều sanh diệt.
Còn người biết những thứ đó hư giả, chỉ nhớ tâm hiện
tiền hằng tri giác bất sanh bất diệt của mình, đó là người
xuất thế tức giải thoát vậy.
CHÁNH
VĂN:
Dù
người không được ít phần thú hướng, nếu thấy tướng
lành, chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không
khởi tâm đi theo; nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện
trước cũng không sanh tâm kinh sợ; chỉ tự quên tâm đồng
với pháp giới liền được tự tại, đây tức là điều
thiết yếu vậy.
GIẢNG:
Chỗ
này rất khó. Ai nhắm mắt gần chết, thấy Phật đến đón
mà không mừng. Hầu như người tu nào cũng mơ ước được
Phật đón. Nhưng ở đây dạy nếu thấy tướng lành chư Phật
đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi
theo. Phật rước cũng không đi. Tại sao vậy? Vì muốn ra khỏi
sanh tử nên không đi theo các tướng trạng bên ngoài, dù đó
là tướng Phật. Nếu theo Phật cũng còn sanh trong hoa sen. Muốn
đi thẳng tới chỗ vô sanh, thì không theo ai kể cả Phật,
huống nữa là Thánh Thần hay những người thân yêu.
Các
thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo, các thứ hiện
trước là thân tộc bà con, anh em cha mẹ đón cũng không đi.
Điều này khó số một. Đa số quí vị thấy bà con thân tộc
là mừng rỡ, nói gì đến đón mình. Cho nên nếu không khéo
tu, lúc sắp mất đi theo những hình ảnh này là tiếp tục
thọ thân sau, có khi ma quỷ giả hình, dẫn người chết đi
vào cảnh giới của chúng, chịu khổ không thể lường.
Đến
khó số hai. Nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước
cũng không sanh tâm kinh sợ. Thấy những tướng dữ tức như
thấy cọp rượt, cá sấu đuổi v.v… cũng không sợ.
Tóm lại thấy tướng lành không theo, thấy tướng dữ không
sợ.
Chỉ
tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại,
đây tức là thiết yếu vậy. Quên tâm là quên tâm sanh diệt,
tâm thương, tâm ghét. Nếu còn tâm ấy thì thấy thân nhân
tới đón mừng nên đi theo, tâm sợ thì thấy quỉ sứ dọa
nạt, chúng chỉ đâu liền hoảng sợ chạy theo đường đó.
Thấy đồng pháp giới tức trùm khắp, bất sanh bất diệt
liền được tự tại. Đây là thiết yếu, tức điểm then
chốt của sự tu hành. Đó là những điều người tu phải
biết, mới không sợ khi nhắm mắt bị rơi vào đường tà.
Như vậy cả hai thứ, vui theo tướng lành thì sanh cõi lành,
sợ tướng dữ chạy trốn thì bị sanh chỗ dữ, đều đi
trong con đường sanh tử. Chỉ nhớ tâm thênh thang không hình
không tướng, không sanh không diệt, không sợ hãi, luôn tỉnh
táo sáng suốt thì giải thoát an vui.
CHÁNH
VĂN:
Nói
Hoá thành đó, Nhị thừa và Thập địa, Đẳng giác, Diệu
giác, đều là giáo quyền lập để tiếp dẫn, thảy là Hoá
thành.
GIẢNG:
Đây
dẫn kinh Pháp Hoa, nói Hoá thành là chỉ cho Nhị thừa, Thập
địa, Đẳng giác, Diệu giác, đi từng bậc từng bậc đều
là giáo quyền lập. Giáo quyền lập là giáo lý tạm lập
để tiếp dẫn người, có thứ bậc cho dễ đi, dễ tiến
vậy thôi. Như Bộ Giáo Dục muốn thúc đẩy học sinh học
cho giỏi nên mỗi năm tổ chức thi lên cấp. Từ cấp Tiểu
học lên Trung học, Đại học rồi Tiến sĩ gì gì đó, ấy
là thật lập hay quyền lập? Quyền lập như thế để đo
sự hiểu biết của chúng ta qua những năm học, lập ra thứ
bậc để thúc đẩy nhắc nhở sự tiến bộ trong học vấn,
mục đích vì muốn chúng ta biết sâu hiểu rộng, làm lợi
ích cho mọi người. Đó là mục đích phương tiện lập có
thứ bậc.
Cũng
vậy đạo Phật muốn dạy chúng sanh tu hành để được giác
ngộ thành Phật. Giác ngộ thành Phật là thế nào? Là trở
lại sống thực với tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng
giác của mình, gọi là chân tâm hay Phật tánh. Sống được
với chân tâm là bước vào cảnh giới chư Phật. Nhưng nói
sống với chân tâm Phật tánh, người ta nghe cao xa quá, nên
Phật dạy tu hạnh này được quả bậc Thanh văn, tu hạnh
này được quả bậc Duyên giác, rồi giác được phần nào
là Bồ-tát Sơ địa, Bồ-tát Nhị địa v.v… tới cuối cùng
cũng trở lại chân tâm Phật tánh. Như vậy giáo lý đó là
phương tiện quyền lập, còn chỗ chân thật không hai. Hiểu
như vậy chúng ta mới thấy trong kinh Pháp Hoa nói Hoá thành
là phương tiện quyền lập, nói Bảo sở là chỉ chân tâm
Phật tánh. Chỗ đó không đối đãi nên nói không Phật, không
chúng sanh, không còn tình lượng, không còn kiến lập. Nói
Bảo sở là chỗ quí báu, tức chỉ thẳng chân tâm Phật tánh.
CHÁNH
VĂN:
Nói
Bảo sở đó là bảo chân tâm, bản Phật, tự tánh, cái bảo
này không thuộc về tình lượng, không thể kiến lập, không
Phật, không chúng sanh, không năng không sở, chỗ nào có thành?
Nếu hỏi: đây đã là Hoá thành, chỗ nào là Bảo sở? Bảo
sở không thể chỉ, chỉ tức có chỗ nơi, không phải là
chân Bảo sở. Cho nên nói “ở gần” mà thôi. Không thể
định lượng nơi đó, chỉ chính đây khế hội là phải.
GIẢNG:
Hỏi
Bảo sở chỗ nào Phật nói “ở gần”, các Thiền sư nói
ở dưới gót chân ông. Chữ Hoá thành trong kinh Pháp Hoa là
chỉ cho tu hành có thứ bậc từ thấp lên cao, còn Bảo sở
là chỉ thẳng cho chúng ta biết cái thật nằm ngay nơi mỗi
người, không ở đâu xa. Chúng ta tu là để trở về cái thật
của mình, đây là con đường gần nhất. Nếu đi thứ bậc
thì hơi xa, hơi quanh co. Bởi vậy chỗ thật này chỉ khéo
khế hội là được.
CHÁNH
VĂN:
Nói
xiển đề đó, lòng tin không đủ vậy. Tất cả chúng sanh
trong sáu đạo cho đến Nhị thừa không tin có Phật quả,
đều gọi là đoạn thiện căn xiển đề. Bồ-tát đó, tin
sâu có Phật pháp không thấy có đại thừa, tiểu thừa. Phật
cùng chúng sanh đồng một pháp tánh gọi là thiện căn xiển
đề.
GIẢNG:
Chữ
“xiển đề” là tiếng Phạn, nghĩa là người không đủ
lòng tin. Không đủ lòng tin thế nào? Như những chúng sanh
đi trong lục đạo luân hồi không đủ lòng tin mình có tánh
Phật, cho tới hàng Nhị thừa không tin có Phật quả. Các
ngài tu chứng Diệt tận định là nhập Niết-bàn, không nói
lên Phật quả, cho nên những hạng này gọi là đoạn thiện
căn xiển đề, tức do không tin làm mất căn lành. Còn
Bồ-tát tin sâu Phật pháp, không thấy có Tiểu thừa, Đại
thừa riêng, thấy tất cả chúng sanh đồng có tánh Phật,
đồng một pháp tánh gọi đó là thiện căn xiển đề, nghĩa
là không tin mà không tin do có căn lành.
CHÁNH
VĂN:
Đại
để, nhân nghe giáo mà ngộ gọi là Thanh văn, quán nhân duyên
mà ngộ gọi là Duyên giác. Nếu không hướng trong tâm mình
mà ngộ, tuy đến thành Phật cũng gọi là Phật Thanh văn.
Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ,
không ở trên tâm pháp mà ngộ, tuy trải nhiều kiếp tu hành
trọn không phải là bổn Phật. Nếu không nơi tâm mà ngộ,
chỉ đối trên giáo pháp mà ngộ tức là khinh tâm trọng giáo,
bèn thành theo khối (theo hình tướng) mà quên bản tâm. Cho
nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức
là pháp vậy.
GIẢNG:
Chúng
ta tu có hai cách. Một là y nơi pháp của Phật dạy, nghe quán
chiếu rồi tu, gọi đó là Thanh văn. Thấy các pháp duyên sanh
quán chiếu mà tu, gọi đó là Duyên giác. Nhưng nếu chỉ nương
theo pháp của Phật dạy tu mà không nhận ra tâm mình, gọi
đó là quên tâm cầu Phật, hay quên tâm pháp mà chạy theo
giáo pháp. Tu như vậy không thấy được ông Phật gốc của
mình. Nếu không nơi tâm ngộ, chỉ đối trên giáo pháp ngộ
tức là “khinh tâm trọng giáo”. Người khinh tâm trọng giáo
là chạy theo hình tướng, quên mất bản tâm.
Cho
nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức
là pháp vậy. Ai nhận được bản tâm, người đó trở lại
gốc ngay nơi mình, không chạy ra ngoài. Đa số chúng ta ngày
nay tu theo pháp, ít nhận tâm, vì vậy có lỗi khinh tâm trọng
pháp. Mà pháp của Phật nói cốt chỉ cái gì? Chỉ tâm. Bây
giờ mình trọng pháp quên tâm tức là chạy theo ngọn mà quên
gốc.
Bao
nhiêu kinh điển đức Phật dạy đều chỉ cho chúng ta nhận
ra bản tâm là tánh giác hằng hữu của mình, từ đó tu mới
thành Phật. Chúng ta không chịu nhận, chỉ chạy theo kinh điển
học hết bộ này tới bộ nọ, khen bộ này hay bộ kia đặc
biệt v.v… mà không biết tất cả bộ đều chỉ tâm của
mình. Không nhận tâm lại đi nhận pháp, như vậy là khinh
tâm trọng pháp. Trong kinh Phật dụ pháp như ngón tay chỉ mặt
trăng. Mặt trăng là gì? Là chân tâm. Vì muốn chúng sanh nhận
ra chân tâm nên Phật dạy giáo pháp, chúng sanh nương pháp
để nhận. Bây giờ mình lại kẹt pháp không nhận ra tâm
giống như người chỉ mặt trăng hướng tây, chúng ta không
chịu ngó hướng tây để thấy mặt trăng, lại nhận đầu
ngón tay, hài lòng với đầu ngón tay, cho đó là mặt trăng.
Người
tu ngày nay giống hệt như vậy, thích tụng kinh, tụng bộ
này qua bộ kia, như vậy là tu rồi đó. Phật dạy chúng ta
tu để trở về tâm, không chịu trở về tâm cứ lấy kinh
đọc hoài, không khác người muốn thấy mặt trăng mà chỉ
quí ngón tay, không nhìn đúng mặt trăng. Tu như vậy chừng
nào thành Phật? Nói thẳng mếch lòng, mà không nói thì tội
nghiệp. Gốc ở chỗ đó mà không chịu nhìn, chỉ bám ngọn
ngành, phương tiện làm sao tu hành đến nơi đến chốn được.
Phật
dạy cho mình nhận ra bản tâm để không còn chấp thân này
là thật ngã, tâm chạy theo bóng dáng sáu trần là thật tâm.
Nhờ không chấp thân, chấp tâm mới trở về với thể thật
sẵn có. Bây giờ cứ đọc hoài, nhưng hỏi kinh dạy gì thì
không biết. Chỉ biết tụng kinh có phước vậy thôi, chớ
không biết mình là cùng tử đã bỏ cha đi, bây giờ còn lang
thang chưa nhận được cha già. Ông cha là chỉ tánh giác hằng
hữu của mình. Quên tánh giác chạy theo sáu trần là cùng
tử nên khổ sở nghèo nàn. Khi hối hận trở về tìm cha,
về tới nhà rồi cũng không dám nhận cha nữa. Cũng thế,
chúng ta tu pháp gì nhỏ nhỏ lần lên, chớ không dám đi thẳng.
Đó là diễn đạt người mê quên mình theo cảnh vật. Nếu
trở về thì chính cha đang sẵn chờ, nhưng gã cùng tử lại
không dám nhận. Như chúng ta có Phật tánh sẵn mà lại than
mất Phật. Có cái chân thật không chịu nhớ, rồi than sao
sống khổ quá, chịu không nổi. Nhiều khi tâm suy nghĩ lanh
lợi quá, hết nghĩ cái này tới nghĩ cái kia, tới giờ ngủ
cũng cứ nghĩ hoài, ngủ không được than khổ quá. Tại sao
khổ như vậy? Tại vì chạy theo nó quen rồi, bây giờ muốn
dừng nghĩ không được, ngồi thiền bữa nào cũng nghĩ bậy
nghĩ bạ. Tại sao nghĩ? Vì chứa chấp, nếu buông hết thì
ngồi lại chỉ còn một tâm thanh tịnh sáng suốt, khoẻ biết
chừng nào. Sửa soạn ngủ thì buông hết mọi việc, ngủ
cho an ổn. Tất cả nỗi khổ là vì chúng ta đuổi theo vọng
tưởng sanh diệt, bám vào bóng dáng sáu trần. Bây giờ buông
hết trở về bản tâm tức là Niết-bàn bất sanh bất diệt,
không tìm chỗ nào hết.
CHÁNH
VĂN:
Phàm
nhân phần nhiều bị cảnh ngại tâm, sự ngại lý, thường
muốn trốn cảnh để an tâm , đuổi sự để còn lý, không
biết chính là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ khiến tâm
không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng,
chớ dụng tâm lộn ngược. Phàm nhân phần nhiều không chịu
không tâm, sợ rơi vào không, chẳng biết tâm mình vốn không.
GIẢNG:
Chỗ
này có một số người đang mắc kẹt, cứ cho rằng cảnh
ngại tâm. Ở chùa đông người, kẻ hơn người thua kẻ phải
người quấy, phiền nhiễu quá nên kiếm hang hốc chui vô tu
một mình cho yên. Vì quí vị ấy nghĩ cảnh ngại tâm, nên
tìm chỗ không có cảnh, tu sẽ hết ngại. Nào ngờ vô trong
hang hốc lại có chướng ngại của hang hốc. Bây giờ hết
gạo làm sao đây? Xách dù xuống núi, xin một ít gạo về,
xin một lần đủ chưa? Chưa, lại xin nữa. Có gạo thì phải
có nồi, có củi… đủ thứ hết. Chừng đó gặp cảnh không?
Trên núi thiếu nước, không lẽ mình xách từ hũ từ hũ uống,
thôi mua cái lu lớn chứa khá một chút. Lu lớn thì nhiều
người khiêng, rủ bà con phụ đưa lên, từ đó lần lần
họ tới thăm nom. Nhờ Phật tử tới có tiền mua gạo, thôi
cũng tiếp. Bỏ cảnh chùa nhiều người, lên núi ở một mình,
té ra càng nhiều hơn. Ở chùa chia ra mười người, mình mất
thì giờ chỉ một. Còn vô núi mình lãnh trọn cả mười,
chừng đó phiền hơn nữa. Từ chấp cảnh tịnh biến thành
trở ngại, ban đầu thấy dường như hay sau thành quá dở.
Đó là chỗ lầm lẫn lớn.
Đến
phần sự và lý. Nhiều người tu sợ sự ngại lý nên đuổi
sự giữ lý. Vậy lý là gì, sự là gì? Thế gian thường thường
ai nói chuyện nhiều, mình bảo người đó lý sự quá. Ví
dụ tôi nói đồng hồ này đẹp xấu, vuông tròn… đó là
nói về sự, về hình tướng. Còn lý của đồng hồ là gì?
Có hai trường hợp, lý thường và lý đạo. Lý thường là
đồng hồ không quí ở hình vuông hay tròn, mà quí ở chỗ
nó chạy đúng giờ, nhờ đồng hồ chúng ta biết giờ. Lý
đạo là đồng hồ giả tướng, do nhân duyên hợp tạm có,
lý thật của nó là không. Cho nên Không chính là lý đạo.
Muốn
tìm lý không, từ đâu mà tìm? Ngay nơi tướng đồng hồ thấy
được lý không của nó, như vậy tướng đồng hồ có ngại
gì lý đồng hồ? Tướng cái nhà có ngại gì lý cái nhà,
tướng người ngại gì lý người. Ngay nơi sự mình thấu
lý thì ở đâu cũng không ngại. Còn bỏ sự để tìm lý làm
sao tìm được, như lý nhân duyên mà bỏ sự tướng làm sao
biết nhân duyên. Phải ngay nơi sự nhận ra lý, đó là người
khéo tu, còn sợ chạy trốn là không khéo. Người tu thường
có hai bệnh, thứ nhất là sợ cảnh làm nhiễu loạn tâm,
thứ hai sợ sự làm chướng ngại lý, nên bỏ sự tìm lý.
Như vậy đều không thực tế, đều lầm cả.
Chỉ
khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự
tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Chỉ cần tâm không
chạy theo cảnh thì ở đâu cũng là cảnh tốt, không có gì
chướng ngại, chớ chẳng phải trốn vô hang sâu mới tốt.
Thời này người thích làm Phật sự thì ở thành thị, người
muốn tu rục ưa chui vô hang ở một mình. Cả hai đều là
bệnh. Chúng ta biết tu là tạo duyên cho mình nghiền ngẫm,
thấu triệt lý đạo, thấu triệt lẽ chân thật của Phật
dạy, đó là gốc. Tâm không dính với cảnh thì cảnh làm
gì ngại tâm. Nếu tâm như như thì lý sự đâu chướng ngại
nhau. Người bỏ cái này cầu cái kia là dụng tâm lộn ngược.
Phàm
nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không chẳng
biết tâm mình vốn không. Đây là bệnh của người tu. Nhiều
người ngồi thiền tới lúc tâm bặt hết lăng xăng, đâm
hoảng không biết tâm mình đâu mất rồi. Tâm chân thật vốn
không có lăng xăng, khi lăng xăng lặng thì tâm thật hiện
tiền. Chúng ta thấy lăng xăng lặng, sao lại nói không tâm?
Ngồi yên thấy rõ tâm lăng xăng đang bặt, tai vẫn nghe, mắt
vẫn thấy, tại sao nói không tâm? Người hoảng lên nói mất
tâm rồi, là vì không biết được lẽ thật. Cho nên nói chẳng
biết tâm mình vốn không.
CHÁNH
VĂN:
Người
ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ
sự.
GIẢNG:
Người
ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ
sự. Nhiều người nói nghe thấy thương, như bảo tôi tu rồi
không đồng hồ, không cần giường tốt, không cần đồ mới,
thành ra ai cho đồ mới thì bỏ không mặc. Đó là chấp hình
tướng, là trừ sự không trừ tâm. Đây thuộc người ngu
không phải người trí. Người trí trừ tâm không trừ sự.
Đừng để tâm mình nhiễm tốt xấu, không mong mỏi quí tiện,
cái gì cũng được hết. Ai cho thì nhận, cần xài cứ xài,
không nói quí tiện, đó là trừ tâm không trừ sự. Đây mới
gọi là người trí.
Người
biết tu rồi thì tùy duyên, cái gì đến thì nhận, tâm không
mong cầu, không sợ không chê. Ai cho cái xấu không chê, cho
cái tốt cũng không sợ, tâm an nhiên bình thường, như vậy
mới đúng. Còn sợ cái này cầu cái kia là mắc kẹt, vì vậy
Tổ quở người ngu trừ sự không trừ tâm. Người trí mặc
áo tốt tâm không hãnh diện, không khoe với thiên hạ, nên
không có lỗi. Nếu mặc áo rách để người ta thấy mình
tu khổ hạnh, tu giỏi, đó là lỗi.
Ở
đời người ta thường nhìn tướng mà không hiểu tâm. Người
tu phải hiểu tâm mình, sự tướng bên ngoài không quan trọng.
Đừng để tâm đòi hỏi cái tốt, cũng không có tâm sợ sệt
cái tốt. Đừng để tâm khoe cái xấu, cũng đừng có tâm
sợ cái xấu. được lành mặc lành, được rách mặc rách,
không để ý gì hết. Vô tâm như vậy sống thế nào cũng
không tội. Nếu hữu tâm dụng ý thì có tội.
CHÁNH
VĂN:
Bồ-tát
tâm như hư không, tất cả đều xả, làm việc phước đức
đều không tham trước.
GIẢNG:
Tâm
Bồ-tát như hư không rỗng rang vì tất cả đều xả, hơn
thua phải quấy khen chê… xả hết. Làm việc phước đức
đều không khoe, không chấp, đó là không tham trước.
CHÁNH
VĂN:
Nhưng
xả có ba bậc: trong ngoài thân tâm tất cả đều xả, ví
như hư không, không có chỗ thủ trước, nhiên hậu tùy phương
tiện làm lợi ích chúng sanh, năng sở đều quên, ấy là đại
xả.
GIẢNG:
Xả
có ba bậc: đại xả, trung xả và tiểu xả. Người làm tất
cả việc tốt mà tâm như hư không, không chấp trước, năng
sở đều quên đó là đại xả. Trong kinh thường gọi bố
thí tam luân không tịch, người thí, vật thí, kẻ thọ thí
đều không chấp, được vậy gọi là đại xả.
CHÁNH
VĂN:
Nếu
một bên hành đạo bủa đức, một bên lại xả không có
tâm mong cầu, ấy là trung xả.
GIẢNG:
Trường
hợp này là một bên hành đạo bủa đức, tức làm lợi ích
cho mọi người, một bên xả hết, không có tâm mong cầu.
Đó là trung xả.
CHÁNH
VĂN:
Nếu
rộng tu các việc thiện có chỗ mong cầu, nghe pháp biết không,
nên mới không trước, ấy là tiểu xả.
GIẢNG: