|
.
LỤC TỔ HUỆ
NĂNG
Tâm
Thái
Nói
đến Thiền tông thì hai vị Tổ có ảnh hưởng tối quan trọng
là Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng. Tổ Bồ Ðề
Ðạt Ma đã đem hạt giống Thiền tông từ Ấn Ðộ qua gieo
trồng tại Trung Hoa vào khoảng năm 520. Tổ là vị tổ thứ
28 tại Ấn Ðộ nhưng từ khi Tổ qua Trung Hoa và thực sự
đặt nền móng cho Thiền tông tại Trung Hoa thì được coi
là Sơ Tổ Thiền tông tại Trung Hoa. Sau chín năm ở Trung Hoa
Tổ truyền y bát cho tổ Huệ Khả (487-593) tức vị tổ Thiền
tông thứ hai. Kế đến là các Tổ: Tăng Xán, Ðạo Tín, Hoằng
Nhẫn và Huệ Năng. Như vậy tổ Huệ Năng (638-713) (Nhật:
Eno, Tr. Hoa: Hui Neng) là vị tổ thứ sáu ở Trung Hoa. Tổ Huệ
Năng giữ một địa vị rất quan trọng của Thiền tông vì
tuy nền móng của Thiền tông do tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đặt
ra nhưng sau gần 200 năm, đến thời tổ Huệ Năng mới thực
sự phát triển mạnh với một đường lối rõ rệt và vững
chắc. Cuộc đời và việc truyền pháp của Tổ được ghi
rõ trong kinh "Pháp Bảo Ðàn" (The Altar Sutra of the Dharma Treasure,
hoặc Platform Sermons of the Sixth Patriarch). Cho tới nay sau hơn
một ngàn ba trăm năm tuy Thiền tông có chia thành nhiều hệ
phái nhưng căn bản do Lục Tổ đặt ra vẫn là nòng cốt chỉ
đạo. Theo D.T. Suzuki thì "Kinh Pháp Bảo Ðàn xứng đáng là
một công trình vĩ đại vì đã định hướng cho tư tưởng
Phật giáo trong nhiều thế kỷ tại Trung Hoa."Nếu muốn tu
hành Thiền tông cho có căn bản thì cần thấu triệt những
lời chỉ dạy trong cuốn kinh đó.
Kinh
Pháp Bảo Ðàn
Kinh
này được chia làm 10 phẩm. Kinh được dịch ra tiếng Việt
do quý hòa thượng Minh Trực, Thích duy Lực, Thích thanh Từ
cùng nhiều vị khác . Kinh được dịch ra tiếng Anh trong các
cuốn: "The Diamond Sutra and the Sutra of Hui Neng của A. F. Price
và Wong Mou Lam", "A Buddhist Bible của D. Goddard" và trích từng
đoạn trong các sách của D. T. Suzuki, Christmas Humphreys.
Phẩm
thứ nhất: Hành do
Phẩm
này kể về tiểu sử Lục Tổ. Tổ họ Lư, tên Huệ Năng,
sanh trưởng trong gia đình nghèo túng, mồ côi cha từ khi ba
tuổi. Hàng ngày Huệ Năng phải vào rừng đốn củi đem bán
để nuôi mẹ. Ðến năm 22 tuổi, một hôm chỉ mới được
nghe người khác tụng kinh Kim Cang mà đã tỉnh ngộ và nhờ
có duyên tốt, được người giúp đỡ, nên có dịp đến
theo học Ngũ tổ Hoằng Nhẫn (TrH: Hung Jen) tại huyện Huỳnh
Mai. Khi Huệ Năng đến yết kiến Ngũ Tổ thì Ngũ Tổ hỏi:
"Ðến đây cầu việc gì?" Huệ Năng đáp: "Ðến đây
chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác." Tổ tiếp:
"Ngươi là người xứ Lãnh Nam, lại là dân man rợ, thế nào
thành Phật được! " Huệ Năng đáp: "Con người tuy có
phân chia Nam Bắc, chớ Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Cái
thân man rợ này đối với hòa thượng tuy chẳng giống nhau,
nhưng cái tánh Phật đâu có khác!" Dù chỉ mới bắt
đầu xin theo học mà Huệ Năng đã tỏ ra hơn người, vì đã
thấy rõ mục đích Thiền là thành Phật, thấy rõ Phật tánh
mọi người như nhau. Cũng nên nhớ 'thành Phật' tức là được
'giác ngộ', thấy rõ được Phật tánh, tự Tánh. Ngũ Tổ
thầm nhận Huệ Năng là người khác thường rồi.
Sau
đó Huệ Năng, vì vẫn là một cư sĩ, chỉ được giao cho
công việc giã gạo ở nhà sau chứ chưa được lên nhà trên
theo học như các tăng khác. Tuy vậy Huệ Năng vẫn nhẫn nại
giã gạo được hơn tám tháng. Tới lúc Ngũ Tổ thấy thời
cơ truyền pháp đã đến, ra lệnh cho toàn chúng trình kệ
để chọn người kế thừa. Ngũ Tổ nói: "Sanh tử là việc
lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước, chẳng cầu lìa
khỏi biển khổ sanh tử. Nếu mê tự tánh thì phước làm
sao có thể cứu được? Các ngươi mỗi người hãy tự xem
trí Bát nhã của tự tánh và làm một bài kệ trình cho ta
xem, nếu ai ngộ được đại ý, thì ta sẽ trao truyền y bát
cho làm Tổ thứ sáu." Tất cả chúng bảy trăm người đều
tin rằng chỉ có giáo thọ sư của họ là Thượng tọa Thần
Tú (TrH: Shen Hsiu) mới đủ khả năng làm việc này nên không
ai dám nghĩ đến việc trình kệ. Thần Tú trình bài kệ:
"Thân
thị Bồ Ðề thọ,
Tâm
như minh cảnh đài,
Thời
thời cần phất thức,
Vật
sử nhạ trần ai."
(Dịch:
"Thân là cây bồ đề, Tâm như đài gương sáng, Luôn luôn
phải lau chùi, Chớ để dính bụi trần.") Ngũ Tổ kêu Thần
Tú vào nói: " Ngươi làm bài kệ ấy, tỏ ra chưa thấy Bản
tánh, ngươi mới tới ngoài thềm cửa, chưa vào trong nhà.
Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm đạo Vô thượng Bồ Ðề
thì rõ ràng không thể được."
Sau
đó Huệ Năng vì không biết chữ nhưng có nhờ người viết
để trình bài kệ đối lại với bài kệ trên:
"Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh
cảnh diệc phi đài.
Bản
lai vô nhất vật,
Hà
xứ nhạ trần ai."
(Dịch:
"Bồ đề vốn chẳng cây, Gương sáng cũng chẳng đài, Xưa
nay không một vật, Nơi nào dính bụi trần.")
Ngũ
Tổ đọc hai bài kệ và thấy Huệ Năng là người đã ngộ
Thiền nên trao y và bát cho Huệ Năng và truyền ngôi Tổ thứ
sáu. Khi truyền pháp cho Huệ Năng thì Ngũ Tổ giảng kinh Kim
Cang, đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (Nên không
trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình), Huệ Năng ngay đó đại
ngộ là tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, mới trình
với Ngũ Tổ rằng:
"Ðâu
ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Ðâu
ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Ðâu
ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ.
Ðâu
ngờ tự tánh vốn chẳng lay động.
Ðâu
ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp."
Ngũ
Tổ biết Huệ Năng đã ngộ bản tánh, nên nói với Huệ Năng
rằng: "Chẳng nhận được bản tâm, học pháp vô ích, nếu
nhận được bản tâm, thấy được bản tánh, tức gọi là
Trượng phu, là Thầy cõi trời, cõi người, là Phật."
Hai
bài kệ trên của Thần Tú và Huệ Năng chứng tỏ hai đường
lối tu hành khác nhau. Thần Tú với sở trường uyên bác,
thành thạo kinh điển, có khuynh hướng trừu tượng và quan
niệm hóa, nên cho rằng tu hành là "lau chùi" cho tấm gương
tâm được sáng lại. Nhưng Huệ Năng đã khéo léo "đập bể"
tấm gương và chỉ thẳng "bản lai vô nhất vật", chứng tỏ
đã tới chỗ tuyệt đối thì không có một cái gì ở đó,
nói chi tới gương, tới bụi. Ðường lối tu hành đó thiệt
đã dẫn thẳng đến chỗ cứu cánh, mà không còn dùng tới
phương tiện như "lau chùi" nữa. Pháp môn của Thần Tú vẫn
có giá trị và hữu ích cho những người chưa đạt tới thượng
căn, còn pháp môn của Tổ là dành cho những người đã đủ
trình độ để đạt tới mức cứu cánh. Vì vậy chúng ta
không nên nói pháp nào hay, pháp nào dở.
Tuy
Lục Tổ thấy cái "Không" nhưng không chấp Không, vì cũng
còn thấy Tự tánh diệu dụng với năm câu "đâu ngờ ... ".
Thấy được Tự tánh mới là mục đích của Thiền tông,
chứ không phải chỉ thâm hiểu chữ "Không" là đủ. Trong
một bài giảng, Tổ cũng nhắc nhở: "Chớ nghe ta nói
'Không' mà liền chấp 'Không'. Nếu để tâm trống không mà
tĩnh tọa là chấp cái Vô ký không."
Ðoạn
trên chứng tỏ sự sáng suốt của Ngũ Tổ trong việc lựa
chọn người truyền pháp, cho nên tuy Huệ Năng chỉ là một
cư sĩ mà đã được chọn làm vị Tổ thứ sáu của Thiền
tông. Ngay đêm đó Ngũ Tổ đưa Lục Tổ ra đi một cách kín
đáo. Sau đó nghe tin Huệ Năng được truyền thọ, có mấy
trăm người đuổi theo để lấy lại y bát vì cho rằng Huệ
Năng không xứng đáng. Ðiều đó cũng dễ hiểu vì một ông
cư sĩ chỉ biết giã gạo, không được học hỏi gì về Phật
pháp mà lại được trao cho danh vị Tổ thì đối với nhiều
tăng thật khó mà chấp nhận. Có một vị tăng tên là Huệ
Minh, vốn là một tướng quân, tánh tình nóng nảy, đuổi
kịp Huệ Năng, nhưng sau đó lại bị khuất phục nên xin Huệ
Năng nói pháp. Huệ Năng nói: "Ông đã vì Pháp mà đến đây,
thì nên dứt hết các trần duyên, chớ sanh một niệm tưởng,
ta sẽ vì ông mà nói Pháp." Một hồi sau Huệ Năng nói: "Chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái gì là bản lai
diện mục (original face) của thượng tọa Minh". Huệ
Minh ngay đó đại ngộ. Ðó là bài pháp thứ nhất của Lục
Tổ, tuy ngắn ngủi mà sau này thường được nhắc nhở tới.
Sau
đó Lục Tổ vẫn chưa có dịp hoằng pháp, mà phải ẩn náu
trong 15 năm. Khi đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu và gặp
Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Lúc ấy có luồng
gió thổi động lá phướn. Một vị tăng nói gió động, một
vị tăng khác nói phướn động, cả hai tranh cãi không ngừng.
Huệ Năng bước ra nói: "Chẳng phải gió động, chẳng
phải phướn động, mà là tâm các ông động." Cả
chúng đều ngạc nhiên. Pháp sư mời Huệ Năng lên ghế ngồi
và sau cuộc đàm đạo, Pháp sư nhận ra được Lục Tổ, xuống
tóc cho Tổ và thờ Tổ làm thầy. Tới lúc đó Tổ mới chính
thức thọ giới. Pháp sư hỏi Tổ là Ngũ Tổ Huỳnh Mai truyền
thọ như thế nào. Tổ trả lời: "Ngài không có truyền
thọ gì, chỉ cần Kiến tánh, chẳng cần Thiền định để
Giải thoát."
Quan
Thứ sử cùng các viên quan, chức sắc vào núi thỉnh Tổ về
nơi giảng đường chùa Ðại Phạm để thuyết pháp. Năm sau
Tổ rời về chùa Bửu Lâm ở Tào Khê để hoằng pháp. Trung
bình chư tăng thường có mặt tại chùa không dưới một ngàn.
Phẩm
thứ hai: Trí huệ Bát nhã
Phần
này có thể được coi là quan trọng nhất trong kinh. Tổ giảng
về pháp Ma ha Bát nhã Ba la mật đa (Skt: Maha Prajna Paramita),
có nghĩa là đại trí huệ đến bờ bên kia. Pháp tu này đạt
thẳng mục đích của Thiền là Kiến Tánh Thành Phật. Tất
cả chúng sinh, từ người ngu đến kẻ trí đều có Phật
tánh như nhau. Có khác nhau chăng chỉ là kẻ mê, người ngộ.
Vì vậy nên Tổ chỉ rõ thêm: "Phàm phu tức Phật, phiền
não tức Bồ đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau
ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm
sau lìa cảnh tức Bồ đề." Thế nào là mê, mê đây
là không thấy được tự tánh của mình. "Bản tánh là
Phật, lìa tánh chẳng có Phật ... Trí Bát nhã
đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào,
không nên lầm với ý thức". Tất cả muôn pháp đều
ở trong tự tánh của con người, hoặc nói cách khác là tự
tánh bao hàm muôn pháp. Ngay cả chư Phật ba đời (quá khứ,
hiện tại, vị lai), mười hai bộ Kinh cũng đầy đủ ở trong
tự tánh.
Cần
biết rõ những danh từ tự tánh, bản tánh là để chỉ cái
bản thể (self-nature) của mỗi người, đó là cái không sanh,
không diệt, không biến đổi, thường hằng. Không nên lầm
với danh từ tánh tình, tánh nết là những hiện tượng do
duyên hợp tạo nên, luôn thay đổi, không có một thực thể.
Thí dụ ta không thể nói người đó bản tánh nóng, vì lúc
gặp một việc vui mừng người đó cũng vui vẻ như những
người khác, vậy lúc đó tánh nóng ở chỗ nào; hoặc nếu
người đó được dạy bảo thì cũng bỏ hẳn hoặc bớt tánh
nóng. Như vậy tánh nóng của người đó thay đổi tùy theo
hoàn cảnh chứ không thường hằng. Danh từ tự tánh, bản
tánh hay bị hiểu lầm là vậy. Cũng như danh từ bản tâm
nói trong kinh có thể bị hiểu lầm đó là cái tâm suy nghĩ,
tính toán, hiểu biết của mình, sự thực đó chỉ là vọng
tâm, nó thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh xã hội, văn hóa
chứ không phải là bản tâm, tự tâm, chân tâm.
Khi
thấy rõ bản tâm tức là giải thoát, là đạt được Bát
nhã Tam muội, tức Vô niệm. "Vô niệm là thấy tất cả
các pháp mà tâm không nhiễm vương, dính níu." Cũng
có người hiểu rằng Vô niệm là dứt bặt tư tưởng, không
nghĩ ngợi gì hết. Lục Tổ cảnh giác liền là "chẳng
phải như người lầm tưởng, cho là 'trăm điều chẳng nghĩ,
khiến cho niệm tưởng tuyệt dứt' đó là bị pháp trói buộc,
tức là biên kiến." Trong phẩm này Tổ cũng hai lần
cảnh giác những người chấp Không và để tâm Không mà ngồi
Thiền là sai lầm: "lại có kẻ mê để tâm 'không' mà tĩnh
tọa, trăm điều chẳng nghĩ, với bọn người này không thể
nói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến."
Trong
phẩm này có những lời dạy rất là thực tế "người đời
suốt ngày miệng niệm Bát nhã mà chẳng nhận được Tự
tánh Bát nhã, cũng như người nói ăn mà không ăn nên chẳng
no được, miệng chỉ thuyết Không, muôn kiếp chẳng được
Kiến tánh ... Cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm, miệng
niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa ... Ðối
với tất cả các pháp, dùng trí huệ của chân như tự tánh
chiếu soi, chẳng chấp, chẳng bỏ, tức là Kiến tánh thành
Phật." Tổ chỉ rõ là cần tu hạnh Bát nhã, thực hành
theo kinh Kim Cang thì sẽ được kiến tánh. Tổ cũng lấy kinh
nghiệm bản thân và dạy: "kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ
đến người khác chỉ bảo, nếu cố chấp rằng phải luôn
ỷ lại vào thiện tri thức mới mong được giải thoát thì
không có lý như vậy", còn nếu không tự ngộ thì cần phải
nhờ thiện tri thức chỉ ra mới thấy.
Tổ
có dạy bài tụng Vô tướng tại cuối phẩm để những người
xuất gia cũng như tại gia y theo mà tu hành. Sau đây là một
vài đoạn trong bài tụng:
"Chỉ
truyền pháp kiến tánh,
Hoằng
pháp phá tà tông.
Ngoài
tâm đi tìm đạo.
Suốt
đời chẳng thấy đạo.
Thương,
ghét chẳng quan tâm,
Duỗi
thẳng hai chân nằm.
Phật
pháp tại thế gian,
Chẳng
rời thế gian để tìm giác.
Lìa
thế gian tìm bồ đề,
Cũng
như tìm sừng thỏ.
Tụng
này là đốn giáo,
Cũng
gọi đại pháp thuyền,
Lúc
mê tu nhiều kiếp,
Ngộ
chỉ một sát na."
Phẩm
thứ ba: Nghi vấn
Vị
Sử quân xin Lục Tổ chỉ dạy về chuyện khi vua Lương V Ðế
gặp tổ Bồ Ðề Ðạt Ma có hỏi: "Trẫm suốt đời xây chùa
độ tăng, trai tăng bố thí, được công đức gì?" Tổ Bồ
Ðề Ðạt Ma đáp: "Thiệt không có công đức gì".
Tổ
giảng: "Xây chùa độ tăng, trai tăng bố thí, ấy là
cầu phước, chẳng thể đem cái phước ấy cho là công đức.
Công đức ở trong Pháp thân, chẳng ở tại tu phước đức
... Công đức phải tìm nơi tự tánh, chẳng phải bố thí
cúng dường mà cầu được."
Vị
Sử quân lại hỏi về vấn đề niệm Phật A Di Ðà để được
vãng sanh về Tây phương. Tổ nói: "Kẻ mê niệm Phật cầu
vãng sanh nơi khác, người ngộ tự tin nơi tâm ... Phật dạy:
Khi nơi tâm mình tịnh tức là cõi Phật tịnh ... Nếu ngộ
được pháp vô sanh thì cõi Tây phương cách đây chẳng xa,
chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh
còn xa xôi ... Muốn thấy Phật phải tìm ở nơi tánh, chớ
nên cầu ở bên ngoài ... Chỉ cần tâm được thanh tịnh,
thì tự tánh tức là Tây phương vậy."
Tổ
nói:" Muốn tu hành thì ở nhà tu cũng được, chẳng cần ở
chùa." Sau đó Tổ dạy bài tụng Vô tướng để chỉ pháp
tu hành tại gia.
Phẩm
thứ tư: Ðịnh Huệ
Pháp
môn của Tổ lấy định huệ làm gốc. "Ðịnh là thể của
Huệ, Huệ là dụng của Ðịnh ... Chớ nói rằng trước phát
định, sau phát huệ, hay trước huệ sau định, mà phân biệt
định huệ là khác nhau. Nếu hiểu như thế thì pháp có hai
tướng ... Người hành trực tâm, đối với tất cả
pháp chẳng nên chấp trước. Kẻ mê chấp pháp tướng, cứ
nói thường ngồi chẳng động, vọng chẳng khởi nơi tâm
tức là một hạnh Chánh định. Hiểu như vậy tức
là đồng với loài vô tình, đó là nhân duyên chướng đạo."
"Pháp
môn này từ trên truyền xuống, trước hết lập Vô niệm
làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc ... Vô
niệm là đối với mọi cảnh tâm chẳng nhiễm, trong niệm
thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sanh tâm. Nếu là
trăm điều chẳng nghĩ, bỏ hết các niệm tưởng, một niệm
tuyệt liền chết, thọ sanh nơi khác, ấy là cái lỗi lầm
lớn, người học đạo khá suy nghĩ điều đó! ... Vô tướng
là đối với sắc tướng mà tâm lìa sắc tướng. Ðối với
tất cả các pháp niệm niệm chẳng trụ tức là không bị
trói buộc, đây là lấy Vô trụ làm gốc ... Thiện tri thức,
Chân
như tự tánh khởi niệm thì sáu căn tuy có thấy nghe hiểu
biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh. Nên Kinh nói: 'Phân
biệt được các pháp mà cái tánh thanh tịnh Niết bàn chẳng
động'."
Phẩm
thứ năm: Tọa Thiền
"Pháp
môn này nói Tọa Thiền vốn chẳng chấp tâm, cũng chẳng chấp
tịnh, cũng chẳng chấp chẳng tịnh ... Kẻ mê thì dù thân
chẳng động mà mở miệng thì nói phải quấy, tốt xấu,
hay dở của người ... Tự tánh vốn tự định, chỉ vì thấy
cảnh mà chấp cảnh nên mới tán loạn. Nếu thấy mọi
cảnh mà tâm chẳng loạn, đó là Chân định vậy ...
Thiện tri thức, niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh,
tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo."
Phẩm
thứ sáu: Sám Hối
Tổ
truyền năm phần Hương Pháp thân:
1.
Giới hương: không tưởng điều quấy, không toan điều ác,
không ghen ghét, không tham sân, không cướp của hại người.
2.
Ðịnh hương: thấy cảnh tướng lành dữ mà tâm không loạn.
3.
Huệ hương: tự tâm không bị ngăn che, thường lấy trí huệ
mà quán chiếu tự tánh.
4.
Giải thoát hương: tâm không dính níu vào cảnh vật nào, chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại.
5.
Giải thoát tri kiến hương: tuy giữ được giải thoát hương
mà không 'trầm không thủ tịch' (đắm vào cảnh không, giữ
lòng vắng lặng). Phải tu học pháp tối thượng thừa để
nhận được bản tâm, thẳng đến Bồ đề, chân tánh chẳng
đổi.
Bài
Vô tướng sám hối chỉ rõ cần sám hối ba điều: chẳng
nhiễm ngu mê, chẳng nhiễm kiêu căng, dối trá, chẳng nhiễm
ghen ghét.
Sau
đó là bốn điều thệ nguyện:
-
Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
-
Tự tâm phiền não vô tận thệ nguyện dứt,
-Tự
tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
-
Tự tánh Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tổ
dạy ba phép quy y là:
-
Quy y Diệu giác của tự tánh. (Phật tức là Giác, tánh giác
ngộ)
-
Quy y Chánh pháp của tự tánh. (Pháp tức là Chánh, tánh Chân
chánh)
-
Quy y thể Thanh tịnh của tự tánh. (Tăng tức là Tịnh, tánh
Thanh tịnh)
"Trong
Kinh rõ ràng nói là quy y tự tánh Phật , chẳng nói quy y Phật
nơi nào khác. Phật ở tánh mình mà chẳng quy y thì
không có chỗ nào để quy y nữa. Nay đã tự ngộ, mỗi người
phải quy y Tự tánh Tam bảo. Tự tâm quy y Tự tánh tức là
quy y Chân Phật."
Phẩm
thứ bảy: Cơ duyên
Phẩm
này ghi lại những lời giảng của Tổ cho các đệ tử như:
-
Pháp Hải hỏi về "Tức Tâm tức Phật".
-
Pháp Ðạt hỏi về kinh Pháp Hoa.
-
Trí Thông hỏi về ba thân (Pháp thân, Báo thân và Hóa thân)
và bốn trí.
-
Trí Thường hỏi về "Thấy tánh thành Phật."
-
Chí Ðạo hỏi về kinh Niết bàn.
-
Thiền sư Hành Tư hỏi về pháp tu hành.
-
Thiền sư Hoài Nhượng sau khi đại ngộ ở lại làm thị giả
cho Tổ 15 năm.
-
Thiền sư Vĩnh gia Huyền Giác, sau khi đã sáng tỏ tâm địa
nhân xem kinh Duy Ma Cật, đến nơi được Tổ ấn chứng. Có
viết tập "Chứng Ðạo Ca" rất là nổi danh.
-
Trí Hoàng được giảng về Nhập định.
Phẩm
thứ tám: Ðốn, Tiệm
-
Chí Thành là đệ tử của Thần Tú, được giao cho trách nhiệm
là đến nghe pháp của Tổ để về trình lại. Tổ giảng
cho Chí Thành nghe:
-
Trụ
tâm quán tịnh là bịnh chứ chẳng phải là Thiền.
-
Pháp Giới định huệ của Tổ là giảng cho những người
tối thượng thừa, chứ không phải cho người đại thừa
như hòa thượng Thần Tú dạy. "Chỗ ta nói pháp không lìa
tự tánh. Lìa tánh mà nói pháp là chấp tướng mà nói, thì
tự tánh thường mê. Nên biết tất cả các pháp đều do tự
tánh mà khởi dụng ... Nếu ngộ được tự tâm, cũng
chẳng lập Bồ đề Niết bàn, chẳng lập giải thoát tri kiến."
-
Hạnh Xương được giảng về nghĩa Thường, Vô thường trong
kinh Niết bàn.
|