|
.
ĐƯỜNG LỐI
THIỀN TÔNG
Tâm
Thái
Trước
khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan
niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết
sẽ bớt bỡ ngỡ. Ngay đối với số đông các Phật tử Việt
Nam, Thiền tông cũng là một tông phái được ít người hiểu
đến vì tính cách kỳ đặc của pháp tu này, vì vậy nên
có những xét đoán, phê bình không đúng. Chúng ta nên tránh
việc phê bình, chỉ trích các tông phái khác tông phái mình
đang tu, vì tông phái nào cũng đòi hỏi một sự học hỏi
sâu xa, nên thường khi chỉ trích các tông phái khác thì chỉ
căn cứ theo một số hiểu biết hời hợt về tông phái đó,
vì vậy những lời chỉ trích thường không đúng được,
và chỉ gây thêm những tranh luận vô ích, mất thì giờ. Chúng
ta nên tìm học kỹ để phân biệt rõ ràng và thực hành đúng
lời Phật dạy, chứ không phải để tranh luận, chỉ trích.
Danh
từ Thiền tông
Trong
đạo Phật, dù là Nguyên thủy hay Ðại thừa cũng đều có
áp dụng pháp Thiền vì đó là một đặc tính quan trọng của
đạo Phật. Thiền tông tuy cũng áp dụng pháp Thiền như các
tông khác trong đạo Phật, nhưng đã phát triển theo một đường
lối riêng nên trở thành một tông phái riêng biệt trong 10
tông phái của đạo Phật là: Câu xá tông, Thành thiệt tông,
Luật tông, Pháp tướng tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông,
Thiên thai tông, Thiền tông, Mật tông, và Tịnh độ tông (theo:
Phật giáo khái luận). Có khi Thiền tông còn được gọi bằng
những tên khác như: Thiền Như Lai Tối Thượng, Thiền Như
Lai Thanh Tịnh, Thiền Tổ Sư, Thiền Ðốn Ngộ, Thiền Ðạt
Ma, Thiền Tự Tánh Thanh Tịnh, Tâm Tông ... Ðặc điểm của
Thiền tông là: "Thiền tông lấy phương diện hoạt động
hiện thực làm chủ nghĩa để phát khởi. Ðó là đặc sắc
rất lớn của Ðạt Ma Thiền, đã từ các Thiền phái làm
nổi bật một sắc thái riêng để rồi không bao lâu đã trở
thành một phái độc lập". (Trích: Ðại thừa Phật giáo
Tư tưởng luận). Ðể chỉ về Thiền tông thì các tác giả
Trung Hoa dùng danh từ "Chan", các sách bằng Anh ngữ dùng danh
từ Zen (tiếng Nhật), như vậy rất rõ ràng và phân biệt
được đối với các pháp Thiền khác. Nếu chúng ta dùng danh
từ Zen để chỉ Thiền tông thì tránh được những lẫn lộn
với những pháp Thiền khác.
Sơ
lược lịch sử Thiền tông
Thiền
tông được khởi đầu từ hội Linh Sơn, khi đức Phật truyền
cho ngài Ma Ha Ca Diếp: "Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết
Bàn Diệu Tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài
giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi". Tổ Ma Ha Ca
Diếp là vị Tổ thứ nhất Thiền tông tại Ấn Ðộ. Cho đến
Tổ thứ 28 là Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma (?-532) (Phạn: Bodhidharma,
Nhật: Bodai Daruma) thì ngài qua Trung Hoa để truyền đạo nên
được coi là Tổ thứ nhất tại Trung Hoa. Tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma truyền y, bát cho đến Tổ Huệ Năng (638-713), được coi
là Tổ thứ 6 tại Trung Hoa, hoặc Tổ thứ 33 của Thiền tông.
Việc truyền y, bát tới tổ Huệ Năng thì chấm dứt, thể
theo lời sấm ký của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma lưu lại. Sau đó
các Tổ kế tiếp truyền bá Thiền tông chẳng những ở Trung
Hoa mà còn truyền rộng qua các nước ở Á châu như Triều
Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Thiền tông được truyền qua Việt
Nam vào năm 580, do ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi (Phạn: Vinitaruci),
đệ tử của Tam Tổ Tăng Xán, sau ngài truyền pháp cho ngài
Pháp Hiền, lập ra dòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ðến năm 820 ngài
Vô Ngôn Thông, đệ tử của Tổ Bá Trượng, qua Việt Nam truyền
pháp cho ngài Cảm Thành, lập ra dòng Vô Ngôn Thông. Ðến đầu
thế kỷ thứ 11 có ngài Thảo Ðường, đệ tử dòng Vân Môn,
truyền pháp cho đệ tử đầu tiên là vua Lý Thánh Tôn, và
lập ra dòng Thảo Ðường. Tới thế kỷ thứ 17 ngài Nguyên
Thiều (?-1712), thuộc dòng Lâm Tế, qua Việt Nam và sáng lập
ra dòng Lâm Tế tại Việt Nam là dòng mạnh nhất và còn thịnh
hành cho đến nay tại Việt Nam (đệ tử truyền pháp đầu
tiên của ngài không được ghi rõ). Muốn nghiên cứu về Thiền
tông tại Việt Nam xin coi Buddhism & Zen in Viêt Nam của H.T.
Thích Thiện Ân, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của H.T. Thích
Mật Thể và Thiền sư Việt Nam của thiền sư Thích thanh Từ.
Thiền tông được truyền qua Nhật từ 729, nhưng thật sự
phát triển kể từ Tổ Eisai (1141-1215), người sáng lập ra
dòng Lâm Tế (Nhật: Rinzai), và sau đó Tổ Dogen (1200-1253) sáng
lập ra dòng Tào Ðộng (Nhật: Soto). Thiền tông đã được
truyền qua Trung Hoa từ cuối thế kỷ thứ 5 và phát triển
mạnh mẽ cho đến đầu thế kỷ thứ 8 với Lục Tổ Huệ
Năng. Tại Trung Hoa, Thiền tông cực thịnh trong khoảng thế
kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ thứ 10. Theo Thiền sư Koun Yamada
thì từ sau thế kỷ thứ 14 Thiền tông tại Trung Hoa coi như
bắt đầu suy giảm, vì "các Thiền tăng chỉ chú ý vào kinh
kệ và niệm danh Phật" (trích: Gateless Gate). Cũng theo cuốn
"Original Teachings of Ch'an Buddhism" của Chang Chung Yuan thì Thiền
tông tại Trung Hoa coi như rất yếu kể từ thế kỷ thứ 13,
sau đó nhờ Nhật Bản mà Thiền tông phát triển mạnh cho
đến ngày nay. Có người ví hạt giống Thiền tông được
mang từ Ấn Ðộ qua Trung Hoa mọc thành cây tốt đẹp, nhưng
cây đó đã nở hoa và sanh trái tại Nhật. Ảnh hưởng của
Zen trong xã hội Nhật rất là rõ rệt và sâu rộng, như là
về hội họa, thơ phú, trà đạo, võ thuật ... Sir George Sansom
có viết trong cuốn "Japan, A Short Cultural History": " Ảnh hưởng
của Zen đối với Nhật Bản thật là tế nhị và thâm nhập
đến độ có thể coi là bản thể của nền văn hóa Nhật.
Muốn diễn tả về ảnh hưởng đó về tư tưởng và cảm
tính, về nghệ thuật, văn chương và đạo đức, thì phải
viết rất công phu về một đề tài khó khăn nhất và hấp
dẫn nhất ..." (trích Zen and Japanese culture).(trang 346)
Ðường
lối Thiền tông
Ðặc
điểm của Thiền tông có thể được thâu gọn trong bốn
câu của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma: "Bất lập văn tự, Giáo
ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật."
(Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm
người, Thấy tánh thành Phật). Ðường lối tu hành của Thiền
tông rất là độc đáo, tuy thật là đơn giản nhưng cũng
khó hiểu. Ðơn giản là vì phương pháp tu chỉ là "thấy Tánh".
Chính vì đơn giản nên gây nhiều điều khó hiểu. Chúng ta
thử làm quen thẳng với những điều khó hiểu của Thiền
tông. Câu chuyện nổi tiếng về Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma :
"Tăng
Thần Quang hỏi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma:
-
Tâm
con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
-
Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho.
-
Con tìm tâm không được.
-
Ta đã an tâm cho ngươi rồi." (trích: Tổ Thiền tông) Ngay
đó Thần Quang được khế ngộ. Sau này Tổ đổi tên ngài
Thần Quang là Huệ Khả, tức là vị Tổ thứ hai tại Trung
Hoa. Trong cuốn "Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng" chúng
ta gặp rất nhiều những lời đối đáp tương tự cho thấy
phương pháp chỉ dậy của Thiền tông rất là khó hiểu, các
Tổ thường không có giảng giải chi tiết nhiều, lắm khi
lại còn không nói một câu mà lại dùng tiếng hét, hoặc
những hành động như giơ cây phất trần, giơ một ngón tay,
dương cung, bóp mũi ...
Ðó
chính là áp dụng câu "bất lập văn tự", tránh những lời
nói nhiều, đôi khi cũng phải dùng văn tự để giáo hóa nhưng
mục đích vẫn là làm cho người học hỏi không bị vướng
mắc vào văn tự mà phải quay vào chính mình để tìm cho ra
chân lý. Cho nên khi tổ Huệ Khả xin tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
chỉ cho phương pháp "an tâm" thì tổ chỉ nói: " Ngươi đem
tâm ra đây, ta an cho" , thay vì giảng rõ ràng thế nào là
tâm, tu hành thế nào để an được tâm đó, đây cũng là
áp dụng câu "giáo ngoại biệt truyền". Câu đó khiến cho
tổ Huệ Khả phải đi tìm coi cái tâm đó ra sao, nó từ đâu
mà có, biến chuyển ra sao và khi đã thấy rằng tâm đó chỉ
là cái tâm vọng, huyễn hóa, không có một thực thể, nên
mới có thể trả lời rằng: "Con tìm tâm không được".
Chính khi đã hiểu được thực tánh của cái tâm vọng đó
là đã thấy được phương pháp an tâm rồi.
Theo
Thiền tông, sự hiểu biết do thực tự mình suy ra mới thật
là của mình, mới có ảnh hưởng thâm sâu, còn nếu được
nghe giảng giải, hoặc đọc hiểu kinh điển lầu lầu thì
tuy thuộc lòng đó nhưng rồi chẳng ảnh hưởng gì đến đời
sống. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan "giận mình từ vô
thủy đến nay, một bề học rộng, nhớ nhiều, chưa toàn
đạo lực" (trang 11) nên việc tu hành chưa được kết
quả nào và bị dâm nữ Ma Ðăng Già quyến rũ. Cái "thấy",
thấy biết, của người tự mình tìm ra khác rất xa với cái
"thấy" của những người nghe người khác nói hoặc theo sách
vở. Muốn "thấy Tánh" (kiến Tánh) chỉ có cách là phải tự
mình "thấy", nương theo lời chỉ dẫn và thực nghiệm cho
đúng, chứ nếu chỉ nhớ xuông, thuộc cho kỹ, nói thao thao,
chỉ là cái hiểu, cái thấy "vay mượn". Kinh nghiệm thực
tế là khi chúng ta còn ở nhà trường, nếu chúng ta tự giải
được một bài toán thì đó là đã hiểu, còn nếu thầy
giáo giải sẵn cho ta thì tuy hiểu đó nhưng sau này gặp bài
toán tương tự cũng khó mà giải nổi. Cho nên có Thiền sư
đã nói: những gì từ ngoài đem vào, không phải là của báu
của mình. Ðó cũng có khi được so sánh như "mặc áo của
hàng xóm", hoặc nói theo thời nay "mặc áo mướn", cũng có
khi nói "đếm tiền cho ngân hàng", vì đếm cả ngàn, cả triệu
đồng rồi khi về nhà vẫn hoàn tay không.
Cái
hiểu biết do vay mượn từ lời nói, chữ nghĩa không thể
có tác dụng bền vững, khi gặp duyên thì "thấy", khi duyên
hết thì nó cũng hết theo, hoàn toàn có tính cách vô thường.
Thiền sư Hoàng Bá (?-850) có lần gọi một vị tăng là "người
chỉ biết giảng nghĩa theo văn" mà thực sự chẳng đạt được
gì. Thiền sư Hoàng Bá còn nói "kẻ cầu tri kiến (biết, thấy)
thì rất nhiều, kẻ ngộ đạo thì rất ít".
Hiện
nay cũng vậy, nhiều người có nhiệt tâm với đạo nhưng
chỉ ham chấp chặt chữ nghĩa để chứng tỏ sự thấy biết
của mình mà thực sự chẳng thấy được gì nên người ngộ
đạo quá ít là vậy. Chúng ta khi nghe nói Thiền tông dậy
"Thấy Tánh thành Phật" thì thường vội vã giở kinh, luận
ra, hoặc tìm hỏi thầy, bạn coi thế nào là Tánh, mà không
biết rằng thế nào là "Thấy" là điều rất quan trọng. Trong
kinh Lăng Nghiêm đức Phật bẩy lần chỉ cho ngài A Nan về
bản chất của cái tâm chúng sinh nhưng rồi ngài A Nan cũng
không chứng được gì, chỉ đến sau khi đức Phật nhập
Niết Bàn mới chứng được quả A La Hán. Tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma không có giảng gì cho tổ Huệ Khả mà chỉ nói có một
câu là " Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho" để tổ Huệ
Khả tự mình tìm hiểu và thấy, để rồi chứng đắc ngay
đó. Thiền tông "không chỉ" gì mà thực ra đã "chỉ" một
cách hiệu quả. Theo Thiền tông, muốn tu hành kết quả cứu
cánh thì phải tự lực, không thể trông chờ ai cứu đỡ.
Ðức Phật cũng nói rõ "Các con phải TỰ thắp đuốc mà đi",
ngài đã chỉ cho chúng ta con đường phải đi, nếu chúng ta
muốn đi thì phải tự mình thắp ngọn đuốc chánh pháp mà
đi.
Một
câu chuyện Thiền tông có ý nghĩa tương tự như vậy: Thiền
sư Ðức Sơn Tuyên Giám (780-865) một đêm đứng hầu sư phụ
là tổ Long Ðàm Sùng Tín. "Sùng Tín bảo :'Ðêm khuya sao
chẳng xuống?' Sư kính chào bước ra, lại trở vào, thưa:
'Bên ngoài tối đen'. Sùng Tín thắp đèn cầy đưa sư. Sư
toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó sư liền
đại ngộ, liền lễ bái." (trích Trung Hoa Chư Thiền Ðức
Hành Trạng, tập 2).Không cần đến một lời nói, chỉ bằng
một hành động mà tổ Sùng Tín đã khai ngộ cho đệ tử,
dĩ nhiên người đệ tử đó phải là người đã biết tự
lực tu tập vượt bực, và chỉ một người thầy bản lãnh
mới biết lúc nào trái cây đã chín mùi và chỉ khẽ rung
cây là trái rụng.
Một
hành động kỳ đặc, hoặc tiếng quát, hoặc một lời nói
không nghĩa của Thiền sư có thể khiến đệ tử chợt ngộ.
Ðệ tử đã tu hành tới mức cao tột, được nhà Thiền gọi
là "đã trèo lên đầu sào trăm trượng", tới đầu sào rồi
nhưng nếu không dám tự nhẩy ra khỏi đầu sào, hoặc nếu
không được Thiền sư khẽ đẩy thì cũng chỉ biết bám riết
lấy cây sào mà không đạt được tới mục đích cứu cánh
của Ðạo. Hành động dám nhẩy khỏi đầu sào đó chính
là đã bước vào cửa Thiền.
Trong
việc giảng dậy, các Thiền sư thường khéo biết cách sử
dụng những gì ngay trước mắt, trong đời sống hiện tại,
không dùng những văn tự xa vời vì những văn tự đó có
thể khiến mỗi người hiểu một cách riêng và bị quay cuồng
trong những định nghĩa từ chương, những khái niệm, lý luận
nhiều khi đi xa cả nghĩa chính, mà trong kinh Lăng Già đức
Phật gọi là hý luận. Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma nói
rõ: người nào từ "chữ nghĩa" mà hiểu là người khí lực
kém, người nào từ "sự" mà hiểu mới là người khí lực
mạnh. "Sự" là những gì xẩy ra ngay trước mắt mình, ngay
trong hiện tại, và từ đó mình tự suy nghiệm thì mới
đạt được Ðạo.
Nhưng
nói như vậy thì lại có ngay những người lười biếng không
chịu học hỏi và tuyên bố "tôi không cần đến văn tự"
nhưng rút cuộc là "văn tự" thì không màng tới, mà từ "sự"
cũng chẳng thấy được gì hết, đó chỉ là hành động xuyên
tạc lời nói của thánh hiền, chỉ dùng có nửa câu, mập
mờ để che giấu những yếu kém, lười biếng của mình.
Ðường lối tu của Thiền tông tuy có vẻ bí ẩn, khó hiểu,
lạ lùng, nhiều khi như vô lý nhưng nếu chịu khó tu học
thì một khi hiểu rõ chúng ta sẽ thấy đó là một tông phái
chỉ dậy cho chúng ta một cách rõ ràng, trực tiếp, hữu hiệu,
sử dụng những điều kiện cụ thể, áp dụng cho thực tế
hiện tại, nên thích hợp ngay cả với mọi thời đại, và
có thể đưa chúng ta thẳng tới mục đích của đạo Phật
là con người giác ngộ.
Tài
liệu trích dẫn :
- Ðại
thừa Phật giáo Tư tưởng luận, Kimura Taiken, do H.T. Thích
Quảng Ðộ dịch.
-
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, do Cư sĩ Tâm Minh dịch.
-
Phật Giáo Khái Luận, H.T Thích Mật Thể.
-
Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, T.S. Thích Thanh Từ.
-
Sáu Cửa Vào Ðộng Thiếu Thất do Trúc Thiên dịch.
-
Tổ Thiền Tông, T.S. Thích Thanh Từ.
-
Thiền sư Việt Nam, T.S. Thích Thanh Từ
-
Truyền Tâm Pháp Yếu, T.S. Thích Duy Lực dịch.
-
Buddhism and Zen in Việt Nam, H.T. Thích Thiện Ân.
-
Zen and Japanese Culture, D.T. Suzuki.
-
Gateless Gate, của T.S. Koun Yamada.
-
Original Teachings of Ch'an Buddhism, của Chang Chung Yuan.
|