|
.
Nhất
Hạnh
TINH
YẾU LÂM TẾ LỤC Bình giảng
Lá
Bối 2006
|
|
Tinh
Yếu Lâm Tế Lục
Nhất
Hạnh viết
Trong
Lâm Tế Lục, Tổ có nói rằng mục đích của Tổ là đánh
phá, trị bệnh và cởi trói. Như vậy thì mục đích của
Tổ không phải là đưa ra những tư tưởng uyên áo để chúng
ta học hỏi, đàm luận và mắc kẹt vào đấy. Vì vậy nếu
ta học Lâm Tế Lục với mục đích tìm cầu những tư tưởng
uyên áo để đàm luận và để mắc kẹt vào chúng là ta đã
đi ngược với ý của Tổ. Những giáo lý và những phương
tiện thi thiết của người xưa (người xưa ở đây là Bụt
và Tổ) sẽ trở thành những cái bẫy sập giam hãm ta, vì
vậy ta hãy cẩn thận, hãy nhớ tất cả những thi thiết ấy,
dù là tam thân, thập địa, thế giới hoa tạng hay Tịnh Độ...,
trước hết đều là những giả danh (Tổ gọi là danh từ
suông, văn cú, chữ nghĩa). Nếu ta mắc kẹt vào những thi
thiết ấy, cho chúng là những thực tại khách quan có mặt
ngoài ta, là ta đã bị sa vào bẫy sập.
Ta
không nên đi tìm cầu Bụt, Tổ, Bồ Tát, tam thân, thập địa,
thế giới hoa tạng, lầu các của Di Lặc ngoài ta. Ta phải
chấm dứt mọi tìm cầu. Phải ngưng sự tìm cầu ngay và hãy
trở về bản thân trong giây phút hiện tại. Bản thân trong
giây phút hiện tại chứa đựng tất cả những gì ta muốn
tìm cầu: pháp thân, bát nhã, giải thoát, Bụt, Tổ và các
cõi nước trang nghiêm. Bản thân ở đây không hẳn là năm
uẩn, vì năm uẩn vô thường có đó không đó. Nhưng bản
thân cũng không phải là một cái gì có thể nhận thức ngoài
năm uẩn, bởi vì nhờ có năm uẩn nương nhau mà ta nhận diện
được bản thân ấy vốn là con người thật của chính ta.
Con người thật ấy là chân tâm sáng chói có diệu dụng nhận
diện và tiếp xúc với mọi mầu nhiệm của sự sống: Tổ
gọi đó là cái tinh minh sáng rỡ biểu hiện thành sáu đạo
thần quang: khả năng thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và
tư duy. Năm uẩn là vô thường nhưng bản tâm biểu hiện nhờ
năm uẩn là con người thật của ta thì không sinh, không diệt,
không có, không không, vượt thoát mọi khái niệm. Ðó là
con người thật không có vị trí (nghĩa là không thể được
đồng nhất với một uẩn trong năm uẩn hoặc cả năm uẩn).
Con người thật đó là Bụt. Bụt không phải là một thực
thể có ngoài con người thật đó. Bụt và chúng sinh không
phải là hai thực thể riêng biệt (Phật sinh vô nhị). Nếu
không thấy được điều này, nếu không có đức tin vững
chãi nơi sự thật này, thì không bao giờ chấm dứt được
sự tìm cầu, phóng thể, vẫn không dừng lại được để
làm một con người vô sự, vẫn còn có khuynh hướng chán
phàm yêu thánh, vẫn chưa có được hạnh phúc và an vui thật
sự.
Người
nào có khả năng vận dụng được cái tâm sáng chói và sáu
đạo thần quang kia thì có thể ngay tại đây trong giờ phút
này tiếp xúc được với thế giới hoa tạng, với tam thân,
với hằng sa Bụt và Bồ tát, có thể ứng thân hiện vật,
độ đời, giúp người, và thấy rằng tất cả những cảnh
giới này cũng đều là những hình ảnh phản chiếu (quang
ảnh) của cái tâm sáng chói và mầu nhiệm kia.
Mẫu
người lý tưởng trong đạo Bụt nguyên thỉ là vị La hán,
mẫu người lý tưởng trong đạo Bụt đại thừa là vị Bồ
tát, còn mẫu người lý tưởng trong thiền Lâm Tế là con
người vô sự. Con người vô sự là con người không chạy
theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Bụt,
là Tổ, là Niết bàn, là tam thân, là Tịnh Độ. Con người
vô sự là con người đã dừng lại, không còn dính mắc vào
một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa
hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh
phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một
cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh, cứu đời.
Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình
chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất
cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn
là nguồn gốc của tất cả chư Bụt và các Phật độ.
Bụt
không phải là đối tượng tìm cầu của ta, đừng lấy Bụt
làm mục tiêu lý tưởng của mình, đừng cho Bụt là một
thực thể tồn tại ngoài ta. Hình ảnh của ta xây dựng trong
đầu về Bụt không phải là Bụt. Bụt ấy có sinh, có trú,
có hoại, có diệt, Bụt ấy không đáng là hình ảnh lý tưởng
mà ta chạy theo. Bụt ấy là một bóng Ma, gọi là Ma Bụt,
có thể hớp hồn ta, vì vậy gặp Ma Bụt ta phải chém đầu
liền, gặp Ma Tổ cũng vậy, ta cũng phải chém đầu. Ta phải
chém đầu tất cả các loài Ma, bởi vì tất cả những tạo
dựng của trí óc, tất cả những thi thiết của cổ nhân
chỉ có giá trị của thuốc hay trị bệnh, nếu ta xem những
cái đó là những thực tại có thật biệt lập ngoài ta, không
phải là những phương tiện chữa trị các căn bệnh si mê,
tham ái, sân hận và tìm cầu của ta thì chúng trở thành chướng
ngại, trở thành bẫy sập, vì vậy ta phải chặt đầu chúng
mỗi khi chúng xuất hiện.
Con
người thật, con người vô sự không bao giờ bị cảnh vật
lôi kéo, vì vậy luôn luôn giữ được tự do. Cảnh giới
Ma không lôi kéo ta được đã đành, cảnh giới Bụt cũng
không lôi kéo ta được. Tại vì ta đã thấy rằng Ma và Bụt
tương tức, Ma và Bụt bất nhị, đó là bệnh và thuốc có
mặt một lần để trị nhau, để nương nhau. Con người vô
sự vì thế thấy Ma cũng mỉm cười và thấy Bụt cũng mỉm
cười. Con người vô sự có thể đánh dẹp được cả Ma
và cả Bụt.
Tổ
khuyên mọi người đừng ỷ lại vào kẻ khác, dù họ tự
gọi là Bụt, là Tổ, là đại thiền sư, là thánh tăng, đừng
đi tìm kiến giải nơi từ chương, nơi kinh điển, nơi văn
cú, đừng kẹt vào các danh từ, đừng hy vọng tìm giải thoát
và trí tuệ nơi sự học hỏi và nghiên tầm kinh điển. Tìm
giải thoát và giác ngộ nơi sự nghiên tầm kinh điển cũng
như hy vọng tìm được những giọt nước mát trong một bộ
xương khô. Giáo điển chỉ là những bộ xương khô. Phải
trở về giây phút hiện tại, vận dụng cái tâm sáng chói
đang có mặt ngay tại đây thì mới có thể tiếp xúc được
với giải thoát và giác ngộ, tiếp xúc được với Bụt và
Tổ đang là những thực thể sống động nơi giây phút này.
Người
tu đạo không cần phải dụng công mệt nhọc. Ðừng đày
đọa thân thể và tâm trí bằng cách chạy đi tìm cầu. Trong
tinh thần vô đắc ta phải thấy rằng ta đã là cái ta đang
tìm cầu rồi, cũng như đợt sóng tự biết mình là nước,
có thể ngưng ngay lại sự bôn ba đi tìm nước. Phương pháp
thực tập là dừng lại, bởi vì giây phút hiện tại nào
cũng là giây phút trở về ngôi nhà đích thực của chính
ta, từ bước chân, hơi thở cho đến hành động ăn cơm, mặc
áo, uống nước, đi cầu. Không cần đi đâu hết, không cần
làm gì nữa. Cái mà ta đi tìm đã có sẵn ngay ở đây. Vì
vậy ta có thể thực sự là một người vô sự. Nếu ta tiếp
tục đày đọa thân tâm vì sự thực tập, vì sự tìm cầu,
vì sự nghiên cứu, vì sự dụng công khổ nhọc của ta thì
ta đi ngược với con người của Tổ và của Bụt, và ta cách
xa với Tổ và Bụt như trời xa cách đất.
Con
người vô sự là con người tự do, ở đâu cũng làm chủ
được mình. Nếu ta có được cái thấy chân thật (kiến
giải chân chính) thì ta không còn bị kẹt vào những tướng
sinh, trú, dị, diệt của vạn pháp, kể cả những tướng
sinh, trú, dị, diệt của Bụt Thích Ca, và vì vậy ta cũng
không bị kẹt vào hóa thân Bụt. Dù sự vật quanh ta và chính
bản thân năm uẩn của ta có đang đi ngang qua những tướng
sinh, trú, dị, diệt ấy thì ta cũng không trở thành nạn nhân
của sự buồn vui hay thương ghét. Ta không bị cảnh đoạt.
Ta luôn luôn đứng vào vị trí chủ động, đứng vững trong
chánh kiến của mình và không trở nên nạn nhân của hoàn
cảnh, của kẻ khác, không than phiền rằng hoàn cảnh như
thế đó, người ta như thế đó cho nên tôi đã phải như
thế này. Ta chuyển được hoàn cảnh mà hoàn cảnh không thể
chuyển được ta. Ta luôn luôn là con người thật của mình
trong bốn động tác đi, đứng, nằm, ngồi. Ta không cần phải
đóng kịch, dù là đóng vai giải thoát, đóng vai giác ngộ,
đóng vai đại thiền sư. Cái này gọi là ‘tùy xứ tác chủ,
lập xứ đắc chân’. Con người thật có nghĩa như thế.
Vì
ta có khả năng sống với con người thật của ta cho nên ta
không cần phải làm dáng làm điệu. Ta đâu có cần phải
chứng tỏ mình là giải thoát, là giác ngộ. Ta có thể sống
một cuộc sống bình thường, ta chỉ cần làm một con người
bình thường. Con người bình thường này là con người vô
sự, có giá trị cao hơn cả những vị Bồ tát tự xưng là
đang đi trên con đường viên đốn, đang đi ngang qua mười
địa, đang đi vào Tịnh Độ, tại vì các vị này vẫn còn
mang theo tâm niệm yêu thánh, ghét phàm, vẫn còn cái nhìn nhị
nguyên, vẫn còn đi tìm cầu, chưa dừng lại được. Con người
vô sự mới đích thực là con người đáng được chư thiên
ca tụng, được địa thần nâng gót, được chư Bụt muôn
phương xưng tán. Tại vì con người vô sự là con người hoàn
toàn tự do, vô tướng, không làm dáng làm điệu, không cần
để lại vết tích gì.
Con
người vô sự này chính là Bụt, là Tổ đích thực. Ngay trong
giờ phút này, con người (vô sự) ấy đang ở trên quê hương
của mình, không cần đi tìm cầu gì nữa. Ngay trong giờ phút
này, con người ấy có thể ứng thân hiện vật, thể hiện
thần thông, tiếp xúc với chư Bụt mười phương, rong chơi
nơi mọi cõi nước, và dù năm uẩn của người ấy vẫn còn
là năm uẩn có sinh có diệt, người ấy vẫn có thể ngay
trong giờ phút hiện tại, biểu diễn được phép thần thông
là đi an lạc ngay trên mặt đất (địa hành thần thông).
Người ấy không cần đi đâu hết, không cần phải ra khỏi
tam giới. Tam giới đối với người ấy chỉ là quang ảnh.
Người ấy có tự do cho nên người ấy thảnh thơi ngay tại
nơi này. Những yếu tố của tam giới là dục, sắc và vô
sắc không động được người ấy.
Tổ
Lâm Tế rất có ý thức là những lời nói của Tổ chỉ là
những phương tiện đánh phá, cởi trói và trị bệnh nên
Tổ không muốn chúng ta xem những lời nói ấy là khuôn vàng
thước ngọc để học hỏi và tôn thờ. Tổ dạy rằng những
lời Tổ nói chỉ là những bức vẽ được thực hiện trong
hư không, chúng ta đừng bị kẹt vào chúng. Tổ dạy: Ðể
độ đời, có khi ta phải mặc đủ thứ áo - áo thanh tịnh,
áo giải thoát, áo giới luật, áo vô phân biệt... Thấy những
chiếc áo ấy người ta phát sinh kiến giải rồi bị mắc
kẹt vào những kiến giải ấy. Vì vậy có khi ta phải cởi
hết áo ra, để cho người ta thấy được con người. Con người
có thể mặc áo. Nhưng con người không phải là áo. Chỉ khi
nào thấy được con người, ta mới tiếp xúc được với
con người, và với con người trong ta, và chỉ lúc ấy ta mới
buông bỏ được tất cả những gông cùm ta từng mang lấy
xưa nay, những gông cùm do cổ nhân (Bụt, Tổ) thi thiết và
đem tới. Thấy được con người thật, họ mới đạt được
quả vị vô sự.
Không
nên đi tìm Văn Thù trên Ngũ Ðài Sơn, không nên đi tìm Quan
Âm ngoài biển Nam Hải, không nên đi tìm Phổ Hiền ở Nga
Mi Sơn. Các vị làm gì có mặt trên đó. Các vị đang có mặt
tại đây, trong giờ phút này trước mặt chúng ta, trong tâm
chúng ta. Phải tiếp xúc với các vị ngay trong giờ phút này.
Nếu thất bại thì sẽ thất bại mãi mãi trong tương lai,
tại vì Văn Thù, Phổ Hiền và Quan Âm không có trong tương
lai và không thể tiếp xúc được trong tương lai. Ta là kẻ
đại trượng phu, tại sao ta phải đi tìm Văn Thù, Phổ Hiền
và Quan Âm ngoài ta. Ta chính là Văn Thù, Phổ Hiền và Quan
Âm ngay tại đây, trong giây phút hiện tại.
Từ
bỏ sự tìm kiếm bên ngoài không phải là để bắt đầu
một sự tìm kiếm bên trong. Cái mà ta tìm cầu bên ngoài đã
không có thì bên trong làm gì có! Trong và ngoài chỉ là hai
ý niệm. Ðộng cũng không phải là nó mà tĩnh cũng không phải
là nó. Ðừng tưởng tĩnh là cửa ngỏ và bức màn vén cho
ta thấy sự thật. Sự thật vượt ra ngoài động và tĩnh,
vượt ra khỏi trong và ngoài. Công án cũng như mặc chiếu
đều là sự tìm cầu, không thể đưa ta tới trạng thái vô
sự.
Ðể
độ người, ta có thể hoặc đoạt cảnh, hoặc đoạt nhân,
hoặc đoạt cả cảnh và nhân, hoặc không cần đoạt cái
gì hết. Ðoạt cảnh là giúp cho người ta chấm dứt sự tìm
cầu bên ngoài. Con chó có Phật tính không? Đại ý của Phật
pháp là gì? Chủ ý của Tổ Ðạt Ma là gì? Tất cả những
cái ấy đều là bẫy sập. Tìm hiểu tất cả những cái đó
không có ích lợi gì cho sự thực hiện tùy xứ tác chủ,
lập xứ đắc chân cả. Phải đoạt tất cả những cảnh
đó. Nếu cần thì đánh. Nếu cần thì hét. Nhưng học nhân
có thể trở về và mắc kẹt vào chủ thể nhận thức, nghĩ
rằng mình đã thoát được đối tượng nhận thức. Nhưng
chủ thể làm gì có, nếu đối tượng không có? Cho nên đoạt
cảnh xong cũng phải đoạt người. Ðoạt cảnh mà giúp người
ta đừng kẹt vào người thì hay rồi, nhưng nếu người ấy
còn kẹt vào nội hướng, vào chủ thể thì phải đoạt luôn.
Có khi đoạt người có thể giúp kẻ kia thoát luôn cả cảnh
cùng một lúc. Ðó là những phương tiện đánh phá, cởi trói,
trị bệnh, có gì là thần kỳ bí hiểm?
Kiến
giải chân chính không phải là kết quả của công phu nghiên
tầm học hỏi. Kiến giải chân chính là cái thấy sâu sắc
về tính không sinh không diệt, không người không ta, không
có không không của vạn pháp. Thấy được là thấy ngay, không
thấy được thì có nói qua nói lại nhiều lần cũng vô ích.
Cho nên đệ nhất cú, câu khai thị đầu, là cơ hội duy nhất.
Ðánh mất cơ hội này thì đánh mất hết. Ðệ nhị cú là
sự vớt vát. Ðệ nhị cú chỉ là sự an ủi. Ðệ tam cú
là sự thất bại hoàn toàn. Tứ liệu giản không có gì bí
hiểm thì tam huyền, tam yếu cũng như tiếng hét và cây gậy,
cũng không có gì là bí hiểm. Trong quá trình học hỏi và
tu chứng, công phu tham vấn được dựa trên nguyên tắc chủ
và khách. Chủ đáng lý là phải độ được khách. Chủ là
người thiện tri thức và khách là người đến tham vấn.
Có khi khách giúp được chủ. Có khi khách giúp được khách.
Có khi chủ giúp được khách. Có khi chủ giúp được chủ.
Có khi chủ và khách đều giúp được nhau. Có khi chủ và
khách làm hại cho nhau. Ðó là những trường hợp ta có thể
nhận diện nếu ta có được trực giác của chánh kiến. Cũng
không có gì là bí hiểm trong tứ tân chủ.
Tuệ
giác không phải là kiến thức khái niệm. Tuệ giác có khả
năng mang tới sống động và tự do trong giây phút hiện tại.
Kiến thức không làm được việc ấy. Vì vậy cho nên không
hiểu thì bị đòn đã đành mà hiểu cũng bị đòn như thường,
nếu ‘hiểu’ chỉ là kiến thức suông mà không phải tuệ
giác. Nếu thấy được điều này, ta có thể cảm thông được
với những gì đang xảy ra trong các cuộc đối diện: Ta không
nên cố tìm trong các mẩu đối thoại và hành xử (khám biện)
ấy những tư tưởng đặc thù hoặc những ý chỉ sâu sắc.
Những gì ta thấy đang xảy ra giữa các đương sự là cơ
hội của họ. Nếu đứng ngoài mà quán sát ta sẽ không thấy
được gì. Nếu ta bước vào trong, đem hết sự sống của
ta ra tham dự thì ta có thể có một cơ hội để tuệ giác
bừng mở. Nếu bước vào trong mà ta không cảm được một
cái gì hết, thì có nghĩa là trường hợp đó không phải
là trường hợp của ta, thế thôi. Cũng như khi ta đứng ngắm
một bức tranh siêu thực, ta đừng cố tìm hiểu nghĩa lý.
Ta đừng nói là ‘ta không hiểu’. Hiểu hay không hiểu ta
cũng lãnh ba mươi gậy như thường. Tổ không có ý muốn khuyên
ta chấm dứt sự học hỏi và thực tập giới, định và tuệ.
Tổ chỉ muốn ta đừng mắc kẹt vào sự học hỏi và thực
tập mà thôi. Học hỏi để trở thành học giả, tam tạng
pháp sư, thuyết giảng thao thao bất tuyệt, Tổ không cần
cái đó. Cái đó Tổ gọi là nghiệp địa ngục. Bản chất
của nó là sự tìm cầu, không hẳn là sự tìm giải thoát
mà là sự tìm cầu danh lợi. Ta cần học hỏi, ta cần hành
trì, nhưng sự học hỏi và hành trì ấy phải có tác dụng
giúp ta trở thành con người vô sự, con người giải thoát.
Bằng không, những học hỏi và những thực tập đó chỉ
là gông cùm.
Con
người vô sự là con người tùy xứ tác chủ nên không phải
là con người thụ động. Trái lại, người ấy luôn luôn
đứng về phía chủ động. Ta không thể nào nói rằng: nếu
người tu đạo không theo đuổi một chí hướng, không thao
thức thực hiện một lý tưởng, không có mục đích theo đuổi,
thì ai sẽ là người tế độ chúng sinh, cứu vớt những loài
đang chìm đắm trong biển khổ? Bụt là một người vô sự,
không tìm kiếm một cái gì. Nhưng Bụt là một người hoạt
động độ sinh không ngừng nghỉ. Con người vô sự tuy rất
tích cực trong việc giúp đời độ người, nhưng không bao
giờ bị kéo theo hoàn cảnh và công việc, không bao giờ đánh
mất mình trong mong cầu, trong dự án, trong công việc. Con người
vô sự luôn luôn còn là mình, còn tự do, không bao giờ bị
‘burnt out’ (hết xí quách), cho nên con người vô sự còn
mãi thong dong. Tổ khuyên chúng ta: đừng chạy theo danh lợi,
đừng chạy theo sự nghiệp, đừng bỏ thì giờ mua vui, đừng
ham xây cất chùa lớn, đừng vận động làm tăng thống, đừng
cố thi đậu bằng tiến sĩ, đừng mong cầu chức vụ đại
thiền sư. Chỉ cần mỗi ngày một bát cơm, một manh áo, một
chiếc giường nhỏ. Ðể thì giờ để sống thật với mình,
để trở thành một con người vô sự, giải thoát thật sự.
Tất cả những công phu học hỏi và tu tập đều phải giúp
cho mình trở nên thong dong, đem lại hạnh phúc ngay trong giờ
phút hiện tại. Nếu không làm được như vậy, thì tất cả
đều chỉ là gông cùm. Con người thật của ta, vô vị chân
nhân, cũng như con người thật của Bụt, đang có mặt đích
thật trong giờ phút hiện tại. Hãy trở về vận dụng cái
tâm sáng chói với sáu đạo thần quang để nhận diện nó.
Nó không phải là sáu trần đang mang tính thành, trú, hoại,
không. Nó không phải là một vật, vì vậy gọi nó là một
vật thì không đúng. Nhưng nó đang có mặt kia, và ta chỉ
cần nhận diện nó.
|