Thích Hằng Ðạt
Tên tự của Thầy là Văn Minh, họ Trương, người Phạm Dương. Lúc còn nhỏ đã
từ biệt song thân mà xuất gia. Thầy đi khắp nơi để tầm sư học đạo. Do đó,
Thầy thông suốt các sách luận thế tục và nội điển. Năm mười lăm tuổi, vì
ngưỡng mộ cao phong của ngài Pháp Hiển và Huyền Trang, nên ước muốn sang
Tây Vực cầu pháp.
Niên hiệu Hàm Hanh thứ hai (671), lúc ba mươi bảy tuổi, Thầy đến Phiên
Ngu, cùng đồng kết giao với hơn mười pháp lữ để đi cầu pháp. Song, vừa lúc
lên thuyền thì tất cả pháp lữ đều thối tâm. Vì vậy, đơn độc một mình Thầy
sang Tây Vực cầu pháp. Thầy đi chiêm ngưỡng lễ bái hết các thánh tích, qua
hơn ba mươi nước. Mười năm trú tại tu viện Na Lan Ðà, Thầy nghiên cứu tu
học luật tạng, y dược, và tiếng Phạn. Thầy gom góp thỉnh được khoảng bốn
trăm bộ kinh và mang trở về cố quốc. Mang kinh điển đến nước Bà Lỗ Sư
(Srivijaya), Thầy trú lại đó trong bốn năm để phiên dịch. Năm 689, ra
thương cảng để định gởi thơ, tình cờ Thầy lên thuyền trở về bổn quốc ngoài
ý muốn. Tất cả kinh điển và những bản phiên dịch đều để lại nước Bà Lỗ Sư
(Srivijaya). Vì vậy, vừa về cố quốc, Thầy liền trở lại nơi đó trong cùng
năm, và ở nước đó thêm năm năm. Vào mùa hè, niên hiệu Chứng Thánh nguyên
niên (695), Thầy mang bốn trăm bộ kinh luật luận cùng năm trăm ngàn câu kệ
bằng tiếng Phạn, một bức tranh chân dung tượng Phật tại Kim Cang Tòa, và
ba trăm (?) hột xá lợi, trở về kinh đô. Thiên Hậu đích thân ra cửa thành
phía đông mà ngưỡng thỉnh. Chư tăng trong các chùa chiền tại kinh thành
đều sắp theo đội ngũ mà mang tràng phan bảo cái, cùng trống nhạc mà cung
nghinh. Thiên Hậu ban sắc cho Thầy trú tại chùa Phật Thọ Ký.
Ðầu tiên, Thầy cùng với tam tạng pháp sư Thật Xoa Nan Ðề (người nước Vu
Ðiền) phiên dịch kinh Hoa Nghiêm. Sau này, tại chùa Phước Tiên ở Trường
An, chùa Tây Minh ở Ủng Kinh, v.v... Thầy tự phiên dịch kinh Kim Quang
Minh Tối Thắng Vương, Năng Ðoạn Kim Cang Bát Nhã, Di Lặc Thành Phật, Nhất
Tự Chú Vương, Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni, Trường Trảo Phạm Chí, Căn Bổn
Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da, Ni Ðà Da Mục Ðắc Ca, một trăm luật Yết Ma
Nhiếp, các luận về Lục Môn Giáo Thọ, các kệ tụng của ngài Long Thọ, v.v...
Tổng cộng là năm mươi sáu bộ và hai trăm ba mươi quyển kinh luật luận.
Thầy được hơn hai mươi chư tăng, kẻ tục người Thiên Trúc và Ðông Ðộ, cùng
các quần thần hỗ trợ trong công việc phiên dịch, như kiểm thảo, trau
chuốt, nhuận sắc, kiểm chứng văn dịch. Thầy lại soạn viết quyển Ðại Ðường
Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Nam Hải Kỳ Quy Nội Pháp Truyện, Biệt
Thuyết Tội Yếu Hành Pháp, Thọ Dụng Tam Pháp Thủy Yếu, Pháp Hộ Mạng Phóng
Sanh Nghi Quy. Thầy tuy dịch ba tạng kinh luật luận, nhưng lại chú trọng
nhiều nhất vào tạng luật. Thầy tịch vào năm 713, thọ bảy mươi chín tuổi,
được năm mươi chín hạ lạp.
Dưới đây là lời tự thuật của Thầy về chuyến hành hương cầu pháp sang
Thiên Trúc và các nước lân cận của mình cùng với các vị du tăng đồng đạo
vào đương thời.
Sa môn Nghĩa Tịnh từ Tây Quốc trở lại Nam Hải Thất Lợi Phật Thệ, soạn
viết quyển Kỳ Quy Bính Na Lan Ðà Tự Ðồ.
Lời dẫn nhập:
Từ xưa, có rất nhiều vị cao tăng ở đất Thần Châu (nước Tàu) đã từng đi
qua Tây Vực để cầu pháp mà không tiếc thân mạng. Ngài Pháp Hiển là vị đầu
tiên mở đường, vượt qua bao gian nan hiểm trở để đến Thiên Trúc và các
nước lân cận. Ngài Huyền Trang, theo dấu chân ngài Pháp Hiển, khai mở
chánh lộ đường đến Thiên Trúc.
Những người Tàu du hành sang Thiên Trúc sớm nhất là bằng hai cách: Thứ
nhất, độc hành theo đường bộ, vượt qua vùng biên giới phía tây. Thứ hai,
đi bằng đường biển.
Chư cao tăng du hành, dẫu đi bằng đường bộ hay đường biển, luôn nhớ đến
những thánh tích của Phật đà, năm vóc lễ bái quy mạng. Các ngài luôn hoài
vọng trở về báo tứ trọng ân.
Tuy là duyên may, đại phước mới đến được Thiên Trúc, nhưng cuộc hành
trình rất gian nan nguy hiểm. Không ai có thể mang theo hương hoa tràng
phan bảo cái để cúng dường Phật đà, chỉ có vài vị là hoàn thành cuộc hành
trình.
Nguyên nhân là vì sự chướng ngại nơi các bãi sa mạc khô cằn và những dòng
sông lớn của đất Tượng (Thiên Trúc), cùng ánh nắng chói chang, hoặc những
gợn sóng cuồn dâng đến bầu trời do những con cá voi phun lên, hay những
dòng nước chảy xuống tận đáy biển. Những khi đơn độc du hành đến vùng
Thiết Môn
[1], người bộ hành đi lạc vào muôn ngàn núi
non hiểm trở. Hoặc bị rơi xuống những vực sâu, hoặc vừa lúc vượt qua cột
Ðồng Trụ
[2] phải lội qua trăm sông ngàn suối, để rồi
mất mạng.
Tôi đã trải qua bao ngày nhịn đói, ngay cả không có một giọt nước. Tôi
thật lấy làm lạ rằng không biết làm thế nào các du tăng có thể giữ vững ý
chí tu hành cùng tinh thần dõng mãnh và giới đức thanh bạch trong điều
kiện vô vàn khó khăn như thế. Vì cuộc hành trình gian nan hiểm trở, người
du hành thường thay đổi quan niệm sống.
Khi quyết định khởi hành rời nước, tôi có năm mươi pháp hữu, nhưng hầu
hết họ đều ở lại Thiên Trúc. Song, nếu có một vị tăng nào đến được Thiên
Trúc, sau cuộc hành trình gian nan hiểm trở, vị đó sẽ không tìm được một
ngôi chùa Tàu nào cả tại nơi đó. Do đó, không có nơi cố định để chúng tôi
cư trú, mà chỉ đi từ chỗ này qua chỗ khác như những luống cỏ bị gió thổi
trôi. Tuy hoàn cảnh có khó khăn gian nan trắc trở, nhưng sự nghiên tầm học
hỏi Phật pháp cùng kinh luật là việc hệ trọng nhất. Thật vậy, sự chân
thành và tín tâm của họ thật rất được ngưỡng mộ và ca tụng.
Hiện tại, tôi viết về những kinh nghiệm về chuyến hành hương cầu pháp,
hầu mong để lại cho hậu thế. Tôi đã từng nghe bằng tai, thấy bằng mắt,
chứng kiến những sự khó khăn mà chư du tăng đã từng trải qua. Do đó, Tôi
viết quyển sách này theo trình tự niên biểu thời gian của những sự kiện
xảy ra trong chuyến hành hương cầu pháp. Ðầu tiên, tôi ghi lại tiểu sử của
các vị còn sống và sau đó viết về các vị đã qua đời.
1. Pháp sư Huyền Chiếu ở Thái Châu
2. Pháp sư Ðạo Hi ở Tề Châu.
3. Luật sư Sư Tiên ở Tề Châu.
4. Pháp sư A Nan Da Bạt Ma ở Tân La.
5. Pháp sư Huệ Nghiệp ở Tân La.
6. Pháp sư Huyền Thái ở Tân La.
7. Pháp sư Huyền Khác ở Tân La.
8-9. Hai vị pháp sư ở Tân La.
10. Phật Ðà Bạt Ma ở Ðổ Hóa La.
11. Pháp sư Ðạo Phương ở Tịnh Châu.
12. Pháp sư Ðạo Sanh ở Tịnh Châu.
13-14. Thiền sư Thường Mẫn (Nityadaksa Dhyanacarya) ở Tịnh Châu và một đệ
tử.
15. Thầy Mạt Ðề Tăng Ha ở Kinh Sư.
16. Pháp sư Huyền Hội ở Kinh Sư.
17. Thầy Chất Ða Bạt Ma.
18-19. Hai vị tăng từ nước Ni Ba La (Nepal).
20. Pháp sư Long.
21. Pháp sư Minh Viễn ở ích-châu.
22-23-24. Luật sư Nghĩa Lương (Arthadipta) ở ích-châu và một đệ tử, cùng
Trí Ngạn.
25. Luật sư Hội Ninh ở ích-châu.
26. Pháp sư Vận Kỳ ở Giao Châu (Việt Nam).
27. Pháp sư Khuy Xung ở Giao Châu (Việt Nam).
28. Pháp sư Huệ Diễm ở Giao Châu (Việt Nam).
29. Pháp sư Giải Thoát Thiên ở Giao Châu (Việt Nam).
30. Pháp sư Tín Trụ.
31. Pháp sư Trí Hành ở Ái Châu (Việt Nam)[3].
32. Thiền sư Ðại Thừa Ðăng ở Ái Châu (Việt Nam).
33. Sa môn Tăng Già Bạt Ma ở Khương Quốc.
34-35. Pháp sư Bỉ Ngạn và Trí Ngạn ở Cao Xương.
36. Pháp sư Ðàm Nhuận ở Lạc Dương.
37. Luận sư Nghĩa Huy ở Lạc Dương.
38-39-40. Ba vị từ nước Tàu.
41. Pháp sư Huệ Luân ở Tân La.
42. Pháp sư Ðạo Lâm ở Kinh Châu.
43. Pháp sư Ðàm Quang ở Kinh Châu.
44. Thiền sư Huệ Mạng ở Kinh Châu.
45. Luật sư Huyền Quỳ ở Nhuận Châu.
46. Pháp sư Thiện Hạnh ở Tấn Châu.
47. Pháp sư Linh Vận ở Nhưỡng Dương.
48. Thiền sư Tăng Triết ở Phong Châu.
49. Huyền Du đệ tử của Tăng Triết ở Cao Ly.
50. Luật sư Trí Hoằng ở Lạc Dương.
51. Thiền sư Vô Hành ở Kinh Châu.
52. Thiền sư Pháp Chấn ở Kinh Châu.
53. Pháp sư Ðại Luật ở Phong Châu.
54. Tỳ kheo Trinh Cố ở Vĩnh Xuyên.
55 Tỳ kheo Ðạo Hoằng ở Biện Châu.
56. Tỳ kheo Pháp Lãng Nhưỡng Dương.
Những vị tăng được kể ở phần trên (của danh sách) hầu hết đều phân tán đi
rải rác. Tôi (Nghĩa Tịnh) chỉ gặp năm vị tăng như Vô Hành, Ðạo Lâm, Huệ
Luân, Tăng Triết và Trí Hoằng. Thùy Cùng nguyên niên (685), Tôi (Nghĩa
Tịnh) cùng với thiền sư Vô Hành từ biệt đất Tàu để đến Tây Quốc. Cho đến
hôm nay (lúc Nghĩa Tịnh ghi chép quyển này) không có một phái đoàn nào tìm
kiếm xem họ còn sống hay đã tịch rồi.
1. Pháp sư Huyền Chiếu.
Pháp sư Huyền Chiếu vốn là người Tiên Chưởng ở Thái Châu. Tên tiếng Phạn
của Pháp Sư là Bàn Già Xá Mạt Ðề (Parkasamati); tiếng Tàu dịch là Chiếu
Huệ. Tổ phụ (ông nội và cha) của Pháp Sư liên tiếp giữ chức thừa tướng
trong triều. Song, lúc còn nhỏ Pháp Sư đã xuống tóc xuất gia.
Lúc thành niên, Pháp Sư ước muốn đi lễ bái thánh tích. Thế nên, Pháp Sư
lên kinh sư tham dự và bàn luận về kinh luận. Giữa niên hiệu Trinh Quán
(627-649), tại chùa Ðại Hưng Thiện, Pháp Sư bắt đầu học Phạn ngữ với thầy
Huyền Chứng. Kế đến, Pháp Sư chống tích trượng, tiến về hướng Tây, nghĩ
tới tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Rời Kim Phủ (Lan Châu), Pháp Sư vượt qua
bãi sa mạc Lưu Sa và Thiếc Môn, rồi leo lên núi Tuyết Lãnh. Pháp Sư tắm
gội trong ao nước hương, rồi tự nhủ rằng phải hoàn thành bốn hoằng thệ
nguyện. Pháp Sư leo lên ngọn núi Hốt Phụ (hay Thông Lĩnh-Pamir) và giữ
vững tinh thần cùng sự tinh tấn. Pháp Sư thệ nguyện cứu độ Tam Hữu (ba
cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới). Pháp Sư băng qua Tốc Lợi
[4], đến Ðỗ Hóa La
[5], rồi đi ngang qua biên giới của người Hồ
và tiến vào nước Thổ Phiên (Tây Tạng). Vì ngưỡng mộ, công chúa Văn Thành
cúng dường tiền lệ phí cho Pháp Sư trên đường đến bắc Thiên Trúc. Pháp Sư
hướng đến nước Ðồ Lan Ðà
[6].
Thật là một cuộc hành trình đầy gian nan nguy hiểm. Trước khi vào vương
thành của nước Ðồ Lan Ðà, Pháp Sư bị giặc cướp bắt. Không có ai để cho
thương nhân cùng du khách mách cáo hay cầu cứu. Thất vọng vì không có
người cứu giúp, Pháp Sư tụng thầm thần chú. Ðêm hôm sau, Pháp Sư mơ thấy
ước vọng của mình được toại nguyện. Pháp Sư chợt tỉnh dậy, thấy bọn cướp
đều ngủ mê say, bèn vội lén lút bỏ đi, rồi lập tức chạy khỏi nơi đó, tức
được thoát nạn.
Pháp Sư trú lại nước Ðồ Lan Ðà trong bốn năm. Nơi đó Pháp Sư được quốc
vương ân cần tiếp đãi cúng dường cùng cung cấp nơi ăn chốn ở. Pháp Sư
chuyên cần học kinh luận và Phạn ngữ nhưng rất ít tiến bộ.
Từ từ Pháp Sư đi về hướng nam đến Ma Ha Bồ Ðề (Mahabodhi sangharama) và ở
đó bốn năm. Pháp Sư tự hận mình sanh không gặp Thánh hiền (tức Phật Thích
Ca), nhưng cảm thấy may mắn được lễ bái thánh tích của Phật đà. Pháp Sư
lại lễ bái chân dung thánh tượng Từ Thị Di Lặc (Maitreya). Thánh tượng này
được điêu khắc rất tỉ mỉ và oai nghiêm, khiến cho người xem phải khởi lòng
cung kính. Thật vậy, thánh tượng đó là một tác phẩm xuất phát từ lòng chân
thành tuyệt đối của người thợ điêu khắc.
Pháp Sư nghiên cứu tu học thâm sâu luận Câu Xá
[7], luận A Tỳ Ðàm (Abhidharma) tức Giải Ðối
Pháp (Abhidharma) và hiểu biết tinh tường về luật nghi (Vinayas) của hai
thừa, tức đại thừa và tiểu thừa (Mahayana and Hinayana).
Sau đó, Pháp Sư đến tu viện Na Lan Ðà (Nalanda) và lưu trú lại trong ba
năm. Nơi đó, Pháp Sư học Trung Luận
[8] với ngài Thắng Quang (Vijayarasmi), rồi
học Du Già Thập Thất Ðịa
[9] với đại đức giáo thọ Bảo Sư Tử
(Ranasimha).
Pháp Sư lại học nhiều môn thiền định, quán tưởng trừu tượng (khiến tâm
được thoát khỏi sự trói buộc của tất cả năng và sở), tinh tấn quán sát cội
nguồn tâm thức, để thấu suốt tận cùng chân nghĩa bao la.
Kế đến, Pháp Sư đi dọc theo phía bắc sông Hằng (Ganga) và được tiếp đón
nồng hậu bởi quốc vương nước Thiêm Bộ. Pháp Sư trú tại chùa Tín Giả và
những tự viện khác trong ba năm.
Sứ giả nhà Ðường, Vương Huyền Sách[10],
trên đường trở về nước Tàu, tấu trình rõ ràng về du tăng Huyền Chiếu. Liền
sau đó, nhà vua phái người qua Thiên Trúc tìm kiếm và đưa Pháp Sư về kinh
đô. Trên đường trở về, quốc vương nước Ni Ba La (Nepal) giúp đỡ Pháp Sư
tiến về nước Thổ Phiên (Tây Tạng), và gặp lại công chúa Văn Thành[11].
Bà rất vui mừng rồi lại cúng dường Pháp Sư tư lương cần thiết để trở về
nước Tàu.
Sau cuộc hành trình dài dẳng dọc theo phía tây của nước Thổ Phiên
(Tibet), Pháp Sư về đến nước Tàu. Vào tháng chín, Pháp Sư rời nước Thiêm
Bộ và đến Lạc Dương vào tháng giêng. Năm tháng trường Pháp Sư đi hơn vạn
dặm. Vào niên hiệu Lân Ðức (664), Pháp Sư vào hoàng cung yết kiến nhà vua
và được sắc lịnh đến Yết Chập Di La (Kashmir) để đón một vị trưởng lão bà
la môn tên là Lô Ca Dật Ða (Lokaditya).
Lúc ở Lạc Dương, Pháp Sư gặp rất nhiều vị đại đức và cùng họ thảo luận về
huyền lý của Phật pháp. Tại chùa Cung Ái
[12], Pháp Sư bắt tay vào công việc phiên dịch
quyển luật Tát Bà Ða Bộ Nhiếp (Sarvastivada) với sự giúp đỡ của Ðạo luật
sư (Vinayacarya), Quán pháp sư (Dharmacarya), cùng những vị khác. Song,
sau một thời gian ngắn, Pháp Sư phải qua Thiên Trúc theo lịnh của nhà vua.
Do đó, bổn hoài của Pháp Sư chưa được hoàn thành. Pháp Sư phải để những
bản kinh luật bằng tiếng Phạn tại kinh đô.
Pháp Sư lại phải vượt qua những bãi sa mạc cát đá, và băng qua những ngọn
núi cao chót vót. Pháp Sư đi lần theo đường mòn chung quanh các vách núi;
nơi cầu đá để vượt qua chỗ vách núi nguy hiểm, Pháp Sư tìm thấy một con
đường mòn dốc lài và băng qua đó được. Ðến một con sông, nọ, tuy có cầu
giây, nhưng Pháp Sư lại tự lội sang sông, nên tránh được bọn cướp ở nước
Thổ Phiên (Tibet). Ðược an toàn một đỗi, rồi Pháp Sư lại bị bọn Hung Nô
cướp bóc, nhưng may mắn trốn thoát. Sau đoạn đường dài, Pháp Sư tiến vào
biên giới của bắc Thiên Trúc.
Trên đường Pháp Sư gặp đoàn sứ giả của nước Tàu đang hộ tống ngài Lô Già
Dật Ða. Ðược đoàn sứ giả giao trọng trách, Pháp Sư dẫn dắt họ theo đoàn
thương buôn đến nước La Trà
[13] ở phía tây Thiên Trúc, để lấy thuốc
trường sanh. Trên đường, Pháp Sư đến chùa Nạp Bà Tỳ Ha La (Nava Vihara),
tức Tân Tự (Nava Sangharama) ở Phược Khát La (Bukhara). Nơi đó, Pháp Sư
chiêm lễ bình bát và các thánh tích của đức Như Lai. Kế đến, Pháp Sư tới
Ca Tất Thí (Kapisa) và đảnh lễ cùng cúng dường hương hoa cho xá lợi xương
đầu của Phật (Như Lai Ðảnh Cốt- Usnisa). Nơi đó, Pháp Sư viết lại ấn văn,
quán lai sanh thiện ác (xem lại những chuyện lành xấu xưa nay).
Pháp Sư lại đi qua Phương Ðạt La của nước Tín Ðộ, và được quốc vương tiếp
đón nồng hậu, nên ở lại đó bốn năm. Từ đó, Pháp Sư đi về hướng nam Thiên
Trúc. Nơi ấy, Pháp Sư thường gởi nhiều loại thuốc về nước Tàu.
Trên đường du hành, Pháp Sư đến Kim Cang Tọa, tức Bồ Ðề Mạn Ðà
(Bodhimada), và trú lại nơi đó trong một thời gian. Tại tu viện Na Lan Ðà,
Pháp Sư gặp Nghĩa Tịnh. Chí nguyện thuở bình sanh đã được hoàn thành. Cả
hai chúng tôi đồng khế ước gặp nhau tại hội Long Hoa.
Ðường đi từ nước Ni Ba La (Nepal) đến nước Thổ Phiên và đường đi xuyên
qua nước Ca Tất Thí đến Ðại Thực không thông, bế tắc. Vì vậy, nghỉ ngơi
một đỗi, Pháp Sư tiến đến núi Thứu Phong (Grdhrakuta) và tịnh xá Trúc Lâm
(Venuvana). Những nơi đó, Pháp Sư rất mến thích và khởi tâm cung kính tột
bậc.
Dầu Pháp Sư có chí nguyện truyền đăng, nhưng ước muốn này tiêu diêu như
lá rụng. Than ôi! Pháp Sư khổ hạnh du hành mà nguyện lợi sanh chưa toại.
Sao Pháp Sư lại muốn cỡi mây xuống trung Thiên Trúc bằng đôi cánh chim!
Tại nước Am Ma La Bạt (Bha-va) ở trung Thiên Trúc, Pháp Sư viên tịch vào
lúc sáu mươi tuổi.
Ðể truy điệu Pháp Sư, Nghĩa Tịnh viết bài tán thán:
"Tráng chí cao ngất
Thông minh tuyệt đỉnh
Từng vượt muôn trùng
Xa thẳm quê mẹ
Trú nơi Trúc Lâm
Ngắm lá tre lay
Khởi tâm niệm niệm
Khát ngưỡng đạo huyền
Mãi giữ giới đức
Thường mong trở về
Hoằng diễn chánh pháp
Ðề cao đức hạnh
Than ôi! Bất toại
Vận mạng mong manh
Chôn xương nơi sông
Bát Thủy danh lừng
Chết vẫn an lạc."
2. Pháp sư Ðạo Hy ở
Tề Châu (Sơn Ðông).
Pháp sư có tên tiếng Phạn là Thất Lợi Ðề Bà (Dharmacarya). Tàu dịch là
Kiết Tường Thiên (Srideva). Pháp Sư thuộc dòng dõi quý tộc. Tôn tộc thường
làm quan tại triều nội.
Từ thuở bé, Pháp Sư rất hiền hòa lễ nghĩa, và đã từng theo học huyền môn
cùng được thấm nhuần giáo lý Phật đà, nên thường có chí nguyện du hành
sang trung Thiên Trúc.
Trên đường du hành, Pháp Sư vượt qua bao núi non hiểm trở mà không màng
đến thân mạng, chỉ một lòng cầu pháp. Pháp Sư tiến đến nước Thổ Phiên
(Tibet) nhưng đường lộ rất nguy hiểm, nên không dám đi theo hướng đó, mà
xoay bước về hướng tây, rồi lại gặp thêm bao gian nan khổ nhọc. Sau khi
vượt qua bao vương quốc, Pháp Sư đến Ma Ha Bồ Ðề, rồi ở lại nơi đó hai năm
để nghiêm tầm kinh điển và lễ bái thánh tích của Phật đà. Pháp Sư trú tại
tu viện Na Lan Ðà và nước Câu Thi
[14] trong một thời gian. Quốc vương nước Am
Ma La Bạt rất tôn kính và tiếp đãi Pháp Sư nồng hậu. Tại tu viện Na Lan
Ðà, Pháp Sư chuyên cần học giáo lý Ðại Thừa. Nơi chùa Thâu Bà Bạn Na, tức
chùa Niết Bàn (Nirvana), Pháp Sư chuyên chú nghiên cứu tu học luật tạng
(Vinayapitaka) và luận Thanh Minh (Sabdavidyshatra).
Pháp Sư là vị học giả tri thức tài hoa. Trên một tảng đá tại chùa Ðại
Giác, Pháp Sư khắc chữ Tàu lên đó, và tại tu viện Na Lan Ðà, Pháp Sư đã để
lại hơn bốn trăm quyển kinh luật cũ mới bằng chữ Tàu.
Nghĩa Tịnh không được gặp Pháp Sư ở Thiên Trúc. Lúc năm mươi tuổi, Pháp
Sư cảm bệnh và qua đời tại nước Am Ma La Bạt (Amraka). Sau này, Nghĩa Tịnh
đến đó và lễ bái căn phòng của Pháp Sư. Nghĩa Tịnh rất cảm kích và thương
tiếc cho Pháp Sư, cùng viết kệ tán thán:
"Cô đơn tiến bước trăm khổ nhọc
Chân thành chất trực đức tánh cao
Hằng nguyện báo đền bốn ân trọng
Thương thay chưa thắp ngọn đèn pháp
Mà phải bỏ mình giữa đường xa."
3. Pháp sư Sư Tiên
(Sri Kasa) ở Tề Châu.
Pháp Sư thông suốt Phạn ngữ (Sanskrit) và chú Vinh Nhàn (Vidyamantra),
tức chú Ðà La Ni. Pháp Sư đã từng cùng với ngài Huyền Chiếu đi sang bắc và
qua tây Thiên Trúc. Ðến vương thành của nước Am Ma La Bạt, họ được quốc
vương cung kính tiếp đón niềm nở. Khi trú tại chùa Vương Tụ (Raja Vihara),
Pháp sư gặp ngài Ðạo Hy. Vì hai ngài vốn đồng hương nên đối đãi nhau rất
thân mật. Ðang sống chung với ngài Ðạo Hy, Pháp sư nhiễm bịnh và qua đời
vào lúc ba mươi chín tuổi.
4. Pháp sư A
Nan Da Bạt Ma (Anandavarman) ở Tân La (Triều Tiên).
Pháp Sư vốn là người Tân La (Triều Tiên). Trong niên hiệu Trinh Quán,
Pháp Sư khởi cuộc du hành từ thành Quảng Nhiếp (một vương thành nhỏ) ở
Trường An để tầm cầu chánh giáo và đích thân lễ bái thánh tích. Trú tại tu
viện Na Lan Ðà, Pháp Sư chuyên chú tu học luật luận và sao chép rất nhiều
kinh điển.
Thương thay, Pháp Sư không thể đạt được chí nguyện. Pháp Sư xuất phát từ
biên giới phía đông nước Kê Quý (tức Triều Tiên), và an tường thị tịch tại
hướng tây của hồ Long Tuyền ở tu viện Na Lan Ðà vào lúc hơn bảy mươi tuổi.
5. Pháp sư Huệ Nghiệp (Jananasampada) ở nước Tân La (Korea).
Vào niên hiệu Trinh Quán, Pháp Sư du hành qua Tây Vực, rồi trú tại chùa
Bồ Ðề cùng lễ bái thánh tích. Trong vài năm trú tại tu viện Na Lan Ðà,
Pháp Sư thường tu học Phật pháp và dành rất nhiều thời giờ để lắng nghe
cùng viết lại những bài thuyết giảng.
Lúc đang đọc và kiểm thảo lại những bản sao chép, Nghĩa Tịnh chợt thấy
một bản sao Lương Luận
[15]. Cuối quyển luận ghi rõ là pháp sư Huệ
Nghiệp, vị tăng của nước Tân La (Triều Tiên), sao chép kinh bên dưới cội
cây Phật Xỉ Mộc (cây tăm xỉa răng của Phật).
Khi hỏi thăm chư tăng ở tu viện đó, Nghĩa Tịnh được biết là Pháp Sư đã
viên tịch nơi ấy vào lúc trên sáu mươi tuổi. Những bản kinh tiếng Phạn
được Pháp Sư sao chép lại vẫn còn lưu giữ trong chùa.
6. Pháp sư Huyền Thái ở
nước Tân La.
Pháp Sư có tên tiếng Phạn là Tát Bà Chân Nhã Ðề Ba (Sarvajnadeva); tiếng
Tàu dịch là Nhất Thiết Trí Thiên. Trong niên hiệu Vĩnh Huy (650-655), Pháp
Sư đến nước Thổ Phiên (Tibet), băng qua nước Ni Ba La (Nepal), rồi vào
trung Thiên Trúc. Pháp Sư hành hương đến cây Bồ Ðề và tinh tường nghiên
cứu tu học kinh luật. Pháp Sư cũng đi du hành rất nhiều nơi tại vùng phía
đông. Trên đường trở về, đến Thổ Cốc Hồn, Pháp Sư gặp ngài Ðạo Hy, rồi cả
hai cùng đến chùa Ðại Giác. Sau này, Pháp Sư trở về nước Tàu, nhưng không
ai biết được việc Pháp Sư thị tịch như thế nào.
7. Pháp Sư
Huyền Khác (Paramapujya) ở
Tân La.
Vào niên hiệu Trinh Quán, Pháp Sư khởi hành cùng với ngài Huyền Chiếu. Họ
đến chùa Ðại Giác. Pháp Sư chân thành lễ bái thánh tích Phật đà, nhưng sau
vài ngày bị cảm bệnh và qua đời vào lúc năm mươi tuổi.
8-9. Hai vị tăng ở nước
Tân La.
Không ai biết được danh tánh của hai vị tăng này. Họ rời Trường An và đến
Nam Hải. Kế đến, họ đi tới nước Bà Lỗ Sư (Srivijaya), ở phía tây nước Thất
Lợi Phật Thệ (Sribhoga), rồi lâm bịnh và thị tịch tại đó.
10. Phật Ðà Ðạt
Ma (Bodhiarma) ở
Ðổ Hóa La.
Thân hình của Ngài vạm vỡ, đủ để chịu đựng những gian nan khổ nhọc trên
các cuộc du hành. Ngài theo học giáo lý tiểu thừa, và thỉnh thoảng đi khất
thực. Nhờ ăn ít nên Ngài đi đứng thuận tiện. Ngài đến Thần Châu (nước
Tàu), và xuất gia tại chùa ích-phủ. Tánh tình thích đi viễn du, và thường
hành cước rất nhiều nơi ở Cửu Châu cùng những vùng khác.
Ngài đến tu viện Na Lan Ðà và gặp Nghĩa Tịnh. Khi năm mươi tuổi Ngài đến
bắc Thiên Trúc và thị tịch vào lúc hơn năm mươi tuổi.
11. Thầy Ðạo
Phương (Dharmadesa) ở Tịnh Châu.
Thầy xuất gia xong, bèn vượt qua những bãi sa mạc và đồi núi, rồi đến
nước Ni Ba La. Thầy đến và làm trụ trì chùa Ðại Giác trong vài năm. Sau
này, Thầy trở lại nước Ni Ba La cho đến khi gặp Nghĩa Tịnh.
12. Pháp sư Ðạo Sanh ở
Bình Châu.
Tên tiếng Phạn của Pháp Sư là Bàn Ðạt La Ðề Bà (Cadradeva), Tàu dịch là
Nguyệt Thiên.
Cuối niên hiệu Trinh Quán, Pháp Sư theo đường núi đến nước Thổ Phiên, qua
trung Thiên Trúc, rồi tới chùa Bồ Ðề. Nơi đó, Pháp Sư kính thành cúng
dường và lễ bái Chế Ðề Cật (Caitagrha), tức tháp thờ xá lợi Phật. Trong tu
viện Na Lan Ðà, Pháp Sư là vị tăng trẻ nhất, nên được quốc vương thâm kính
lễ bái. Ði về phía đông cách tu viện Na Lan Ðà mười hai do tuần, Pháp Sư
đến chùa Vương Tự, nơi chư tăng đều tu học theo giáo lý tiểu thừa. Pháp Sư
trú trong chùa đó vài năm để học giáo lý tiểu thừa và lẽ tinh yếu của ba
tạng giáo nghĩa. Pháp Sư mang trở về bổn quốc rất nhiều kinh điển và tượng
Phật. Trên đường về cố hương, vì nghiệp vận, Pháp Sư bị bịnh và thị tịch
vào lúc năm mươi tuổi tại nước Ni Ba La.
13-14. Thiền sư Thường Mẫn (Nityadaksa Dhyanacarya) ở Tịnh Châu và một đệ
tử.
Thiền Sư cắt tóc xuất gia vào lúc còn thơ ấu. Tướng hảo kiết tường oai
nghiêm của Thiền Sư thật không thể kể hết. Thiền Sư rất thông minh đảnh
ngộ; tinh tấn tu hành, chuyên cần tụng niệm kinh điển không mệt mỏi; Thiền
sư lại thường phát đại thệ nguyện vãng sanh qua cõi Cực Lạc, nên luôn hành
tịnh nghiệp niệm danh hiệu Phật không ngừng. Thiền Sư rất vững vàng về căn
bản giáo lý nhà Phật.
Thiền Sư đến Lạc Dương tuyên dương chánh pháp. Ðể biểu lộ lòng chân thành
trong công cuộc hoằng pháp, Thiền Sư phát đại nguyện viết mười ngàn quyển
kinh Bát Nhã (Prajna). Thiền Sư nguyện ước đi qua Tây Vức để lễ bái cúng
dường xá lợi Phật và các thánh tích, rồi hồi hướng công đức qua cõi Tây
Phương Cực Lạc.
Dịp may đến, Thiền Sư vào kinh sư, dâng thơ thỉnh nguyện nhà vua cho phép
được đi du hành qua chín châu để truyền bá Phật pháp cùng viết kinh Bát
Nhã. Ðược nhà vua chuẩn y, Thiền Sư khởi hành cuộc vân du, rồi băng qua
bao sông ngòi, và đi khắp vùng phía nam của nước Tàu. Trong thời gian ở
tại miền nam, Thiền Sư chân thành viết kinh Bát Nhã và luôn tỏ lòng tri ân
sâu sắc đối với nhà vua vì đã chuẩn y cho phép mình được toại nguyện.
Sau này, Thiền Sư đến hải cảng, lên thương thuyền để tới nước Ha Lăng
[16]. Ðến nơi, Thiền Sư lại theo thuyền qua
nước Mạc La Du
[17], với mục đích là sang trung Thiên trúc.
Một cơn bão đột ngột thổi đến vùng đó, khiến cho biển động sóng dồn. Vì
chở rất nhiều kiện hàng hóa nặng nề, nên thương thuyền chỉ ra được bến mà
không đi đến đâu được. Vài tiếng sau, thương thuyền bắt đầu bị chìm. Trong
cơn hãi hùng hỗn loạn, thương nhân cùng thủy thủ tranh nhau xuống chiếc
thuyền nhỏ để tránh nạn. Vốn là một Phật tử thuần thành, vừa bước xuống
chiếc thuyền nhỏ thì vị thuyền trưởng liền gọi to rằng Thiền Sư hãy nên
xuống đó với hợ để lánh nạn. Thiền Sư bèn đáp:
- Tôi không xuống đâu! Ông nên đem vài người khác xuống để thay thế chỗ
của tôi.
Thiền Sư không chịu xuống con thuyền nhỏ mà chỉ âm thầm chấp nhận nghiệp
vận ngắn ngủi để giữ vững tâm Bồ Ðề: Xả thân mình để cứu người. Thật là
hạnh nguyện của bậc Bồ Tát Ðại Sĩ.
Kế đến, Thiền Sư chắp tay hướng về phía tây, và cung kính xưng niệm danh
hiệu Phật A Di Ðà liên tục, mặc tình cho thương thuyền từ từ chìm xuống
biển cả. Lúc đó, Thiền Sư hơn năm mươi tuổi.
Thiền sư Thường Mẫn có một người đệ tử mà không ai biết rõ danh tánh. Vị
thầy này khóc sướt mướt và cũng xưng niệm danh hiệu Phật A Di Ðà. Mất vị
tôn sư, Thầy cảm giác mọi việc đều vô nghĩa và trống rỗng. Thầy được người
trên chiếc thuyền nhỏ ân cần giúp đỡ. Câu chuyện này được những người
thoát nạn đắm thuyền kể lại.
Thương thay bậc vĩ nhân, thị tịch quá sớm! Hy sinh thân mạng mình để cứu
người, sáng chói như gương bóng, quý báu như viên ngọc nước Hòa Chấn
(Khotan). Dẫu có ngâm mình trong dòng nước dơ mà thân không nhơ nhuốc. Dẫu
bị mài giũa mà không khiếm khuyết. Hiến mình vì Phật pháp để đạt được trí
huệ Bát Nhã thâm sâu. Dưỡng trí huệ để gieo nhân lành cao tột. Nơi bổn
quốc gieo nghiệp lành. Tại nước người gặt được quả tốt. Gặp hiểm nạn trên
biển cả, tự đối đầu và quyết định trầm mình theo thương thuyền để cứu vớt
người, khiến đệ tử phải mất đi một tôn sư và không còn pháp lữ.
Thân nhớp nhúa rã tan trong biển cả. Dùng tịnh nguyện để qua an dưỡng nơi
cõi Cực Lạc. Ðạo không hề bị vô vị và hạnh đức mãi không bị chôn vùi.
Phóng ánh sáng từ bi vị tha. Tận trần kiếp để sinh ra một vĩ nhân khác.
15. Thầy
Mạt Ðề Tăng Ha (Matisimha) ở Kinh Triệu.
Tên tiếng Tàu của Thầy là Sư Huệ. Thầy vốn là người ở Kinh Triệu, họ là
Hoàng Phủ, nhưng không ai biết tên tục là gì. Thầy đồng du hành với ngài
Sư Tiên qua trung Thiên Trúc, đến và trú tại chùa Tín Giả.
Thầy có kiến thức về tiếng Phạn, nhưng không nghiên cứu tường tận về kinh
luật nhà Phật. Thầy quyết định trở về bổn quốc nhưng lại thị tịch tại nước
Ni Ba La vào năm bốn mươi tuổi trên đường về cố hương.
16. Thầy Huyền Hội ở kinh sư.
Có người bảo rằng Thầy là con của tướng quân họ An. Theo đường bộ, Thầy
đến bắc Thiên Trúc rồi vào nước Yết Chập Di La
[18]. Thầy được quốc vương nước đó giao cho
chức giữ voi của hoàng gia. Thầy thường cỡi voi với nhạc cụ theo sau. Mỗi
ngày, quốc vương sai người đem thức ăn đến cúng dường cho chùa Long Trì
Sơn
[19], nơi thầy Huyền Hội trú ở, và là nơi mà
năm trăm vị A La Hán thường thọ thực, và cũng là nơi mà đệ tử của tôn giả
A Nan Ðà, tức ngài Mạt Ðiền Ðịa (Madhyantika), đã từng hóa độ long vương.
Nhờ Thầy khuyên bảo, quốc vương phóng thích hơn một ngàn tử tội. Thầy được
tự do ra vào cung cấm, nhưng sau này vì có chuyện bất bình nên bỏ vào nam.
Tại chùa Ðại Giác, Thầy lễ bái cây Bồ Ðề và ngắm nhìn hồ Mộc Chân Trì
(Muchalinda) cả hàng giờ. Tại nơi đó, Thầy leo lên núi Linh Thứu
(Grdhrakuta) và núi Tôn Túc, tức Kê Túc (Kukkutapadagiri). Thầy có kiến
thức rất thâm sâu quảng đại và thần minh của một bậc thánh hiền, cùng
thiện xảo khéo léo. Dẫu gặp bao khó khăn trở ngại, Thầy nói thông thạo
tiếng Phạn trong một thời gian ngắn. Song, vì không có kiến thức thâm sâu
về kinh điển tiếng Phạn và đạo lý, nên Thầy quay trở về bổn quốc. Không
may, trên đường về, khi đi ngang qua nước Ni Ba La, Thầy mất vào lúc hơn
ba mươi tuổi.
Nước Ni Ba La có bao loại độc dược nên nhiều khách hành hương bị chết tại
nơi đó vì ăn nhằm chúng.
17. Thầy Chất Ða Bạt
Ma (Cittavarman).
Thầy vốn theo đoàn sứ giả nước Tàu đến xứ Phược Khát La
(BuKhara) bằng đường lộ phía bắc. Tại chùa Tân Tự (Navasangharama), nơi
truyền dạy giáo lý tiểu thừa, xuất gia với tên là Chất Ða Bạt Ma
(Cittavarman). Thọ giới cụ túc xong, Thầy từ chối không ăn ba loại thịt
thanh tịnh.
Vị giới sư trong chùa bảo:
- Như Lai Ðại Sư đích thân khai mở ngũ chánh, hay ngũ tịnh nhục (tức năm
loại thịt thanh tịnh), cho chư tăng nên không có tội, thì sao Thầy lại
không ăn?
Vị Thầy đó đáp:
- Các kinh điển đại thừa đều cấm chế. Do tập tánh đó nên không thể thay
đổi.
- Ta y theo ba tạng kinh luật mà tu hành, và chưa từng đọc qua những văn
kinh như thế. Nếu có kiến chấp khác biệt như vầy, Ta không phải là tôn sư
của Thầy.
Nghe vậy, Thầy đành miễn cưỡng, xả bỏ lời nguyện xưa và rơi lệ mà ăn.
Thầy theo luật nghi của chùa mà tu hành, nhưng kiến thức Phạn ngữ rất giới
hạn. Sau này, Thầy theo đường lộ phía bắc, rồi trở về bổn quốc. Từ đó,
không ai biết Thầy đã đi đâu. Chuyện của Thầy do chư tăng ở bắc Thiên Trúc
thuật lại.
18-19. Hai vị
tăng từ nước Ni Ba La (Nepal).
Bà di mẫu của công chúa nước Thổ Phiên (Tây Tạng) có hai người con, đồng
xuất gia lúc trẻ. Họ trú tại chùa Ðại Vương (Rajavihara). Hai vị nói và
đọc tiếng Phạn rất thông thạo. Một vị tuổi ba mưoi lăm còn vị kia tuổi hai
mươi lăm. Sau này, một trong hai vị đó hoàn tục.
20. Pháp sư họ Long
(Gauravadharma).
Không ai biết Pháp Sư là dân nước nào. Trong niên hiệu Trinh Quán, Pháp
Sư xuất gia và theo đường lộ phía bắc để qua Thiên Trúc. Vừa đến đó, Pháp
Sư muốn tận mắt xem sự hoằng hóa của chánh pháp ở trung Thiên Trúc. Pháp
Sư tụng được kinh Pháp Hoa (Saddharmapundarika) bằng tiếng Phạn rất thông
thạo. Khi đến nước Kiền Ðà La, Pháp Sư nhuốm bịnh và thị tịch. Câu chuyện
này do chư tăng ở bắc Thiên Trúc thuật lại.
21. Pháp sư Minh Viễn ở
ích-châu.
Pháp sư Minh Viễn là người ở Thanh Thành, ích-châu. Pháp Sư có tên tiếng
Phạn là Chấn Ða Ðề Bà (Cintadeva). Tàu dịch là Tư Thiên. Thuở nhỏ, Pháp Sư
đã được thấm nhuần Phật pháp, nên lớn lên trở thành một vị rất đạo hạnh.
Tướng mạo của Pháp Sư oai nghiêm tuấn tú. Pháp Sư thích tham gia các pháp
hội tụng đọc kinh điển. Người người đều kính trọng Pháp Sư. Pháp Sư thông
thạo luận Trung Quán (Madhyamika) cùng luận Bách Pháp (Satasastra), và có
khả năng luận nghị về tư tưởng Trang-Châu.
Lúc trẻ, Pháp Sư thường du hành qua Thất Trạch ở Hồ Nam và Tam Ngô (vùng
phía đông của sông Dương Tử) để tầm sư học đạo. Sau này, Pháp Sư nghiên
cứu tu học tinh tường kinh luận và hành thiền định. Kế đến, Pháp Sư tự an
cư kiết hạ trên đỉnh núi Lô Sơn.
Vì Thánh giáo (đạo Phật) đang dần dần bị suy vi, và với ý chí phục hưng,
nên Pháp Sư chống tích trượng qua Giao Châu (Việt Nam). Từ đó, Pháp Sư
theo thuyền qua nước Ha Lăng, rồi đến vương quốc Sư Tử (Tích Lan) lễ xá
lợi Phật.
Theo người nước Sư Tử cho biết thì du tăng người Tàu đó (tức Pháp Sư),
tiếp tục đi qua nam Thiên Trúc, rồi sau này mất trên đường đến chùa Ðại
Giác. Không ai biết được Pháp Sư sống đến bao lâu.
Tương truyền, quốc vương nước Sư Tử ra lịnh đem để xá lợi Phật trên một
tòa lâu các cao ráo, đóng cửa kín an toàn, và cho quân canh phòng cẩn mật.
Trong tòa lâu các đó có nhiều cánh cửa sắt cứng chắc nặng trĩu, cùng với
những ống khóa to lớn được lấp kín bằng vôi bởi năm vị quan triều. Nếu mở
cánh cửa chính ra thì sẽ có tiếng chuông báo hiệu vang khắp thành quách.
Ngày ngày, hương hoa đều được cúng dường đầy khắp. Người chí tâm cầu khẩn
thì sẽ thấy một đóa hoa vàng xuất hiện trên răng xá lợi Phật, hoặc thấy xá
lợi Phật hiển hiện những ánh sáng lạ thường. Theo truyền thuyết, nếu mất
đi răng xá lợi Phật thì vương quốc này sẽ bị quỷ La Sát (Raksasas) nuốt
mất. Vì thế, răng xá lợi Phật được nghiêm phòng thủ hộ cẩn mật.
22-23-24. Luật sư Nghĩa Lương (Arthadipta) ở ích-châu và một đệ tử, cùng
Trí Ngạn.
Luật Sư vốn là người Thành Ðô ở ích-châu. Luật Sư thông thạo luật điển và
giải thích được luận Du Già (Yoga). Lúc trẻ đã từng liễu ngộ giáo pháp,
nên Luật Sư thường nghiên cứu nội điển, và lại có tài viết văn rất hay. Vì
có ước muốn đi hành hương chiêm bái thánh tích, nên Luật Sư khởi hành cuộc
vân du. Phát xuất từ Trường An, Luật Sư đi cùng với thầy Trí Ngạn (một vị
đồng hương), và Nghĩa Huyền (một danh nhân đương thời), cùng một đệ tử. Do
đối đãi thân mật như tình huynh đệ, nên họ rất khắng khít với nhau trên
đường hành hương.
Họ đến nước Ô Lôi, rồi lên thương thuyền. Trải qua bao muôn ngàn sóng to
gió lớn, thương thuyền chạy ngang nước Phù Nam
[20] và thả neo tại Lương Gia
[21]. Nơi đó, họ được quốc vương tiếp đãi như
thượng khách và tặng rất nhiều lễ vật. Thầy Trí Ngạn chẳng may nhuốm bịnh
và tịch tại đó, khiến Luật Sư rất đau buồn. Luật Sư lại cùng với người đệ
tử tiếp tục cuộc hành trình, lên thuyền qua vương quốc Sư Tử. Nơi đó, đoàn
hành hương lễ bái răng xá lợi Phật cùng thâu nhặt sách vở ngoại đạo.
Dần dần họ đến Tây Quốc (Thiên Trúc). Từ đó, không ai biết được Luật Sư
cùng đoàn hành hương đi về đâu. Người nước Sư tử cùng Thiên Trúc không gặp
và nghe tin tức gì về họ. Có lẽ Luật Sư tịch ở nước ngoài khi hơn bốn mươi
tuổi. Nghĩa Tịnh chỉ nghe lại câu chuyện này từ các vị sa môn khác.
25. Luật sư
Hội Ninh (Mahabhisayanavinayacarya).
Luật Sư là người Thành Ðô ở ích-châu. Thuở bé, Luật Sư vốn thông minh
đảnh ngộ và tiết tháo, cùng có chí nguyện hoằng dương Phật pháp, khiến lợi
ích quần sanh, nên thường đến chùa chiền để tìm hiểu về đạo lý. Xả vinh
hoa phú quý như bỏ chiếc áo rách, Luật Sư sớm xuất gia đầu Phật làm tăng
sĩ. Luật Sư nghiên cứu kinh luận cùng tinh tường hiểu rõ về luật nghi. Với
chí nguyện hoằng pháp, Luật Sư muốn sang Tây Vức để tu học.
Trong niên hiệu Lân Ðức (A.D 665), Luật Sư chống tích trượng đến Nam Hải
và theo thuyền sang nước Ha Lăng, rồi ở lại nơi đó trong ba năm với vị
tăng đa văn, Nhã Na Bạt Ðà La (Jnanabhadra). Kế đến, Luật Sư phiên dịch
một phần của kinh A Hàm (Agama), liên hệ đến chương miêu tả buổi lễ trà tỳ
kim thân của đức Như Lai, nhưng lại không tương hợp với kinh Niết Bàn của
Ðại Thừa. Sau này, ở tại Tây Vức, Nghĩa Tịnh tìm thấy kinh Niết Bàn của
phái đại thừa có khoảng hai mươi lăm ngàn câu kệ, và đã được phiên dịch
chữ Tàu hơn sáu mươi quyển. Nghĩa Tịnh muốn gom góp toàn bộ kinh nhưng
không thành công, mà chỉ góp nhặt được bốn ngàn câu kệ đầu tiên từ Ðại
Chúng Bộ (Mahasanhika)
Phiên dịch xong bộ kinh A Hàm, Luật Sư sai đệ tử là Vận Kỳ mau kíp thỉnh
kinh trở về bổn quốc. Thầy Vận Kỳ thỉnh kinh về đến Châu Phủ (Việt Nam)
thì được quan quân hộ tống vào kinh đô. Trong hoàng cung, thầy Vận Kỳ
phụng tấu nhà vua nên ban sắc lệnh truyền bá bộ kinh này cho người Ðông Hạ
(người Tàu). Kế đến, thầy Vận Kỳ rời kinh đô trở lại Giao Chỉ, mang về
tặng phẩm trăm mảnh lụa do triều đình ban thưởng.
Qua trở lại Ha Lăng, thầy Vận Kỳ báo tin cho ngài Ðức Trí Hiền, tức Nhã
Na Bạt Ðạt La, biết rằng luật sư Hội Ninh muốn tương kiến. Vừa lúc ấy,
luật sư Hội Ninh đã qua Tây Vức. Thầy Vận Kỳ ở đó, nóng lòng chờ đợi tin
tức của Luật Sư. Thầy Vận Kỳ lại gởi người sang Ngũ Thiên (Thiên Trúc) để
tìm kiếm Luật Sư nhưng không nghe tin tức. Có lẽ Luật Sư đã tịch vào năm
ba mươi bốn tuổi. Ðây là một điều thật đáng tiếc.
Luật sư Hội Ninh đơn độc đi cầu pháp, và tâm thành muốn hành hương sang
xứ Phật. Luật Sư chỉ du hành một đoạn đường ngắn ngủi. Cuối cùng, Luật Sư
đến nơi Bảo Chử (hay Bảo Sở), và tạm cư nơi Hóa Thành.
Tuy đã thị tịch nhưng pháp của Luật Sư vẫn mãi trường tồn, và tinh thần
Bồ Tát hạnh cùng tên tuổi của Luật Sư vẫn mãi được người sau nhớ đến.
26.
Pháp sư Vận Kỳ (Kalacakra) ở Giao Châu (Việt
Nam).
Pháp Sư đồng du hành với thầy Ðàm Nhuận và theo ngài Phục Trí Hiền thọ
giới cụ túc. Pháp Sư trở lại Nam Hải và sống nơi đó hơn mười năm. Pháp Sư
thông thạo ngôn ngữ của người Côn Lôn và tiếng Phạn. Sau này Pháp Sư lại
hoàn tục và trú tại nước Thất Lợi Phật Thệ cho đến lúc Nghĩa Tịnh qua đó.
Sau này, cuộc đời của Pháp Sư lại thay đổi đột ngột. Vì cảm kích ân trọng
của Phật pháp vô ngần, Pháp Sư xuất gia trở lại, rồi vân du khắp vương
quốc đó và thường hoằng bá chánh pháp đến cho những kẻ ngoại đạo. Pháp sư
tịch vào lúc bốn mươi tuổi.
27. Pháp sư
Khuy Xung ở Giao Châu (Việt
Nam).
Pháp Sư có pháp danh tiếng Phạn là Chất Ðát La Ðề Bà (Citradeva). Pháp Sư
cùng với thầy Minh Viễn đến Nam Hải, và theo thuyền sang nước Sư Tử, rồi
qua tây Thiên Trúc. Nơi đó Pháp Sư gặp thầy Huyền Chiếu, rồi cùng nhau đến
trung Thiên Trúc.
Pháp Sư rất chân thật, tín thành và thông minh. Pháp Sư tụng đọc kinh
tiếng Phạn rất hay. Mỗi lần tìm được quyển kinh tiếng Phạn nào, Pháp Sư
đều tụng xướng theo âm điệu nhịp nhàng. Pháp Sư hành hương đến và chiêm lễ
cây Bồ Ðề. Khi đến thành Vương Xá, vào tịnh xá Trúc Lâm, Pháp Sư trú lại
đó rất lâu, rồi nhuốm bịnh và tịch lúc hơn ba mươi tuổi.
28. Pháp sư Huệ Diễm (Prajnaratna) ở Giao Châu (Việt
Nam).
Pháp Sư là đệ tử của thầy Hành Công. Pháp Sư theo tôn sư đến nước Sư Tử
rồi trú lại nơi đó. Không ai biết được là Pháp Sư tịch vào lúc nào.
29.
Pháp sư Giải Thoát Thiên ở Giao Châu (Việt
Nam).
Pháp Sư theo thuyền đi chu du các nước, rồi đến chùa Ðại Giác, lễ bái các
thánh tích. Pháp Sư tịch vào lúc chỉ mới hai mươi lăm tuổi tại chùa Ðại
Giác.
30. Pháp sư Tín Trụ.
Không ai biết Pháp Sư là dân xứ nào. Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là
Thiết Lị Ðà Bạt Ma (Sraddhavarman). Tàu dịch là Tín Trụ.
Pháp Sư theo dường lộ phía bắc mà đến Thiên Trúc, rồi tới lễ bái và trú
tại chùa Tín Giả. Trên nóc chùa, Pháp Sư xây một tòa lâu các bằng gạch và
cúng dường cho những vị tăng già yếu. Thời gian sau, Pháp Sư nhuốm bịnh
nặng. Ðêm sắp lâm chung, Pháp Sư chợt tỉnh dậy và bảo rằng chư Bồ Tát đưa
tay tiếp dẫn đến tòa nhà trang nghiêm đẹp đẽ. Ðứng dậy chấp tay thọ nhận,
Pháp Sư thị tịch vào năm ba mươi lăm tuổi.
31. Pháp sư Trí
Hành ở Ái Châu (Việt
Nam).
Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là Bàn Nhã Ðề Bà (Prajnadeva). Tàu dịch
là Huệ Thiên. Theo thuyền đi từ Nam Hải, Pháp Sư đến tây Thiên Trúc, rồi
lễ bái xá lợi đức Thế Tôn. Kế đến, Pháp Sư đi dọc theo sông Hằng, và đến
chùa Tín Giả, rồi tịch tại đó vào năm năm mươi tuổi.
32. Thiền
sư Ðại Thừa Ðăng ở Ái Châu (Việt
Nam).
Thiền Sư có pháp danh tiếng Phạn là Mạc Ha Dạ Na Bát Ðịa Ký Ba
(Mahayanapradipa); Tàu dịch là Ðại Thừa Ðăng. Lúc nhỏ Thiền Sư cùng với
cha mẹ đến nước Ðỗ Hòa La Bát Ðề
[22]. Nơi đó, Thiền Sư xả tục xuất gia. Sau
đó, Thiền Sư theo đoàn sứ giả Ðàm Tự đến kinh đô. Thiền Sư trú tại chùa Từ
Ân (Mahakaruna), nơi tam tạng pháp sư Huyền Trang đã từng cư ngụ, rồi được
thọ giới cụ túc. Thiền Sư ở lại kinh đô vài năm để duyệt xem kinh thư. Với
lòng tín thành hằng tiềm ẩn trong tâm, Thiền Sư luôn nghĩ đến thánh tích
và ước vọng qua Tây Vức. Song song, Thiền Sư luôn giữ giới đức thanh tịnh.
Sau này, Thiền Sư mang kinh luận và tượng Phật vượt biển Nam Hải để đến
nước Sư Tử. Nơi đó, Thiền Sư chân thành lễ bái răng xá lợi Phật và được
những điềm cảm ứng linh dị. Thiền Sư lại qua nam Thiên Trúc và đến đông
Thiên Trúc, rồi tới nước Ðam Ma Lập Ðề[23].
Vừa vào cửa sông thì chiếc thuyền và những đồ vật quý giá của Thiền Sư đều
bị bọn cướp lấy đi mà chỉ còn mạng sống.
Kế đến, Thiền Sư lên bờ và trú nơi đó hơn mười hai năm để học kinh điển
tiếng Phạn. Thiền Sư thường tụng kinh Duyên Sanh (Nidana) và những bộ kinh
khác, cùng tu phước nghiệp.
Nhân gặp thương buôn và Nghĩa Tịnh, Thiền Sư cùng chúng tôi đến trung
Thiên Trúc. Ðầu tiên chúng tôi đến tu viện Na Lan Ðà, rồi tới Kim Cang
Tọa, qua nước Tỳ Xá Ly (Vaisali), và cuối cùng gặp nước Ca Thi La
(Kusonagara). Thiền Sư lại cùng thiền sư Vô hành chiêm bái tất cả những
thánh tích ở các nơi đó. Mỗi lần gặp thánh tích, Thiền Sư thường ta thán
và nguyện muốn hoằng dương chánh pháp tại bổn quốc. Lúc gần thị tịch,
Thiền Sư thệ rằng nếu đời này chưa hoàn thành chí nguyện thì đời sau sẽ
tiếp tục.
Vì thường nghiên cứu lịch sử, Thiền Sư tìm đến ngôi nhà của Bồ Tát Từ Thị
thường trú ở. Hai lần trong mỗi ngày, Thiền Sư đều thành kính dâng cành
Long Hoa cúng dường.
Thiền Sư sống trong căn phòng mà thầy Ðạo Hy đã từng trú ngụ. Lúc Thiền
Sư đến đó thì thầy Ðạo Hy đã thị tịch, nhưng kinh sách chữ Phạn và chữ Tàu
của Thầy vẫn còn y nguyên. Nhìn thấy những di vật và căn phòng trống trải
này, Thiền Sư rơi lệ, cảm thương cho thầy Ðạo Hy. Xưa kia, họ đã từng đồng
du hành, cùng nhau luận nghị Phật pháp ở Trường An. Song, hiện tại Thiền
Sư không còn gặp lại pháp hữu của mình tại nước người nữa.
Tại thành Câu Thi La, nơi chùa Bát Niết Bàn, Thiền Sư quy tịch.
33.
Sa môn Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman) ở Khương Quốc
[24].
Thuở nhỏ thầy đã từng đi vân du bằng đường bộ qua những bãi sa mạc cát đá
rồi đến kinh thành. Thầy rất sùng tín Phật pháp, và tự giữ giới hạnh rất
tinh nghiêm, cùng luôn hành hạnh từ bi hỷ xả.
Trong niên hiệu Hiển Khánh, thể theo sắc lệnh của nhà vua, Thầy cùng với
đoàn sứ giả qua Tây Vức, rồi đến chùa Ðại Giác. Tại Kim Cang Tòa, Thầy đốt
đèn nến trong bảy ngày đêm để cúng dường đại pháp hội kiết tập kinh điển.
Trong nội viện Bồ Ðề, dưới cành cây Vô Ưu, Thầy khắc thánh tượng Phật cùng
Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara).
Thầy lại trở về nước Tàu và phụng chiếu chỉ của nhà vua, sang Giao Chỉ
tìm dược thảo. Ðến nơi, gặp lúc hạn hán, nhân dân đói kém, nằm chết la
liệt, nên ngày ngày Thầy đem thức ăn nước uống để cứu tế họ. Thầy rơi lệ
xót xa trước tình cảnh đói khát ngặt nghèo của dân chúng, nên được gọi là
'Thường Ðế Bồ Tát (tức vị Bồ Tát thường rơi lệ)'. Thời gian sau, Thầy có
chút bịnh rồi tịch vào năm sáu mươi tuổi.
34-35. Pháp sư Bỉ Ngạn (Nirvana) và Trí Ngạn (Jnanaparin) ở Cao Xương
[25].
Hai thầy đến Trường An và có ý muốn xuất gia. Họ rất nóng lòng qua trung
Thiên Trúc để tận mắt xem sự hoằng hóa của đạo Phật.
Thế nên, cùng với đoàn sứ giả Vương Huyền Khuyếch, họ lên thuyền đi qua
Thiên Trúc. Chẳng may, trên thuyền họ nhuốm bịnh và tịch. Bộ luận Du Già
cùng những bộ kinh luận khác bằng chữ Tàu của họ đều được để lại nước Thất
Lợi Phật Thệ (Srivijaya).
36. Pháp sư
Ðàm Nhuận (Meghasikta) ở Lạc Dương.
Pháp Sư tinh thông chú thuật và huyền lý học, cùng thâm hiểu luật điển và
y minh học (Cikitsa Satra). Pháp Sư có dung mạo đoan chánh và rất cẩn
thận. Pháp Sư thường biểu lộ tính thích cứu giúp muôn loài.
Pháp Sư từ từ du hành sang Giao Chỉ, rồi trú lại nơi đó trong một năm,
sống đời đơn giản và bình dị khiến ai ai cũng khâm phục, tán thán. Pháp Sư
lại lên thuyền đi từ Nam Hải đến Thiên Trúc. Nào ngờ, giữa đường Pháp Sư
thị tịch tại nước Bột-ích[26],
phía bắc nước Ha Lăng, vào lúc ba mươi tuổi.
37. Luận sư Nghĩa Huy (Artharasmi Sastracarya) ở Lạc Dương.
Luận Sư vốn thông minh mẫn tiệp và có lề lối suy tưởng rất thâm sâu. Luận
Sư hoài vọng trở thành một học giả và thích tầm cầu chân lý. Khi nghe qua
Nhiếp Luận (Samparigrha) và Câu Xá Luận (Kosa), Luận Sư liền đạt được
nghĩa lý thậm thâm. Song, vì nghĩa lý trong đó lại có những điểm dị biệt
tương đồng và sai lệch, nên Luận Sư ước muốn tìm kiếm bổn văn chữ Phạn và
chính được nghe những lời bàn luận cùng triết ngôn. Do đó, Luận Sư đến
trung Thiên Trúc, rồi hoài vọng trở về cố hương. Song, tiếc thương thay,
như mạ héo trước khi trưởng thành, Luận Sư tịch tại Lương Gia sau một cơn
bịnh vào lúc hơn ba mươi tuổi.
38-39-40. Ba vị tăng từ
nước Tàu.
Họ theo đường lộ phía bắc đến nước Ô Trường Na
[27] vì nghe có xá lợi xương đầu của Phật
(Phật Ðảnh Cốt) tại đó. Tới nơi, họ lễ bái cúng dường xá lợi. Sau này,
không ai biết được họ sống chết như thế nào. Nghĩa Tịnh chỉ được chư tăng
ở nước đó kể lại sơ qua về họ.
41. Pháp sư Huệ
Luân ở Tân La (Triều Tiên).
Pháp Sư có pháp danh tiếng Phạn là Bát Nhã Bạt Ma (Prajnavarman). Tàu
dịch là Huệ Giáp. Pháp Sư xuất gia lúc còn ở tại bổn quốc và luôn có tâm
nguyện du hành lễ bái thánh tích.
Pháp Sư theo thuyền đến Mân Việt (Phước Kiến), rồi đi bộ đến Trường An.
Nơi đó, nhà vua ban chiếu chỉ bảo Pháp Sư làm thị giả cho thầy Huyền Chiếu
trên cuộc hành trình sang Thiên Trúc. Qua đến nơi đó, Pháp Sư chiêm ngưỡng
lễ bái các thánh tích, rồi trú tại chùa Tín Giả ở nước Am Ma La Bạt khoảng
mười năm. Kế tiếp, đi về hướng đông, Pháp Sư viếng thăm chùa Ðỗ Hóa La
Tăng (Tukhara Sagharama) ở vùng kế cận. Ngôi chùa này nằm về phía bắc
Thiên Trúc và do dân chúng kiến lập để cung ứng chỗ trú ngụ cho chư tăng
trong nước. Ngôi chùa này rất sang trọng và thức ăn cùng vật dụng luôn
luôn được cúng dường đầy ắp, mà không có ngôi chùa nào sánh bằng. Tên của
chùa là Kiền Ðà La Trà (Gandhara Sanda). Pháp Sư trú tại ngôi chùa ấy để
học tiếng Phạn, và sau này rất tinh thông về luận Câu Xá. Lúc Nghĩa Tịnh
đến đó thì Pháp Sư đã được bốn mươi tuổi.
Chư tăng từ phương bắc tới đều thường trú và làm chủ ngôi chùa Kiền Ðà La
Trà. Phía tây chùa Ðại Giác có chùa của người nước Ca Tất Thi. Ngôi chùa
này cũng rất sang trọng và có nhiều chư vị thạc đức, mà chư tăng đều tu
theo phái tiểu thừa. Chư tăng từ phương bắc đến cũng thường trú nơi đó.
Ngôi chùa có tên là Lũ Nõa Triết Lý Ða (Gunacarita); Tàu dịch là Ðức Hạnh
(Punyagati). Cách chùa Ðại Giác về hướng đông bắc hai do tuần có chùa
Khuất Lục Ca (Calukya), do vua nước Khuất Lục Ca ở nam Thiên Trúc xây cất.
Tuy cảnh chùa đơn sơ giản dị nhưng chư tăng trong chùa tinh cần nghiêm trì
giới đức. Ðương thời, vua Nhật Quân (Aditysena) vừa xây xong một ngôi chùa
mới sát bên chùa Khuất Lục Ca. Chư tăng đến từ phương nam thường trú tại
ngôi chùa đó. Mọi nơi đều có chùa chiền, nên chư tăng đồng quốc tịch
thường liên lạc với nhau dễ dàng. Song, Thần Châu (nước Tàu) chẳng có một
ngôi chùa nào cho chư tăng bổn xứ trú ngụ, nên khiến du tăng bị khó khăn
khốn đốn trong việc ăn ở.
Cách tu viện Na Lan Ðà về phía đông, dọc theo hạ lưu sông Hằng có một
ngôi chùa tên là Mật Lật Già Tất Tha Bát Na (Mrgasthapana); Tàu dịch là
Lộc Viên. Gần ngôi chùa này có một ngôi cổ tự hiệu là Chi Na nhưng đã bị
hoang phế và chỉ còn nền móng. Tương truyền, xưa kia đại vương Thất Lợi
Cấp Ða (Sri-Gupta) xây ngôi chùa này cho hơn hai mươi chư tăng Chi Na
(thuộc vùng Quảng Châu) trú ở.
Mạt Ha Chi Na (Devaputra) tức Kinh Sư, Tàu dịch là Thiên Tử. Xưa kia, có
hơn hai mươi tăng sĩ từ nước Tàu đến đó. Họ đi ngang qua vùng Thục Xuyên[28]
và đến Ma Ha Bồ Ðề, cách nhau khoảng năm trăm do tuần, rồi đảnh lễ cúng
dường những nơi thánh tích. Quốc vương nước đó chân thành cung kính tiếp
đón và cúng dường hai mươi bốn thôn làng để cho họ trú ngụ.
Sau này, họ lần lượt thị tịch và đất đai bị người ngoài chia cắt. Khi
Nghĩa Tịnh đến đó, chỉ có khu đất của ba thôn làng là thuộc quyền sở hữu
của chùa Lộc Viên. Chùa Chi Na đã được xây năm trăm năm về trước. Hiện tại
(trong thời của Nghĩa Tịnh), đất đai thuộc quyền sở hữu của vua Ðề Bà Bạt
Ma (Devavarma) ở đông Thiên Trúc. Nhà vua trả ngôi chùa lại cho dân làng
đó để tránh những chi phí dành cho các du tăng từ nước Tàu qua hành hương.
Ông cũng nói:
- Nếu có chư tăng nước Tàu qua đông đảo, Trẩm sẽ trùng hưng ngôi chùa đó
lại. Xây một tổ chim bồ câu rất dễ dàng, nhưng tìm người có phước đức để
trụ nơi đó thật rất khó. Nếu ai có tâm vì muốn cứu độ chúng sanh, mang ích
lợi đến cho muôn loài mà phụng tấu với Trẩm về việc xây lại ngôi chùa đó,
thì việc này chẳng khó chút nào.
Chùa Kim Cang Tòa và Ðại Giác đều do quốc vương nước Sư Tử xây cất. Xưa
kia, chư tăng từ nước Sư Tử qua thường đến đó trú ngụ.
Tu viện Na Lan Ðà cách Ma Ha Bồ Ðề khoảng bảy do tuần, được vua Thất Lợi
Thụ Yết La Ðiệt Ðề (Sakraditya) xây cất cho tỳ kheo Hạt La Xã Bàn ở bắc
Thiên Trúc.
42. Pháp sư Ðạo Lâm ở Kinh
Châu.
Pháp Sư người Giang Lăng ở Kinh Châu. Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là
Thi La Bát Pha (Silaprabha); Tàu dịch là Giới Quang. Pháp Sư xuất gia lúc
ấu niên. Khi thành niên, Pháp Sư đi tham phương tầm sư cầu chân lý, và gom
góp luật tạng để nhiếp hộ thân tâm nên thông đạt tinh tường về luật nghi.
Pháp Sư dành hết mọi thời giờ vào việc tu tập thiền định nên nước tâm
lắng đọng như ao xanh, tự tánh lẳng lặng như trăng soi đáy giếng. Tâm tánh
Pháp Sư rất hiền từ nhân hậu, thanh tịnh, khiêm tốn, chân thật. Thọ nhận
suối nguồn Phật pháp trong trẻo như lưu ly, để khiến đất tâm tĩnh lặng;
dùng nước Phật pháp thanh tịnh để xúc miệng hầu mong trưởng dưỡng tâm
linh. Pháp Sư rất ít ngủ nghỉ, thường ngồi thiền mãi không nằm, và thọ
trai mỗi ngày một buổi.
Qua bao năm đại giáo (Phật pháp) đã được truyền sang đông độ (nước Tàu).
Song, môn thiền định[29]
chỉ vừa khai sáng, và luật nghi ít được chú trọng. Vì vậy, Pháp Sư luôn
nôn nóng qua Thiên Trúc để tầm cầu những bản thảo chánh của kinh luật.
Sau này, Pháp Sư chống tích trượng, lên thuyền của ngoại nhân, đến Nam
Hải, rồi qua Thiên Trúc. Trên đường đi, Pháp Sư vượt qua cột đồng trụ, tới
nước Lang Gia, băng qua nước Ha Lăng và Khỏa Quốc[30]
để đến Thiên Trúc. Quốc vương ở những nơi đó đều tiếp đón Pháp Sư rất nồng
hậu. Sau khi trú ngụ nơi đó hai năm, Pháp Sư đến nước Ðàm Ma Lập Ðế ở đông
Thiên Trúc và trú lại nơi ấy trong ba năm để học tiếng Phạn. Pháp Sư bỏ
những giới luật cũ, thọ nhận những giới luật quan trọng mới và nghiên cứu
tinh tường luật nghi của Nhất Thiết Hũu Bộ (Sarvastisada).
Không những tu học luật tạng mà Pháp Sư lại còn chú tâm nghiên cứu vào
định và huệ. Pháp Sư lại bỏ rất nhiều thời gian để tu học tinh tường Ðàm
Chú Tạng (Dharani Pitaka).
Nơi trung Thiên Trúc, Pháp Sư tận mắt chứng kiến sự hưng thạnh của Phật
pháp. Pháp Sư lại đến chiêm bái và hành lễ tại Kim Cang Tọa cùng cội Bồ Ðề
và những thánh tích khác. Sau này, Pháp Sư tới tu viện Na Lan Ðà, rồi trú
lại nơi đó vài năm để học chân nghĩa của kinh luận Ðại Thừa. Pháp Sư tinh
thông luận Câu Xá, A Tỳ Ðàm. Kế đến, Pháp Sư hành hương tới núi Linh Thứu,
Trượng Lâm Sơn Viên (Yastivanagiri), và Hộc Thọ
[31]. Tại những nơi đó, Pháp Sư vận dụng hết
tâm chân thành kính ngưỡng, chất trực để lễ bái các thánh tích.
Pháp Sư du hành khắp nam Thiên Trúc để tìm thầy Huyền Mô. Pháp Sư lại đi
qua tây Thiên Trúc, tới nước La Trà và ở đó một năm. Khi ấy, Pháp Sư lập
một Linh Ðàn để hành Minh Chú (Vidyadhara Pitaka). Ðôi khi, Pháp Sư giảng
giải về giáo nghĩa của Minh Chú.
Tổng quát, nghĩa của Minh Chú theo tiếng Phạn là Tỳ Ðê Ðà La Tất Cản Gia
(Vidyadhara Pitaka). Tỳ Ðê, được dịch là Minh chú. Ðà La được dịch là Trì.
Tất Cản Gia được dịch là Tạng. Do đó, nghĩa tổng quát là Trì Tạng Minh
Chú. Ðược biết Tạng Chú này có một trăm câu kệ bằng tiếng Phạn, và dịch
qua tiếng Tàu được ba trăm quyển. Hiện tại (thời của ngài Nghĩa Tịnh),
những bản dịch đa phần đã bị thất lạc, chỉ còn một số ít.
Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, ngài A Ly Dã Na Ca Hạt Thọ Na
(Nagarjuna), tức Bồ Tát Long Thọ bảo tồn chân nghĩa tinh yếu của tạng chú
này.
Một trong những vị đệ tử của Bồ Tát Long Thọ là ngài Nan Ðà, vốn là một
vị thông minh học thức uyên bác, đặc biệt chú trọng đến tạng chú này. Tại
tây Thiên Trúc, ngài Nan Ðà chuyên tâm trì tạng chú này trong mười hai năm
và được rất nhiều điềm cảm ứng. Ðến giờ thọ trai, ngài Nan Ðà chỉ việc
tụng tạng chú này thì thức ăn từ trên hư không chợt rơi vào bình bát. Nếu
ước muốn có vật gì, ngài Nan Ðà chỉ tụng tạng chú thì vật đó liền hiện ra
trong bình bát linh dị. Nếu ngài Nan Ðà không tụng tạng chú đó thì bình
bát bèn biến mất.
Sợ rằng tạng chú này sẽ bị thất lạc, ngài Nan Ðà tự kết tập làm mười hai
ngàn câu kệ, mà sau này lại được phân theo các trường phái khác nhau. Mỗi
câu mỗi chữ đều được so sánh rất cẩn thận. Tuy đồng chữ đồng câu nhưng
công dụng và ý nghĩa của mỗi kệ chú lại khác nhau. Ðương thời tạng chú này
được dạy theo lối khẩu truyền, và không ai có thể hiểu hay nhận rõ tầm
quan trọng của tạng chú đó.
Sau này, khi nghiên cứu tường tận sự trước tác của ngài Nan Ðà, luận sư
Trần Na (Dinnaga) rất đỗi ngạc nhiên về công phu thù đặc và tư tưởng cao
siêu của cổ nhân, nên chú trọng vào tạng chú đó. Cảm động, luận sư Trần Na
[32] ta thán:
- Nếu Ngài (Nan Ðà) đã chứng ngộ, liễu đạt được Nhân Minh (Hetu Vidya),
thì Ta có thể so sánh được với vị hiền giả này không? Chẳng những bậc trí
sĩ hiểu rõ tầm vóc kiến thức của Ngài, mà kẻ ngu cũng vẫn nhận ra tri thức
thậm thâm đó.
Tạng chú này chưa được lưu hành rộng rãi ở Ðông Hạ (nước Tàu). Trong lời
dẫn nhập về tạng Minh Chú có nói: "Muốn bay lên trời cỡi xe rồng, cùng
muốn sai sử hàng trăm chư thiên, chỉ cần đọc tụng và bắt ấn thần chú này."
Lúc ở tu viện Na Lan Ðà, Nghĩa Tịnh thường đến đàn tràng và chí tâm tinh
tấn tu hành tạng chú này, nhưng công phu vẫn chưa thành tựu. Với mục đích
chính là muốn hoằng dương tạng chú này đến những kẻ ngoại đạo, nên Nghĩa
Tịnh chép chỉ chép lại bố cục tổng quát.
Từ biên giới vùng phía tây, pháp sư Ðạo Lâm tiến lên bắc Thiên Trúc. Pháp
Sư thăm viếng và chứng kiến mắt sự giáo hóa của đạo pháp ở nước Yết Chập
Di La (Kashmir), rồi vào nước Ðiểu Trường Na để tham vấn về môn thiền định
và tầm cầu kinh Bát Nhã.
Kế đến, Pháp Sư hành hương qua nước Ca Tất Thi, rồi lễ bái cúng dường xá
lợi đảnh nhục kế của Phật (Ðiểu Suất Ni Sa-Usnisa).
Khi Nghĩa Tịnh trở về Nam Hải, đến nước Yết Trà thì nghe những người ở
phương bắc (Hồ nhân) bảo rằng pháp sư Ðạo Lâm đã gặp hai vị tăng người Hồ
(Mông Cổ hay Thổ Nhĩ Kỳ) cùng với thầy Trí Hoằng rồi đồng kết hẹn trở về
cố quốc. Lúc năm mươi tuổi, trên đường trở về bổn quốc, vì bị bọn cướp
ngăn chặn, nên pháp sư Ðạo Lâm phải quày lại bắc Thiên Trúc.
43.
Luật sư Ðàm Quang (Krsnamegharasmi) ở Kinh Châu.
Luật Sư người Giang Lăng ở Kinh Châu. Luật Sư xả tục xuất gia, rời cố
hương, đến kinh sư.
Luật Sư là đệ tử của luật sư họ Thành. Luật Sư (Ðàm Quang) là vị học giả
và có tài hùng biện, cùng trì giới luật rất tinh nghiêm. Luật Sư học hỏi
luận lý cổ điển trong và ngoài nước. Luật Sư rất nhã nhặn và lịch thiệp.
Xuất phát từ Nam Hải, Luật Sư vượt trùng dương để đến Thiên Trúc lễ bái
thánh tích cùng xá lợi Phật. Ðầu tiên, Luật Sư đến tây Thiên Trúc, rồi tới
nước Ha Lợi Kê La
[33] ở đông Thiên Trúc. Từ đó, không ai biết
được Luật Sư du hành đến đâu. Một vị tăng ở nước Ha Lợi Kê La kể rằng có
gặp một tăng sĩ nước Tàu, (tức luật sư Ðàm Quang) tuổi tác độ khoảng năm
mươi; Luật Sư được quốc vương tiếp đón nồng hậu và giao chức trụ trì tại
một ngôi chùa; Luật Sư thường thích tìm kiếm những bản văn chính của kinh
luận và tượng Phật; Luật Sư thường răn nhắc những vị tăng phạm giới ở
trong chùa. Sau này, Luật Sư cảm bịnh và tịch tại nơi đó.
44. Thiền sư
Huệ Mạng (Prajnajnapti) Kinh Châu.
Thiền sư cũng là Giang Lăng ở Kinh Châu. Tánh tình chân thật, tiết tháo,
thông suốt luật nghi, và có hoài bão cao thượng. Thiền Sư học văn thơ cổ
điển trong và ngoài nước. Thiền Sư thường ao ước ngắm xem sông Ni Liên
Thuyền[34],
và ý chí cùng tâm tư luôn hướng về vườn Trúc Uyển. Thiền Sư khởi hành cuộc
vân du hướng đến Chiêm Ba
[35], và phải chịu đựng bao khổ nhọc vì những
cơn giông bão trên biển cả. Ðến cột đồng trụ của Mã Viện, Thiền Sư ngơi
nghỉ nơi đó, rồi trở về nước Tàu.
45. Luật sư
Huyền Quỳ (Mahamarga) ở Nhuận Châu.
Luật Sư là người Giang Ninh ở Nhuận Châu, họ Hồ, thuộc dòng dõi quý tộc.
Luật Sư tinh thông văn học và sử ký. Tánh tình nhân từ, lễ nghĩa, kính
pháp trọng tăng. Với danh thơm và hoài bão lớn, Luật Sư xuất gia từ thuở
ấu niên. Khi trưởng thành, Luật Sư được mọi người cung kính và tôn trọng.
Luật Sư tiến bộ và thành tựu trong việc tu học. Không những am tường luật
tạng mà Luật Sư còn tinh thông thiền định. Luật Sư giữ giới luật tinh
nghiêm mà ít có ai hành được. Luật Sư luôn tham dự những buổi luận nghị về
kinh điển và đặc biệt chú tâm vào huyền nghĩa. Nhờ có bẩm chất học giả,
trí huệ và tài năng thư pháp của Luật Sư rất tuyệt vời. Luật Sư chỉ thường
dùng ba bộ y ca sa của sa môn.
Mỗi lần bước vào chánh điện, Luật Sư thường bỏ dép ra, nhưng lại mang vào
khi đi đường. Luật Sư rất cẩn thận và tỉ mỉ mà chẳng màng đến những tiếng
cười đùa của thế nhơn. Không bao giờ đặt lưng trên chiếu, Luật Sư luôn
luôn ngồi thiền quán. Dầu thường đi khất thực, Luật Sư cũng không nhận
nhiều thức ăn, và luôn tránh thọ thực tại các phòng ăn lớn.
Nhiều người thích mang đôi giày rơm. Họ cũng biết nghệ thuật làm giày.
Song, giày rơm rách nát không thể chừng mực. Trên đường vân du, Luật Sư
luôn mang đôi giày rơm rách tả tơi. Thật là khổ nhọc!
Luật Sư luôn có đồng ý kiến với các pháp hữu, nhưng lại có lý giải riêng;
có thể khởi cơn giông tố trong nguồn nước sông tĩnh lặng; không độc đoán
hay thỏa thuận dễ dàng như người thường, thường có tâm tính hướng về chân
lý. Làm thế nào mà Luật Sư hòa quang đồng trần được với những kẻ bình
thường đang sống trong tối tăm với tâm tánh chấp trước nặng nề!
Luật Sư du hành từ nơi này sang nơi khác rồi tới Ðan Dương. Nơi đó, Luật
Sư đồng giao kiết với một người nọ là sẽ qua Thiên Trúc. Sau đó, Luật Sư
rơi lệ tạm biệt người anh và thân hữu ở miền nam, vì hoài vọng tầm cầu
Phật pháp để hoằng dương chánh pháp, một tôn giáo đã ngự trị cuộc đời và
tâm linh của mình.
Với mục đích đó, Luật Sư đến Quảng Châu, nhưng chẳng may bị bịnh sưng
phổi. Cảm thấy bịnh tình trói buộc khiến không thể tiến bước, Luật Sư đành
thất vọng não nề trở về bổn xứ Ngô Sở vào năm hai mươi lăm tuổi.
Sau này, một vị tăng tên là Triết, đến Thiên Trúc và thuật lại rằng luật
Sư Huyền Quỳ, một danh tăng, đã cảm bịnh mà thị tịch.
Thật là điều bất hạnh! Cuộc đời của Luật Sư minh chứng rằng đạt được mục
tiêu không phải là chuyện dễ. Thương thay! Ước vọng chân thành tầm cầu
chân lý thể pháp, vượt ngoài âm dương, và mang giáo lý Phật đà về bổn xứ
của Luật Sư đã bị tiêu tan như bọt sóng cồn vì nghiệp chướng bịnh hoạn.
Thế nên, tôi (Nghĩa Tịnh) viết kệ tán thán:
"Thạc nhân đã tịch
Ai hay kế thừa
Rủi thay đoản mạng
Ô hởi thương thay!
Hoài bão cao vọng
Bị tan từng mãnh
Hoa nước chóng tàn
Liễu giải lý dễ
Dụng công hành khó
Thuở còn niên thiếu
Ðức nghiệp tròn đầy
Truyền đăng hậu thế
Ước nguyện cao tột
Tráng chí hùng dũng."
Vì muốn giữ gương sáng về cuộc đời tu hành của Luật Sư nên tôi (Nghĩa
Tịnh) viết lại tiểu sử để ngàn thu nhớ mãi.
Ðể tưởng nhớ đến Luật Sư, tôi (Nghĩa Tịnh) viết thêm một bài kệ:
"Tâm hướng về ngôi Phạm vũ
Hồn mơ bay qua Tiên Châu
Sầu trai trẻ lâm bịnh hoạn
Không cùng bạn sang Tây Thiên
Hoài vọng tan như cát bụi
Lá đã rơi đành về cội!
Chí nguyện xưa lại bất thành
Một mai gặp duyên lành đến
Nương bình bát tới Tây Thiên
Quán xem mạch pháp lưu truyền."
Vào niên hiệu Hàm Hanh (670-673), trú tại Tây Kinh một năm, tôi (Nghĩa
Tịnh) thường nghe giảng và tu học kinh luận. Ðương thời, tôi cùng với thầy
Xứ Nhất ở Bình Bộ, luật sư Hoằng Huy ở Lai Châu, và ba đại đức đồng hẹn
nhau đến lễ bái núi Linh Thứu và hướng tâm về cây Giác Thọ (tức cội Bồ
Ðề).
Vì mẹ già và nhớ đến Bình Châu, nên thầy Xứ Nhất phải quày về cố hương.
Ngược lại, luật sư Hoằng Huy khi gặp thầy Huyền Chiêm tại Giang Ninh bèn
hướng tâm về cõi An Dưỡng (tây phương Cực Lạc). Huyền Quỳ cùng đi với
Nghĩa Tịnh đến Quảng Phủ, nhưng vì bịnh nên không thể tiến bước. Một mình
Nghĩa Tịnh khởi hành cuộc vân du cùng với tiểu tăng Thiện hạnh.
Chia tay với những pháp lữ tại đất Thần Châu, Nghĩa Tịnh không tìm được
một pháp lữ trên đất Thiên Trúc. Ðương thời, nếu Nghĩa Tịnh có chút do dự
(đi Thiên Trúc) thì hoài vọng chắc không thể hoàn thành. Buồn vì cô đơn du
hành, Nghĩa Tịnh viết bài kệ:
"Vượt bao trùng dưong muôn ngàn dặm
Dây sầu khuấy động tâm trăm mảnh
Thân hình sáu thước, bóng khắc khoải
Biên thùy Thiên Trúc, chẳng cùng ai
Bèn tự giải nổi ưu sầu, bảo:
Thượng tướng chống quân xâm lăng
Chí không dời, sĩ phu nào bằng
Nếu như than tiếc vì mạng ngắn
Sao được mãn nguyện sống Trường Trăng!"
Niên hiệu Hàm Hanh thứ ba (672), tôi an cư kiết hạ tại Dương Phủ. Ðầu mùa
thu, tôi chợt gặp sứ giả triều đình là Phùng Hiếu Thuyên ở Cung Châu. Mông
ơn đàn việt sứ giả Phùng Hiếu Thuyên, tôi đến Quảng Châu, rồi hẹn với chủ
thuyền người Ba Tư[36]
ngày lên thuyền xuôi về nam. Tôi lại được sứ quân Phùng Hiếu Ðản, Phùng
Hiếu Chẩn, em của Phùng Hiếu Thuyên, và phu nhân họ Ninh họ Bành cùng
những vị khác tặng rất nhiều phẩm vật. Trước khi khởi hành, vì sợ tôi sẽ
bị đói khát hay gặp nhiều sóng gió trên biển cả và hiểm nạn trên đất liền,
nên toàn gia đình cùng quyến thuộc đều tranh nhau cúng dường rất nhiều
thức ăn vật dụng. Tôi cảm thấy lòng thành lo lắng của họ như cha mẹ thương
con côi cút, thường cung cấp những nhu yếu phẩm. Nhờ những vật dụng họ
cúng dường mà tôi có thể hành hương sang thắng xứ (Thiên Trúc).
Lòng thành của gia quyến sứ quân họ Phùng đã khích lệ tôi lên đường hành
hương rất mãnh liệt. Chư tăng và kẻ tục ở vùng Lãnh Nam đều quyến luyến
rơi lệ khi tôi từ biệt. Ngay cả các học giả ở phương bắc cũng ưu sầu vì
không biết ngày nào sẽ tương hội.
Vào tháng mười một, tôi bắt đầu cuộc hành trình, hướng về phía Dục Chẩn,
và bỏ lại Phiên Ngu (Quảng Ðông) đằng sau lưng. Ðôi khi, tôi hướng tâm đến
Lộc Viên và vọng mong lên núi Kê Túc để lễ bái.
Bấy giờ, cơn gió mùa bắt đầu thổi đến. Với đôi dây thừng cột trên buồm
thuyền cao trăm thước, thuyền tiến về hướng Chu Phương. Rời sao Ky, hai
thuyền buồm bị gió thổi bay mất. Thuyền chạy trên những làn sóng cao ngất
như núi. Hợp với dòng suối vịnh, những đợt sóng triều dâng cao tận trời
xanh như mây đen vần vũ.
Gần hai mươi ngày, thuyền đến nước Phật Thệ. Nghĩa Tịnh lên bờ, ở lại nơi
đó sáu tháng để học Thanh Minh (ngôn ngữ). Ðược sự giúp đỡ của quốc vương,
tôi đến nước Mạt La Du (Malayu), tức nước Thất Lợi Phật Thệ (Sribhoga) và
trú tại đó hai tháng, rồi đến nước Yết Trà.
Ðến tháng chạp, tôi lên vương thuyền (thuyền của hoàng gia) để đi đông
Thiên Trúc. Cách nước Yết Trà khoảng mười ngày, thuyền đến nước của người
Khỏa Thân (Insula Nudorum). Nhìn về hướng đông bãi biển, chỉ thấy toàn là
những cây dừa xiêm, cùng một rừng dây trái trầu, trông rất đẹp mắt. Thuyền
vừa đến bãi biển thì thổ dân chèo trăm chiếc xuồng nhỏ. Họ đem dầu, chuối,
cùng những đồ vật làm bằng tre mía ra để trao đổi hàng hóa.
Vật họ cần nhất là sắt. Một mảnh sắt dài hai lóng tay có thể đổi lấy năm
hay mười trái dừa xiêm. Nơi đó, đàn ông thì trần trụi còn đàn bà thì che
thân bằng lá. Thương nhân muốn cho áo quần nhưng họ đều khoát tay từ chối.
Ðược biết, nước này nằm thẳng về hướng tây nam của vùng Thục Xuyên. Nơi
đây không bao giờ sản xuất thiếc sắt. Vàng bạc rất ít thấy. Nhu yếu phẩm
chính là dừa và khoai, mà lúa gạo lại rất hiếm. Họ xem thiếc sắt là vật
trân quý nhất, và được gọi là Lô Ha.
Nói chung, dung sắc của thổ dân không đen đúa và có vóc hình tầm trung
bình. Nghệ thuật làm giỏ bằng cây mía của họ rất tinh vi mà không nơi đâu
sánh bằng. Nếu có ai từ chối trao đổi hàng hóa, họ sẽ bắn cung tên tẩm
độc. Ai bị tên bắn thì mạng không còn.
Thuyền chạy khoảng nửa tháng về hướng đông bắc thì đến nước Ðam Ma Lập Ðề
(Tamralipti), tức biên giới phía nam của đông Thiên Trúc. Cách tu viện Na
Lan Ðà và Ma Ha Bồ Ðề khoảng sáu mươi do tuần. Tôi gặp ngài Ðại Thừa Ðăng
(Mahayana) tại nơi ấy lần đầu tiên. Nơi đó, tôi học tiếng Phạn và thanh
văn luận (Vyakarana).
Kế đến tôi cùng với ngài Ðại Thừa Ðăng lên đường đi thẳng về hướng tây,
và đồng hành với một trăm thương nhân đến trung Thiên Trúc. Cách Ma Ha Bồ
Ðề mười ngày đường, chúng tôi băng qua một ngọn núi cao và đầm lầy. Ðường
xá rất nguy hiểm và gồ ghề. Ði qua nơi đó phải có người đồng hành chứ
chẳng nên đi một mình.
Trên đường đi, tôi mệt lã người vì những cơn bịnh sốt. Dầu muốn nhưng tôi
không thể đi kịp theo đoàn thương nhân. Song, tôi vẫn tiến bước. Song, vì
quá mệt mõi, nên trong năm dặm đường mà tôi nghỉ ngơi cả trăm lần. Ðương
thời, đồng hành có hơn hai mươi vị tăng ở tu viện Na Lan Ðà. Ngài Ðại Thừa
Ðăng đã đi về phía trước, và bỏ một mình tôi trên con lộ hiểm nguy. Hoàng
hôn vừa che trùm mặt đất thì bọn cướp liền xuống núi, vây quanh tôi.
Giương cung tên, chúng trương mắt nhìn và chửi rủa. Ðầu tiên chúng lột
thượng y, rồi đến y phục dưới thân, và ngay cả dây nịt trên thân trần
truồng cũng bị lột luôn.
Bấy giờ, tôi cảm thấy đời mình đã tận và sẽ không còn nhìn lại thế gian.
Nếu bị tên bắn hay giáo đâm thì niềm hy vọng hành hương lễ bái thánh tích
tan tành như cát bụi. Theo lời đồn đãi của dân chúng nước đó thì bọn cướp
nếu bắt được người nào có sắc diện hồng hào tuấn tú thì sẽ đem cúng tế quỷ
thần. Nhớ lại những lời này khiến tôi rùng mình, càng sợ hãi thêm. May
thay, tôi trốn thoát, rồi chạy vào một cái đầm nước. Nơi đó, tôi trét bùn
cùng lấy lá che trùm lên thân, rồi chống gậy, men theo con đường cũ.
Màn đêm bao phủ khắp nơi. Lữ quán lại cách đó rất xa. Vào canh hai, tôi
gặp lại các pháp lữ đồng hành nhờ nghe tiếng gọi của ngài Ðại Thừa Ðăng từ
bên ngoài thôn làng. Vừa gặp lại nhau, ngài Ðại Thừa Ðăng liền cho tôi y
phục để mặc, rồi dẫn tôi tới một bồn nước để tắm gội trước khi vào làng.
Từ nơi đó, chúng tôi đi khoảng vài ngày thì đến tu viện Na Lan Ðà. Nơi
đó, chúng tôi lễ tháp Căn Bổn (Mulagandhakuti). Kế đến, tôi hành hương lên
núi Linh Thứu và thấy một đống y phục được cất gọn gàng bên trong. Thứ
đến, tôi tới chùa Ðại Giác, lễ chân dung tượng Phật.
Ðược chư tăng và kẻ tục ở Sơn Ðông cúng dường một mảnh lụa dầy nhuyễn,
tôi bèn may y ca sa đúng theo lượng của Như Lai rồi thành kính cúng dường
lên thánh tượng. Luật sư Huyền ở Bộc Châu đã đưa cho tôi hàng trăm ngàn
cây bảo cái để cúng dường đức Như Lai. Tôi thay mặt thiền sư An Ðạo lễ bái
tượng Phật ở cội Bồ Ðề thể theo lời yêu cầu thuở xưa. Với lòng thành kính
tột bậc và tâm bất phân biệt, năm vóc gieo xuống đất, tôi lễ bái thánh
tượng Phật đà. Vì muốn báo đền bốn trọng ân[37]
ở đất Ðông Hạ (nước Tàu) cùng hóa độ pháp giới hàm linh, tôi nguyện được
vào sơ hội Long Hoa, gặp đức Thế Tôn Từ Thị, để khế hợp chân tông, đắc trí
vô sanh.
Sau đó, tôi lễ bái các thánh tích khác, rồi đi ngang qua Phương Trượng (ở
nước Khuất Câu Thi). Hành hương đến đâu, tôi đều vận tâm chân thành mà lễ
bái. Tôi lại vào Lộc Viên, leo lên núi Kê Túc, rồi trú lại tu viện Na Lan
Ðà hơn mười năm để tầm cầu gom góp kinh điển.
Thời gian sau, tôi đi theo tuyến đường cũ để trở về cố hương. Trước khi
đến nước Ðàm Ma Lập Ðề, tôi lại gặp một bọn cướp, nhưng thoát nạn đao
kiếm, mà được toàn mạng trong lằn tơ kẻ tóc.
Từ hải cảng, tôi theo thuyền đến nước Yết Trà, mang theo hơn năm trăm
ngàn ba tạng kinh điển bằng tiếng Phạn, mà trơng đó có hơn một ngàn quyển
kinh luận đã được phiên dịch ra tiếng Tàu. Trên đường đi, tôi ghé qua
thành phố đông dân cư ở nước Thất Lợi Phật Thệ.
46. Pháp sư Thiện Hạnh ở
Tấn Châu.
Pháp Sư xuất gia từ thuở ấu niên, rồi rời quê quán, đến Ðông Sơn tầm thầy
học đạo. Lúc trưởng thành, Pháp Sư học luật nghi và thích tu theo Minh Chú
(Vidyamantra). Tánh tình nhu hòa, điềm đạm cùng giản dị. Kính tôi (Nghĩa
Tịnh) làm Thầy và lại theo tôi qua nước Thất Lợi Phật Thệ. Chẳng may, tại
nơi đó, Pháp Sư bị bịnh ung thư nên phải theo một chiếc thuyền nhỏ trở về
nước Tàu vào lúc khoảng hơn bốn mươi tuổi.
47. Pháp sư Linh Vận ở
Nhưỡng Dương.
Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là Bát Nhã Ðề Bà (Prajnadeva). Xuất gia
từ thuở ấu niên, Pháp Sư có chí khí và nghị lực kiên cường hơn người. Với
ước muốn truy tầm thánh tích, Pháp Sư cùng với vị tăng họ Triết từ Nam Hải
qua Thiên Trúc.
Pháp Sư học tinh thông tiếng Phạn và lấy sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh
làm bổn hoài. Do đó, đi đến đâu, Pháp Sư đều được quốc vương dân chúng
kính trọng lễ bái.
Khi đến tu viện Na Lan Ðà, dưới cội Bồ Ðề, Pháp Sư vẽ lại chân dung của
đức Từ Thị Di Lặc. Bức tượng này được Pháp Sư họa lại rất khéo léo và tỉ
mỉ theo đúng kích thước khuôn mẫu của bức tượng chánh, với những đường nét
uyển chuyển tuyệt vời mà các họa sĩ danh tiếng cũng không thể sánh bì. Sau
này, trở về cố hương Pháp Sư vận dụng hết mọi tài đức để hoằng dương Phật
pháp. Với tài năng thiên tánh sẳn có, Pháp Sư phiên dịch Thánh điển (ba
tạng kinh điển) rất chân thực, gọn gàng, trong sáng dễ hiểu.
48. Thiền sư Tăng
Triết ở Phong Châu.
Thuở ấu thơ, Thiền Sư rất mực ngay thẳng, chân thực, đứng đắn; tánh tình
thâm trầm, và sớm thích cửa huyền môn (Phật pháp); cơ giải ngộ rất vi
huyền, đàm luận sắc xảo lanh lợi, tài hùng biện hơn người, thường ăn nói
cùng hành động như đang ở trong đám đông.
ThIền Sư nhiệt thành nghiên cứu thâm sâu về tạng luật và tinh thông lý lẽ
thiền môn. Thiền Sư cũng từng bảo rằng hai môn luận Trung Quán và Bách
Pháp tối cực quan trọng và có mối liên hệ với luận của hai ông Trang và
Lưu.
Vì luôn ngưỡng mộ thánh tích, Thiền Sư theo thuyền đi Thiên Trúc. Tới
nơi, Thiền Sư thường tùy duyên mà đi khất thực.
Hành hương lễ bái các thánh tích ở những vương quốc xung quanh xong,
Thiền Sư tiến về phía đông Thiên Trúc, đến nước Tam Ma Ðàn Tra (Samatata).
Nơi đó, quốc vương Hạt La Xã Bạt Thâu, thâm tín ngôi Tam Bảo và là một đại
cư sĩ.
Lòng nhiệt thành thâm tín Phật pháp của thiền Sư thật xưa nay rất hiếm
thấy. Mõi ngày, Thiền Sư vừa tự tay nắn trăm ngàn tượng Phật nhỏ, y theo
hình dung của đức Thế Tôn, cùng tụng trăm ngàn câu kệ trong kinh Ðại Bát
Nhã. Thiền Sư dùng trăm ngàn nhành hoa tươi, chất cao bằng đầu người, để
cúng dường những tôn tượng đó.
Vào những dịp đại lễ, thánh tượng Quán Âm được khiêng đi diễn hành trước
xa giá của hoàng gia. Cờ xí, tràng hoa, và tràng phan bay phất phơ trong
gió cùng âm thanh của chuông trống kèn nhạc vang rền khắp hư không. Chư
tăng cung thỉnh tượng Phật dẫn đầu đoàn hành lễ và theo sau là quốc vương,
quần thần cùng dân chúng. Trong vương thành, hơn bốn ngàn tăng ni được
quốc vương cúng dường thức ăn.
Mỗi ngày, sứ giả triều đình được phái vào các ngôi chùa, đến từng phòng,
chấp tay thỉnh vấn về cuộc sống của chư tăng. Thay mặt quốc vương, họ tác
bạch với vị tăng trụ trì:
- Ðại Vương xin vấn an quý Ðại Ðức có ngủ được an lành chăng?
Tăng đáp lễ:
- Xin nguyện Ðại Vương không bịnh hoạn, sống trường thọ, và quốc gia thái
bình, nhân dân an lạc.
Sứ giả lại báo cáo và bàn luận về những việc quốc sự.
Chư đại đức Thiên Trúc bác học, thông minh, trí huệ quảng đại, tài cán
siêu quần. Chư tăng thuộc mười tám tông phái Hữu Chúng Bộ đều tinh thông
liễu giải đại luận ngũ minh. Từ mọi góc trời, các ngài đồng tụ hội tại
vương thành. Lòng nhân hậu từ bi của quốc vương vang xa khắp mọi miền nên
mới vân tập số đông chư đại đức bác học như thế. Quốc vương nước này thật
là một viên ngọc trân quý giữa các quốc vương xưa nay.
Thiền sư Tăng Triết trú ở chùa Vương Tự (Raja-vihara) và được quốc vương
cung kính lễ bái rất đặc biệt. Nơi đó, Thiền Sư học tiếng Phạn ngày một
tiến bộ.
Nghĩa Tịnh không gặp được Thiền Sư. Khi viếng thăm chùa Vương Tự, Nghĩa
Tịnh được chư tăng bổn tự cho biết là Thiền Sư đã từng trú ở đó vào lúc
trên bốn mươi tuổi.
49. Huyền Du, đệ tử của thiền sư Tăng Triết, đến từ nước Cao Ly.
Huyền Du theo tôn sư đến nước Sư Tử để thọ giới cụ túc và trú lại nơi đó
suốt cuộc đời.
50. Luật sư
Trí Hoằng (Mahaprajna) ở Lạc Dương.
Luật Sư vốn là cháu của sứ quân Vương Huyền Sách, một người đã từng phụng
mạng nhà vua dẫn đoàn sứ giả sang Tây Vức. Từ thuở nhỏ, Luật Sư đã sớm
hiểu rõ sự vô thường của thế gian. Luật Sư rất khinh khi những kẻ hào phú
ăn không ngồi rồi, vô tích sự, mà thích xả bỏ dục lạc thế gian, cùng xa
lánh thế tình. Tánh tình của Luật Sư hòa nhã, nhưng chẳng hề động tâm vì
lời vuốt ve nịnh bợ.
Xuất gia xong, Luật Sư đến núi Thiếu Lâm, và chỉ ăn trái cây để sinh sống
tu hành. Luật Sư thường tụng điển, và kiêng kỵ những nơi ồn náo, cùng
thích trú những chỗ tịch tĩnh lặng lẽ như chư thánh tăng. Thư pháp của
Luật Sư rất tuyệt vời.
Thứ đến, Luật Sư rời Bát Thủy, tới Tam Ngô, xả bỏ tất cả, mặc y ca sa,
theo giáo thọ sư là Soa Thiền (Dhyanarasmi), hành hạnh khất sĩ. Tuy muốn
tiếp thừa trí huệ của tôn sư nhưng chưa thành tụu. Luật Sư lại đến Kỳ
Châu, lễ bái thiền sư họ Nhẫn và được chỉ dẫn cách thanh tịnh thân tâm,
nhưng vẫn chưa liễu ngộ tâm tánh.
Kế đến, Luật Sư vượt sông Tương, băng qua núi Hành Lĩnh, vào chùa Quế
Lâm, rồi ẩn mình dưỡng tâm tu hành nơi rừng sâu núi thẳm trong nhiều năm.
Nơi đó, Luật Sư y chỉ theo thiền sư họ Tịch. Ngắm nhìn vẽ thanh tú hùng vĩ
của núi sông rừng nội, Luật Sư bèn lấy bút viết kệ diễn đạt cảm giác về
khung cảnh thiên nhiên ở xung quanh cùng tâm tư hoài vọng của người viễn
xứ.
Nương nhờ các bậc thạc đức ở vùng Tam Ngô, Luật Sư đạt được pháp ích sung
mãn. Lại nữa, nhờ các vị thức giả ở Cửu Giang chỉ điểm mà Luật Sư thông
suốt được diệu lý của Phật pháp.
Luật Sư luôn nguyện ước sang Thiên Trúc để lễ bái các thánh tích. Dịp may
đến, vừa gặp mặt nhau thì Luật Sư cùng thiền sư Vô Hành đồng khế ước du
hành sang Tây Vức. Ðến Hợp Phố, Luật Sư lên thuyền vượt trùng dương. Vì
thời tiết xấu, gió to sóng lớn, Luật Sư phải ở lại Thượng Cảnh, rồi tiếp
tục cuộc hành trình tới Giao Châu, và an cư kiết hạ tại nơi đó. Thứ đến,
tại hải cảng, Luật Sư lên thuyền đến nước Thất Lợi Phật Thệ (Sri-bhoga) ở
Nam Hải. Kinh nghiệm về chuyến du hành được tóm tắt ghi lại trong quyển
nhật ký của thiền sư Vô Hành.
Qua Thiên Trúc, đến chùa Ðại Giác, Luật Sư trú tại đó trong hai năm để
chiêm ngưỡng đảnh lễ tôn nhan của đức Từ Phụ, cùng học và đọc tụng kinh
điển tiếng Phạn, được tiến bộ rất nhiều. Sau khi học Thanh Luận (Sabda
Sastra), Luật Sư thông thạo hiểu rõ nghĩa lý trong kinh tiếng Phạn. Luật
Sư cũng học luật nghi, tập đối pháp, liễu giải Câu Xá (Kosa) cùng Thiện
Nhân Minh (Hetuvidya).
Luật Sư học giáo nghĩa đại thừa tại tu viện Na Lan Ðà và giáo lý tiểu
thừa tại chùa Tín Giả. Là một danh tăng, Luật Sư nghiêm trì giới luật tinh
mật. Là một học tăng, Luật Sư chuyên cần tinh tấn tu học, không để lãng
phí giây phút nào. Kinh luật do luật sư Ðức Quang (Punyaprabha) chú giải,
Luật Sư đều nghiên cứu kỹ càng. Nghe lời kinh luận nào, Luật Sư đều có khả
năng dịch ra tiếng Tàu ngay lập tức. Là một nhà du hành, Luật Sư không
mang theo gì hết, trừ quyển sổ tay. Luật Sư thường ngồi tọa thiền, ít muốn
biết đủ, thanh tịnh, giản dị chân thật, kính bậc thượng tọa, nhún nhường
người hạ tọa.
Luật Sư hành hương đến núi Linh Thứu (Vulture's Peak) gần thành Vương Xá
(Rajagrha), vườn Lộc Uyển (Mrgadava), Thiên Giai (Deva Sopana), tịnh xá
Trúc Lâm (Mangogrove vihara), Sơn Huyệt.
Ước mơ dài lâu nay đã được thành tựu. Mọi nơi, Luật Sư đều tỏ lòng chân
thành cung kính lễ bái. Luật Sư thường cúng dường y ca sa và bình bát của
mình cúng dường cho những vị tăng khác.
Ðương thời, tại tu viện Na Lan Ðà, thức ăn thượng hảo luôn được cúng
dường cho chư tăng thường trú. Trong thành Vương Xá chư tăng đều được cung
cấp tất cả vật dụng cần thiết.
Trú tại trung Thiên Trúc sau tám năm, Luật Sư tới nước Yết Chập Di La
(Kashmir) ở miền bắc, rồi sống ở nơi đó như quê hương của mình. Nghe đâu
thầy Lâm Công là vị pháp hữu thân mật của Luật Sư. Từ đó, không ai biết
Luật Sư tu hành tại nơi nào. Song, Luật Sư rất có công trong việc phiên
dịch kinh điển từ chữ Phạn qua chữ Tàu.
51. Thiền sư Vô Hành ở
Kinh Châu.
Thiền Sư là người Giang Lăng ở Kinh Châu. Pháp danh tiếng Phạn của Thiền
Sư là Bát Nhã Ðề Ba (Prajnadeva). Tàu dịch là Huệ Thiên. Tánh tình của
Thiền Sư hòa nhã, điệu bộ khiêm nhường, bẩm chất nhân đức, hoài bão cao
xa, tâm tư hiếu học; thuở niên thiếu thường đến thư viện đọc sách. Năm hai
mươi tuổi, thời điểm quan trọng trong cuộc đời, Thiền Sư được nhà vua ban
danh hiệu Kim Mã Môn[38].
Thiền Sư nghiên cứu thâm sâu cổ điển của trăm nhà triết học cùng Tam
Kinh. Vị tăng bác học tài ba này được nổi danh như là một bậc thức giả
trong toàn châu thành.
Luồng kiến thức thanh tịnh của Thiền Sư tỏa sáng khắp cả vùng Tam Giang
và Thất Trạch. Kiến thức của Thiền Sư như thác nguồn đổ xuống các dòng
sông. Thiền Sư thừa hưởng quả tốt của nghiệp lành trong đời quá khứ.
Thiền Sư rất ngưỡng mộ Phật pháp, cánh cửa huyền khai mở nguồn giác.
May mắn thay, được năm vị danh tăng khai đạo, Thiền Sư tiếp tục tầm cầu
tri thức. Trú tại đạo tràng Ðẳng Giới, Thiền Sư bắt đầu tu học Phật pháp
với các pháp lữ khác. Thiền Sư y chỉ theo pháp sư Huệ Anh, trụ trì chùa
Ðại Phước Ðiền, làm bậc Giáo Thọ Sư (hay Thân Giáo Sư Hòa
Thượng-Upadhyaya). Thiền Sư cũng là đệ tử bậc thượng thủ của vị A Xà Lê
Kiết Tạng (Sriganha).
Mỗi thế hệ được đánh dấu bởi những bậc vĩ nhân.
Thiền Sư chuyên tâm nơi lâu đài Bát Nhã, ý chí cư trú tại thiền môn, xả
bỏ thế tình, vãng lai non nước. Mỗi khi đàm luận về lý huyền, Thiền Sư
thường xiển khai những lời triết ngôn. Tuy là kẻ hậu sanh, nhưng danh đức
vượt bậc tiền bối.
Lúc tấn đàn thọ giới cụ túc cùng với hơn hai mươi vị pháp hữu, Thiền Sư
đứng đầu làm bậc thượng thủ mà không ai có thể sánh bằng.
Trong hang sâu, Thiền Sư ẩn cư tụng kinh Pháp Hoa Diệu Ðiển
(Saddharma-Pundarika) cùng những bộ kinh Ðại Thừa khác, mà chưa đầy một
tháng đã xong bảy quyển.
Nhớ câu: "Rọ tre để bắt cá. Cầu lý lẽ để tầm chân lý", Thiền Sư bèn tham
phương tầm danh sư thần khải để bước vào cửa định môn, hầu mong đoạn phiền
não, trừ nghiệp hoặc, đắc giải thoát. Vì vậy, Thiền Sư chống tích trượng
đến Cửu Giang, qua Tam Việt, vượt Hành Nhạc, tới Kim Lăng. Trên núi Sùng
Hoa, Thiền Sư ẩn cư tụng kinh tu hành.
Thiền Sư lại vân du khắp núi non ở phương bắc, với mục đích tầm cầu thiện
tri thức cùng bậc trí giả tinh thông liễu triệt thiền môn để vào định môn,
phát minh tâm địa.
Vượt núi non hiểm trở ở phương tây, Thiền Sư đến miền đông y chỉ theo
luật sư Ðạo Tuyên, bậc thạc đức nổi danh đương thời. Thiền Sư lại lắng
nghe những lời đàm luận về kinh luận, cùng bàn thảo về những lễ nghi quy
tắc xưa nay. Trí huệ của Thiền Sư thâm sâu như biển cả, cao ngất như núi
ngàn.
Sau này, Thiền Sư cùng với ngài Trí Hoằng theo thuyền thuận giớ đến nước
Thất Lợi Phật Thệ chỉ trong vòng một tháng. Quốc vương tiếp đãi trọng hậu,
rải hoa và gạo vàng cung nghinh, tứ sự cúng dường. Quốc vương kính trọng
Thiền Sư như bậc thượng khách của hoàng gia. Biết Thiền Sư từ nước Tàu
đến, quốc vương lại càng khâm kính.
Sau này, trong mười lăm ngày, Thiền Sư theo thuyền của hoàng gia, đến
châu Mạc La Du, rồi tới nước Yết Trà vào nửa tháng sau. Cuối mùa đông,
Thiền Sư lại lên thuyền đến nước Na Già Bát Ðản Na
[39] trong vòng một tháng. Từ đó, thêm hai
ngày, Thiền Sư đáp thuyền đến nước Sư Tử, đảnh lễ cúng dường xá lợi răng
Phật. Khởi hành hướng về phía đông bắc từ nước Sư Tử, Thiền Sư theo thuyền
đến nước Ha Lợi Kế La (Harikela) ở miền đông của đông Thiên Trúc, tức là
một phần đất của Nam Thiệm Bộ Châu (Jambudvipa), trong vòng một tháng. Sau
một năm trú tại đó, cùng với thầy Trí Hoằng, Thiền Sư từ từ đi về miền
đông Thiên Trúc. Tu viện Na Lan Ðà cách nơi đó hơn một trăm do tuần. Nghỉ
ngơi chốc lát, Thiền Sư lại tiến đến chùa Ðại Giác. Không những được quốc
vương nước đó cung kính nghinh đón, sắp đặt chỗ ngơi nghỉ trong chùa mà
Thiền Sư lại còn được ban chức trụ trì, một chức vị danh dự và hiếm có
nhất ở Tây Vức. Song, thầy trụ trì chỉ có quyền cho phép khách tăng trú ở
thọ thực hay không thôi.
Kế đến, Thiền Sư tới tu viện Na Lan Ðà, nghe luận bàn về Du Già, học
Trung Quán, cùng nghiên cứu tường tận luận Câu Xá, và thâm cầu luật điển.
Thiền Sư lại đến chùa Ðê Yết Trà (Tiladhaka), cách tu viện Na Lan Ðà hai
do tuần về hướng tây. Nơi đó, có chư đại đức thiện tri thức giảng giải
luận Nhân Minh (Hetuvidya). Ngồi trên chiếu tre tỏa hương trầm, Thiền Sư
thường đọc những tác phẩm luận giải của các ngài Trần Na (Dinnaga) và Pháp
Xưng
[40]. Có lẽ Thiền Sư đã mở được chìa khóa để
bước vào cửa u huyền.
Tâm tình vượt ngoài thế tục, ít muốn biết đủ, Thiền Sư thường mang bình
bát đi khất thực. Mỗi khi rảnh rỗi, Thiền Sư thường dịch kinh A Hàm, hay A
Cấp Ma (Agama), và lược thuật lại sự kiện nhập Niết Bàn của đức Thế Tôn
trong ba quyển. Trước khi trở về bổn quốc, Thiền Sư đã phiên dịch xong
quyển luật nghi của Nhất Thiết Hữu Chúng Bộ. Quyển luật nghi này rất tương
đồng với bản dịch của thầy Huệ Ninh. Song, việc phiên dịch các bộ luận
khác không có tiến triển cho lắm
Thiền Sư đã từng bảo rằng thân tuy muốn trụ tại Thiên Trúc, nhưng ý lại
hướng về đất Thần Châu (nước Tàu), nên định quay về cố hương bằng đường bộ
ở phía bắc.
Ngày nọ, Nghĩa Tịnh đến tu viện Na Lan Ðà để tiển đưa Thiền Sư trở về cố
quốc. Ði khoảng sáu do tuần về phía đông, chúng tôi đồng khế ước gặp nhau
tại quê nhà, rồi gạt lệ chia tay tạm biệt. Ðương thời, Thiền Sư được năm
mươi sáu tuổi.
Tánh tình Thiền Sư rất khiêm cung lễ mạo. Vào mùa xuân, Thiền Sư thường
thích xem lá Bồ Ðề rơi lác đác, hay tham dự lễ tẩy dục nơi ao Long Trì,
cùng ngắm nhìn vườn trúc vàng hoe, hoặc nhặt hoa để cúng dường núi Linh
Thứu.
Tại bắc Thiên Trúc, mùa xuân vốn là mùa lễ đại tiết. Chư tăng kẻ tục xa
gần đều đến rưới nước lên cội Bồ Ðề. Trên đỉnh núi Linh Thứu lại có hoa
vàng lớn như bàn tay và có màu sắc như vàng thật. Hoa vàng rơi rụng đầy
khắp, nên người người đều tranh nhau leo lên đó mà nhặt. Ðồng thời, trong
những cánh rừng hoang, hoa vàng Xuân Nữ Hoa (Vasanta Mallika) nở rộ khắp
nơi.
Lần nọ, Nghĩa Tịnh cùng với Thiền Sư leo lên đỉnh núi Linh Thứu để lễ bái
cúng dường. Khi nhìn về hướng bổn quốc, chúng tôi cảm thấy chột dạ đau
lòng cho kẻ ly hương.
Nghĩa Tịnh lại viết kệ u hoài:
"Ngắm xem Linh Thứu chuyển
Nhìn qua Vương Thành xưa
Ngàn năm tuy đã hết
Ao nước vẫn còn trong
Trúc kia mãi xanh miết
Lờ mờ hình đã qua
In đậm trên đường đá
Muôn ảnh đều tan hoang."
Thất Bảo Tiên Ðài (Saptaratna rsi sopana) đã lùi về quá khứ. Lúc trước,
Mỗi lần đức Thế Tôn thuyết pháp, thiên hoa trăm màu rơi khắp nơi. Thời xưa
đã qua, nào còn được nghe tiếng nhạc hoa trời rụng! Hận cho mình sanh sau
học muộn! Ðau lòng thay! Thế gian như ngôi nhà lửa mà người người đều mê
mờ không nhận ra. Buồn thay đảo trân báu luôn bị che lấp như đỉnh núi
ngàn.
Chân bước ngoài vạn dặm. Tâm du trên bảy biển[41].
Ba cõi nhiễu nhương đọa vào tà kiến, khiến người người lầm lạc quên chân,
duy chỉ có bậc năng nhân đơn độc được viên ngộ, bằng cách trừ căn trần,
tịnh dòng ái, khai mở đường huyền diệu. Gặp kẻ đói, xả thân mạng. Cứu
người sắp chết, gọi là Thí. Buộc tâm tình theo giới luật như giữ hạt tịnh
châu đó gọi là Giới. Mặc áo giáp nhẫn nhục chống quần tà gọi là Nhẫn. Nếu
giữ ba việc trên mà không mỏi mệt hay giải đãi thì đó là ngồi trên xe nhị
thừa.
Quên lao nhọc, vượt chướng ngại, không ngừng tiến bước tầm chân lý, gọi
là Cần. Nhập thâm định, quên vọng tình, gọi là Thiền Ðịnh. Kiếm huệ chặt
sương mù (vô minh), gọi là trí huệ. Vô biên đại kiếp thường luôn tu. Sáu
thời chuyên tâm tôn lục độ. Hóa độ hữu tình tạo công đức. Ðến Kim Hà
(hiranyavati) để thị tịch, quy thường trụ.
Tụng niệm giảng kinh nơi Hộc Lâm (rừng của ngỗng trời) để công đức viên
mãn. Dư âm tiếng tụng kinh của đệ tử Phật vẫn còn vang dội đâu đây. Xuống
long cung nơi biển cả tìm bí điển (kinh điển thần bí). Trong hang đá núi
Sơn Xứ kính ngưỡng chân ngôn. Nhờ có người hoằng hóa, đạo pháp mãi lưu
truyền. Ðường sa mạc, dãy núi tuyết, sông ngòi chảy đồng giống nhau trong
buổi sớm. Thủy triều nhấp nhô trên bờ biển rộng trong thâu đêm. Xả mạng
muôn lần để cứu sanh linh.
Thệ vượt hiểm nguy, truy tầm thắng nghĩa. Luôn kỳ vọng ngọn đèn đại pháp
mãi tương truyền. Hai vườn nho của núi Nữ Luân vẫn còn dấu tích. Ba lần
chuyển pháp luân (của đức Như Lai) ở vườn Lộc Uyển chỉ vừa trong nháy mắt.
Nơi phía bắc, ao hồ[42]
trong thành Vương Xá vẫn còn đây. Bao hang đá, năm đỉnh núi, và trăm ao hồ
thường đón mừng núi Linh Thứu. Hoa tươi tỏa sáng khắp mọi nơi. Xuân về hoa
lá Bồ Ðề càng thêm rực rỡ.
Thiền Sư chống tích trượng thẳng đến núi non, và từ từ tới vườn Kỳ Ðà, để
xem nơi đức Như Lai đã từng xả y ca sa, cùng hòn núi do chư thiên mang
xuống.
Nghĩa Tịnh dâng cành hoa vàng cúng dường trên điện Phật. Vừa đi nhiễu vừa
ngắm nhìn ngôi chánh điện xưa, cảm giác như thể sống gần đức Thế Tôn.
Thành Vương Xá vẫn còn nằm giữa bóng hình hiện hữu trong đời quá khứ.
Xa cách cố quốc, âu sầu chia ly. Nhớ quê nhà khi những cơn gió buốt thổi
ào ạt lên đỉnh Linh Thứu và nghe tiếng dòng sông Long Hà cuồn cuộn trôi.
Hoan hỷ lắng nghe đàm luận pháp. Ngày qua ngày chẳng hề cảm thấy già đi.
Bổn nguyện xưa nay đã thành tựu, nên phải chống tích trượng, đem kinh về
đất Thần Châu (nước Tàu).
52.
Thiền sư Pháp Chấn (Dharmavikampana) ở Kinh Châu.
Dung mạo Thiền Sư cao ráo, tuấn tú, thanh tao và hòa nhã. Thiền Sư rửa
chân trong dòng sóng thiền; tuy thường tịch tĩnh nhưng vẫn gạn lọc thân
tâm trong biển giới luật. Chư pháp lữ luôn tôn kính và nương tựa vào Thiền
Sư. Thường tụng đọc kinh điển trên núi hay nơi bờ sông.
Thiền Sư thường nôn nóng ước muốn sang Thiên Trúc lễ thánh tích. Thiền Sư
cùng với pháp lữ đồng hương là thiền sư Thừa Ngộ và luật sư Thừa Như ở
Lương Châu, đồng nghiên cứu tu học thâm sâu về những kinh sách cổ điển xưa
nay ở trong và ngoài nước.
Thiền Sư cùng họ đồng giao kết sang Thiên Trúc. Trên chuyến hành hương,
các vị pháp lữ đều có tâm tư nguyện vọng giống như Thiền Sư. Cùng với hai
pháp lữ, Thiền Sư rời Tam Giang, lên thuyền đến Thượng Cảnh, rồi tới nước
Ha Lăng. Vượt qua bao vương quốc và quần đảo, thuyền đến nước Yết Trà.
Qua một thời gian ngắn, thiền sư Pháp Chấn lâm bịnh và tịch vào lúc ba
mươi lăm tuổi. Sau này, thiền sư Thừa Ngộ và luật sư Thừa Như cùng một vị
pháp hữu quày về hướng đông, hy vọng sẽ đến nước Giao Chỉ. Vừa tới nước
Chiêm Ba (Chiêm Thành hay Lâm Ấp) thì thiền sư Thừa Ngộ thị tịch.
Theo lời của người nước Chiêm Thành thuật lại thì luật sư Thừa Như đã trở
về quê quán.
Ba vị tăng rời bổn quốc, nhưng sao không có một ai đến được Thiên Trúc?
53. Pháp sư Ðại Luật ở
Phong Châu.
Pháp Sư ấu niên xuất gia. Lúc trưởng thành tánh tình rất giản dị, thanh
đạm, chân thật, nghiêm nghị. Vì sống cuộc đời ít muốn biết đủ (thiểu dục
tri túc), Pháp Sư thường đi khất thực.
Ước muốn qua Thiên trúc lễ bái thánh tích và hoài vọng đến Vương Thành,
Pháp Sư thường than thở:
- Tuy không được gặp đức từ phụ Thích Ca, nhưng trong tâm hằng niệm nhớ
thiên cung (nội viện cung trời Ðâu Suất) của Bồ Tát Di Lặc. Tự chưa ngắm
nhìn cây Ðại Giác (cây Bồ Ðề), và chân dung của dòng sông Dương Hà (sông
Hằng), thì làm sao thu nhiếp tình cảnh sanh từ sáu căn và tu hành để đạt
đến chánh giác trong ba a tăng kỳ kiếp?
Do đó, niên hiệu Vĩnh Thuần năm thứ hai (682), Pháp Sư mang tích trượng
cùng với các pháp lữ khác khởi hành cuộc vân du tại Nam Hải. Song, sau này
Pháp Sư phải du hành đơn độc vì tất cả pháp lữ kia đều quyết định quay trở
về. Mang theo kinh sách và tượng Phật, Pháp Sư cùng với đoàn sứ giả triều
đình đồng hành. Sau hơn một tháng, thuyền đến châu Thi Lợi Phật Thệ
(Sri-vijaya), rồi trú lại đó trong vài năm. Nơi đó, Pháp Sư tập nói ngôn
ngữ người Côn Lôn và học sách vở tiếng Phạn.
Với phạm hạnh thanh khiết, và tâm chân thành chất trực, Pháp Sư thọ giới
cụ túc nơi đó. Nghĩa Tịnh gặp được Pháp Sư tại nơi ấy. Sau này, Pháp Sư
muốn trở về cố quốc, dâng biểu xin nhà vua xây một ngôi chùa ở tây phương
để hoằng dương Phật pháp, ban ích lợi cho chúng sanh.
Vì vậy, vào rằm tháng hai niên hiệu Thiên Thọ năm thứ ba (690), Pháp Sư
lên thuyền trở về Trường An, và đem theo mười quyển kinh luận vừa mới được
phiên dịch, tức bốn quyển 'Nam Hải Kỳ Quy Nội Pháp Truyện' (Truyện ký nội
pháp của các nước ở Nam Hải được những người trở lại cố quốc mang về), và
hai quyển 'Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện' (Truyện ký về chư cao tăng đi
du hành sang Thiên Trúc và các nước lân cận để cầu pháp).
Kệ tán thán:
"Ấu niên từng mộ đạo huyền
Hằng kiên trì tinh tiến tu
Tâm khẩn thành nơi Ðông Hạ
Lòng cầu pháp tại Tây Thiên
Thân quày về đất Thần Châu
Chí lợi sanh thường hoài vọng
Nguyện thập pháp[43]
mãi lưu hoằng
Ngàn thu qua, người chẳng già."
Thêm bốn vị tăng được ghi lại trong quyển 'Trùng Quy Nam Hải Truyện'.
54. Luật sư Trinh Cố ở
Vinh Xuyên.
Pháp danh tiếng Phạn của Luật Sư là Bà La Cấp Ða, Tàu dịch là Trinh Cố.
Luật Sư người Vinh Xuyên, họ Mãnh. Thuở nhỏ, tánh tình từ bi nhân hậu, và
luôn hướng tâm về ngài Huệ Uyển. Năm mười bốn tuổi thì mất cha.
Nhận chân ra chánh giáo và hiểu lẽ vô thường, Luật Sư hằng chánh niệm ước
mong qua thánh cảnh. Ðến chùa Ðẳng Từ ở Phiếm Thủy, Luật Sư y chỉ theo
ngài Huệ Uyển, rồi làm trụ trì nơi đó. Vì tâm ý luôn hướng về đạo giáo,
nên Luật Sư có khả năng tụng Ðại Kinh. Chẳng may, ba năm sau tôn sư của
Luật Sư lại thị tịch.
Sau này, Luật Sư đến chùa Lâm Lô cùng những tự viện khác ở Tương Châu để
tầm sư học đạo. Tự muốn đóng cửa tu thiền định, nhưng xét lại chưa đủ trí
phân chân ngụy, nên Luật Sư đến Ðông Ngụy nghe giảng luận Duy Thức. Kế
đến, Luật Sư qua An Châu bái kiến thiền sư Ðại Du để học kinh Phương Ðẳng.
Thời gian sau, vào ngày nọ, đột nhiên có một bóng hình kỳ diệu hiện ra
trước mắt.
Luật Sư lại đến Kinh Châu, vượt bao núi non sông ngòi để tìm cầu thiện
tri thức với ước vọng được nghe những gì chưa từng nghe.
Tới Nhưỡng Châu, gặp thiền sư Thiện Ðạo (một vị tổ sư của tông Tịnh Ðộ),
thọ thắng hạnh của Phật Di Ðà. Ao ước xả uế độ, tâm thú hướng về miền An
Dưỡng. Luôn nhớ đến hạnh nguyện của đại sĩ Thiện Thương. Sao tánh duy thức
(thức tánh) không chuyển thành nơi thanh tịnh (tịnh phương)?
Kế đến, Luật Sư tới tham bái và y chỉ theo thiền sư họ Trừng ở chùa Khôi
Giác tại núi Hiện Sơn để nghiên tầm tham cứu luật điển. Nghe nửa lời của
thiền sư họ Trừng, Luật Sư liền hiểu hết ý chỉ. Luật Sư tuyên dương ngũ
đức[44]
của Phật đà, học kỹ nhiều bộ kinh luật, thường y theo bốn sự
[45], nhập thâm sâu vào những cảnh giới thiền
định, được tẩy rửa bằng bát giải thoát[46],
mà thường ảnh hưởng mạnh mẽ tới các tông phái khác. Trí huệ phi thường và
kiến thức thâm sâu về lục độ[47]
cao ngất như núi ngàn. Không đắm nhiễm năm trần[48],
chẳng hề kinh sợ chín phiền não[49],
ngoài vượt bốn dòng[50],
trong tâm thường hành ba định[51].
Chư tăng kẻ tục đều khâm ngưỡng cung kính Luật Sư như một vị tôn sư đạo
trưởng. Ðược chiếu chỉ đặc biệt của nhà vua cho vời vào đất Thần Ðô. Nơi
nước Ngụy, cư trú tại chùa Ðông Tự trong vài năm. Lúc hơn hai mươi tuổi,
ngồi dưới chân của thiền sư (họ Trừng), Luật Sư thọ viên cụ (giới cụ túc).
Chỉ trong vòng một năm là hiểu rõ tổng quát về luật nghi.
Luật Sư lại đến An Châu, theo luật sư họ Tú chuyên tâm đọc văn sao của
luật sư Ðạo Tuyên mà không còn nghi ngờ câu hỏi nào, có thể vượt hơn tôn
giả Ưu Ba Ly, quán thông năm biến[52],
thọ y chỉ từ Tỳ Xá Nữ, liễu giải hoàn toàn thất tụ[53].
Theo giới luật, học hết luật nghi trong năm năm thì mới được đi du phương.
Song, chưa đến tuổi mà Luật Sư đã khế hội hết các ý chỉ luật nghi. Rời quê
nhà đã mười năm, Luật Sư đạt được mục đích trước tuổi.
(Luật sư họ Tú vốn là đệ tử thượng thủ của luật sư họ Hưng ở Thục Quận.
Năm hai mươi tuổi thọ giới cụ túc và tiếp tục trú ở Thục Xuyên. Học luật
nghi trong bốn năm với một vị hòa thượng. Ðến Trường An làm khách y chỉ
của luật sư Ðạo Tuyên.
Như ngỗng chúa uống sữa lọc nước, Luật Sư chỉ tiếp nhận phần tinh túy của
trí huệ viên mãn để đạt đến nơi hoan hỷ diệu trì. Trong mười sáu năm không
rời thầy mình một bước.
Luật Sư nghiên cứu tinh tường học thuyết và tư tưởng của các tông phái.
Bản sớ sao về luật nghi của Luật Sư vốn là bản chính của Luật Tông. Thứ
đến, Luật Sư tới Tam Dương ở Bát Thủy, rồi qua Hoàng Châu, nơi sanh thành,
thuật lại những việc đã thành tựu. Kế đến qua An Châu hưng truyền rộng rãi
luật giáo. Chư vương thứ sử đều cung nghinh tôn kính. Trong luật nghi có
nói: "Nơi nào nếu có chư luật sư, thì những người này đồng Ta (Phật Thích
Ca) không khác."
Trú tại chùa Thập Phương, Luật Sư thị tịch vào lúc bảy mươi tuổi. Luật Sư
giữ giới hạnh tinh nghiêm, tai mắt tinh tường lanh lợi. Luật Sư chính là
bậc lương đống trong nhà Phật vào đương thời, và cũng là bậc vĩ nhân cho
đời hậu thế.
Thật đúng là tuy khác xứ nhưng hạt châu ở sông Hán vẫn giống như viên
ngọc ở đất Thần Kinh. Cành quế và lá lan đều cùng mùi hương tuy trổ khác
thời tiết.)
Luật sư Trinh Cố xem đọc tinh thông luật điển, cùng các bộ kinh luận
khác, rồi lại tụng kinh Pháp Hoa, Duy Ma Cật cả ngàn lần. Tâm tâm thường
nhiếp tụ, niệm niệm hằng trì giới luật, điều ngự ba nghiệp, bốn oai nghi
không hoại.
Kế đến, Luật Sư qua Nhưỡng Châu ở với một vị tăng, chú tâm nghe giảng về
Tô Ðát La (lời thuyết pháp của Phật) cùng tham tầm luận Ðối Pháp (luận A
Tỳ Ðàm), lại thông uẩn xứ và thường mặc y châu đạm bạc.
Băng qua sông Nhưỡng Thủy, Luật Sư lên núi Lô Sơn, ngưỡng thượng đức
(Phật đà), thanh trần (không nhiễm thế tục).
Trú tại chùa Ðông Lâm, Luật Sư hoằng truyền Phật pháp. Luật Sư lại có ý
muốn qua nước Sư Tử, đảnh lễ Phật Nha (răng Phật) cùng những thánh tích
khác. Trong niên hiệu Thùy Củng (685-688), Luật Sư chống tích trượng đến
Quế Lâm; vì thích hóa du phương, nên dần dần tới những vùng thung lũng xa
xôi và được đức Như Lai âm thầm gia hộ để tiến bước hành hương. Lúc tới
Phiên Ngu ở Quảng Phủ, chư Phật tử cung thỉnh Luật Sư khai giảng luật
điển. Ðương thời thánh chúa (nhà vua) Ðại Ðường bổ nhiệm tam sư[54]
vì muốn vần dương Phật pháp chiếu soi ánh sáng chánh giáo, phá tan đêm dài
u ám của ngu mê, và làm chiếc thuyền từ đưa người qua bờ bỉ ngạn.
Luật Sư được xưng tôn cung kính là bậc mẫu mực nhất của Luật tông.
Thế nên, tại đạo tràng Tam Tạng, đại chúng lại cung thỉnh Luật Sư giảng
giải Tỳ Nại Da (luật điển). Trong chín hạ (chín năm) giảng xong bảy biến[55].
Luật Sư không những giáo hóa chư pháp đồ (tăng sĩ) mà còn dạy dỗ người thế
tục.
Ðương thời tại chùa Chế Chỉ có một vị A Xà Lê, được người người cung
kính. Mỗi lần đăng tòa giảng pháp, Ngài luôn tự thân đề trạng oai nghi mẫu
mực cho chư đệ tử với tâm thành không mỏi mệt. Ấu niên xuất gia, cao hạnh
phẩm tiết. Tuy tuổi ngoài bảy mươi mà Ngài vẫn hằng cung kính hành trì ngũ
biến. Chỉ riêng người có giới đức tròn vẹn mới đạt đến thượng trí (trí huệ
cao thượng).
Nhờ sự giáo huấn của vị A Xà Lê đó, luật sư Trinh Cố vượt qua được những
dòng sóng trong ao nước thiền định và đạt tới đáy thẳm của biển pháp. Sau
khi vượt qua những rặng núi của tâm thức thì đạt đến tuyệt đỉnh của trí
huệ Bát Nhã. Luật Sư thâm hiểu cuộc đời huyễn mộng và ngộ được nguồn tâm.
Tuy thể tánh các pháp đều là không, nhưng phước nghiệp hữu vi do làm lợi
ích quần sanh vẫn có. Luật Sư làm chiếc cầu vô thượng để chúng sanh vượt
dòng (thế tục). Những làn bút pháp viết kinh tạng của Luật Sư trưởng dưỡng
tâm linh chúng sanh. Thật vậy, tri thức của Luật Sư ảnh hưởng đến muôn
loài. Luật Sư thường khuyến khích bốn chúng là phải nên cùng tu học luật
nghi với giáo điển.
Rời chư đệ tử, Luật Sư vào núi Hạp Sơn để ẩn cư dưới gốc tùng hầu mong tu
thiền định. Trụ trì chùa Mông Khiêm đến gặp và bảo trụ trì chùa Tân Ngưỡng
rằng luật sư Trinh Cố là hiện thân của chân lý, tri kiến, từ bi và nhân
ái. Ngày đêm quên mình lợi người và hằng kính trọng ý kẻ khác.
Luật Sư muốn an nghỉ nơi sơn môn; định xây ngôi pháp đường cho chư tăng
trú ngụ với dãy hành lang nối liền các thềm cấp, cùng xây lại nền móng
chùa, và đào ao chung quanh chùa, với mục đích chính là hành hạnh tám giải
thoát. Lúc ấy, Luật Sư lập đàn giới để giảng quy củ của Thất Tụ. Luật Sư
cũng muốn xây lăng tẩm đằng sau giới đàn để chứa tro cốt của chư tăng, và
lập đàn tràng Phương Ðẳng để tu Pháp Hoa Tam Muội. Song, dẫu có quyết tâm,
nhưng công trình của Luật Sư chưa được thành tựu. Luật Sư đã viết xong đề
mục và thường hành theo nghi thức Bố Tát[56].
Luật Sư thường than vãn:
- Trước chẳng gặp Thích Phụ (đức Thích Ca), sau lại chưa tương kiến Từ
Tôn (Phật Di Lặc), thì làm sao khởi hạnh tu hành trong thời mạt pháp?
Thế nên Luật Sư cứ trầm ngâm nơi biên tế không hữu và lẫn quẩn tại cửa
của các vị A Xà Lê.
Ðương thời, Nghĩa Tịnh lên thuyền ở cửa biển nước Phật Thệ (Bhoga) để gởi
thơ về Quảng Châu nhờ người mua giấy viết bút mực hầu sao chép kinh điển
tiếng Phạn, cùng mướn người viết kinh. Song, do thuận gió, thương nhân
giăng buồm cao ngất, nên thuyền đưa Nghĩa Tịnh trở về cố hương. Dẫu có
muốn xuống thuyền cũng không được; đây thật là nghiệp duyên đưa đẩy vận
mệnh và vượt ngoài dự tính sắp đặt của con người.
Vĩnh Xương nguyên niên (A.D 689), thuyền đến Quảng Phủ. Nghĩa Tịnh gặp
lại chư pháp lữ cùng Phật tử. Tại chùa Chế Chỉ, Nghĩa Tịnh than với chư
tăng:
- Vốn muốn qua Tây Quốc (Thiên Trúc) ngõ hầu sau này hoằng truyền Phật
pháp. Trên đường trở về cố quốc, trú tại Nam Hải. Từ Thiên Trúc, mang về
hơn năm trăm ngàn bài kệ của ba tạng giáo điển, nên phải trở lại nước Phật
Thệ. Song, vì đã ngoài năm mươi, khi vượt trùng dương một lần nữa thì e
rằng cỗ xe ngựa nứt nẻ khó bảo và sinh mạng thật rất mong manh. Nếu sương
sáng chợt rơi thì kinh điển phó chúc cho ai? Kinh điển thực là quan trọng,
vậy ai có thể cùng Nghĩa Tịnh trở lại đó mà mang về bổn quốc? Lại nữa,
phải tìm ra đúng người để phiên dịch kinh điển.
Ðương thời, đại chúng đồng bảo:
- Cách đây không xa, một vị tăng pháp hiệu là Trinh Cố, vốn đã từng thâm
hiểu luật giáo và sớm có lòng chân thành tín kính. Vị tăng này chắc sẽ là
một vị pháp hữu hay nhất.
Nghe thế, Nghĩa Tịnh bảo rằng đây là vị tăng mà tôi muốn tìm kiếm. Kế
đến, Nghĩa Tịnh viết thơ thỉnh cầu luật sư Trinh Cố cùng đi du hành và cho
biết tổng quát về ngày giờ chuẩn bị khởi hành. Mở lá thơ ra xem, Luật Sư
bèn vui mừng chấp thuận rời rừng cây tùng cùng dòng suối nguồn. Trước cửa
Thạch Môn, Luật Sư đắp y trên vai tề chỉnh bước vào chùa Chế Chỉ. Tuy mới
gặp, nhưng chúng tôi cảm thấy như đã quen nhau tự bao giờ vì tâm đồng ý
hợp, chung niềm hoài vọng và nguyện ước; cùng thệ hy sinh năm vóc hình vì
Phật pháp và xả bỏ bụi trần lao. Vui mừng, chúng tôi đàm luận nhiều việc
liên hệ về chuyến hành trình tương lai.
Luật sư Trinh Cố bảo:
- Khi các bậc cổ đức gặp nhau, họ đồng tương giao hòa hợp mà không cần
nhiều lời giới thiệu. Thời khắc đến, nếu muốn ngừng cũng không được. Tôi
xin nguyện thường tinh tấn hoằng dương ba tạng giáo điển và trợ Thầy đốt
ngàn cây đuốc chánh pháp.
Khi đến núi Hạp Sơn, chúng tôi chia tay chào tạm biệt trụ trì chùa Mông
Khiêm cùng các vị pháp hữu khác. Trụ trì chùa Mông Khiên bèn làm lễ theo
đúng nghi thức. Thầy không có ý giữ chúng tôi, mà ngược lại còn tùy hỷ
cúng dường tịnh thí, cùng những vật dụng cần thiết với lòng nhiệt thành
sâu xa, sau khi biết hoài vọng đi thỉnh kinh của chúng tôi. Vị trụ trì này
không bao giờ lo lắng về cá nhân của mình, mà luôn niệm nhớ cứu tế giúp đỡ
kẻ khác. Chư tăng và kẻ tục ở Quảng Phủ cũng cúng dường thức ăn và tịnh
thí cùng các tư lương khác.
Mồng một tháng mười một niên hiệu Vĩnh Xương (A.D 689), chúng tôi lên
thuyền đi thẳng đến Phiên Ngu, qua Chiêm Thành, hướng tới nước Phật Thệ.
Chúng tôi muốn làm thềm cấp cho chúng sanh bước lên, hay chiếc thuyền từ
để cứu giúp hàm linh vượt sang bờ giải thoát. Tràn đầy niềm sung sướng vì
hoài bão của chúng tôi được thành tựu, và hy vọng rằng sẽ không thối thất
trên cuộc hành trình dài dăng dẳng. Lúc ấy, luật sư Trinh Cố được bốn mươi
tuổi.
Tôi viết kệ tán thán Luật Sư:
"Người trí hành nghiệp lành
Do nhờ nhân thiện xưa
Ấu niên gạn lọc tâm
Chí hướng tạo phước đức
Tình tầm cầu thắng nghĩa
Ý nương bậc minh nhân
Không tham hương danh lợi
Ngài chỉ mến hiền đức
Cùng cầu pháp trân bảo.
Hằng thọ trì diệu điển
Liễu đạt nghĩa chân thường
Ðức cao tánh chất trực
Vô úy chẳng khiếm khuyết
Không vọng nghĩ vinh hoa
Thường mong bỏ giày rách
Nếu sống trong khó khăn
Nào hề phải miễn cưỡng
Du phương như ong thợ
Tìm cầu sắc hương hoa
Từ biệt đời sung túc
Cô đơn tầm Hán âm
Việc của bậc triết nhân
Nghiên tầm về luật giáo
Nên hiểu mạch lý đạo
Lại tiến vào huyền cơ
Chí viễn hoài nơi giác thọ
Chống trượng đến Quế Lâm
Vui trèo qua thung lũng
Ngắm vật trong vũ trụ
Truy cổ văn Ðông Hạ
Thỉnh tân giáo về nam
Hoằng bá nơi chưa hoằng
Lưu truyền nơi chưa truyền
Chúc mừng tráng chí kia
Năng vì người tổn mình."
Luật sư Trinh Cố thật là một pháp hữu hiền lương của Nghĩa Tịnh. Khi đến
Kim Châu (Suvarnadvipa) chúng tôi luôn kiên trì giữ Phạm hạnh, nên tình
pháp hữu càng thêm thân mật. Luật Sư đối đãi tôi như huynh đệ, thường giúp
đỡ tận tình trong cuộc hành trình dẫu trên biển cả hay đất liền. Một mai
hoài vọng truyền đăng Phật pháp thành tựu, thì sẽ sống mãi ngàn thu. Lúc
đến nước Phật Thệ, Luật Sư mới cảm thấy thật đã hoàn toàn mãn nguyện. Nghe
những pháp gì chưa từng nghe. Thấy những những thông lệ gì chưa từng thấy.
Vừa dịch kinh vừa tiếp thọ ý chỉ. Tra xem tinh tường sự thông trệ (điều
hay việc dở) của những tập tục mới lạ. Thông minh sáng trí, bác học đa
văn. Thường tự thúc giục hành những hạnh cao quý. Cung kính, cần kiệm,
chuyên cần, thân ái, và chẳng hề sợ bóng tử thần, mà chỉ sợ "Nhiều người
nấu thì hư nồi canh". Song, bậc ẩn sĩ thường trầm lặng xoa dịu nỗi đau
buồn thất vọng. Ngọn lửa thuận giớ cháy bừng và lấp sáng cả ngàn ngọn nến.
Luật sư Trinh Cố có một người đệ tử họ Mãnh, pháp danh là Hoài Nghiệp,
tiếng Phạn hiệu là Tăng Già Ðề Bà (Sangghdeva). Tổ phụ tuy là người miền
bắc, nhưng vì làm quan nên Thầy phải xuống miền nam, và gia đình phải tạm
cư tại Quảng Phủ. Thầy rất mộ pháp và phụng lời chỉ dạy của các bậc sư
trưởng. Tuy tuổi nhỏ mà chí nguyện kiên cường. Gặp tôn sư, hoài niệm hoằng
pháp, nên muốn theo hầu thầy mình. Cắt ái xuất gia khởi lòng từ. Ðến nước
Phật Thệ, hiểu tiếng thổ dân Côn Lôn, học thâm sâu tiếng Phạn, thường tụng
niệm luận Câu Xá. Làm thị giả và dịch giả cho luật sư Trinh Cố.
55. Tỳ kheo Ðạo Hoằng ở
Biện Châu.
Thầy vốn là người Ủng Khâu ở Biện Châu, họ là Cận. Pháp danh tiếng Phạn
là Phật Ðà Ðề Bà (Buddhadeva), Tàu dịch là Giác Thiên. Người cha vốn là
bạn của một thương nhân nên thường du hành khắp phương nam. Do đó ông ta
đi khắp vùng Tam Giang và vượt qua năm ngọn núi (ngũ lãnh), rồi đến Thiệu
Bộ và qua Hạp Sơn, để ngắm xem những thung lũng và đèo núi cheo leo, nhìn
thấy những dòng thác nguồn xanh thẳm, cùng gặp thiện tri thức hầu mong đắp
y Thích Tử.
Lúc thơ ấu, Thầy thường được dẫn đi từng vùng này sang vùng khác như bọt
bèo trôi theo nghiệp mà không chút vương vấn. Thầy theo cha và sư tổ đi
viếng nhiều nơi, rồi đến Quế Lâm. Thấy phong cảnh âm u tĩnh mịch, Thầy rất
thích thú mà an trú.
Sau khi xuất gia, cha của Thầy tìm đến thiền sư Học Tịch học Bí Tâm Quan
trong vài năm và hiểu được yếu nghĩa. Khi đến Hạp Sơn, Thầy cũng theo cha
mà xuất gia, và thọ giới cụ túc vào lúc hai mươi tuổi. Thầy lại đến Quảng
Phủ và ra vào cửa Sơn Môn (cửa chùa). Dầu tuổi trẻ và hoài vọng chưa cao,
nhưng tánh tình Thầy rất khí khái. Nghe Nghĩa Tịnh đến nên muốn tới bái
kiến. Biết Nghĩa Tịnh đang trú tại chùa Chế Chỉ, Thầy bèn qua đó tương
kiến. Gặp mặt, Thầy cảm thấy tâm hạnh đồng tương khế với Nghĩa Tịnh. Dầu
vận mạng có như thế nào, phải thường hy sinh (cho sự tầm cầu tri kiến).
Nghe rằng tầm cầu tri thức khó khăn như vượt trùng ba, nhưng đối với Thầy
thì chỉ là những gợn sóng trên ao hồ. Nhìn xem cá voi nên biển cả, Thầy
chỉ thấy nó như con cá chép trong ao hồ nhỏ.
Sau này, Thầy tạm biệt núi rừng để du hành đến phương xa. Thầy trở về
Quảng Phủ với luật sư Trinh Cố, rồi theo theo vượt biển Nam Hải đến Kim
Châu (Suvarnabhumi). Nơi đó, Thầy quyết định chép kinh kệ để đức vang tận
nghìn thu.
Thầy rất minh mẫn, nhã nhặn, từ tốn; với kiến thức thậm thâm, Thầy biết
nhiều loại thư pháp, cùng học luận lý Trang-Chu. Ðối với Thầy, thể Tề Vật[57]
thật hư ảo, vô ý nghĩa, và Chỉ Mã
[58] lại quá xa vời.
Thầy băng qua bao sông ngòi, đi bộ qua những bãi sa mạc cát nóng. Dẫu đức
hạnh chưa vang xa, nhưng lại được tán thán với dự tính cao cả. Làm sao
thực hiện? Cầu pháp quên thân, không mong hưởng lạc mà chỉ muốn giúp
người, chẳng màng thân thuộc mà xem mọi chúng sanh như gia quyến; coi hàm
linh như thân thể của mình.
Ðến nước Thất Lợi Phật Thệ (Sri-vijaya), Thầy đôn đốc học luật tạng.
Không những phiên dịch kinh điển mà Thầy còn ghi kinh theo thứ lớp vào sổ
tay với mục đích hoằng dương chánh pháp. Thầy ước mong giới châu sẽ tỏa
sáng trở lại để danh hiệu Phật đà vang khắp nơi; cầu viên thành tịch diệt
để dẹp trừ nghiệp nặng. Muốn hoàn thành đại sự phải bắt đầu từ việc nhỏ.
Danh tiếng Thầy phải được lưu truyền vì đã tạo vô lượng phước đức cho thế
gian.
56. Tỳ kheo Pháp Lãng
ở Nhưỡng Dương.
Pháp danh tiếng Phạn của Thầy là Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva); Tàu dịch là
Pháp Thiên. Tên tục của Thầy là An Thật. Thầy vốn là người Nhưỡng Dương ở
Nhưỡng Châu, và thường trú tại chùa Linh Tập. Gia thế thuộc dòng dõi quý
tộc, lễ nghĩa, và thường làm quan trong triều nội.
Ấu niên xuất gia vì muốn sống đời tu hành. Sau đó, rời quê nhà, đi du
phương, và vượt bao núi non cát đá, đến miền Lãnh Nam. Vừa tới Phiên Ngu,
Nghĩa Tịnh bèn báo tin cho Thầy biết. Tuy tri thức không rộng, nhưng đối
đãi với người rất thâm tình. Ý muốn theo Nghĩa Tịnh vượt trùng dương Nam
Hải.
Chưa đầy một tháng, chúng tôi đã đến nước Phật Thệ (Bhoga). Nơi đó, Thầy
bắt đầu hành nghiệp hạnh, ngày đêm chuyên tâm học sách mật Thanh Minh
(Hetuvidya). Từ sáng tinh sương đến chiều xế bóng, Thầy lắng nghe lý u
huyền của luận Câu Xá để bỏ đầy tri kiến. Thiếu một tảng đất thì sẽ không
thành một ngọn núi.
Thầy luôn chân thành học ba tạng giáo điển, và quyết tâm hiểu rõ năm biến
mà không nệ hà lao nhọc. Bẩm chất thông minh, tri thức dồi dào. Với chí
nguyện hoằng pháp lợi sanh, Thầy sao chép kinh điển quên bao khổ nhọc.
Thầy thường đi khất thực, thân chỉ đắp ba y, chân không mang giày dép,
tôn sự tu hành và kính thờ luật nghi. Tuy công chưa thành nhưng luôn cố
gắng đạt đến sở nguyện. Dẫu mọi pháp lữ đều thường lo tự lợi, nhưng chí
Thầy luôn muốn lợi người, nên được người người tôn kính. Tâm thành cung
kính, Thầy luôn hướng về chân lý.
Chí nơi hoằng pháp, nguyện tại lợi sanh. Vì hậu thế, Thầy thắp ngọn đuốc
sáng của đức Từ Thị (Bồ Tát Di Lặc). Ðương thời, Thầy được hai mươi bốn
tuổi.
Luật sư Trinh Cố cùng với bốn vị tăng (đã kể ở trên) lên thuyền đến nước
Thất Lợi Phật Thệ (Sri-vijava), rồi ở đó ba năm, dần dần học thông tiếng
Phạn. Thời gian sau, thầy Pháp Lãng đến nước Ha Lăng, an cư kiết hạ, rồi
nhuốm bịnh mà tịch.
Thầy Nhưỡng Nghiệp quyết ở lại nước Phật Thệ (Sri-vijaya) mà không trở về
Phiên Phủ. Chỉ có thầy Trinh Cố và Ðạo Hoằng cùng tôi (Nghĩa Tịnh) là đồng
trở về Quảng Phủ. Chúng tôi ở đó để đợi hai thầy khác trở về.
Luật sư Trinh Cố đến đạo tràng Tam Tạng quảng dương luật giáo, rồi nhuốm
bịnh và thị tịch ba năm sau. Thầy Ðạo Hoằng một mình ở lại Lãnh Nam, rồi
từ đó chẳng còn nghe tin tức. Nghĩa Tịnh có viết rất nhiều lá thư nhưng
không thấy hồi âm.
Ô hởi, bốn vị đồng vượt trùng dương tận lực chân thành thắp lên ngọn đuốc
chánh pháp. Ai biết được nghiệp ngắn dài cùng kẻ đi người ở lại? Nhớ đến
họ, Nghĩa Tịnh thật rất mến thương. Thật khó miêu tả về những con lân
phượng. Ðời người ngắn ngủi nên khó hoàn thành sự nghiệp.
Tất cả đệ tử của bậc Phước Ðiền (đức Phật) phải đồng xan xẻ di sản trí
huệ, và vượt biển khổ Ta Bà. Sơ hội Long Hoa đồng vượt trần lao.
[1] Cửa Thiết Môn là một quan ải nằm ở khoảng giữa Samarkand và Bactria. Nơi đó cách Samarkand khoảng 90 dặm về phía đông nam.
[2] Vào đời Ðông Hán (25-220), kiêu tướng Mã Viện dẫn quân đàn áp dân Tây Tạng. Sau này hắn cũng dẫn quân sang Giao Chỉ, đàn áp cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị), rồi dựng cây cột Ðồng Trụ này.
[3] Vào đời Ðường (618-907), Tàu xâm chiếm Việt Nam, rồi chia nước ta làm mười hai châu: Giao Châu, Ái Châu, Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Trường Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Hoan Châu, Diễn Châu.
[4] Tốc Lợi (Sogdiana) có thể là phía tây của Kasgarh. Người Tốc Lợi cũng có thể là người Mông Cổ hay Turks.
[5] Ðỗ Hóa La, hay Thổ Hỏa La (Tokharestan), là miền đất của người Tukhara. Ðây là trung tâm văn hóa của người Ấn Ðộ tại Trung Á.
[6] Jalandhara ở Punjab.
[7] Luận Câu Xá (Kosa) do ngài Thế Thân trước tác.
[8] Trung Luận (Pranyamula Satra) do Bồ Tát Long Thọ trước tác. Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán vào năm 409.
[9]
Du Già Thập Thất Ðịa (Saptadasabhumisasatra-Yogacaryabhumi) là quyển
luận mà Bồ Tát Di Lặc khẩu truyền cho ngài Vô Trước.
[10]
Vương Huyền Sách là sứ giả của nhà Ðường (655), sang Ấn Ðộ. Gặp lúc
vua Harsavardhana vừa mất và Arunasva chiếm ngôi, nên ông ta không
được tiếp đón đàng hoàng. Tức giận, ông ta trở lại Tây Tạng, nhờ quân
của vua Tây Tạng là Srongstan-Gampo, kéo sang đánh Arunasva. Cuối
cùng, ông bắt Arunasna cùng cướp rất nhiều châu báu, rồi mang trở về
Trung Thổ.
[11] Srongstan-Gampo là vị vua tài ba của nước Tây Tạng, khiến cho vua nhà Ðường phải gã công chúa Văn Thành. Công chúa Văn Thành là một Phật tử thuần thành. Cô ta mang kinh điển và tượng Phật sang cho người Tây Tạng. Người Tây Tạng thường bảo nhau rằng công chúa Văn Thành xứng làm hoàng hậu của ba vị vua nước Magadha, Persia, và Hor.
[12]
Chùa Cung Ái do vua Lương Võ Ðế xây vào niên hiệu Phổ Thông
(520-527).
[13]
La Ta (Lata) nằm phía nam của Gujiarat.
[14]
Câu Thi (Kasi hay Varanasi) là nơi xuất thân của tiền thân đức Phật
Thích Ca.
[15] Lương Luận thuộc về đời Lương nhà Lương (502-557).
[16]
Ha Lăng (Kalinga hay Java) dọc theo vịnh Bengal.
[17]
2. Mạt La Luân (Malayu hay Suvarnadvipa) là tên chung của Sumara.
[18]
Nước Yết Thấp Di La (Kashmir) là nơi thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
(Sarvastivada) phát triển mạnh mẽ nhất, và cũng là trung tâm học kinh
điển tiếng Phạn.
[19]
Theo truyền thuyết thì Nagahrada Parvata chính là một ao của loài
rồng. Ngài Madhyantika là vị A La Hán, và vốn là đệ tử của tôn giả A
Nan. Ðược biết Phật thọ ký rằng mình sẽ xây một vương thành mới, nên
ngài Madhyantika rất vui mừng mà lên núi cao, triển chuyển sáu thần
thông. Long vương hiện ra, và hỏi Ngài muốn gì. Ngài bèn bảo rằng muốn
có chỗ để ngồi thiền trên mặt hồ, nơi nước đến đầu gối. Long vương bèn
chấp thuận, và định thổi nước đi, nhưng Ngài lại dùng thần thông, biến
toàn thân bao trùm khắp mặt hồ, khiến cho nước trong ao đều khô cạn.
[20]
Phù Nam tức là tên của nước Cam Bốt.
[21]
Lang Gia tức là Tenasserim.
[22]
Ðỗ Hòa La Bát Ðề (Dvaravati) nằm gần Nakon Pathom, cách thủ đô Bangkok
của Thái Lan khoảng bốn mươi dặm về hướng tây.
[23]
Ðam Ma Lập Ðề (Tamralipti), hiện tại là Tamluk trong quận Midnapur ở
tây Bengal.
[24]
Khương Cư (Sogdiana), hiện nay là Kirghiz S.S.R., và Kazak S.S.R.,
bao gồm vùng Samarkand và Bokhara. Xưa kia, nước Khương Cư được gọi là
Sugdik (hay Sulik), nằm ở phía bắc của Tokharestan và núi Thiên Sơn.
Dần dần người Khương Cư di chuyển về miền đông của Turkistan. Họ vốn
xuất xứ từ giống người Iranian. Ngôn ngữ của họ cũng là Iranian. Ngôn
ngữ và bộ tộc của họ đã mất dạng từ lâu. Người Khương Cư có mối quan
hệ mật thiết với các dân tộc ở Trung Á cùng Ấn Ðộ. Ðạo Phật được
truyền vào nước Khương Cư xuyên qua nước Tokharestan. Hiện nay các nhà
khảo cổ học ở miền đông Turkistan tìm thấy được những kinh điển Phật
giáo bằng tiếng Khương Cư. Chư tăng người nước Khương Cư đóng vai trò
quan trọng trong việc truyền bá và phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn
sang tiếng Tàu, điển hình là ngài Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman) và
Tăng Già Bà La (Sanghabhadra).
[25]
Cao Xương (Turfan) nằm về phía bắc của Karashar hay Agnidesh ở Trung
Á. Ðây là tuyến đường để vào Ấn Ðộ. Mặc dầu Cao Xương là một ốc đảo
nhỏ ở giữa sa mạc tại Trung Á, nhưng lại là trạm dừng chân của các du
tăng truyền giáo. Ðạo Phật được phát triển mạnh mẽ nơi đó cho đến đầu
thế kỷ thứ mười lăm. Hiện tại, ở đó còn rất nhiều kinh điển Phật giáo
bằng tiếng Phạn, Hán, Khương Cư, Iranian, Tokharian.
[26]
Bột-ích hiện nay là Pembuan ở bờ bể phía nam của Borneo.
[27]
Ô Trường Na (Udyana) tiếng Phạn dịch là mảnh vườn, hay công viên.
Hiện tại là năm quận Punjkora, Bijawar, Swat, và Bunir.
[28] Ngoài lộ tuyến Trung Á, còn có hai tuyến đường từ Ðông Ðộ sang Thiên Trúc. Một là đi xuyên qua tỉnh Vân Nam, đến phía bắc Miến Ðiện và Thái Lan, rồi vào Thiên Trúc. Lộ tuyến này không thường được dùng. Lộ tuyến thứ hai là đi xuyên qua Tibet và Nepal để vào Thiên Trúc.
[29] Ðịnh Môn tức là thiền môn do tổ Bồ Ðề Ðạt Ma truyền sang Trung Quốc.
[30] Khỏa Quốc có nghĩa là nước của những người lõa thể, thuộc về quần đảo Andaman và Nicobar ở vịnh Bengal. Xưa kia, nơi đó đàn ông và đàn bà đều lõa thể. Họ thường trao đổi dừa, chuối, v.v... để lấy sắt.
[31] Hộc Thọ (Vama) tức là rừng của các con ngỗng trời. Ngài Huyền Trang thấy một ngôi tháp Ngỗng Trời được xây dựng tại đỉnh núi Indra sala-guha ở Rajagrha, để kỷ niệm một con ngỗng trời từ trên hư không, tự rơi xuống trước cổng chùa, hầu mong cứu đói các vị tăng tiểu thừa.
[32] Luận sư Trần Na là đệ tử của ngài Thế Thân.
[33] Ha Lợi Kê La (Harikela) hiện tại là Candradvipa và Bakharganj (thuộc về Bangladesh), bao gồm một vùng rộng lớn ở phía đông của Bengal. Ðương thời, vì là Phật tử thuần thành, nên quốc vương nước đó rất hậu đãi chư tăng từ đông độ sang.
[34] Sông Ni Liên Thuyền (Nairanjana) hiện tại là sông Lilajan. Ðức Phật ngồi thiền trong bốn mươi chín ngày đêm, chứng quả vị Phật dưới cội cây Bồ Ðề, bên cạnh sông Ni Liên Thuyền.
[35] Chiêm Ba (Champa) hiện nay thuộc tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận (Việt Nam).
[36]
Thuở xưa, những cuộc buôn bán trao đổi hàng hóa với thương nhân các
nước ở Châu Âu như đế quốc La Mã, người Tàu thường dùng lộ tuyến con
đường lụa (silk route) để đi xuyên qua Trung Á. Ðến đời Ðường
(618-917), người Tàu thường dùng đường biển (tức biển Nam Hải) để trao
đổi hàng hóa buôn bán giao dịch qua lại với Ấn Ðộ, Ba Tư, Ả Rập,
v.v...
[37]Bốn
trọng ân là ân chư Phật, ân cha mẹ, ân quốc gia, và ân chúng sanh.
[38]
Kim Mã Môn là một chức tước trong viện Hàn Lâm của triều đình.
[39]
Na Già Bát Ðàn Na (Nagapattinam) hiện nay là quận Thanjavur của Tamil
Nadu. Nơi đó vốn là trung tâm Phật giáo quan trọng vào đương thời.
Trong thời vua Narasimhavarman II (695-722) của triều đại Pallava, do
sự yêu của triều đình nhà Ðường, một ngôi chùa được xây dựng để cho
các du tăng người Tàu sang đó tu học. Ngôi chùa này do kiến trúc sư
người Tàu thiết kế, xây nên.
[40]
Ngài Pháp Xưng (Dharmakiti) xuất sanh vào năm 635, thuộc dòng dõi bà
la môn, ở nam Thiên Trúc. Ngài vốn là một vị tài trí thông minh tuyệt
đảnh. Ngài thông suốt các kinh Vệ Ðà, ngôn ngữ, nghệ thuật, v.v...Từ
thuở bé, Ngài đã tham dự những buổi giảng kinh luận. Sau này, Ngài trở
thành một Phật tử thuần thành. Kế đến Ngài theo pháp sư Dharmapala
xuất gia thọ giới tại tu viện Na Lan Ðà. Tài biện luận của Ngài còn
vượt hơn tài biện luận của luận sư Trần Na. Ngài để lại cho hậu thế
rất nhiều quyển luận.
[41]
Theo truyền thuyết, Thiên Trúc được bao bọc xung quanh bởi bảy biển
cả.
[42]
Nơi đây có xây một tháp để ghi lại việc vua Lưu Ly hạ nhục và cắt
tay chân của năm trăm cung nữ dòng họ Thích vì không chịu làm cung nữ
cho ông ta. Sau này, nhờ đức Phật đến đó cứu độ mà năm trăm cung nữ
đều đắc quả thánh trước khi qua đời. Gần đó là một cái ao cạn nước,
nơi mà thuyền của vua Lưu Ly bị cháy đang khi ông ta vui đùa với cung
nữ.
[43]
Thập pháp: 1/ thiểu dục (lòng ít mong cầu; 2/ tri túc (lòng biết đủ);
3/ tịch tĩnh; 4/ tinh tấn; 5/ chánh niệm; 6/ chánh định; 7/ chánh huệ;
8/ giải thoát; 9/ tán thán giải thoát; 10/ đem lý đại Niết Bàn mà giáo
hóa chúng sanh.
[44]
Ngũ đức (tức năm đức): 1/biết thời tiết; 2/ chân thật; 3/ hành lợi
ích; 4/ tâm nhu nhuyến; 5/ tâm từ bi.
[45]
Tứ y (catursarana): 1/ phải lượm những miếng vải bỏ, may lại thành y
mà mặc. Song, nếu có thí chủ cúng dường y vải thì được thọ nhận. 2/
Thường hành khất thực. Song, trong những ngày hội và thuyết pháp, có
thể nhận sự cúng dường thức ăn của bá tánh. 3/ Phải thường trú dưới
gốc cây. Song, nếu có ai cúng dường lều đá, am tranh, nhà gạch thì
được ở. 4/ Phải dùng thuốc thang cũ khi đau yếu. Song, có thể dùng
sữa, dầu, mật, v.v... do tín thí cúng dường.
[46] Bát giải thoát tức là tám cảnh giới thiền định (asta vimoksa): 1/ Quán thấy bên trong tự mình có sắc tướng, và bên ngoài có cõi sắc (chứng cảnh giới Sơ Thiền). 2/ Trong chẳng thấy sắc tướng, và ngoài còn có cỡi sắc (chứng cảnh giới nhị Thiền). 3/ Giải thoát chứng cảnh tịnh lạc (chứng cảnh giới tam Thiền, tứ Thiền, và Tịnh Phạm Ðịa)). 4/ Chứng cảnh giới Không Vô Biên Xứ (Akasanatyatana). 5/ Chứng cảnh giới Thức Vô Biên Xứ (Vijnananantyatana). 6/ Chứng cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (Akincayayatana). 7/ Chứng cảnh giới Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ (Naisvamjnasamjnayatana). 8/ Chứng cảnh giới Diệt Tận Xứ (Nirodhasamapatti).
[47] Lục độ: Bố thí, trì giới, tinh tấn nhẫn nhục, thiền định, trí huệ.
[48]
Năm trần: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[49]
Chín não hay là chín nạn của đức Thế Tôn: 1/ Bị bà Phạm chí Tôn Ðà
Lợi hủy báng. 2/ Bị cô bà la môn Ðàn Giá giả mang bụng chữa mà vu oan.
3/ Bị Ðề Bà Ðạt Ða xô đá, khiến trầy bàn chân. 4/ Bị nghiệp giáo đâm
bàn chân. 5/ Bị nhức đầu khi vua Lưu Ly giết dòng họ Thích. 6/ Phải
dùng lúa mạch của ngựa mà ăn. 7/ Bị gió rét mà cảm bịnh. 8/ Sáu năm
hành khổ hạnh. 9/ Vào tụ lạc bà la môn khất thực mà không được, phải
trở về với bình bát không.
[50]
Bốn dòng (tứ lưu): Kiến lưu, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu.
[51]
Ba định: Không, vô sắc, vô nguyện.
[52]
Năm biến: Ba la di, tăng tàn, bất định, xả đọa, tội đọa.
[53]
Bảy tụ: Năm biến ở trên cùng với hối quá, chúng học.
[54]
Tam sư là chức Tăng Cang do triều đình bổ nhiệm để: 1/tuyên dương
chánh giáo; 2/ tuyên dương pháp luật; 3/ tuyên dương sự công bằng
trong xã hội.
[55]
Bảy biến hay là bảy tụ (10).
[56]
Bố Tát: Là lễ sám hối và tụng giới của người xuất gia hay những vị đã
thọ giới Bồ Tát.
[57]
Tề Vật là thể phương tiện của lý lẽ.
[58]
Chỉ mã, tức là câu tục ngữ, nói rằng chỉ nai mà thành ngựa.
Nguồn: www.quangduc.com