Thích Hằng Ðạt
Thầy là người huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam,
xuất sanh khoảng khoảng giữa cuối đời Ðông Hán và Tam Quốc. Tánh khí đoan
nghiêm chất trực. Dẫu gặp cảnh vui buồn cũng không làm xao động tâm. Từ
nhỏ đã có bẩm chất thông minh đảnh ngộ, và có tư cách cùng suy tưởng thoát
tục. Ngụy Cao Quý, niên hiệu Cam Lồ thứ hai (257), Thầy xuất gia. Sau khi
xuất gia, Thầy tự nhận lấy trọng trách hoằng dương Phật pháp, và thường
nghiên cứu kinh điển không mỏi mệt.
Kinh Ðạo Hạnh do ngài Trúc Sóc Phật khẩu truyền tụng, rồi ngài Chi Sấm
phiên dịch ra tiếng Hán. Song, vì có rất nhiều lời trích dẫn, nên rất khó
hiểu nghĩa lý của kinh, cùng thông đạt ý nghĩa. Ở Lạc Dương, những khi
nghe ngài Trúc Sóc Phật giảng kinh Ðạo Hạnh, Thầy cảm thấy chưa có thể
thông đạt nghĩa lý, nên than:
- Ðây là bộ kinh thuộc hệ giáo đại thừa. Song, về phần phiên dịch, ý
nghĩa hoàn toàn chưa thông đạt. Thật là tiếc nuối.
Thầy vốn là người Tàu đầu tiên khẳng định sự trọng yếu của kinh Bát Nhã.
Ðối với sự khẩu truyền dịch kinh Ðạo Hạnh của ngài Trúc Sóc Phật, trong
bài tựa của bộ kinh này, ngài Ðạo An có viết: "Phật dạy rằng sau khi Ta
nhập Niết Bàn, cao sĩ nước ngoài, sao chép kinh Chín Mươi Chương thành
Phẩm Ðạo Hạnh. Vào đời Hoàn Ðế và Linh Ðế, Trúc Sóc Phật mang bộ kinh này
qua kinh sư, dịch thành Hán văn. Vì muốn dịch thuận theo ý chỉ, nên chỉ
chuyển âm mà thôi, hầu mong cung thuận thánh ngôn, chớ không gia nhuận
sắc. Song, khi kinh đã được dịch sao toát yếu thành chương chỉ, nhưng âm
tự ngôn từ lại khác với thế tục. Người dịch lại khẩu truyền. Người xem tự
chẳng thấu đạt, thì sao hiểu được bổn ý của kinh? Vì vậy, kinh này dần dần
ẩn tuyệt. Luận của cổ hiền, dần dần ngưng trệ..."
Nếu y cứ theo trên thì chín mươi chương của Phẩm Ðạo Hạnh do sao lược mà
thành. Ngài Trúc Sóc Phật đem sang kinh sư, rồi lại phiên dịch. Song, kinh
này do sao chép toát lược hợp thành đoạn chương; dịch giả cùng vị khẩu
truyền, chưa thông đạt ngôn ngữ tập tục của dị quốc (nước), nên khiến
người nghiên cứu khó mà hiểu rõ ý nghĩa chỉ thú. Do đó, kinh Ðạo Hạnh bị
mai một ẩn mất. Dẫu có các bậc hiền giả gia công luận bàn, giảng giải kinh
này, nhưng người nghe cũng chưa đạt đến nơi chí để. Thiết tưởng, Châu Sĩ
Hành khi đọc qua kinh này, khổ nơi nghĩa lý uẩn khúc, nên mới than phiền
bằng những lời trên.
Do đó, vì cầu Ðại Phẩm (trong quyển Cao Tăng truyện thứ tư viết là Ðại
Bổn), vào đời Tào Ngụy, niên hiệu Cam Lồ thứ năm (260), từ Ung Châu (bao
hàm toàn vùng Xiểm Tây, Cam Túc), Thầy khởi hành sang Tây Vức. Trải qua
bao gian nan hiểm trở, Thầy vượt Cam Túc, tới Ðôn Hoàng, sang Nam Ðạo ở
Tây Vức, vượt sông Lưu Sa, thẳng đến Vu Ðiền (hiện nay là Hòa Ðiền của
tỉnh Tân Cương). Tại nước Vu Ðiền, Thầy sao chép kinh Ðại Phẩm, Chín Mươi
Chương cả sáu trăm ngàn chữ Phạn. Sau khi được bổn văn Ðại Phẩm Chín Mươi
Chương, kinh Bát Nhã, v.v... Thầy sai mười đệ tử như Phất Như Ðàn
(Punyadharma),v.v... mang kinh này trở về Lạc Dương. Theo quyển 'Tam Tạng
Ký Tập' thứ hai, viết:" Kinh Phóng Quang Minh, hai mươi quyển. Tấn Nguyên
Khương nguyên niên (291), vào rằm tháng năm, tìm thấy quyển Chín Mươi
Phẩm, được gọi là Cựu Tiểu Phẩm. Cả một bộ có hai mươi quyển. Thời Ngụy
Cao Quý, niên hiệu Cam Lộ thứ năm (260), sa môn Châu Sĩ Hành đến nước Vu
Ðiền, sao chép bổn văn chánh phẩm bằng tiếng Phạn bộ kinh Mười Chín
Chương. Ðến đời Tấn Võ Ðế, đầu niên hiệu Nguyên Khang, quyển kinh này được
phiên dịch tại chùa Thủy Nam ở Sang Viên, huyện Trần Lưu Giới (tức huyện
Ðông Lưu ở Hàn Nam)."
Y cứ theo trên thì Châu Sĩ Hành mang trở về Lạc Dương chánh phẩm Phạn văn
là "Mười Chín Chương", mà ngài Ðạo An lầm ghi trong bài tựa của kinh Ðạo
Hạnh là "Chín Mươi Chương". Ðến đời Tấn Nguyên Khang nguyên niên (291),
vào ngày rằm tháng năm, ngài Vô Xoa La Vu dịch ra tiếng Tàu. Châu Sĩ Hành
sao chép bổn văn "Ðại Phẩm Chín Mươi Chương", tức gọi là kinh Phóng Quang.
Theo truyện ghi thì lúc Châu Sĩ Hành muốn đem kinh Phóng Quang trở về đất
Tàu, thì bị người khác cản trở. Ðuơng thời, Phất Như Ðàn định xuất phát
mang kinh này về Tàu, thì Phật tử người Vu Ðiền tu theo phái tiểu thừa
liền ra mặt ngăn cản. Họ thưa với quốc vương:
- Sa môn đất Tàu, đem kinh thư của bà la môn, muốn làm hoặc loạn chánh
điển. Nếu nhà vua cho phép họ mang kinh thư này ra khỏi nước, thì đại pháp
sẽ bị tận diệt. Ðấy chính là tội của nhà vua!
Họ cho rằng kinh Phóng Quang Minh vốn là kinh điển của ngoại đạo. Tin lời
tấu truyền này, quốc vuơng không chuẩn y cho Phất Như Ðàn mang kinh ra
khỏi nước. Nghe việc này, Châu Sĩ Hành rất bực tức, bèn đưa ra lời đề nghị
là đốt kinh để cầu chứng minh chân ngụy tà chánh. Ðược quốc vương chấp
thuận, Châu Sĩ Hành nổi lửa trong một điện đình nhỏ. Lúc đang đốt, Châu Sĩ
Hành khấn nguyện:
- Ðại pháp nếu như được lưu bố trên đất Tàu, thì xin kinh này chớ bị
cháy!
Khấn nguyện xong, Châu Sĩ Hành đem bộ kinh này đặt vào trong lò lửa. Khi
ấy, điềm kỳ dị xuất hiện. Lửa trong lò vụt cháy rất mau rồi tắt lịm. Kinh
văn vẫn còn y nguyên như cũ, chẳng mất đi chữ nào. Ðại chúng đều thán phục
oai linh thần dị cảm ứng. Từ đó, không còn ai dám ngăn trở việc đem kinh
ra khỏi nước. Cuối cùng, bộ kinh này được Phất Như Ðàn mang về Lạc Dương.
Ba năm sau, Phất Như Ðàn qua Hứa Xương (phía đông huyện Hứa Xương ở Hà
Nam), rồi lưu lại đó hai năm. Kế đến lại đến chùa Thủy Nam ở Sang Viên,
thuộc vùng trần Lưu Giới (huyện Ðông Lưu ở Hà Nam). Nơi đó bộ kinh này
được phiên dịch.
Vào ngày rằm tháng năm, đời Tấn Võ Ðế, niên hiệu Nguyên Khang (291),
nhiều học giả vân tập luận nghị, phiên dịch thành tiếng Tàu. Ðương thời,
sa môn nước Vu Ðiền là Vô Xoa La (Moksara) chấp trì tiếng Phạn. Cư sĩ Trúc
Thúc Lan (vốn là người Thiên Trúc, theo cha sang đất Tàu lánh nạn) ở Hà
Nam khẩu dịch. Người biên chép là Chúc Thái Huyền và Chu Huyền Minh. Bản
kinh Chín Mươi Chương, tiếng Phạn có đến 207621 câu. Vào ngày hai mươi bốn
tháng chạp năm đó thì dịch hoàn tất. Rằm tháng mười một niên hiệu Thái An
năm thứ hai (303), sa môn Trúc Pháp Tịch đến chùa Thủy Nam, viết lại bổn
kinh và nghiên cứu năm bộ vừa dịch và bản tiếng Phạn. Cư sĩ Trúc Thúc Lan
cùng đồng kiểm duyệt, đến mồng hai tháng tư niên hiệu Vĩnh An nguyên niên
(304) thì hoàn tất. Trúc Pháp Tịch và Trúc Thúc Lan giải định bổn văn,
thành tiêu chuẩn căn bổn cho kinh Phóng Quang Minh đời sau. Vào thời Ðông
Tấn, bộ kinh này được phổ biến khắp nơi, và có rất nhiều người tích cực
nghiên cứu.
Thầy Châu Sĩ Hành thị tịch vào năm tám mươi tuổi tại nước Vu Ðiền. Y theo
pháp thức trà tỳ ở phương tây. Khi đốt, giàn hỏa đã cháy rụi, nhưng thi
thể vẫn còn nguyên. Vị tăng trưởng lão thấy vậy, bèn xướng bảo:
- Nếu chân thật đã đắc đạo thì di thể phải tan hoại.
Nói vừa dứt lời thì thi thể bèn tan ra tro. Tăng chúng liền nhặt lấy xá
lợi để vào trong tháp mà thờ. Ðệ tử của Thầy là Pháp-ích trở về Ðông Ðộ,
rồi đem việc này kể lại cho tăng chúng nghe.
Quyển kinh Ðạo Hạnh do ngài Trúc Sóc Phật dịch hoàn toàn khác với quyển
kinh Phóng Quang Minh Bát Nhã. Theo quyển Khai Nguyên Thích Giáo Lục thứ
mười viết: "Kinh Ðạo Hạnh (1 quyển), do sa môn Trúc Sóc Phật đời Hậu Hán
phiên dịch."
Y cứ theo lời chú giải của ngài Ðạo An thì quyển kinh Ðạo Hạnh này vốn là
bản sao lược của kinh Bát Nhã, do các vị cao minh người Tây Vức soạn. Theo
Tam Tạng Ký Tập của ngài Ðạo An viết: "Ngoại quốc cao sĩ sao chép Ðại Phẩm
Chín Mươi Chương, đó là Ðạo Hạnh Phẩm."
Quyển kinh Ðạo Hạnh do Trúc Sóc Phật dịch, danh tuy gọi là Ðạo Hạnh, mà
ngài Chi Sấm dịch là kinh Ðạo Hạnh Bát Nhã Ba La Mật (10 quyển); Chi Khiêm
dịch là kinh Ðại Minh Ðộ Vô Cực (4); ngài Khương Tăng Hội dịch là Ngô Phẩm
(10 quyển); ngài Trúc Pháp Hộ dịch là kinh Tân Ðạo Hạnh; ngài Kỳ Ða Mật
dịch là kinh Ðại Trí Ðộ (4 quyển); ngài Ðàm Ma Bi cùng với ngài Trúc Phật
Niệm dịch là kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật sao; ngài Cưu Ma La Thập dịch là
kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật (10 quyển); ngài Huyền Trang dịch là kinh
Ðại Bát Nhã Ðệ Tứ Hội. Tất cả đồng đồng bản chính mà dịch có khác.
Bản chính do đệ tử của Châu Sĩ Hành mang về, được dịch là kinh Phóng
Quang Minh Bát Nhã Ba La Mật (20 quyển); quyển này, ngài Trúc Pháp Hộ dịch
là kinh Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật (15 quyển); ngài Cưu Ma La Thập dịch
là kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (40 quyển); ngài Huyền Trang dịch là kinh
Ðại Bát Nhã Ðệ Nhị Hội. Tất cả đều đồng nguyên bản mà dịch thì có khác.
Thầy là người Cao Dương, xuất sanh vào đời Ðông Tấn Mục Ðế (345-361);
mười lăm tuổi xuất gia, tinh tường nghiên cứu kinh điển, thường đi cầu
pháp hỏi đạo. Bấy giờ, Phật pháp chưa được hưng thịnh, và kinh điển còn
nhiều chỗ khiếm khuyết sai lầm. Do ý nguyện "sáng nghe kinh viên giáo, tối
chết cũng cam", nên Thầy định qua Tây Vực để cầu pháp. Song, vừa sang Giao
Châu thì Thầy nhiễm bịnh và tịch tại Tượng Lâm (tức Chiêm Thành).
Ngài tục tánh là Cung, người Võ Dương ở Bình Dương vào đời Ðông Tấn. Ngài
vốn có ba người anh, nhưng đều qua đời vào lúc còn bé. Người cha sợ rằng
sẽ gặp điều chẳng may nữa, nên cho Ngài vào chùa viện xuất gia lúc ba
tuổi, trở thành chú tiểu. Xuất gia xong, lại trở về nhà ở. Vài năm sau,
Ngài bị trọng bịnh, không ai có thể cứu chữa nổi. Người cha không còn cách
nào, bèn đem Ngài trở lại chùa. Trú tại chùa qua hai đêm, bịnh tình của
Ngài từ từ bình phục. Từ đó, Ngài luôn ở chùa viện, chứ không còn trở về
nhà. Tuy song thân rất nhớ nhung, nhưng họ lại sợ rằng nếu Ngài trở về nhà
nữa thì sẽ gặp tai họa. Vì vậy, họ bèn cho xây một am miếu nhỏ kế bên nhà,
làm phương tiện để Ngài có thể trở về nhà trú ở.
Năm mười tuổi, người cha qua đời. Người chú thấy bà mẹ của Ngài cô đon,
phải cần có người sống bên cạnh, nên ép bức Ngài hoàn tục. Ngài bảo:
- Lý do xuất gia vốn chẳng phải vì người cha, thì cớ sao cha mất lại phải
hoàn tục? Tôi vì xa rời thế tục mà xuất gia làm sa di.
Nghe lời này, người chú không còn ép bức Ngài hoàn tục nữa. Chẳng bao
lâu, người mẹ lại qua đời. Ngài bèn trở về nhà lo tang chế. Sau kỳ hạn thủ
hiếu, Ngài liền trở lại chùa tiếp tục tu hành.
Lần nọ, Ngài đương cắt lúa ngoài ruộng với vài mươi đồng học. Một đám ăn
cướp nghèo đói kéo đến giựt lấy thóc mạ. Những sư huynh đệ thấy bọn cướp
hung dữ, bèn bỏ công việc mà chạy mất, chỉ còn lại một mình Ngài an nhiên
bất động, oai nghi điềm đạm, từ tốn bảo bọn cướp:
- Các vị ỷ có nhiều người mà đến cướp bóc. Song, các vị phải tự biết rằng
hiện tại làm du côn ăn cướp, nên cuộc sống phải khốn cùng. Ðó là quả báo
mà xưa kia các vị không chịu bố thí cho người khác. Bây giờ, các vị lại
đến đây cướp giựt tài vật của người, thì e rằng đời sau các vị lại càng bị
nghèo cùng túng quẩn hơn nữa.
Nói xong, Ngài chẳng sợ sệt bỏ đi. Bọn ăn cướp nghe lời chí lý, khiến cảm
thấy hổ thẹn, nên đồng bỏ đi mà không lấy một bao lúa nào. Biết được việc
này, trong chùa cả trăm tăng chúng đều thán phục kiến thức và dũng khí của
Ngài.
Thọ đại giới tỳ kheo xong, hành vi ý chí cang cường, trí huệ mẫn tiệp,
dung mạo chỉnh tề, quy củ đến đi nghiêm túc. Mỗi lần thấy kinh luật khiếm
khuyết, tâm Ngài chột dạ đau xót, nên phát tâm sang Thiên Trúc tầm cầu
kinh luật.
Ðời Ðông Tấn, niên hiệu Long An thứ ba (399), ngài Pháp Hiển cùng với Huệ
Cảnh, Huệ Ngôi, Ðạo Chỉnh, v.v... xuất phát từ Trường An. (Huệ Ngôi vốn cư
trú tại chùa Trường An Ðại Tự, nghiêm thủ giới luật, thường lên sơn cốc tu
thiền định. Nhiều lần ma quỷ, thiên nữ đến quấy phá mà tâm Thầy vẫn không
lay động.)
Dưới đây là lời tự thuật của ngài Pháp Hiển về cuộc hành trình sang Thiên
Trúc cầu kinh điển.
Chương I. Từ Trường An đến Sa Mạc cát đá (Sandy
desert).
Pháp Hiển xưa ở tại Trường An
[1]. Buồn thương vì luật tạng khiếm khuyết, và
muốn đạt được sở nguyện, nên vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hoằng Thủy
[2] cùng Huệ Cảnh, Ðạo Chỉnh, Huệ Ứng, Huệ
Ngôi
[3] v.v... đồng khế ước qua Thiên Trúc, tầm
cầu Luật Tạng
[4].
Ðầu tiên chúng tôi phát khởi tại Trường An, rồi vượt thung lũng Lung
[5], đến nước Càn Quy
[6]; an cư kiết hạ
[7] tại đó. Kiết hạ xong, chúng tôi tiếp tục
đi đến nước Nậu Ðàn
[8], băng qua núi Dương Lâu và tới trấn Trường
Dịch
[9]. Trường Dịch đại loạn, đạo lộ không thông.
Song, vua nước Trường Dịch ân cần lưu giữ chúng tôi lại và làm đàn việt
[10]. Nơi đó, chúng tôi vui mừng gặp được các
thầy đồng chí hướng qua Thiên Trúc thỉnh kinh như Trí Nghiêm, Huệ Giản,
Tăng Thiệu, Bảo Vân, Tăng Cảnh
[11] v.v... Nhân tiện chúng tôi đồng an cư
kiết hạ
[12] tại đó. Kiết hạ xong, lại đi tới Ðôn
Hoàng
[13] tức vùng biên cương, đông tây rộng khoảng
tám mươi dặm, nam bắc khoảng bốn mươi dặm. Nghỉ ngơi hơn một tháng xong,
tôi (Pháp Hiển) cùng bốn vị pháp hữu theo đoàn sứ giả đi trước, rồi lại
chia tay với các thầy như Bảo Vân v.v... Thái Thú tại Ðôn Hoàng là Lý Hạo
[14] cung cấp vật liệu cần dùng và thức ăn để
vượt sa mạc. Trong sa mạc
[15] có nhiều ác quỷ và gió nóng. Nếu người bộ
hành gặp phải chúng thì sẽ bị chết, không có ai là toàn mạng cả. Trên trời
không chim chóc. Dưới đất không cầm thú. Nhìn xa mỏi mắt, muốn cầu qua
vùng đó, tức không thể biết định đoạt phương hướng nơi đâu, duy chỉ có
xương khô cốt trắng của người chết làm tiêu điểm.
Chương II. Ðến Thiện Thiện và Vu Ðiền (Khoten).
Ði khoảng mười bảy ngày, tính khoảng một ngàn năm trăm dặm, chúng tôi đến
nước Thiện Thiện[16].
Vùng đất đó gập ghềnh cheo leo, đất đai khô cằn. Người thế tục mặc đồ thô
sơ như đất Hán
[17], chỉ khác ở chỗ là có người mặc nỉ và áo
quần bằng lông. Quốc vương nước này tín phụng Phật pháp. Trong nước có hơn
bốn ngàn tăng sĩ. Tất cả tăng sĩ đều tu theo phái nguyên thủy. Tại quốc
gia này và các quốc gia khác, dân chúng cùng chư sa môn
[18] tận tụy tu hành theo Phật pháp ở Thiên
Trúc[19],
chỉ có khác nơi tinh tường hay thô tế. Từ đây đi về hướng tây, chúng tôi
đều nhận thấy rằng các quốc gia nói tiếng Hồ[20]
ngữ tiếng không đồng. Tuy nhiên, tất cả người xuất gia đều học theo sách
vở và ngôn ngữ của Thiên Trúc. Nghỉ ngơi ở đó khoảng một tháng, rồi tiếp
tục đi về hướng tây bắc. Trải qua mười lăm ngày, đến nước Ô Di
[21]. Tăng sĩ trong nước đó cũng có hơn bốn
ngàn vị. Tất cả đều tu theo phái tiểu thừa, phép tắc rất chỉnh tề. Thế
nên, sa môn nước Tần
[22] khi đến đó, chưa có thể chuẩn bị được
tinh thần để theo những điều lệ của tăng chúng ở nơi ấy. Chúng tôi được sự
hộ pháp của hành đường Phù Công Tôn, nên trú ở đó hơn hai tháng. Nơi đó,
chúng tôi gặp lại các thầy Bảo Vân[23]
v.v... Người nước Ô Di không biết tu lễ nghĩa, nên tiếp đãi khách rất tệ
bạc. Vì vậy, thầy Trí Nghiêm, Huệ Giản, Huệ Khôi, đồng trở lại Cao Xương
[24], vì muốn xin thêm tư lương để đi trên
đường. Nhóm của chúng tôi nhờ Phù Công Tôn cung cấp lương thực, nên lại
tiếp tục đi về hướng tây nam. Trên đường không có cư dân. Những nỗi khó
khăn gian nan đi bộ hành, trên nhân gian chắc không ai so sánh được. Ði
khoảng một tháng năm ngày, chúng tôi đến nước Vu Ðiền
[25].
Chương III. Vu Ðiền, Lễ Diễn Hành, Ngôi chùa mới của nhà vua.
Nước Vu Ðiền giàu sang phong phú; nhân dân tuy đông đúc nhưng sống đời an
lạc ấm no. Dân chúng đều tín phụng Phật pháp, dùng pháp lạc (của âm nhạc)
làm nguồn vui. Chúng tăng số đến hàng vạn, đa số đều tu theo pháp đại
thừa, và đồng có nhà ăn (chúng thực). Nhà cửa dân chúng nước đó cách xa
nhau như tinh sao. Trước mỗi cổng nhà đều có tháp nhỏ. Tháp nhỏ nhất cao
khoảng hai mươi thước. Trong các tự viện, họ xây tứ phương tăng phòng
[26], để cung cấp cho khách tăng trú ở, cùng
cúng dường bất cứ vật dụng gì chư tăng cần thiết.
Quốc chủ an bài cho chúng tôi ở tại một ngôi Tăng Già Lam[27],
được gọi là Cù Ma Ðế[28],
tức là chùa của phái đại thừa. Ba ngàn tăng chúng được báo hiệu giờ cơm
bằng cách đánh kiền. Lúc vào nhà ăn, oai nghi chư tăng tề chỉnh, theo thứ
tự mà ngồi, mỗi mỗi đều tịch nhiên nhẹ nhàng, không có tiếng kêu của bình
bát. Khi những vị tịnh nhân[29]
đó muốn có thêm thức ăn, các ngài không kêu la mà chỉ ra hiệu bằng ngón
tay.
Huệ Cảnh, Ðạo Chỉnh, Huệ Viễn đi đến nước Kiệt Xoa (Tashkurgan) trước.
Nhóm của chúng tôi vì muốn quán sát hành tướng của các vị tăng trong chùa,
nên ở lại ba tháng. Trong nước đó có bốn ngôi tăng già lam đồ sộ mà không
tính những ngôi chùa nhỏ. Từ mồng một tháng tư, họ bắt đầu quét dọn đường
xá thành quách, trang nghiêm cảng mạch. Trên cổng thành họ giăng một cái
lều lớn, rồi trang hoàng lộng lẫy chung quanh. Vua cùng phu nhân thế nữ
đều trú trong đó.
Tăng chúng chùa Cù Ma Ðế (tu theo phái đại thừa) đều được vua kính trọng,
dẫn đầu đoàn bộ hành rước lễ thánh tượng. Cách thành khoảng ba bốn dặm, họ
làm hình xe bốn bánh, cao hơn ba trượng, dạng trạng như điện đường di
động, trên có bảy báo[30]
trang nghiêm tương giao với tràng phan bảo cái treo chung quanh. Chính
giữa là tượng Phật và hai bên là Bồ Tát, cùng với tượng của chư thiên ở
đằng sau. Tất cả hình tượng đều làm bằng vàng bạc và được điêu khắc rất
đẹp đẽ, cùng được treo trên không trung. Khi xe cách thành khoảng trăm
bước, nhà vua liền lấy mão xuống, thay đổi long bào mới, rồi đi chân
không, cầm hương hoa, cùng đoàn quân hộ tống hai bên, xuất thành cung
nghinh tượng Phật. Ðến nơi, nhà vua đầu mặt đảnh lễ dưới chân xe, rồi rải
hoa dâng hương. Khi tượng Phật vào thành, trên lầu các cửa thành, phu nhân
cùng thể nữ rải hoa xuống khắp đầy mặt đất. Cúng dường trang nghiêm đầy đủ
như thế. Xe diễn hành tượng Phật của mỗi chùa đều khác nhau. Từ mồng một
đến ngày mười bốn tháng tư, mỗi ngày đều có xe hành tượng của mỗi ngôi
chùa Tăng Già Lam. Lễ diễn hành thánh tượng kết thúc, vua cùng phu nhân
đều trở về hoàng cung.
Cách thành khoảng bảy tám dặm về phía tây có một ngôi Tăng Già Lam, tên
là chùa Vương Tân, được xây trong tám mươi năm, trải qua ba đời vua mới
thành. Chùa cao khoảng hai mươi lăm trượng. Nghệ thuật điêu khắc đẹp đẽ
lộng lẫy tuyệt vời. Vàng bạc được phết trên đó. Các loại châu báu đều hợp
thành. Ðằng sau tháp của chùa có xây ngôi chánh điện, rất trang nghiêm đẹp
đẽ vi diệu. Cột, trụ, cửa, khung sổ đều được sơn phết bằng vàng lá. Ngoài
ra, tăng phòng cũng được trang sức rất nghiêm lệ, không thể diễn tả bằng
lời được. Bất cứ những vật trân bảo quý báu nhất của sáu quốc vương vùng
đông lãnh[31],
đa số họ đều cúng dường hết mà chỉ giữ lại rất ít để dùng riêng.
Chương IV. Ði xuyên qua ngọn núi Thông Lãnh (Ts'ung hay Pamir) đến
nước Kiệt Xoa (Tashkurgan).
Lễ hành thánh tượng vào tháng tư kết thúc, thầy Tăng Thiều một mình theo
Hồ đạo nhân hướng Kế Tân
[32]. Chúng tôi đi khoảng hai mươi lăm ngày
thì đến nước Tử Hợp[33].
Quốc vương tu học Phật pháp rất là tinh tấn. Trong nước có hơn một ngàn
tăng sĩ, đa số là hành theo pháp đại thừa. Ở nơi đây qua mười lăm ngày,
chúng tôi lại đi về hướng nam trong bốn ngày, vào núi Thông Lĩnh, đến nước
Ư Huy
[34] an cư kiết hạ
[35]. Kiết hạ xong, đi theo đường núi cả hai
mươi ngày thì đến nước Kiệt Xoa. Nơi ấy, chúng tôi gặp lại các thầy Huệ
Cảnh
[36] v.v...
Chương V. Lễ Bàn Giá Việt Sư hay đại pháp hội trong năm năm, Xá
Lợi của Phật. Ngũ cốc của nước đó.
Ngẫu nhiên, khi đến đó, chúng tôi gặp lúc quốc vương đang tổ chức lễ Bàn
Giá Vượt Sư[37];
tiếng Tàu gọi là đại pháp hội trong năm năm. Lúc đó, quốc vương cung thỉnh
tứ phương Sa Môn đồng đến. Chư Sa Môn tụ hội xong, nơi chỗ ngồi của các
ngài đều được trang hoàng nghiêm sức; phía trên có treo tràng phan bảo
cái; họ dùng vàng bạc để làm liên hoa, rồi đặt đằng sau những chỗ ngồi của
chư tăng; phô bày những tọa cụ thanh tịnh. Lúc chư tăng đều ngồi xuống
xong, vua cùng đại thần liền y theo pháp mà cúng dường. Ðại pháp hội được
tổ vào tháng giêng, tháng hai, hoặc tháng ba; đa phần là trong mùa xuân.
Quốc vương tổ chức pháp hội xong, ông lại khuyến tấn chư quần thần thiết
trai cúng dường từ một ngày cho đến bảy ngày. Cúng dường xong, vua lại lấy
xe ngựa, yên, cuơng, rồi bảo vị đại quan tôn quý nhất trong nước đỡ ông
lên yên ngựa ngồi. Kế đến, nhà vua lại lấy lụa trắng mịn màng nhất cùng
bao loại trân bảo và những vật mà chư tăng cần dùng, rồi đồng với quần
thần phát nguyện bố thí cúng dường chư tăng. Cúng dường xong, vua quan
quần thần chuộc lại những gì họ muốn từ tăng chúng.
Núi non nơi đó rất lạnh lẽo; đông hạ tuyết đóng quanh năm; không sản xuất
ngũ cốc, duy chỉ có lúa mì chín. Ðương thời, chư tăng vừa định lãnh thọ
phần lúa mì trong năm thì trời chợt rơi sương tuyết. Vì vậy nhà vua thỉnh
chư tăng hãy khiến cho lúa mì chín rồi mới lãnh phần lương thực
[38].
Trong nước này có ống nhổ của Phật được làm bằng đá, màu sắc tựa như bình
bát của Phật. Trong nước lại có một cái răng của Phật. Người trong nước
đó, xây tháp thờ răng Phật. Bên cạnh ngôi tháp có một ngôi chùa chứa hơn
một ngàn tăng sĩ. Chư tăng đều tu theo pháp tiểu thừa. Từ núi đó đi về
hướng đông, người thế tục ăn mặc đồ thô sơ như người Tần, nhưng có việc
khác là họ thường mặc đồ may bằng vải lụa mỏng hay lông cừu. Luật lệ sa
môn nơi đó rất nghiêm túc, không thể viết hết được. Nước này nằm trong dãy
núi Thông Lĩnh. Trên dãy núi đó, cỏ cây hoa quả đều khác với cỏ cây hoa
quả ở nước Tàu, trừ trúc tre, quả an thạch lưu, cam giá (cây mía).
Chương VI. Ðến bắc Thiên Trúc, vương quốc Ðà Lịch (Darel), tượng
Bồ Tát Di Lặc (Maitreya).
Từ núi đó chúng tôi đi về phía tây, hướng đến bắc Thiên Trúc. Ði khoảng
một tháng thì vượt qua dãy Thông Lĩnh. Trên dãy núi Thông Lĩnh, mùa đông
hay mùa hè đều có băng tuyết. Nơi đó, lại có rồng độc. Nếu không để ý thì
sẽ khiến cho rồng độc thổi gió độc, làm mưa tuyết, cát bay, đá rơi. Nếu
gặp nạn này thì không thể toàn mạng. Người vùng đó gọi dãy núi này là
Tuyết Sơn. Vượt qua đảnh núi này thì chúng tôi đến bắc Thiên Trúc. Trước
khi vào bắc Thiên Trúc, có một vương quốc nhỏ, gọi là Ðà Lịch[39].
Trong nước cũng có chúng tăng, đều tu theo phái tiểu thừa.
Xưa kia, nước này có một vị A La Hán, dùng định lực thần túc, đem một ông
thợ điêu khắc lên cung trời Ðâu Suất
[40], quán xem sắc trạng diện mạo thân tướng
của Bồ Tát Di Lặc[41],
rồi trở về khắc gỗ tạo tượng. Trước sau ông thợ điêu khắc lên đó ba lần,
rồi cuối cùng khắc thành tượng, cao tám mươi thước, bàn tọa rộng tám
thước. Những ngày trai lạt, thánh tượng thường phóng ánh hào quang. Chư
quốc vương lân cận đều tranh nhau mà cúng dường cho đến hiện tại.
Chương VII. Băng qua sông Tân Ðầu (Indus). Khi đạo Phật vượt sông
Tân Ðầu để tiến về phía đông.
Từ chân núi chúng đi về hướng tây nam khoảng mười lăm ngày. Ðường lộ nơi
đó rất gồ ghề, vách núi hiểm trở. Dãy núi đó có một tảng đá thạch bích
rộng khoảng mười ngàn thước vuông. Ðến đó thì chúng tôi bị hoa mắt; muốn
tiến bước nhưng không biết đi ngõ nào. Bên dưới có con sông, được gọi là
Tân Ðầu
[42]. Người xưa đã từng đục đá ven núi để mở
đường đi và làm khoảng bảy trăm thềm cấp. Bên dưới có cây cầu dây để vượt
sông. Lòng sông rộng khoảng tám mươi bộ. Nơi đây đã được ghi trong sách
Cửu Dịch[43]
của Trương Khiên[44]
và Cam Anh[45],
nhưng họ chưa từng tới đó.
Chúng tăng trong đoàn hỏi tôi (Pháp Hiển) rằng có biết Phật pháp được
truyền về miền đông vào lúc nào không. Tôi đáp rằng người ở xứ đó đều nói
là theo tục truyền thì sau khi xây tượng Di Lặc, sa môn từ Thiên Trúc
thường mang kinh luật vượt qua con sông này. Tượng Di Lặc này đã được đúc
khắc sau Phật Thích Ca nhập Niết Bàn khoảng ba trăm năm, tức vào thời vua
Chu Ðể Bình[46].
Theo huyền sử này, đại giáo tuyên lưu ở đông độ, bắt đầu vào thời xây
tượng Di Lặc này. Không phải đại sĩ Di Lặc tiếp tục chuyển bánh xe pháp
của Phật Thích Ca, xiển dương ngôi Tam Bảo[47],
khiến cho người vùng biên địa biết đến chánh pháp thì là ai? Chúng ta biết
rằng việc vận khai chánh pháp không phải là việc của người thường; giấc
mộng thấy Phật của vua Hán Minh Ðế[48]
vốn là nguyên nhân chính cho sự truyền bá Phật pháp.
Chương VIII. Vương quốc Ô Trường (Udyana), chùa chiền, theo di
tích của Phật đà.
Vượt qua sông này thì đến nước Ô Trường[49].
Nước Ô Trường chính là phần đất của bắc Thiên Trúc. Dân chúng dùng ngôn
ngữ của trung Thiên Trúc. Trung Thiên Trúc cũng được gọi là Trung Quốc. Y
phục ăn mặc của dân chúng nước đó đều giống như Trung Quốc. Phật pháp nơi
đó rất hưng thạnh. Nơi chư tăng trú ở được gọi là Tăng Già Lam
(Sangharama). Nơi đó có khoảng năm trăm ngôi tăng già lam. Chư tăng đều tu
theo phái tiểu thừa. Nếu có khách tăng đến, họ được cúng dường trong ba
ngày. Cúng dường xong, họ khuyên chư khách tăng là phải tự tìm chỗ an cư.
Theo truyền thuyết, thuở xưa Phật có một lần đến bắc Thiên Trúc, tức là
nước này vậy. Dấu chân Phật cũng còn in nơi đó; dài hay ngắn tùy theo tâm
niệm của tín chúng, cho đến hôm nay vẫn còn như thế. Nơi đó vẫn còn tảng
đá mà Phật đã từng giặt y ca sa, và chỗ mà Ngài đã từng hóa độ rồng độc.
Tảng đá cao một trượng bốn thước, rộng hai trượng, một bên là bằng phẳng.
Ba thầy Huệ Cảnh, Huệ Viễn, Ðạo Chỉnh đến nước Na Kiệt[50]
trước, nơi có bóng của Phật. Nhóm chúng tôi trú lại nước đó để an cư kiết
hạ[51].
Kiết hạ xong, chúng tôi đến nước Túc Ha Ða[52].
Chương IX. Vương quốc Túc Ha Ða. Truyền ký của Phật đà.
Trong nước này Phật pháp cũng rất hưng thạnh. Nơi đây vốn là chỗ mà thuở
xưa vua Thiên Ðế Thích (Sakra, Ruler of Devas) đã từng thử Bồ Tát. Ông hóa
thân làm quạ đuổi bắt chim bồ câu, khiến Bồ Tát phải cắt thịt cho quạ ăn.
Ðạt được trí huệ viên mãn[53]
xong, Phật cùng chư đệ tử du hành đến nơi đó. Phật bảo họ rằng đây là nơi
mà Ngài đã từng cắt thịt cho quạ ăn để cứu chim bồ câu. Dân chúng biết
việc này bèn xây tháp và trang sức, phết bằng vàng bạc để thờ phụng ngay
tại chỗ đó.
Chương X. Kiền Ðà Vệ (Gandhara). Truyền thuyết về Phật đà.
Từ nơi đó đi về hướng đông khoảng năm ngày thì đến nước Kiền Ðà Vệ[54].
Ðây là vương quốc do con của vua A Dục
[55], hiệu Pháp-ích (Dharma-vivardhana), trị
vì thuở xưa. Khi còn hành hạnh Bồ Tát, Phật đã từng bố thí mắt của mình
nơi đó
[56]. Tại chỗ ấy, dân chúng cũng xây tháp lớn,
được trang sức bằng vàng bạc. Người nước đó đa phần tu học theo phái tiểu
thừa.
Chương XI. Trúc Sát Thi La (Tashasilâ). Truyền thuyết. Bốn ngôi
đại tháp.
Từ nơi đó đi về hướng đông khoảng bảy ngày, chúng tôi đến nước Trúc Sát
Thi La. Trúc Sát Thi La[57]
tiếng Tàu dịch là Tiệt Ðầu. Lúc Phật còn làm Bồ Tát, Ngài đã từng bố thí
đầu mình tại nơi đó
[58], nên mới có tên là Tiệt Ðầu. Kế đến,
chúng tôi đi về hướng đông hai ngày, tới nơi Bồ Tát thuở xưa đã từng thả
mình từ trên cây cao xuống để bố thí thân thể cho hổ đói. Tại hai nơi đó,
dân chúng cũng lập tháp và trang sức bằng các loại châu báu để cúng dường.
Chư quốc vương và thần dân ở những vùng lân cận cũng thường tranh nhau đến
cúng dường, cùng rải hoa dâng hương lên hai ngôi tháp đó, tương tục không
ngớt. Dân chúng quanh vùng gọi nơi đó là Tứ Ðại Tháp.
Chương XII. Vương quốc Phất Lầu Sa (Peshâwur). Lời huyền ký của
đức Phật về vua Kiền Ni Ca (Kanishka) và tháp của ông ta. Bình bát của đức
Phật. Huệ Ứng nhập tịch.
Từ nước Kiệt Ðà Vệ, chúng tôi đi về hướng nam khoảng bốn ngày thì đến
nước Phất Lầu Sa[59].
Lần nọ, cùng chư đệ tử du hành đến đó, Phật bảo ngài A Nan:
- Sau khi Ta nhập niết bàn, sẽ có một quốc vương, tên là Kiền Ni Ca[60],
lập tháp nơi đây.
Sau này, thật sự có vua Kiền Ni Ca xuất thế. Lần nọ, khi vua Kiền Ni Ca
đang du hành quán sát dân tình, Thiên Ðế Thích muốn khai mở tâm ý của ông
ta, nên hóa làm chú bé chăn trâu xây tháp ngay trên đường lộ. Vua Kiền Ni
Ca liền hỏi:
- Ngươi đang lập tháp gì đó?
Bé mục đồng đáp:
- Tôi đang xây tháp thờ Phật.
Vừa nghe qua, vua rất vui mừng, nên liền kiến lập tháp ngay nơi tháp của
đứa bé chăn trâu mới vừa xây. Tháp đó cao hơn bốn mươi trượng và được
nghiêm sức bằng các loại châu báu. So với tất cả bảo tháp mà chúng tôi
ngắm xem trên dọc đường, ngôi tháp này tráng lệ oai nghiêm mà không có cái
nào sánh bằng được. Tương truyền rằng các ngôi tháp ở cõi Diêm Phù Ðề
[61], chỉ có ngôi tháp này là cao ráo, tráng
lệ, oai nghiêm bậc nhất. Nhà vua xây tháp này xong, nơi phía nam của tháp
này chợt xuất hiện ra tháp nhỏ của chú bé chăn trâu (tức trời Thiên Ðế
Thích), cao ba thước.
Bình bát của Phật cũng ở tại nước này. Xưa kia, vua Nguyệt Thị
[62] mang đại binh đến nước này, muốn đoạt lấy
bình bát của Phật. Chinh phục nước này xong, vua Nguyệt Thị cùng quần thần
dốc lòng tín phụng Phật pháp. Vì muốn mang bình bát này đi, nên nhà vua
thiết đại lễ cúng dường. Cúng dường Tam Bảo xong, nhà vua liền trang sức
một thớt voi lớn, rồi đặt bình bát của Phật lên đó. Thớt voi đó quỳ xuống,
nhưng không thể đứng dậy, hay tiến bước nổi. Nhà vua thấy vậy mới làm xe
bốn bánh để chở bình bát và dùng tám thớt voi để kéo, nhưng chúng vẫn
không thể đi nổi. Nhà vua biết rõ chưa đủ duyên với bình bát này[63],
nên tự thầm hổ thẹn buồn thương, rồi liền lập tháp xây ngôi tăng già lam
nơi đó. Nhà vua lại cho quân trấn thủ và cúng dường rất nhiều đồ vật.
Nơi ngôi tăng già lam đó, có khoảng bảy trăm tăng sĩ. Mỗi ngày gần giờ
ngọ, chư tăng mang bình bát của Phật ra. Các người bạch y
[64] v.v... cúng dường bao loại đồ vật, rồi họ
mới dùng ngọ. Vào buổi tối, lúc dâng hương, họ cũng mang bát ra. Bát có
thể chứa hai đấu gạo. Bình bát có nhiều màu sắc, nhưng đa phần là màu đen
thẩm; bốn bên đều sáng chói rõ ràng[65].
Bề dầy của bình bát khoảng hai phân và sáng trong đẹp đẽ. Nếu người nghèo
bỏ những cành hoa nhỏ vào đó thì bình bát đầy cả hoa. Nếu người giàu có
muốn cúng dường hoa, dầu họ có bỏ vào trăm ngàn vạn cành hoa, nhưng vẫn
không thể đầy bình bát.
Các thầy như Bảo Vân, Tăng Cảnh chỉ cúng dường bình bát của Phật rồi trở
về. Huệ Cảnh, Huệ Viễn, Ðạo Chỉnh, đi đến nước Na Kiệt để cúng dường đảnh
lễ hình bóng, răng, và xương đầu xá lợi của Phật. Huệ Cảnh bịnh, nên Ðạo
Chỉnh ở lại trông nom, còn một mình Huệ Viễn trở lại nước Phất Lầu Sa
tương kiến những thầy khác. Kế đến, thầy Huệ Viễn, Bảo Vân, Tăng Cảnh, trở
lại nước Tần. Tại chùa Phật Bát, thầy Huệ Ứng tịch mất. Vì vậy, tôi (Pháp
Hiển) một mình đi đến nơi thờ xá lợi xương đầu của Phật.
Chương XIII. Vương quốc Na Kiệt (Nagâra). Lễ cúng dường xá lợi
xương đầu của Phật. Những xá lợi khác. Bóng hình của đức Phật.
Ði khoảng mười sáu do tuần[66],
thì đến thành Hải La
[67] tại biên giới của nước Na Kiệt. Trong
thành có thờ xá lợi xương đầu của Phật, được nghiêm sức bằng bao loại vàng
bạc cùng bảy báu. Quốc vương rất tôn kính xá lợi Phật. Sợ có người muốn ăn
cắp xá Lợi Phật, nhà vua tìm tám người giàu sang trong nước. Mỗi người
mang phong ấn đến đó để hộ trì. Vào sáng sớm, mỗi người đều xem xét ấn của
mình, rồi mới mở cửa. Mở cửa xong, họ dùng dầu thơm rửa tay, rồi đem xá
lợi xương đầu của Phật đặt ngoài tịnh xá trên một chiếc ghế cao. Kế đến họ
dùng bảy loại châu báu để chêm bên dưói và úp chén lưu ly bên trên. Tất cả
đều được nghiêm sức bằng các tràng châu báu. Xá lợi xương đầu của Phật màu
vàng lợt, hình sắc không tròn trịa, rộng khoảng bốn tấc và xoáy tròn lên
hướng trên. Mỗi ngày đem xá lợi này ra xong, người trong tịnh xá liền lên
đài cao, đánh trống lớn, thổi loa lớn, vỗ khiên đồng lớn. Nhà vua nghe
xong liền đi thẳng đến tịnh xá, dùng hoa hương để cúng dường. Cúng dường
xong, nhà vua cùng quần thần, thứ đệ nâng xá lợi lên đảnh đầu, lễ bái rồi
lui ra. Họ vào từ cửa đông, ra từ cửa tây. Nhà vua cúng dường đảnh lễ xá
lợi Phật xong, trở về lo việc vương triều, quốc chánh. Cư sĩ trưởng giả
cũng đến cúng dường lễ bái xong rồi mới bắt tay làm việc nhà. Ngày ngày
như thế, không bao giờ giải đãi, thối thất. Cúng dường xong, họ lại đặt xá
lợi vào trong tịnh xá của bảo tháp giải thoát bằng bảy thứ châu báu, hoặc
mở hoặc đóng, cao khoảng năm thước. Trước cổng tịnh xá, thường luôn có
những người bán hương hoa. Nếu có ai muốn cúng dường thì mua các loại
hương hoa đó để dâng cúng xá lợi. Chu quốc vương lân cận cũng thường phái
sứ giả đến cúng dường. Tịnh xá được xây trên thềm đá hình vuông, rộng
khoảng ba mươi bước. Dầu trời lay đất lở, nhưng tịnh xá đó cũng không rung
động.
Từ nơi đó, ngài Pháp Hiển đi khoảng một do tuần đến đô thành của nước Na
Kiệt. Trong đời tiền kiếp Bồ Tát (tức Phật Thích Ca hiện đời) đã từng dùng
tiền bạc, mua năm bó hoa để cúng dường Phật Ðịnh Quang[68].
Trong thành cũng có tháp thờ răng Phật. Quốc vương quần thần và dân chúng
cũng cúng dường giống như cách thức tại tịnh xá thờ xá lợi xương đầu của
Phật.
Cách thành về hướng đông bắc có một cốc khẩu (thung lũng). Nơi đó có cây
tích trượng[69]
của Phật, cũng được lập tịnh xá cúng dường. Cây tích trượng được làm bằng
gỗ ngưu đầu chiên đàn, dài khoảng một trượng sáu. Cây tích trượng được đặt
trong một ống cây lớn. Dẫu có trăm ngàn người muốn nâng lên, nhung không
thể di động nổi.
Vào cốc khẩu, đi về hướng tây, có một bộ tăng già lê của Phật. Nơi đó
cũng được lập tháp cúng dường. Vào những năm hạn hán, dân chúng nước đó
mang bộ y tăng già lê ra, lễ bái cúng dường thì trời liền đổ mưa.
Cách thành Na Kiệt về hướng nam khoảng nửa do tuần có một thạch thất
trong một ngọn núi ở phía tây nam, Phật từng lưu bóng ảnh nơi đó, được gọi
là Phật Ảnh Quật. Nhìn xa từ mười bước, thì thấy như ảnh bóng thật của
Phật với tướng hảo kim sắc[70],
quang minh chiếu sáng; càng đến gần càng thấy rõ rệt, phảng phất như thật.
Quốc vương các nơi khác, thường sai họa sĩ điêu luyện đến vẽ, nhưng chẳng
có ai vẽ được rõ ràng cả. Dân chúng trong nước truyền tụng nhau rằng có cả
ngàn vị Phật[71]
lưu bóng ảnh nơi đó.
Cách bóng ảnh Phật khoảng bốn trăm bước về hướng tây, lúc còn tại thế,
đức Phật đã từng cắt tóc và móng tay nơi đó. Phật tự cùng với chư đệ tử
xây tạo tháp, cao bảy tám trượng để làm kiểu mẩu cho các tháp trong đời
tương lai, mãi đến hiện nay vẫn còn tồn tại. Kế bên tháp có một ngôi chùa.
Trong chùa có hơn bảy trăm tăng sĩ. Nơi đó có hàng ngàn tháp thờ chư A La
Hán và Bích Chi Phật[72].
Chương XIV. Huệ Cảnh nhập tịch tại núi Tiểu Tuyết Sơn. Vương quốc
La Di, Bạt Na. Vượt sông Tân Ðầu.
Trụ nơi đó trong ba tháng mùa đông, tôi (Pháp Hiển) cùng hai thầy khác[73]
đi về hướng nam, vượt qua núi Tiểu Tuyết Sơn[74].
Trên núi mùa đông hay mùa hạ đều có tuyết. Nơi phía bắc của ngọn núi,
chúng tôi gặp gió lạnh thổi đến, khiến ai nấy đều rung rẩy, không thể nói
năng được. Thầy Huệ Cảnh không thể đi thêm nổi, miệng sôi nước bọt trắng,
bảo tôi:
- Chắc tôi không thể sống nổi. Nếu tiện các thầy hãy đi ngay, chớ cùng
chết chung nơi nầy.
Nói xong thầy Huệ Cảnh liền qua đời. Pháp Hiển lung lay xác chết, buồn
thương rơi lệ:
- Dự tính của chúng ta đã thất bại. Ðây cũng do số nghiệp. Biết làm gì
hơn.
Nói xong, tôi tự phấn chấn tinh thần, vượt qua đỉnh núi phía nam, đến
nước La Di[75].
Trong vùng phụ cận có khoảng ba ngàn tăng sĩ, đồng tu theo đại tiểu thừa.
Trụ nơi đó qua mùa hạ[76].
Kiết hạ xong, chúng tôi đi về hướng nam mười lăm ngày đến nước Bạt Na[77].
Trong nước cũng có hơn ba ngàn tăng sĩ, đồng tu theo phái tiểu thừa. Từ
nơi đó, chúng tôi đi về hướng đông ba ngày, rồi lại băng qua sông Tân Ðầu.
Hai bên bờ sông đất đai đều bằng phẳng.
Chương XV. Vương quốc Tỳ Trà (Bhida). Thương hại du tăng.
Qua sông đó có nước tên là Tỳ Trà[78].
Nơi này, Phật pháp hưng thịnh. Tăng chúng tu học theo hai phái đại thừa và
tiểu thừa. Tăng chúng trong vùng gặp những đạo nhân từ nước Tần đến, nên
động lòng lân mẫn, bảo:
- Làm sao người vùng biên địa biết đến đạo của người xuất gia, đi qua
miền đất xa xuôi để cầu Phật pháp?
Họ cung cấp những đồ vật cần dùng và đối đãi khách tăng đúng như pháp
tắc.
Chương XVI. Vương quốc Ma Ðầu La (Mathurâ). Phong tục tập quán của
tăng sĩ tại các tịnh xá, và tự viện ở trung Thiên Trúc.
Từ nơi đó, chúng tôi đi về hướng đông nam gần tám mươi do tuần. Chúng tôi
đi ngang qua rất nhiều chùa viện, có hàng vạn tăng sĩ. Qua những nơi đó,
đến một vương quốc tên là Ma Ðầu La[79].
Chúng tôi đi dọc theo sông Bộ Na[80].
Hai bên bờ sông có hai mươi ngôi tăng già lam, chứa khoảng ba ngàn tăng
sĩ. Vùng này, bánh xe Phật pháp luân chuyển hưng thạnh. Mọi nơi từ những
bãi sa mạc cho đến vùng phía tây, các vương quốc ở Thiên Trúc đều tín
phụng Phật pháp. Lúc vua chúa cúng dường chúng tăng, họ đều bỏ vương niệm
xuống, rồi cùng chư tông thất quần thần tự tay dâng thức ăn. Cúng dường
xong, quân lính trải thảm trên đất. Nhà vua ngồi trước mặt chúng tăng, đối
diện với vị thượng tọa, mà không dám ngồi trên ghế cao. Lúc Phật còn tại
thế, pháp thức mà các quốc vương cúng dường cũng còn truyền đến ngày nay.
Từ nơi đó, hướng về phía nam, được gọi là Trung Quốc[81].
Nước đó thời tiết nóng lạnh điều hòa, không có sương tuyết. Nhân dân sống
đời an lạc sung túc, không ghi hộ khẩu vào sổ bộ của triều đình, trừ những
ai cày cấy ruộng vườn của vua chúa là phải đóng chút ít lợi tức cho vương
triều. Dân chúng nếu muốn đi đâu thì đi, muốn ở thì ở. Vua trị quốc mà
không dùng hình phạt như chém đầu hay đánh đập để trị những kẻ phạm tội,
nhưng chỉ phạt tiền tùy theo tội nặng nhẹ. Dẫu có người thường phạm tội ác
nghịch, bất quá chỉ bị chặt cánh tay phải thôi. Quan quân thị vệ tả hữu
của nhà vua đều có lương bổng. Nhân dân trong nước đều không giết hại,
không uống rượu, không ăn hành tỏi; trừ hạng người Chiên Trà La
[82], được gọi là những kẻ ác. Họ sống cách
biệt với dân chúng. Nếu họ muốn vào đô thành chợ búa thì phải dùng hai
thanh gỗ mà gõ để báo hiệu có mặt. Dân chúng nghe tiếng đều lánh xa, không
gần gũi họ. Người trong nước không nuôi heo gà, không bán súc vật sống.
Chợ búa không có quày giết heo bò cùng quán rượu. Trao đổi buôn bán, họ
dùng ngà voi sừng ốc. Duy chỉ có bọn chiên đà la là sống nghề săn bắn đánh
cá bán thịt sống.
Phật vừa nhập niết bàn, quốc vương, trưởng giả cư sĩ thiết lập tịnh xá,
cung cấp ruộng vườn, nhà cửa cho chư tăng. Họ lại khắc ấn những lời đặc
hứa vào bảng kẻm đồng thiếc
[83] để lưu truyền từ đời vua này đến đời vua
khác mà không dám phế bỏ, cho đến hôm nay cũng không ngừng.
Chỗ ăn ở nghỉ ngơi cùng y phục thức ăn của tăng chúng đều không thiếu
thốn. Nơi nơi đều đầy đủ như thế. Chúng tăng thường làm việc công đức cùng
tụng kinh tọa thiền. Khách tăng đến, những vị tăng trong chùa đồng cung
nghinh, lo lắng sắp đặt y bát, cung cấp nước rửa chân, dầu xoa chân tay,
cùng cúng dường thức ăn lỏng ngoài giờ quy định[84].
Yên nghỉ xong, họ lại hỏi khách tăng về tăng lạp để sắp xếp phòng xá theo
thứ lớp mà nghỉ ngơi. Tất cả việc đều như pháp[85].
Chúng tăng trong trụ xứ, thường xây tháp thờ xá lợi của các ngài Xá Lợi
Phất
[86], Mục Kiền Liên[87],
A Nan[88],
cùng tháp thờ Kinh, Luật, A Tỳ Ðàm[89].
Một tháng sau mùa an cư kiết hạ, các gia đình[90]
muốn gieo trồng phước đức, thường chuyên cần khuyến khích nhau cúng dường
chư tăng những thức ăn lỏng sau giờ quy định. Chúng tăng hội nhau lại để
thuyết pháp. Thuyết pháp xong, các ngài cúng dường tháp thờ tôn giả Xá Lợi
Phất bằng bao loại hoa hương khác biệt. Ðèn nến được thắp suốt đêm.
Khi Xá Lợi Phất còn là bà la môn, Tôn Giả đến cầu xin Phật cho phép xuất
gia. Tôn giả Mục Kiền Liên và Ðại Ca Diếp[91]
cũng đều như thế. Chư tỳ kheo ny đa số cúng dường tháp tôn giả A Nan, vì
nhờ Tôn Giả mà Phật chấp thuận cho hàng nữ nhân xuất gia. Chư sa di đa số
cúng dường tháp thờ tôn giả La Hầu La
[92] Người tu học theo bộ A Tỳ Ðàm thì cúng
dường bộ A Tỳ Ðàm. Các luật sư thì cúng dường tạng Luật. Mỗi năm họ đều
cúng dường một lần và mỗi phái đều lập ngày riêng biệt. Người tu học theo
phái Ma Ha Diễn (tức đại thừa) thì cúng dường kinh Bát Nhã Ba La Mật, ngài
Văn Thù Sư Lợi
[93], Quán Thế Âm[94]
v.v... Lúc chúng tăng thọ nhận phần lương thực trong năm, chư trưởng giả
cu sĩ, bà la môn v.v... đem bao loại y phục vật dụng để cúng dường tùy
theo sở dụng của sa môn. Chúng tăng thọ nhận xong rồi phân phát cho nhau.
Từ khi Phật nhập niết bàn cho đến nay, sở hành, oai nghi pháp tắc của chư
thánh chúng luôn được tương tục truyền thừa không đoạn tuyệt.
Từ nơi đó, chúng tôi vượt sông Tân Ðầu, đến nam Thiên Trúc. Trên đường
đến biển Nam Hải, khoảng bốn năm mươi vạn dặm đất đai đều bằng phẳng,
không có núi lớn khe ngòi mà chỉ có sông rạch.
Chương XVII. Vương quốc Tăng Già Thi (Sakâsya). Ðức Phật thăng lên
và hạ xuống từ cung trời Ðao Lợi (Trayastrimsas), và những truyền thuyết
khác.
Từ nơi đó, chúng tôi đi về hướng đông nam mười tám do tuần, gặp một vương
quốc tên là Tăng Già Thi[95].
Thuở xưa, Phật thăng lên cung trời Ðao Lợi thuyết pháp cho mẹ Ngài trong
ba tháng liền, rồi xuống nơi này. Thăng lên cung trời Ðao Lợi[96],
Phật dùng lực thần thông mà không cho chư đệ tử hay biết. Gần bảy ngày
cuối của ba tháng, Phật lại phóng thần túc. Tôn giả A Na Luật[97]
dùng thiên nhãn thấy Thế Tôn bèn bảo tôn giả Mục Kiền Liên:
- Sao Ngài không đi thỉnh vấn đức Thế Tôn?
Tôn giả Mục Kiền Liên liền bay lên cung trời Ðao Lợi, đảnh lễ chân Phật
cùng tương vấn Thế Tôn. Tôn giả Mục Kiền Liên vừa thỉnh vấn xong, Phật
liền bảo:
- Nầy Mục Kiền Liên! Trong bảy ngày nữa Ta sẽ xuống trở lại cõi Diêm Phù
Ðề.
Tôn giả Mục Kiền Liên nghe thế rồi dùng thần lực bay trở về tịnh xá.
Ðương thời các đại vương cùng quần thần nhân dân của tám nước vì đã lâu
không được gặp đức Thế Tôn nên đều khát ngưỡng, đồng tụ hội nơi nước này
để đợi Phật xuống. Lúc ấy, tỳ kheo ny Ưu Bát La (Utpala) tự suy nghĩ:
- Hôm nay quốc vương thần dân đang cung ngưỡng chờ đợi Phật. Phận mình là
thân gái, làm sao thấy được Phật trước được!
Ðương thời, Phật dùng thần túc hóa bà ta làm Chuyển Luân Thánh Vương
[98], được lễ bái Phật trước nhất. Khi Phật từ
cõi trời Ðao Lợi xuống, Ngài hóa hiện ba đường thềm cấp bằng châu báu.
Phật đi trên đường chính giữa, có thất bảo làm thềm cấp. Vua trời Phạm
Thiên cũng hóa thềm cấp bằng bạch ngân, cầm cây bạch phất mà đi theo hầu
bên phải của Phật. Trời Thiên Ðế Thích hóa thềm cấp bằng tử kim, cầm bảo
cái thất bảo, đi hầu bên trái của Phật. Vô số chư thiên đi xuống theo sau
Phật. Phật xuống đến nơi thì ba thềm đường đều biến mất, nhưng chỉ còn bảy
thềm cấp, đến ngày nay vẫn còn hiển hiện. Sau này, vua A Dục vì muốn xem
coi tầng cấp đó sâu đến đâu, nên bảo người đào xuống để xem xét. Ðào xuống
tận hoàng tuyền
[99] mà chân của thềm cấp đó vẫn không hết
tận. Việc này khiến cho vua A Dục lại thêm kính tín, nên sai người kiến
lập tịnh xá trên những thềm cấp. Ngay giữa các thềm cấp, vua lại sai người
đắp tượng Phật, cao khoảng trượng sáu. Ðằng sau ngôi tịnh xá, vua lại cho
xây một cột trụ, cao năm trượng, và trên đó dựng một tượng sư tử; bốn bên
cột trụ có hình tượng Phật; trong ngoài đều sáng suốt như lưu ly. Lần nọ,
luận sư ngoại đạo tranh luận cùng sa môn về quyền sở hữu của mảnh đất đó.
Chư sa môn thấy lý lẽ mình yếu thế, nên phải cùng luận sư ngoại đạo thệ
nguyện rằng nếu nơi này là đất trụ xứ của chư sa môn thì phải có sự linh
nghiệm. Nguyện vừa xong, sư tử trên cột trụ liền rống vang tiếng kinh
hoàng. Thấy có điềm linh ứng, luận sư ngoại đạo phải run sợ, tâm phục mà
thối.
Vì thọ thức ăn thiên chúng trong ba tháng, thân của Phật thoát ra mùi
thiên hương không đồng với thế nhân, nên Ngài phải tắm gội. Người sau xây
thất tắm gội của Phật ngay nơi đó, mà vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Hiện
tại vẫn còn tháp thờ ngay nơi tỳ kheo ny Ưu Bát La lễ Phật trước nhất.
Tại nơi đúc Phật xuống tóc cắt móng tay, lúc Ngài còn tại thế, đều có
dựng tháp cúng dường. Tại nơi của ba đức Phật trong thời quá khứ
[100] thường đi kinh hành, cùng nơi Thích Ca
Văn Phật thường ngồi thiền, kinh hành, và nơi đắp hình tượng chư Phật, đều
có xây tháp cúng dường, đến nay vẫn còn. Nơi Thiên Ðế Thích, Phạm Thiên
Vương theo hầu Phật từ cõi trời Ðao Lợi xuống cũng được lập tháp thờ.
Nơi đó, tăng ni khoảng một ngàn vị, đều đồng thọ nhận thức ăn từ nhà ăn
(chúng thực), và đều tu học theo hai phái tiểu thừa và đại thừa. Trong
vùng, có một con rồng tai trắng thường làm đàn việt cúng dường phẩm vật
cho tăng chúng, và thường khiến cho lương thực trong nước đều được phong
phú dồi dào, mưa hòa gió thuận, không có thiên tai hoạn nạn. Nhờ vậy mà
chúng tăng được an ổn tu hành. Cảm ơn công đức, chúng tăng xây long xá, có
thảm nệm cho rồng nằm và làm thức ăn phước điền cho nó. Mỗi ngày, chúng
tăng cử ra ba vị đến long xá thọ thực. Sau mỗi mùa an cư kiết hạ, rồng lại
hóa hiện thành một con rắn nhỏ, hai tai đều trắng xóa. Chúng tăng đều biết
rõ, nên trét bột sữa trên mâm đồng và đặt nó lên đó, rồi mang đi từ hàng
thượng tọa cho tới hạ tọa, như thể thỉnh vấn. Vừa đi một vòng, nó liền
biến mất. Mỗi năm nó xuất hiện một lần. Ðất đai trong vương quốc này rất
phì nhiêu phong phú. Nhân dân an lạc sung túc vô ngần. Khách thập phương
đến, đều được cung cấp đầy đủ những vật cần dùng.
Cách chùa này khoảng năm mươi do tuần về hướng tây bắc có một ngôi chùa,
tên là Ðại Phần (hoặc Ðại Hỏa Cảnh-The Great Heap), cũng gọi là chùa Ác
Quỷ. Khi xưa Phật hóa độ ác quỷ, nên người sau xây tịnh xá tại chỗ ấy. Khi
ngôi tịnh xá được cúng dường cho một vị A La Hán, quốc vương đổ nước trên
lòng bàn tay của Ngài
[101] mà vũng nước này vẫn còn hiện hữu không
tan mất cho dầu có bị quét đi.
Nơi này cũng có tháp thờ Phật. Thiện quỷ thần thường hiện xuống quét rửa,
nên không cần tới nhân lực. Một quốc vương tà kiến đến nơi này, bảo:
- Các ngươi quỷ thần làm được như thế thì Ta sẽ cho quân binh xả bỏ phẩn
tiểu, để xem coi có quét được hay không?
Ông liền làm theo như thế. Quỷ thần bèn nổi trận cuồng phong, thổi đi
những vật bất tịnh, khiến nơi đó sạch sẽ như thường.
Nơi ấy có hàng trăm tháp nhỏ mà đếm mãi vẫn không biết hết được. Nếu muốn
biết, cho người đứng ngay nơi mỗi tháp để đếm số. Hoặc ít hoặc nhiều, đếm
mãi số người đứng mà vẫn không biết con số chính xác.
Nơi ấy, một ngôi tăng già lam chứa hơn sáu trăm tăng sĩ. Trong chùa có
chỗ của một vị Bích Chi Phật (Pratyeka) thường thọ thực. Vùng đất nơi vị
Bích Chi Phật nhập niết bàn
[102] rộng như chiếc xe bốn bánh lớn. Cỏ dại
mọc đầy những nơi khác mà không sanh sản tại chỗ đó. Nơi vị Bích Chi Phật
này thường giặt giũ y áo cũng không có cỏ mọc. Ngày nay vẫn còn dấu tích y
ca sa của Ngài.
Chương XVIII. Thành Kế Nhiêu Di (Kanyâkubja hoặc Canouge). Phật
chuyển pháp luân.
Tôi (Pháp Hiển) trú tại tịnh xá của rồng tai trắng qua mùa hạ
[103]. Kiết hạ xong, tôi đi về hướng đông nam
bảy do tuần đến thành Kế Nhiêu Di[104].
Thành này nằm dọc theo sông Hằng
[105]. Trong thành có hai ngôi tăng già lam.
Tăng chúng đều tu theo phái tiểu thừa. Rời thành đi về hướng tây sáu bảy
dặm, đến bờ phía bắc của sông Hằng, nơi Phật thường thuyết pháp cho chư đệ
tử. Theo truyền thuyết, nơi đó Phật thường giảng về sự khổ, không, vô
thường, thân như bọt bèo trôi trên nước v.v... Nơi đó cũng có tháp thờ cho
đến hiện tại.
Vượt sông Hằng đi về hướng nam ba do tuần, tôi đến một thôn làng, gọi là
A Lê. Nơi này, Phật đã từng thuyết pháp, đi kinh hành, tọa thiền. Mọi nơi
chốn đều lập tháp thờ.
Chương XIX. Ðại quốc Sa Chi. Truyền thuyết nhành cây dương chi
(Danta-kâshtha) của đức Phật.
Ði về phía nam mười do tuần, đến đại quốc Sa Chi
[106]. Ra khỏi thành Sa Chi bằng cửa phía nam,
bên hướng đông của đường lộ, Phật đã từng cắm nhánh dương chi
[107]sau khi nhai xong tại nơi đó. Nhánh dương
chi này mọc cao khoảng bảy thước mà không tăng không giảm. Chư ngoại đạo
bà la môn rất ghen ghét, nên hoặc chặt phá hoặc nhổ rồi đem đi nơi khác,
nhưng cây dương chi vẫn mọc lại. Hiện tại cũng còn tháp thờ nơi bốn vị
Phật thường đi kinh hành, tọa thiền.
Chương XX. Vương quốc Câu Tát La (Kosala) và Xá Vệ (Srâvasti).
Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana) và những thánh tích cùng truyền thuyết về đức
Phật. Thương hại những du tăng.
Ði về hướng nam tám do tuần, đến thành Xá Vệ[108]
trong nước Câu Tát La
[109]. Trong thành, dân chúng thưa thớt, sống
cách xa nhau, chỉ có hơn hai trăm gia đình. Thành Xá Vệ này vốn là đô
thành mà vua Ba Tư Nặc
[110] trị vì thuở xưa. Tịnh xá của bà Ðại Ái
Ðạo
[111], hồ nước và tường vách nhà của ông
trưởng giả Tu Ðạt
[112], nơi Ương Quật Ma
[113] đắc đạo và được trà tỳ sau khi nhập niết
bàn, đều được người sau dựng tháp thờ phụng trong thành. Chư ngoại đạo bà
la môn sanh tâm ghen ghét, nên muốn phá hoại, nhưng trời nổ sấm sét, khiến
họ không thể phá được.
Ra cửa thành phía nam một ngàn hai trăm bước, bên phía tây đường lộ là
nơi trưởng giả Tu Ðạt xây cất tịnh xá. Mặt tiền của tịnh xá hướng về phía
đông. Mở cửa ra, thấy hai bên có hai cột trụ đá. Trên cột trụ bên trái có
khắc hình bánh xe. Trên cột trụ bên phải có khắc hình con trâu. Bên phải
và trái của tịnh xá đều có hồ nước trong xanh. Cây cối xum xuê, hoa quả
màu sắc lạ thường, tốt tươi đẹp mắt. Ðó gọi là tịnh xá Kỳ Hoàn
[114]. Phật thăng lên cung trời Ðâu Suất,
thuyết pháp cho mẹ Ngài trong chín mươi ngày. Vua Ba Tư Nặc vì muốn gặp
Phật, nên sai thợ dùng gỗ ngưu đầu chiên đàn khắc làm tượng Phật, rồi đặt
tượng này nơi Phật thường ngồi thiền. Phật vừa trở về tịnh xá Kỳ Hoàn,
thánh tượng bèn khởi thân di động, ra ngoài nghinh đón Phật. Phật bảo:
- Ông hãy ngồi nơi đó. Sau khi Ta nhập niết bàn, ông phải thay Ta mà làm
pháp thức cho bốn chúng đệ tử.
Nghe thế, tượng bèn đi về chỗ cũ. Vì vậy, Phật dời chỗ ở của mình qua
tịnh xá nhỏ bên phía nam, cách xa nơi đặt tượng Phật khoảng hai mươi bước.
Tượng này là tôn tượng đầu tiên nhất. Người sau khắc tạo tượng Phật đều y
theo kiểu mẫu của hình tượng đó.
Tịnh xá Kỳ Hoàn vốn có bảy tầng. Chư quốc vương cùng nhân dân khắp nơi
thường tranh nhau cúng dường, treo tràng phan bảo cái, rải hoa dâng hương,
đốt đèn sáng cả đêm, ngày ngày đều không dứt. Lần nọ, chẳng may, một con
chuột gặm tim đèn dầu làm cháy tràng phan bảo cái cùng bảy tầng lầu của
tịnh xá. Chư quốc vương, quần thần cùng dân chúng rất buồn rầu vì bảo rằng
tượng chiên đàn cũng đã bị cháy. Song, bốn năm ngày sau, mở cửa phía đông
của tịnh xá nhỏ, họ đột nhiên thấy tượng Phật cũ, nên tất cả đều mừng rỡ,
rồi cùng nhau sửa chữa tịnh xá, xây làm hai tầng, và đặt tượng về chỗ cũ.
Tôi và Ðạo Chỉnh vừa đến tịnh xá Kỳ Hoàn, đồng hoài niệm đức Thế Tôn năm
xưa trụ tại đây trong hai mươi lăm năm mà cảm thương cho phận mình sanh
nơi biên địa. Chúng tôi cùng chư pháp lữ viễn du qua bao nhiêu vương quốc,
hoặc có người trở về nước, hoặc đã mất; mỗi mỗi đều biến chuyển theo dòng
đời vô thường. Nay chỉ thấy chỗ trống không của Phật, nên rất đỗi đau
buồn. Chúng tăng nơi đó ra ngoài hỏi han tự sự:
- Các ngài từ nước nào đến đây?
Ðáp:
- Chúng tôi từ đất Tàu đến.
Chúng tăng nơi đó vui mừng bảo:
- Lạ thay! Người nước biên địa cũng có thể đến đây cầu Pháp!
Nói xong, chúng tăng bàn tán với nhau:
- Chư sư hòa thượng[115]
của chúng ta, từ xưa đến nay tiếp nối truyền thừa, chưa từng gặp đạo nhân
người Tàu đến đây.
Cách tịnh xá về phía tây bắc bốn dặm có một vườn cây, được gọi là Ðắc
Nhãn. Xưa kia có năm trăm người mù, sống tại nơi đó để ở gần tịnh xá. Phật
thuyết pháp cho họ nghe. Phật vừa thuyết xong thì mắt họ sáng trở lại, nên
rất vui mừng, liền cắm cây tích trượng xuống đất, rồi đồng cúi đầu đảnh lễ
Phật. Những cây tích truợng đó sanh sống trở lại và mọc lớn ra. Thế nhân
rất tôn trọng và không ai dám chặt đi, nên dần dần mọc lan tràn ra thành
vườn cây, và được gọi là vườn cây Ðắc Nhãn. Chúng tăng trong tịnh xá Kỳ
Hoàn dùng ngọ xong thì thường ra đến khu vườn này để tọa thiền.
Cách tịnh xá Kỳ Hoàn khoảng sáu bảy dặm về phía đông bắc, Tỳ Xá Khứ Mẫu
[116] xây ngôi tịnh xá, và thỉnh Phật cùng
chúng tăng đến đó tu hành. Tịnh xá này đến nay vẫn còn tồn tại.
Các đại viện của tịnh xá Kỳ Hoàn, mỗi nơi đều có hai cửa; một cửa xoay về
hướng đông; một cửa xoay về hướng bắc. Trưởng giả Tu Ðạt đã từng lót vàng
để mua khu vườn chứa tịnh xá Kỳ Hoàn. Tịnh xá nằm ngay chính giữa khu vườn
đó và là nơi Phật thường trú ở lâu nhất. Nơi Phật thường thuyết pháp, độ
người, kinh hành, tạo thiền cũng được xây tháp thờ. Mỗi mỗi đều có danh
tự. Bên cạnh cũng có nơi bà Tôn Ðà Lợi
[117] giết người rồi phao vu cho Phật. Ra khỏi
cửa đông của tịnh xá Kỳ Hoàn về phía bắc khoảng bảy mươi bước, bên hướng
tây của đường lộ, xưa kia Phật đã từng cùng chín mươi sáu ngoại đạo luận
nghị. Quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, nhân dân đồng tụ hội nơi đó
để lắng nghe. Ðương thời, một bà ngoại đạo tên là Ðàn Giá Ma Na
(Chanchamana) khởi tâm ghen ghét, nên độn bụng tựa như đang mang thai, đến
trước giữa tăng chúng phỉ báng Phật làm việc phi pháp. Lúc đó, trời Thiên
Ðế Thích hóa hình thành một con chuột trắng, leo lên mình bà ta và cắn đứt
sợi dây lưng, nên khiến cho áo quần độn trong bụng rớt xuống đất. Ngay tức
khắc, đất nứt ra, bà ta bị chôn sống, đọa xuống địa ngục
[118]. Gần đó cũng có nơi mà Ðề Bà Ðạt Ða
[119] vì muốn dùng độc trảo để hãm hại Phật mà
phải bị chôn sống đọa địa ngục. Người sau làm dấu phân biệt rõ ràng những
nơi đó.
Họ lại xây tịnh xá, cao khoảng sáu trượng, ngay nơi Phật luận nghị với
ngoại đạo. chính giữa tịnh xá có thiết đặt một tượng Phật. Phía đông trên
đường lộ có một ngôi đền thiên tự
[120] của ngoại đạo, được gọi là Ảnh Phúc, đối
diện với tịnh xá Phật luận nghị với ngoại đạo, và cũng cao khoảng sáu
trượng. Ðược gọi là Ảnh Phúc vì khi mặt trời chuyển qua hướng tây thì bóng
tịnh xá của Thế Tôn chiếu ngay trên đền thiên tự đó. Khi mặt trời chuyển
qua hướng đông thì bóng của đền thiên tự đó hướng về phía bắc, mà không
bao trùm lên tịnh xá của Phật. Ngoại đạo thường phái người đến quét dọn,
dâng hương, đốt đèn trong ngôi đền đó. Song, đến sáng thì những ngọn đèn
đó tự dưng di chuyển vào tịnh xá của Phật. Bà la môn thấy vậy nên mắng
chửi chư sa môn là ăn cắp đèn của họ để cúng dường Phật. Việc này xảy ra
mãi mà không dừng. Tối đến, bà la môn rình mò, thấy chư thiên thần (mà họ
đang phụng thờ) mang những cây đèn dầu đi nhiễu vòng quanh tịnh xá rồi
cúng dường Phật, rồi đột nhiên biến mất. Thấy sự việc rõ ràng, các bà la
môn mới biết thần lực cảm hóa mầu nhiệm của đức Phật, nên bỏ nhà xuất gia
nhập đạo
[121] làm tăng sĩ. Tương truyền gần thời gian
mà sự kiện này xảy ra, chung quanh tịnh xá Kỳ Hoàn có chín mươi tám ngôi
tăng già lam mà chư tăng thường cư trú đông đúc, duy chỉ có một ngôi là
trống không.
Nước Trung Quốc
[122] này có chín mươi sáu ngoại đạo[123].
Họ đều biết việc đời này và đời trước. Mỗi ngoại đạo đều có đồ đệ và đều
đi khất thực, nhưng không mang bình bát. Họ cũng cầu phước, nên trên đường
lộ lớn lập các lữ xá phúc đức, phòng ở, giường chiếu, thức ăn nước uống để
cung cấp cho các lữ hành cùng chúng xuất gia, khách khứa đến đi; điều khác
biệt là thời hạn ở lại những nơi đó ngắn hay dài.
Hiện tại, đồ đệ của Ðề Bà Ðạt Ða cũng còn cúng dường ba vị Phật trong đời
quá khứ, nhưng không cúng dường Phật Thích Ca.
Cách thành Xá Vệ về hướng đông nam khoảng bốn dặm có một ngôi tháp là nơi
mà đức Phật đứng bên đường[124]
chặn quân của vua Lưu Ly
[125] định thôn chiếm nước Xá Di
[126].
Chương XXI. Ba vị Phật trong đời quá khứ.
Cách thành năm mươi dặm về hướng tây có một ấp, được gọi là Ðô Duy
[127], vốn là nơi đản sanh của Phật Ca Diếp
[128]. Nơi Ngài gặp người cha
[129], nhập niết bàn cũng đều được dựng tháp
thờ. Một ngôi đại tháp được dựng lập để thờ toàn thân xá lợi của Phật Ca
Diếp[130].
Từ thành Xá Vệ đi về hướng đông nam mười hai do tuần, họ đến một thôn ấp,
tên gọi là Na Tỳ Già
[131], là nơi đản sinh của Câu Lưu Tôn Phật.
Nơi Ngài gặp người cha, nhập niết bàn cũng đều có tháp thờ. Từ nơi đó đi
về hướng bắc gần một do tuần, có một thôn ấp mà đó là nơi Câu Na Hàm Mâu
Ni Phật đản sinh. Nơi Ngài gặp người cha, nhập niết bàn cũng có tháp thờ.
Chương XXII. Thành Ca Tỳ La Vệ. Cảnh tiêu điều của thành. Truyền
thuyết Phật đản sanh và những sự kiện liên hệ.
Ði về hướng đông gần một do tuần thì tới thành Ca Tỳ La Vệ
[132]. Trong thành không có vua chúa hay nhân
dân. Thành quách hoang tàn mốc meo, chỉ có vài tăng sĩ và khoảng mười gia
đình dân dã. Nơi vương cung của vua Bạch Tịnh
[133] có hình tượng của mẹ thái tử
[134]. Nơi thái tử cỡi con ngựa trắng, nơi Bồ
Tát lúc nhập bào thai
[135], nơi thái tử ra khỏi thành phía đông
thấy người bịnh hoạn rồi quay xe ngựa trở vào
[136] thành, đều có xây tháp thờ. Nơi tiên A
Tư Ðà[137]
ngắm xem tướng mạo thái tử, nơi thái tử liệng xác chết con voi
[138] bên đường khi đang cùng đi với Nan Ðà và
những người khác, đều có xây tháp. Nơi thái tử thi bắn cung tên bay về
hướng đông nam ba mươi dặm rồi cắm xuống đất, khiến một dòng suối chảy ra[139].
Người sau xây một giếng nước ngay nơi đó để cung cấp nước cho khách lữ
hành. Nơi Phật viếng thăm phụ vương sau khi đắc đạo, nơi năm trăm Thích Tử
xuất gia rồi lễ bái Ưu Bà Ly
[140] khiến cho đất đai rúng động, nơi Phật
thuyết pháp cho chư thiên, nơi trời Tứ Thiên Vương giữ bốn cánh cửa thành
khiến phụ vương Ngài không thể vào được, nơi Phật ngồi dưới cây Ni Câu
Luật
[141] (hiện tại vẫn còn sống) hướng mặt về
phía đông và được bà Ðại Ái Ðạo cúng dường y ca sa tăng già lê, nơi vua
Lưu Ly giết dòng họ Thích và tất cả đồng đắc quả Tu Ðà Hoàn[142],
tháp thờ đến nay cũng vẫn còn.
Cách thành về phía đông bắc vài dặm là ruộng của vua Tịnh Phạn, nơi thái
tử ngồi bên dưới gốc cây quán xem nông dân cày cấy.
Mười lăm dặm về phía đông của thành có vườn thượng uyển của vua Tịnh
Phạn, được gọi là Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Phu nhân Ma Da vào hồ tắm gội, rồi
đi ra khỏi hồ khoảng hai mươi bước, dùng tay nắm cành cây Vô Ưu, hướng mặt
về phía đông mà hạ sanh thái tử. Thái tử vừa đản sanh liền đi bảy bước.
Hai long vương (hiện thân) phun nước gội tắm thân thái tử. Nơi đó vẫn còn
có một giếng nước mà hiện nay chúng tăng thường đến lấy uống.
Chư Phật có bốn nơi thường định, tức là nơi thành đạo, nơi chuyển pháp
luân, nơi thuyết pháp hàng phục ngoại đạo, nơi xuống sau khi thăng lên
cung trời Ðao Lợi để thuyết pháp cho người mẹ. Ngoài ra còn những nơi kỳ
dị mà Phật thường tùy thời mà thị hiện.
Nước Ca Tỳ La Vệ hoang dã, dân chúng sống rải rác. Người bộ hành thường
sợ voi trắng và sư tử hoang nên chẳng dám đi lang thang.
Chương XXIII. Vương quốc Lam Mạc (Râma) và ngôi tháp.
Từ nơi Phật đản sanh, chúng tôi đi về hướng đông năm do tuần thì gặp nước
Lam Mạc[143].
Quốc vương nước này được một phần xá lợi của Phật[144].
Khi trở về nước nhà vua cho xây tháp thờ cúng dường, được gọi là tháp Lam
Mạc. Cạnh tháp có một hồ nước. Trong hồ có một con rồng thường thủ hộ và
ngày đêm cúng dường ngôi tháp đó. Vua A Dục xuất thế, muốn phá tám cái
tháp lớn thờ xá lợi của Phật để làm tám mươi bốn ngàn ngôi tháp khác[145].
Phá được bảy ngôi tháp xong, nhà vua lại muốn phá tháp đó. Rồng liền hiện
thân, đưa vua A Dục xuống long cung và thiết đãi yến tiệc. Thiết đãi xong,
long vương bảo vua A Dục:
- Ðồ cúng dường của Ðại Vương nếu nhiều hơn những đồ cúng dường này thì
Ngài có thể phá tháp xá lợi đó được, và tôi sẽ không tranh với Ngài đâu.
Vua A Dục biết những đồ vật cúng dường đó, trên thế gian này không sao
sánh bằng, nên đành trở về (mà không dám phá ngôi tháp đó). Sau này, nơi
đó hoang vắng, cỏ cây mọc um sùm, không ai quét dọn. Song, có một đàn voi
dùng vòi hút nước, quét dọn nơi đó và ngắt bao loại hương hoa, mang đến
cúng dường tháp đó. Một đạo nhân ở vương quốc khác đến muốn lễ bái tháp,
nhưng thấy đàn voi thì sợ hãi, nên núp sau những gốc cây mà quan sát. Ông
thấy đàn voi cúng dường tháp xá lợi đúng như pháp, nên rất cảm động buồn
thương mà suy nghĩ rằng nơi đây đáng lẽ phải có một ngôi tăng già lam để
cúng dường tháp xá lợi. Ngược lại chỉ có đàn voi lo việc quét dọn. Vì vậy
đạo nhân đó liền xả đại giới
[146], chỉ nguyện làm sa di, tự tay nhổ cỏ dại
cây hoang, sang bằng đất đai, khiến nơi đó được khang trang sạch sẽ, rồi
khuyên quốc vương xây ngôi già lam, làm nơi trụ xứ cho chư tăng. Xong
xuôi, ông làm trụ trì ngôi chùa đó mà hiện tại vẫn còn tăng chúng trú ở.
Việc này chỉ mới xảy ra gần đây, nhưng từ đó đến nay, vị trụ trì trong
chùa đều là sa di cả.
Chương XXIV. Nơi Phật xả báo thân và nơi Ngài nhập niết bàn.
Cách đó bốn do tuần về hướng đông là tháp thờ nơi thái tử bảo Xa Nặc cỡi
ngựa trắng[147]
trở về vương thành.
Từ đó đi về hướng đông bốn do tuần, chúng tôi đến Thán Tháp[148];
nơi đó cũng có một ngôi tăng già lam.
Lại đi về hướng đông mười hai do tuần, chúng tôi đến thành Câu Di Na Ðề[149].
Phía bắc của thành có cây song thọ bên cạnh bờ sông Ni Liên Thiền. Nơi
đây, đức Thế Tôn nằm xoay đầu về hướng bắc mà nhập niết bàn, cũng là nơi
ông Tu Bạt[150],
đệ tử cuối cùng của Phật, đắc đạo A La Hán. Nơi chư đệ tử cúng dường kim
quan đức Thế Tôn trong bảy ngày đêm[151],
nơi Kim Cang Lực Sĩ phóng kim xử (chày bằng vàng), nơi tám quốc vương phân
chia xá lợi Phật[152],
mỗi mỗi đều có tháp thờ và có các ngôi tăng già lam, mà đến ngày nay vẫn
còn.
Nhân dân trong thành sống thưa thớt rải rác, chỉ có vài tăng sĩ và dăm ba
gia đình.
Từ đó chúng tôi đi về hướng đông nam mười hai dặm, đến nơi các người dòng
họ Lệ Xa
[153] muốn Phật nhập niết bàn mà Phật không
khứng chịu, nên họ quyến luyến quá lắm không chịu bỏ đi. Phật liền hóa ra
một cái hồ sâu, khiến họ không thể lội qua được. Phật lại đưa cho họ bình
bát làm chứng tín, thì họ mới chịu trở về nhà. Nơi đó có một cây cột trụ
bằng đá, ghi lại những sự kiện về việc này.
Chương XXV. Tỳ Xá Ly. Tháp Phóng Cung Trượng. Pháp hội kết tập
kinh điển tại thành Tỳ Xá Ly (Vaisali).
Từ đó chúng tôi đi về hướng đông mười do tuần đến nước Tỳ Xá Ly. Phía bắc
của thành này có một khu rừng lớn bao trùm một tịnh xá hai tầng, là nơi
Phật thường trú ở, cùng có tháp thờ phân nửa thân của tôn giả A Nan. Trong
thành có tháp thờ Phật do bà Am Bà La
[154] xây cất đến nay vẫn còn. Cách thành ba
dặm về phía nam, ở hướng tây trên đường lộ là nơi mà bà Am Bà La cúng
dường ngôi vườn của mình để làm trụ xứ cho Phật. Lúc Phật sắp nhập niết
bàn, Ngài cùng chư đệ tử đi ra khỏi cổng phía tây của thành Tỳ Xá Ly. Ngài
xoay thân qua bên phải nhìn trở lại thành này rồi bảo chư đệ tử:
- Ðây là nơi Ta đến cuối cùng nhất.
Người sau lập tháp thờ nơi đây. Cách thành ba dặm về hướng tây bắc có một
ngôi tháp tên là Phóng Cung Trượng. Câu chuyện xảy như thế này: Dọc theo
sông Hằng có một vương quốc. Tiểu phu nhân của quốc vương đó sanh hạ một
bọc bào thai. Bà đại phu nhân thấy thế nên ghen ghét bảo:
- Ngươi sanh quái vật không lành.
Nói xong, bà ta liền bỏ bọc bào thai vào một cái hộp gỗ rồi thả trôi trên
nước sông Hằng. Cùng lúc, tại vùng hạ lưu, một ông vua nọ đang đi dạo
chơi, thấy trên dòng sông có một hộp gỗ, nên sai quân vớt lên. Khi mở ra,
ông thấy một ngàn đứa bé đều có dáng hình đoan chánh, diện mạo thù đặc
khác nhau. Vua bèn mang về cung nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Lúc
trưởng thành, thân họ dũng kiện và thường đi chinh phạt mà không khi nào
thất trận. Lần hồi, họ tiến đánh nước của vua cha mình. Nhà vua nước đó
rất ưu sầu lo lắng. Tiểu phu nhân thấy vậy liền hỏi nhà vua rằng tại sao
quá ưu sầu. Vua bảo:
- Vuơng quốc kia có một ngàn hoàng tử dũng kiện không ai sánh bằng. Nay
họ muốn tiến chiếm vương quốc này, nên Ta mới buồn rầu lo lắng.
Tiểu phu nhân nghe thế liền bảo:
- Vương chớ ưu sầu. Hãy cho cất một cái lầu cao nơi thành phía đông. Khi
quân địch tới, thiếp sẽ lên trên đó tìm cách trị chúng.
Vua nghe thế liền làm theo lời của tiểu phu nhân. Khi quân địch đến, tiểu
phu nhân đứng trên lầu cao bảo quân giặc:
- Các ngươi là con của ta, sao lại dám phản nghịch.
Họ hỏi:
- Bà là ai mà dám bảo là mẹ của chúng ta?
- Nếu các ngươi không tin, hãy cùng nhau hướng về phía Ta và mở miệng to
ra.
Tiểu phu nhân liền dùng hai tay vắt hai vú, khiến sữa chảy ra thành năm
trăm dòng, đồng chảy đầy vào miệng của ngàn hoàng tử. Biết bà chính mẹ
ruột, một ngàn hoàng tử liền bỏ cung tên gươm giáo xuống. Thấy việc này,
hai phụ vương đồng tư duy, đắc quả Bích Chi Phật. Tháp thờ hai vị Bích Chi
Phật hiện nay cũng còn nơi đó.
Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn chỉ cho chư đệ tử nơi Ngài đã từng bỏ cung
kiếm[155].
Người sau biết được việc này nên xây tháp thờ tại đó, nên mới có tên là
Phóng Cung Trượng. Một ngàn hoàng tử tức là một ngàn vị Phật trong đời
hiền kiếp[156].
Cạnh tháp Phóng Cung Trượng, Phật xả bỏ báo thân, nên bảo tôn giả A Nan:
- Sau ba tháng, Ta sẽ nhập niết bàn.
Ma vương[157]
che mờ tâm tánh của A Nan, khiến Tôn Giả chẳng thỉnh Phật trụ lại thế
gian.
Từ nơi đó đi về hướng đông ba bốn dặm có một ngôi tháp. Sau Phật nhập
niết bàn một trăm năm, chư tỳ kheo tại Tỳ Xá Ly phạm mười giới hạnh, rồi
bảo rằng Phật cho phép được như thế. Ðương thời có khoảng bảy trăm chư A
La Hán và các tỳ kheo trì giới thanh tịnh cùng nhau kiểm khảo luật tạng[158].
Người sau nhân việc đó mà lập tháp nơi đây, cho đến hiện tại vẫn còn.
Chương XXVI. Kỳ tích nhập diệt của tôn giả A Nan.
Từ đó đi về hướng đông bốn do tuần đến chỗ hợp lưu của năm dòng sông. Tôn
giả A Nan đi từ nước Ma Kiệt Ðà[159]
đến nước Tỳ Xá Ly rồi muốn nhập niết bàn nơi đó. Nhờ chư thiên mách bảo,
vua A Xà Thế[160]
bèn tự xa giá cùng tướng sĩ chạy đuổi theo đến thượng nguồn dòng sông.
Song song, các người dòng Lệ Xa ở Tỳ Xá Ly nghe tôn giả A Nan đến, nên
cũng ra nghinh đón, đồng tới thượng nguồn dòng sông. Tôn giả A Nan tự suy
nghĩ:
- Tiến lên phía trước thì vua A Xà Thế giận mình. Ði ngược về phía sau
thì người Lệ Xa oán mình.
Vì vậy, ngay giữa dòng sông tôn giả dùng ngọn lửa tam muội thiêu thân
nhập niết bàn, rồi phân thân thành hai phần, để mỗi phần trôi vào hai bên
bờ sông. Thế nên, hai vị vua đều được nửa thân phần xá lợi của tôn giả A
Nan, nên đem về và lập tháp thờ tại vương thành.
Chương XXVII. Ấp Ba Liên Phất (Pâtaliputtra) ở vương quốc Ma Kiệt
Ðà. Cung điện thần của vua A Dục (Asoka). Phật tử bà la môn. La Thái Hoằng
Mê (Râdhasâmi). Trạm xá phúc đức.
Vượt qua sông, tôi đi xuôi về hướng nam một do tuần, đến ấp Ba Liên Phất[161]
tại vương quốc Ma Kiệt Ðà, vốn là nơi vua A Dục[162]
đã từng trị vì. Nhà vua đã từng khiến quỷ thần hóa hiện cung điện này ngay
trong vương thành. Từng lớp đá xếp chồng nhau làm vách thành và cổng
thành; nghệ thuật điêu khắc chạm trổ rất tinh vi mà thế nhân không ai có
thể làm được; hiện nay vẫn còn tồn tại.
Em của vua A Dục sau khi đắc quả A La Hán trú trong núi Giả Ðồ Quật[163],
chí chỉ thích sống an lạc nhàn tịnh trong đó. Vua A Dục vì tâm cung kính
nên muốn thỉnh Ngài vào cung để cúng dường. Song, vì chỉ thích cảnh an lạc
của núi rừng, nên vị A La Hán đó không thọ nhận lời cung thỉnh. Nhà vua
liền bảo:
- Ngài chỉ việc nhận lời thỉnh mời thôi. Tôi sẽ xây núi trong thành này.
Sau đó, nhà vua liền thiết dọn đầy đủ thức ăn nước uống, rồi triệu vời
chư quỷ thần, bảo:
- Ngày mai xin mời chư vị hãy vào thành thọ trai. Song, vì không có
chiếu, nên phiền các ngài tự đem ghế đến.
Hôm sau, chư đại quỷ thần mỗi vị đều đem một tảng đá vuông lớn, rộng
khoảng bốn năm bộ. Khi chư quỷ thần ngồi xuống xong, nhà vua chỉ bảo họ
sắp chồng thành một ngọn đồi lớn. Dưới chân đồi, nhà vua lại bảo họ sắp
năm tảng đá lớn làm một thạch thất, dài ba trượng, rộng hai trượng, cao
hơn một trượng.
Trong thành có một người dòng bà la môn, tu học theo phái đại thừa, tên
là La Thái Hoằng Mê, thông minh đảnh ngộ đa trí, hiểu biết mọi sự, tự sống
đời thanh tịnh. Nhà vua tôn kính như ông như bậc thầy. Nếu đến gặp gỡ để
thỉnh vấn đàm đạo, nhà vua không dám ngồi ngang hàng với ông ta. Vài lần,
nhà vua vì tâm ái kính nên nắm tay ông ta. Nhà vua vừa thả tay ra, ông bà
la môn này liền đi rửa tay. Tuổi tác ông ta ngoài năm mươi. Dân chúng
trong nước ai ai cũng đều tôn trọng kính ngưỡng. Lại nữa, nhờ ông ta hoằng
tuyên Phật pháp mà bọn ngoại đạo không thể làm quấy rầy tăng chúng.
Bên cạnh tháp của vua A Dục, một ngôi Ma Ha Diễn tăng già lam được kiến
thiết, rất oai nghiêm mỹ lệ. Vùng đó lại có một ngôi chùa của phái tiểu
thừa. Tổng cộng, có khoảng sáu bảy trăm tăng sĩ trong hai ngôi chùa đó.
Giới luật oai nghi của chư tăng nơi đó rất tinh nghiêm cẩn mật.
Bốn phương đại đức cao tăng cùng các vị học giả, nếu muốn cầu nghĩa lý,
đều đi đến hai ngôi chùa đó mà tu học. Trong chùa có một bà la môn, diễn
giảng chánh pháp như sư tử rống, tên là Văn Thù Sư Lợi[164],
đều được chư đại đức cao tăng cùng chư tỳ kheo tu phái đại thừa trong nước
tôn sùng cung ngưỡng.
So với các quốc gia thành ấp ở Trung Quốc, tức trung Thiên Trúc, thì quốc
thành tụ lạc nơi đây lớn hơn nhiều. Nhân dân giàu sang, sống đời sung túc
an nhàn. Họ đua nhau hành việc nhân nghĩa. Mỗi năm họ thường tổ chức lễ
'Hành Thánh Tượng' vào mồng tám tháng hai. Họ làm xe bốn bánh và dùng tre
kết thành năm tầng lầu, cao hơn hai trượng, hình dạng như ngôi tháp. Lụa
trắng nhu nhuyến được quấn quanh xe, rồi họ tô vẽ nhiều màu sắc rực rỡ. Họ
lại làm hình tượng chư thiên, rồi trang hoàng bằng vàng bạc lưu ly. Bên
trên có treo tràng phan bảo cái. Bốn bên xe họ làm bốn cái kham, đều có
tượng Phật ngồi trong đó và có tượng Bồ Tát đứng hầu. Họ làm khoảng mười
hai chiếc xe. Mỗi chiếc được trang hoàng màu sắc khác nhau. Vào ngày đó,
người tu hành và kẻ tục trong các vùng xung quanh đều tụ hội, cùng có
những kẻ hát xướng ca vũ, dâng hương cúng dường. Các bà la môn đến, cung
thỉnh tượng Phật vào thành theo thứ lớp trong hai ngày. Họ thắp đèn suốt
đêm và ca múa hát xướng cúng dường. Lễ này cũng được tổ chức tại khắp các
vuơng quốc khác. Tại các vương quốc đó, trưởng giả và cư sĩ thường lập
trạm xá phúc đức (tức bố thí tiền tài vật dụng) y dược (bố thí thuốc men)
trong đô thành. Những người nghèo nàn, cô độc, tàn tật, bệnh hoạn đều đến
những trạm xá đó thì được cung cấp bao loại đồ đạc như thức ăn nước uống,
thuốc thang cần dùng tùy theo nhu cầu. Nơi đó có thầy thuốc khám bịnh.
Ðược cung cấp đầy đủ rồi thì họ liền đi nơi khác.
Sau khi phá bảy ngôi tháp xá lợi để xây cất thành tám mươi bốn ngàn ngôi
tháp khác, vua A Dục kiến thiết ngôi tháp đầu tiên rất lớn và được đặt
cách thành phía nam hơn ba dặm. Trước mặt tiền của ngôi tháp có dấu chân
Phật và một tịnh xá được xây cất nơi đó. Cửa của tịnh xá hướng về phía
bắc. Phía nam của ngôi tháp có một trụ đá, chu vi khoảng một trượng tư,
cao hơn ba trượng, bên trên có khắc ghi: "A Dục vương bố thí tiền tài cho
bốn phương tăng chúng ở cõi Diêm Phù Ðề. Sau đó chuộc lại ba lần."
Cách ngôi tháp về phía bắc khoảng ba bốn trăm bước, xưa kia vua A Dục đã
từng xây thành Ni Lê. Trong thành Ni Lê có trụ đá, cũng cao hơn ba trượng.
Trên trụ đá có tượng sư tử và có ghi lại nhân duyên cùng niên lịch ngày
tháng xây thành Ni Lê.
Chương XXVIII. Thành Vương Xá (Râjagriha), xưa và nay. Truyền
thuyết và nhân duyên liên hệ.
Từ đó đi về hướng đông nam chín do tuần thì đến một ngọn đồi đá trụi nhỏ[165].
Trên ngọn đồi đó có một thạch thất. Cửa thạch thất này xoay về phía nam.
Phật đã từng ngồi thiền trên đó. Thiên Ðế Thích dẫn thần nhạc Bàn Giá
[166] trương cầm nhạc đến nơi Phật ngồi thiền
để ca múa hát xướng. Kế đến, Thiên Ðế Thích lại hỏi vấn Phật bốn mươi hai
việc và dùng ngón tay lần từng câu hỏi[167].
Dấu ngón tay của Thiên Ðế Thích vẫn còn cho đến hiện tại. Nơi đó cũng có
một ngôi tăng già lam.
Từ đó đi về hướng tây nam khoảng một do tuần thì đến thôn Na La, vốn là
nơi đản sanh của tôn giả Xá Lợi Phất. Tôn giả Xá Lợi Phất cũng trở lại nơi
này mà nhập niết bàn. Nơi đó có một ngôi tháp, hiện tại vẫn còn.
Từ đó đi về hướng tây một do tuần, đến tân thành Vương Xá[168].
Cung thành này do vua A Xà Thế xây cất. Bên trong có hai ngôi tăng già
lam. Ra khỏi cổng thành phía tây ba trăm bước là nơi vua A Xà Thế được một
phần xá lợi của Phật và xây tháp cúng dường. Ngôi tháp đó cao ráo trang
nghiêm tráng lệ. Ra khỏi thành phía nam, đi về hướng nam bốn dặm, tiến vào
một vùng thung lũng, rồi tới năm ngọn đồi. Hình dáng năm ngọn đồi nối kết
xoay vần với nhau giống như thành quách. Nơi đây là cung thành của vua Tần
Bà Sa La thuở xưa. Chiều dài của cung thành từ đông sang tây khoảng năm
sáu dặm, và từ nam đến bắc khoảng bảy tám dặm. Nơi tôn giả Xá Lợi Phất gặp
tỳ kheo Mã Thắng[169],
nơi bọn Ni Kiền Tử
[170] đào hầm lửa rồi mời Phật ăn cơm tẩm
thuốc độc, nơi vua A Xà Thế thả voi say để hại Phật, nơi ông Kỳ Cựu
[171] xây tịnh xá trong vườn của Am Bà La rồi
thỉnh Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi tỳ kheo đến cúng dường, mỗi mỗi
đều còn, nhưng vương thành hoang vắng, không có người trú ở.
Chương XXIX. Ngọn núi Giả Ðà Quật (Gridhra-kuta) và truyền thuyết.
Ngài Pháp Hiển trú lại qua đêm nơi đó và quán tưởng.
Vào thung lũng, đi ngang núi tiến lên phía đông nam hơn mười lăm dặm, đến
dãy núi Giả Ðồ Quật (hay Linh Thứu). Cách đỉnh núi ba dặm có một hang đá,
mặt tiền hướng về phía nam, vốn là nơi Phật đã từng ngồi thiền. Cách ba
mươi bước về hướng tây bắc là hang đá mà tôn giả A Nan đã từng ngồi thiền.
Thiên ma Ba Tuần[172]
hóa thành con chim kên to lớn, bay đến trước cửa hang, khiến tôn giả A Nan
sợ hãi. Phật dùng lực thần túc vói tay xuyên đá vỗ vai A Nan, khiến Tôn
Giả hết sợ hãi. Dấu chân của chim kên và lằn nứt cũng còn hiện hữu, nên
được gọi là núi Ðiểu Thứu Quật[173].
Trước hang là nơi bốn vị Phật trong đời quá khứ thường ngồi thiền. Ngoài
ra, còn có vài trăm hang đá của chư A La Hán thường ngồi thiền. Trước hang
đá của mình, Phật thường đi kinh hành qua lại đông tây. Ðề Bà Ðạt Ða đứng
trên chót núi phía bẳc, xô tảng đá lớn xuống làm ngón chân Phật bị thương.
Tảng đá đó vẫn còn
[174].
Pháp đường Phật thường thuyết giảng đã bị hư hoại, chỉ còn nền gạch. Ngọn
núi này rất hùng vĩ đoan nghiêm, là nơi cao nhất của năm ngọn núi. Nơi tân
thành Vương Xá, tôi mua hương, hoa, dầu, đèn, rồi nhờ hai vị tỳ kheo
thường trụ nơi đó mang giùm lên núi Giả Ðồ Quật. Lên đó, tôi bèn cúng
dường hương hoa và đốt đèn nến suốt đêm. Nơi đó, tôi chợt cảm giác bi
thương, rơi lệ tự bảo:
- Xưa kia Phật đã từng thuyết kinh Lăng Nghiêm tại đây. Pháp Hiển sanh ra
không gặp được Phật, chỉ thấy dấu chân và di tích thuở sanh tiền của đức
Thế Tôn mà thôi.
Thế nên, nơi hang đá, tôi tụng kinh Lăng Nghiêm, và trú lại đó qua một
đêm[175],
rồi trở lại Tân Thành.
Chương XXX. Ðộng Xa Ðế (Srataparna), hay hang động của chư A La
Hán kết tập kinh tạng lần thứ nhất. Truyền Thuyết. Tỳ kheo tự sát.
Ra khỏi Cựu Thành đi về hướng bắc hơn ba trăm bước, tại phía tây đường lộ
là tịnh xá vườn trúc Ca Lan Ðà[176]
(tức tịnh xá Trúc Lâm), hiện nay vẫn còn tăng chúng quét dọn.
Phía bắc tịnh xá hai ba dặm có Thi Ma Xa Na(Smasânam), Tàu dịch là nghĩa
địa liệng thây chết.
Ði ngang qua phía nam của ngọn núi, hướng về phía tây ba trăm bước có một
hang động, được gọi là Bình Ba La Quật (Pippala), và vốn là nơi Phật
thường tọa thiền sau buổi thọ trai.
Lại đi về hướng tây năm sáu dặm, trong bóng của ngọn núi ở phía bắc có
một hang đá mang tên Xa Ðế. Phật vừa nhập niết bàn, năm trăm vị A La Hán
kiết tập kinh điển trong đó. Lúc kiết tập, đem kinh ra
[177] bày bố ba tòa cao, trang hoàng nghiêm
sức. Tôn giả Xá Lợi Phất ngồi bên trái[178].
Tôn giả Mục Kiền Liên ngồi bên phải[179].
Trong số năm trăm có thiếu tôn giả A Nan. Tôn giả Ðại Ca Diếp làm bậc
thượng thủ và ngồi trên tòa chính giữa. Khi ấy, A Nan ở bên ngoài cửa,
không thể vào được[180].
Nơi đó hiện có tháp thờ cho đến bây giờ.
Chung quanh núi cũng có các hang đá của chư A La Hán ngồi thiền rất
nhiều.
Rời khỏi Cựu Thành ở phía bắc, đi về hướng đông ba dặm thì gặp hang đá
của Ðề Bà Ðạt Ða. Ði khỏi nơi đó năm mươi bước có một tảng đá vuông đen
lớn. Tại đó, vào thuở xưa có một vị tỳ kheo đi kinh hành, suy nghĩ thân
này vô thường, khổ, không, rồi đắc được bất tịnh quán, nên nhàm chán thân
này, bèn cầm dao muốn tự sát, nhưng lại nhớ Thế Tôn chế giới không được tự
sát[181].
Thầy lại suy nghĩ:
- Tuy vậy, hôm nay mình giết ba nọc độc[182].
Thế nên, trong tức khắc, Thầy lấy dao cắt cổ tự vẫn. Dao vừa chạm đến da
thịt thì Thầy đắc quả Tu Ðà Hoàn[183].
Dao cắt phân nửa cổ thì đắc quả A Na Hàm[184].
Cổ vừa đứt đoạn thì Thầy chứng quả A La Hán, nhập niết bàn.
Chương XXXI. Già Da (Gayâ). Nơi Phật thành đạo. Những truyền
thuyết khác.
Từ đó đi về hướng tây bốn do tuần, chúng tôi đến thành Già Da[185].
Song, cung thành hoang tàn vắng lặng. Chúng tôi lại đi về hướng nam hai
mươi dặm đến nơi Bồ Tát tu khổ hạnh trong sáu năm; chung quanh đều có rừng
cây rậm rạp.
Từ đó đi về hướng tây ba dặm, đến chỗ Phật từng xuống ao tắm gội và chư
thiên hạ cong nhánh cây để giúp Phật bước ra khỏi hồ.
Chúng tôi lại đi về hướng bắc hai dặm, rồi đến nơi cô Nhi Gia (Grâmika)
cúng dường bát sữa cho Phật.
Từ đó đi về hướng bắc hai dặm là nơi Phật ngồi dưới cây đại thọ, trên
tảng đá, hướng mặt về phía đông, rồi dùng bát sữa. Cây đại thọ và tảng đá
đó hiện vẫn còn. Tảng đá rộng và dài sáu thước, cao hai thước. Nhiệt độ ở
nước Trung Quốc điều hòa, nên có nhiều cây đại thọ già cả vài ngàn cho đến
chục ngàn năm.
Từ đó đi về hướng đông bắc nửa do tuần thì đến một hang đá mà khi xưa Bồ
Tát vào trong đó, mặt hướng về phía tây, ngồi xếp bằng, tâm tự suy nghĩ:
- Nếu Ta thành đạo thì phải có thần linh kiểm chứng.
Vừa suy nghĩ xong, ngay trên vách đá liền có bóng hình một vị Phật hiển
hiện, dài độ ba thước, nay vẫn còn rõ. Ðương thời trời đất rún động dữ
dội, và chư thiên trên hư không bảo:
- Ðây chẳng phải là nơi chư Phật trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai
thành đạo. Xin Ngài hãy đến phía tây nam gần nửa do tuần, tới dưới gốc cây
Bồ Ðề[186]
(Cụ Ða). Ðấy mới chính là nơi mà chư Phật trong thời quá khứ hiện tại vị
lai đều thành đạo.
Vừa nói dứt lời, chư thiên bèn ca hát và vạch đường cho Bồ Tát đến nơi
đó. Bồ Tát đúng dậy khởi hành, rời cây đại thọ ba mươi bước. Chư thiên
cúng dường cỏ kiết tường[187],
Bồ Tát thọ nhận, rồi lại đi năm mươi bước. Năm trăm con chim Thanh Tước
bay nhiễu Bồ Tát ba vòng rồi biến mất. Bồ Tát đi thẳng đến cây Bồ Ðề, trải
cỏ kiết tường, rồi ngồi xuống, mặt hướng về phía đông. Bấy giờ ma vương
sai ba ngọc nữ từ phía bắc tới, còn hắn từ phía nam đến để trêu ghẹo thử
thách. Bồ Tát ấn ngón chân cái xuống đất, ma quân liền thối tán, ba ngọc
nữ biến thành những bà lão già.
Nơi Bồ Tát tu khổ hạnh trong sáu năm cùng những nơi đã được kể đến ở bên
trên, người sau đều xây tháp lập tượng để thờ cho đến hiện tại.
Nơi vừa thành đạo, Phật ở lại quán sát cây Bồ Ðề trong bảy ngày, thọ giải
thoát lạc; nơi dưới gốc cây Bồ Ðề, Phật đi kinh hành bảy ngày qua lại đông
tây; nơi chư thiên hóa điện đường thất bảo, cúng dường Phật trong bảy
ngày; nơi Phật ngồi dưới gốc cây Ni Câu Luật trên tảng đá vuông, mặt xoay
về phía đông, và Phạm Thiên Vương đến cung thỉnh Ngài chuyển pháp luân;
nơi rồng mù Văn Lân Mục (Muchilinda) nhiễu Phật trong bảy ngày[188],
nơi trời Tứ Thiên Vương cúng dường Phật bình bát của họ, nơi năm trăm
thương nhân cúng dường Phật mật ong và bột rang, nơi Phật độ sư huynh đệ
Ca Diếp một ngàn người, tất cả mọi chỗ đều có tháp thờ.
Tại nơi Phật thành đạo có ba ngôi tăng già lam, mà bên trong đều có tăng
chúng thường trụ. Dân làng xung quanh cung cấp cúng dường đầy đủ bốn vật
cho tăng chúng tùy theo sở cầu, không thiếu thốn. Chư tăng hành trì giới
luật nghiêm túc; pháp tắc oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, và nhập chúng của
các ngài đều như sở hành của chư thánh tăng vào lúc Phật còn tại thế. Bốn
ngôi tháp lớn tại nơi Phật đản sanh, nơi Bồ Tát đắc đạo, nơi Phật chuyển
bánh xe pháp, và nơi Phật nhập niết bàn, luôn luôn được bảo trì sửa chữa
đắp tô liên tục không dứt.
Chương XXXII. Truyền thuyết của vua A Dục (Asoka) trong đời tiền
kiếp và địa ngục của ông ta.
Tích xưa, Phật Ca Diếp (Kasyapa) đang đi khất thực trên đường, bỗng gặp
một đứa bé. Ðứa bé này thấy Phật liền mừng rỡ, lấy tay bốc nắm cát bố thí
cho Ngài. Phật lấy nắm cát đó và rải ngay trên đường kinh hành của mình.
Nhờ quả báo đó, đứa bé được làm vua Thiếc Luân ở cõi Diêm Phù Ðề, tức vua
A Dục. Ngồi trên xe thiết luân, đi giám sát cõi Diêm Phù Ðề, nhà vua thấy
địa ngục (naraka) trừng trị tội nhân ở trong hai núi thiết vi, nên hỏi
quần thần rằng đây là nơi nào? Quần thần đáp:
- Ðây là nơi trừng trị tội nhân của quỷ vương Diêm La
[189].
Vua nghe thế liền tự suy nghĩ: "Quỷ vương còn làm địa ngục để trừng trị
kẻ ác. Ta là vua của loài người, sao không làm được địa ngục trị những
người ác?"
Suy nghĩ xong, nhà vua liền hỏi quần thần:
- Ai có thể thay Ta tạo địa ngục, làm chủ ngục trị tội nhân?
Quần thần thưa:
- Chỉ có kẻ cực ác mới làm được việc này!
Nhà vua liền sai quần thần đi tìm kiếm kẻ cực ác kia. Họ thấy cạnh bờ hồ
có một người tướng trạng cao ráo khỏe mạnh, da ngâm đen, tóc màu vàng, mắt
màu xanh, chân giữ cần câu cá, miệng kêu cầm thú. Cầm thú đến hắn giương
cung bắn, không con nào thoát được. Họ liền dẫn hắn về triều gặp nhà vua.
Nhà vua liền ban sắc lịnh bí mật, bảo hắn:
- Ngươi hãy xây bốn vách tường cao ráo, bên trong có trồng bao loại hoa
quả, và làm hồ nước trong xanh; trang hoàng nghiêm sức khắp nơi, khiến
người thấy liền khát ngưỡng, và hãy làm cổng rắn chắc. Nếu có ai bước vào
thì hãy bắt lại, dùng đủ cực hình trị tội, chớ để họ thoát. Ngay cả khi Ta
vào đó, ngươi cũng trị tội chớ thả. Nay Ta giao cho ngươi chức chủ ngục.
Ðương thời, có một tỳ kheo, thứ lớp đi khất thực, chẳng may vào cửa đó.
Ngục tốt thấy Thầy liền bắt nhốt để trị tội. Thầy kinh hoàng cầu thỉnh:
- Xin hãy để tôi dùng ngọ.
Ngay khi ấy, một người khác bước vào cửa, nên bị ngục tốt bắt hành hạ,
rồi bỏ trong cối xay, máu chảy dầm dề. Thầy tỳ kheo thấy thế, suy nghĩ
thân này vô thường, khổ, không, như bọt nước, như giọt sương, liền đắc quả
A La Hán. Khi ngục tốt bỏ vào chảo nước sôi, nhưng tâm Thầy lại vui mừng.
Lửa tắt khiến nước nguội, và chợt hiện ra một hoa sen mà Thầy tỳ kheo ngồi
trên đó. Ngục tốt liền chạy đến báo tin này cho vua hay, bảo:
- Trong ngục có việc rất kỳ lạ. Xin nhà vua hãy đến xem.
Vua bảo:
- Lúc trước Ta đã ban sắc lịnh rồi, nên nay không dám vào.
- Ðây chẳng phải là việc nhỏ. Ngài phải đến đó ngay tức khắc. Sắc lịnh
xưa kia có thể sửa đổi.
Vua nghe thế liền vào ngục, gặp và được thầy tỳ kheo kia thuyết pháp. Vừa
nghe qua, nhà vua đắc tín giải, liền phá địa ngục ngay, và sám hối những
tội lỗi khi trước. Từ đó nhà vua tín trọng Tam Bảo, nên thường đến dưới
cây Bồ Ðề sám hối nghiệp tội và tự khiển trách cùng thọ bát quan trai
giới.
Lúc hoàng hậu hỏi nhà vua thường đi đâu, quần thần đáp rằng nhà vua
thường đến dưới gốc cây Bồ Ðề. Hoàng hậu chờ dịp nhà vua đi vắng, sai
người chặt cây Bồ Ðề đó. Nhà vua trở lại, thấy cây Bồ Ðề bị đốn chặt, nên
buồn thương ngã lăn bất tỉnh. Quần thần rải nước vào mặt, khiến nhà vua
tỉnh lại. Vua bèn cho xây vách bằng gạch xung quanh bốn bên, và sai người
đổ một trăm bình sữa bò tưới gốc cây, rồi nằm xuống, tay chân ôm đất mà
phát nguyện:
- Nếu cây không sống lại, Ta thề chẳng đứng dậy.
Nhà vua vừa thệ nguyện như thế, cây Bồ Ðề liền đâm rễ sống lại cho đến
ngày nay, cao gần mười trượng.
Chương XXXIII. Ngọn núi Kê Túc (Gurupada), nơi chứa toàn thân xá lợi của
Phật Ca Diếp.
Từ đó đi về hướng nam ba dặm, đến một ngọn núi, được gọi là Kê Túc[190].
Tôn giả Ðại Ca Diếp hiện vẫn còn ở trong đó. Tôn giả vạch núi đi vào đó mà
không ai có thể vô được. Ði xuống rất sâu có một cái lỗ bên cạnh hang.
Toàn thân tôn giả Ca Diếp đang trụ trong đó. Bên ngoài cái lỗ đó là khoảnh
đất mà tôn giả Ca Diếp thường rửa tay. Người nào bị nhức đầu, lấy một nhúm
đất nơi đó rồi xoa lên đầu thì sẽ khỏi ngay. Trong ngọn núi này, xưa nay
thường có chư A La Hán trú ở. Các quốc vương và đạo nhân ở những nơi khác,
mỗi năm thường đến đây cúng dường tôn giả Ca Diếp. Nếu có ai tâm thành mến
đạo, vào ban đêm sẽ có các vị A La Hán bước ra cùng họ luận nghị, giải
thích những lẽ nghi ngờ, rồi đột nhiên biến mất.
Trên núi, cỏ cây hoa lá sum xuê, lại có rất nhiều sư tử, sói lang, nên
không thể đi lang thang được.
Chương XXXIV. Trên đường trở về ấp Ba Liên Phất (Patna). Ba La Nại
(Benâres). Phật Thích Ca chuyển bánh xe pháp.
Tôi[191]
quay trở lại, hướng về phía ấp Ba Liên Phất, rồi đi dọc theo sông Hằng về
phía tây mười do tuần, bèn đến một tịnh xá, tên là Quảng Dã, vốn là nơi
Phật từng trú ở, mà hiện nay vẫn còn tăng chúng thường trụ.
Tôi lại đi dọc theo sông Hằng về hướng tây mười hai do tuần, đến thành Ba
La Nại[192]
ở nước Ca Thi La (Kasi). Cách thành về hướng đông bắc mười dặm có tịnh xá
Tiên Nhân Lộc Dã Uyển. Ngôi vườn này vốn có một vị Bích Chi Phật trú ở.
Vào ban đêm thường có hươu nai. Lúc Thế Tôn sắp thành đạo, chư thiên trên
hư không xướng ca:
- Con của vua Bạch Phạn (Tịnh Phạn), xuất gia học đạo, sau bảy ngày nữa
thì sẽ thành Phật.
Vị Bích Chi Phật đó nghe lời như thế, bèn nhập niết bàn. Vì vậy chỗ này
được gọi là Tiên Nhân Lộc Dã Uyển. Thế Tôn vừa thành đạo, người sau liền
lập tịnh xá nơi đó. Phật muốn độ năm anh em Kiều Trần Như. Song, họ bàn
với nhau:
- Sa môn Cù Ðàm, sáu năm tu khổ hạnh, mỗi ngày ăn một hạt cơm mà vẫn chưa
đắc đạo. Hà huống nhập vào nhân gian, phóng túng thân miệng ý thì sao đắc
đạo được? Hôm nay Cù Ðàm đến đây, chúng ta chớ nên đàm luận.
Tuy bàn với nhau như thế, nhưng khi Phật vừa đến thì họ lại lễ bái. Cách
nơi đó về hướng bắc sáu mươi bước, Phật ngồi hướng mặt về phía đông, bắt
đầu chuyển bánh xe pháp, độ năm ông Kiều Trần Như[193].
Xa nơi đó hai mươi bước về hướng bắc, là nơi Phật thọ ký cho Bồ Tát Di
Lặc, sẽ thành Phật kế Ngài. Ði về hướng nam năm mươi bước, là nơi long
vương Uế La Bát hỏi Phật rằng khi nào nó mới xả bỏ thân rồng. Những nơi đó
đều có tháp thờ, vẫn còn hiện hữu tới nay. Hiện tại, trong vườn Lộc Uyển
có hai ngôi già lam, vẫn còn tăng chúng thường trú.
Từ tịnh xá Lộc Dã Uyển đi về hướng tây bắc mười ba do tuần có một vương
quốc, gọi là Câu Ðàm Di[194].
Trong nước đó có một tịnh xá tên là Cù Sư La Viên[195],
vốn là nơi Phật trú thuở xưa, mà ngày nay vẫn có tăng chúng, đa số tu theo
phái tiểu thừa.
Từ đó đi về hướng đông tám do tuần, là nơi Phật đã từng độ ác ma, cùng
thường trú ở, kinh hành, tọa thiền. Nơi đó cũng có tháp thờ, và có một
ngôi tăng già lam; tăng chúng khoảng một trăm vị.
Chương XXXV. Ðạt Sấn (Dakshina), và tu viện Bồ Câu.
Từ đó đi về hướng nam hai trăm do tuần, có một nước tên là Ðạt Sấn[196].
Trong nước có một ngôi tăng già lam của Phật Ca Diếp vào đời quá khứ, được
xây cất bằng đá từ một ngọn núi lớn. Ngôi chùa này có năm tầng. Tầng thấp
nhất giống như hình con voi. Trong đó có năm trăm hang đá. Tầng thứ hai
làm giống như hình con sư tử, có bốn trăm hang đá. Tầng thứ ba làm giống
như hình con ngựa, có ba trăm hang đá. Tầng thứ tư làm giống như hình con
trâu, có hai trăm hang đá. Tầng thứ năm làm giống như hình con chim bồ
câu, có một trăm hang đá. Trên đỉnh cao nhất có một dòng suối luôn chảy
qua trước mặt tiền của các hang đá, rồi xoay quanh các phòng ốc, cùng lượn
vòng theo chu vi chùa, chạy xuống tầng thấp nhất, đổ dài theo cấu trúc của
chùa, rồi tuôn ra cửa. Trong mỗi hang đá của chư tăng, vách đá được đục
đẽo làm thành cửa sổ, tiếp nhận tràn đầy ánh sáng, nên không có chỗ nào là
u ám. Bốn bên góc của chùa có những thềm đá xếp chồng nhau làm thành các
bậc thang để bước lên những tầng cao. Con người ngày nay, vóc dáng nhỏ
nhắn, phải đi từng bước mới lên đến đỉnh. Người xưa, chỉ cần đi một bước
là đến đỉnh ngay
[197]. Vì vậy nơi này có tên là Ba La Việt.
Người Thiên Trúc (Ấn Ðộ) gọi Ba La Việt là chim bồ câu. Trong ngôi chùa
này thường có chư A La Hán trú ở.
Vùng đó hoang vắng, không có cư dân sinh sống. Cách ngọn núi này rất xa,
có một ngôi làng; người ở đó đều tà kiến, không biết Phật Pháp Tăng, bà la
môn, hoặc các ngoại đạo. Nhân dân nước đó thường thấy người bay ra vào
ngôi chùa ấy. Vài lần, các đạo nhân ở những nước khác, muốn đến chiêm lễ
chùa đó. Người trong thôn kia bèn hỏi:
- Sao các người không bay? Chúng tôi thấy những người trong chùa đó đều
biết bay cả.
Những đạo nhân đó ngập ngừng một hồi rồi đáp:
- Cánh của chúng tôi chưa mọc thành!
Nước Ðạt Sấn rất âm u hiểm trở, đường lộ gập ghềnh khó đi. Người nào tuy
biết đường lộ cheo leo hiểm trở, nhưng vẫn muốn đi, thì phải đem theo tiền
của để đưa cho quốc vương. Sau đó quốc vương sẽ cho người hộ tống, đi qua
từng thôn, chỉ rõ những con đường tắt. Tôi không thể đi, nhưng nghe lời kể
về việc này của người xứ đó.
Chương XXXVI. Trở lại ấp Ba Liên Phất. Ngài Pháp Hiển sao chép bộ
luật tạng, và học tiếng Phạn trong ba năm.
Từ nước Ba La Nại đi về hướng đông thì trở lại ấp Ba Liên Phất. Tôi vốn
muốn cầu giới luật mà tại các nước ở bắc Thiên Trúc, chư sư đều tụng bằng
khẩu truyền, nên không có kinh sách để sao lại. Vì vậy, tôi mới đi xa, đến
trung Thiên Trúc; nơi ngôi Ma Ha Diễn tăng già lam, tìm thấy một bộ luật,
tức là Ma Ha Tăng Kỳ Chúng Luật (Mahâsânghika). Phật còn tại thế, đại
chúng tu hành theo bộ luật này trước nhất. Quyển luật này được chư tăng từ
tịnh xá Kỳ Hoàn truyền lại. Hơn mười tám bộ phái, các luật sư đều có những
ý kiến riêng, nhưng đa phần đều không khác, chỉ có những điểm bất đồng nhỏ
nhoi: Có vị cởi mở, có vị bảo thủ. Song, quyển luật này được giải thích
cặn kẽ rõ ràng và hoàn chỉnh nhất[198].
Tôi lại được bản sao của một bộ luật khác, có hơn sáu ngàn câu kệ; đó là
bộ luật của phái Ba Sa Ða (Sarvâstivâdâh), tức là bộ luật mà chúng tăng ở
nước Tần thường hành theo, và đều được chư sư khẩu truyền tương thọ chứ
không viết thành sách vở văn tự. Lại nữa, trong chúng tăng đó, tôi tìm
được bộ luận Tạp A Tỳ Ðàm Tâm (Samyuktâbhi-dharma-hridaya-sâtra), có hơn
sáu ngàn câu kệ, một bộ kinh có hai ngàn năm trăm câu kệ, một quyển kinh
Phương Ðẳng Niết Bàn (Parinivana-vaipulya Sutra) có năm ngàn câu kệ, và
một bộ luận Ma Ha Tăng Kỳ A Tỳ Ðàm (Mahâsânghikâh Abhidharma).
Liên tục, tôi trú lại nơi đó ba năm, học sách vở tiếng Phạn, học nói bằng
tiếng Phạn, cùng sao chép kinh luật. Thầy Ðạo Chỉnh đến Trung Quốc (trung
Thiên Trúc), thấy chúng tăng oai nghi hành pháp tắc, thật rất đáng tôn
kính, nên than thở phận mình người Tần, sanh tại vùng biên địa, nơi mà
giới luật của chúng tăng khiếm khuyết, liền thệ nguyện:" Từ đây về sau
luôn được sanh nơi đất Phật, nguyện không sanh vùng biên địa
[199]", rồi ở lại nơi đó mà không quay về.
Ngược lại, bổn ý của tôi vốn muốn khiến giới luật được lưu thông trên đất
Tàu, nên tự một mình quay về.
Chương XXXVII. Ðến đại quốc Chiêm Ba (Champâ) và Ma La Ðế (Tâmalipti).
Trú và viết kinh luật tại những nơi đó trong ba năm. Theo thương thuyền
đến nước Sư Tử (Singhala), tức Tích Lan (Ceylon).
Ði dọc theo sông Hằng về hướng đông mười tám do tuần, phía nam bờ sông là
đại quốc Chiêm Ba[200].
Trong nước có tịnh xá mà Phật thường đi kinh hành, cùng nơi tọa thiền của
Ngài và ba vị cổ Phật. Mỗi nơi đều có dựng tháp thờ, mà hiện tại vẫn có
tăng chúng trú ở.
Từ đó đi về hướng đông gần năm mươi do tuần, đến nước Ma Lê Ðế
[201], mà vương thành vốn là hải cảng. Trong
nước có hai mươi bốn ngôi tăng già lam; mỗi chùa đều có tăng chúng; Phật
pháp cũng rất hưng thạnh. Tôi trú nơi đó hai năm để viết kinh cùng họa
tượng.
Kế đến, tôi lên thương thuyền, giăng buồm vượt biển đi về hướng tây nam.
Lúc ấy là đầu mùa đông; được thuận buồm xuôi gió, thuyền chạy mười lăm
ngày đêm thì đến nước Sư Tử
[202] (tức Tích Lan). Người nước đó bảo rằng
vương quốc này cách nước Ma Lê Ðế khoảng bảy trăm do tuần.
Vương quốc này vốn là một hòn đảo; đông tây rộng năm mươi do tuần; nam
bắc rộng ba mươi do tuần. Chung quanh phải trái của vương quốc có khoảng
một trăm hòn đảo lớn nhỏ. Từ hòn đảo này qua hòn đảo khác cách khoảng mười
dặm, hai mươi dặm hoặc hai trăm dặm; chúng đều thuộc về địa phận của vương
quốc này; ngọc trai, châu báu, đá quý đều được sản xuất trên những hòn đảo
đó. Ðiển hình, trong vương quốc, có một hòn đảo chu vi khoảng mười dặm, đa
phần xuất cảng nhiều loại trân bảo châu báu, cùng hạt châu ma ni. Nhà vua
sai người quản lý nơi đó. Nếu tìm được mười phần thì nhà vua thâu lấy ba
phần.
Chương XXXVIII. Tại Tích Lan. Sự hình thành của vương quốc. Hành
lễ Phật. Những ngôi tháp và tự viện. Tượng ngọc Phật. Cây Bồ Ðề. Ðại lễ
cung nghinh răng xá lợi của Phật.
Vương quốc này vốn không có người ở mà chỉ có quỷ thần cùng rồng cư trú.
Thương nhân ở các nước khác đến mở chợ búa để buôn bán trao đổi. Những khi
đổi chác, quỷ thần không tự hiện thân, chỉ để bảo vật và giá cả. Thương
nhân y theo đó mà mua lấy trân bảo.
Vì các thương nhân thường qua lại, dân chúng ở các nước khác được biết là
vùng đất đó rất phì nhiêu màu mỡ, nên đến đó sinh sống, khiến hòn đảo ấy
trở thành một đại quốc. Khí hậu nước đó rất ôn hòa. Nhiệt độ vào mùa đông
không khác chi với mùa hè. Cây cỏ hoa trái luôn sum xuê um tùm. Dân chúng
muốn trồng ruộng lúc nào cũng được, chứ không theo thời tiết.
Xưa kia, khi đến nước này[203],
Phật vì muốn hóa độ ác long (rồng ác), nên dùng lực thần túc, một chân
bước tại phía bắc vương thành, một chân đạp trên đảnh núi
[204]. Hai bàn chân cách nhau mười lăm do
tuần. Nơi dấu chân ấn trên phía bắc của vương thành có xây một đại tháp,
cao bốn mươi trượng, được trang hoàng nghiêm sức bằng vàng bạc, chúng bảo
hợp thành. Bên cạnh ngọn tháp có một ngôi tăng già lam, gọi là Vô Úy Sơn
[205], chứa năm ngàn tăng chúng. Ngôi Phật
điện được chạm khắc bằng vàng bạc rất điêu luyện tinh vi, cùng trang hoàng
với bao loại châu báu. Ngay trung tâm chùa có một tượng ngọc Phật màu xanh
lá cây, cao hai trượng; chung quanh thân có bảy loại châu báu chiếu sáng
soi lẫn nhau; oai tướng nghiêm hiển, không thể diễn tả hết bằng lời. Phía
bên phải của ngôi chánh điện có một bảo vật vô giá.
Tôi rời đất Tàu đã bao năm, thường giao tiếp cùng nhân dân nước lạ, và
mắt không ngắm nhìn núi non suối nguồn cỏ cây quen thuộc; chư đồng hành
lại phân ly; hoặc có kẻ ở xa, hoặc có người đã mất, xoay lại chỉ còn bóng
hình mình, nên tâm thường buồn bã. Ngày nọ, đang đứng bên cạnh tượng ngọc
Phật, tôi chợt thấy thương nhân
[206] dùng quạt may bằng lụa trắng cúng dường
tượng Phật, nên bất giác xót thương, lệ rơi tràn đầy đôi mắt.
Vua đời trước của vương quốc đó, sai sứ đến Trung Quốc (tức Ấn Ðộ), mang
một nhánh cây Bồ Ðề
[207] về trồng ngay bên cạnh ngôi chánh điện.
Cây Bồ Ðề dần dần đâm chồi nẩy nở, cao đến hai mươi trượng. Thấy cây Bồ Ðề
này nghiêng về hướng đông nam, nhà vua sợ cây sẽ gẫy, nên cho người dựng
cột trụ rộng khoảng tám chín gang tay để chống đỡ. Cây Bồ Ðề lại bắt đầu
đâm nhánh ngay cốt lõi của cây cột trụ, cùng đâm xuyên qua cột trụ, rồi
đâm xuống đất, trở thành rễ cây lớn rộng khoảng bốn gang tay. Dầu cột trụ
bị nứt bể bên trong, nhưng phần ngoài vẫn còn chống đỡ được cây Bồ Ðề.
Ngay dưới cội Bồ Ðề có một ngôi tịnh xá; bên trong có một tượng Phật ngồi;
chư tăng cùng kẻ tục đồng kính ngưỡng thờ phụng không giải đãi. Trong
thành cũng lập một ngôi tịnh xá thờ răng Phật, và đều làm bằng bảy loại
châu báu.
Nhà vua thường tịnh tu Phạm hạnh. Nhân dân trong thành kính tín Phật pháp
rất thuần hậu. Kể từ lúc lập quốc cho đến hiện tại, vương quốc đó không có
đói rét loạn lạc. Tàng khố của chúng tăng đa số đều có trân bảo vô giá ma
ni. Lần nọ, một quốc vương của nước đó đi vào thăm tàng khố (nhà kho) của
tăng chúng, thấy hạt châu ma ni, liền sanh tâm tham, muốn lấy hạt châu đó.
Song, ba ngày sau quốc vương tỉnh ngộ, bèn đi thẳng đến giữa chúng tăng,
ngửa đầu xin sám hối tâm xấu xa. Nhân đó, quốc vương bạch với chúng tăng
rằng nguyện xin chư tăng lập quy chế, từ đây về sau, chớ cho phép vua chúa
vào nhà kho xem xét. Tỳ kheo mãn bốn mươi tuổi hạ mới được vào đó.
Trong thành, đa số nhà cửa của trưởng giả cư sĩ, Tát Bạc thương nhân
[208] đều trang nghiêm tráng lệ; thương cảng
đường xá gọn gàng sạch sẽ. Tại những ngã tư đường đều kiến lập điện đường
thuyết pháp. Vào mồng tám, ngày mười bốn, và ngày rằm, họ trải thảm lập
tòa. Bốn chúng tăng sĩ cùng kẻ tục đồng tụ hội nghe pháp. Nhân dân thường
bảo rằng trong vương quốc có khoảng sáu mươi ngàn tăng sĩ, đều được tín
chúng cúng dường thức ăn. Ngoài ra, quốc vương còn lập một nơi cất chứa
thức ăn có thể cúng dường cho năm sáu ngàn tăng sĩ. Vị tăng nào muốn thì
mang bình bát lớn, tùy theo phân lượng dung chứa mà lấy thức ăn tại đó.
Lấy đủ xong rồi trở về lại chùa mình.
Răng xá lợi Phật thường được đem ra vào giữa tháng ba. Trước đó mười
ngày, quốc vương trang sức một thớt voi lớn, sai một người diễn thuyết
hoạt bát, mặc vương phục, ngồi trên mình voi, đánh trống xướng lời:
- Bồ Tát tu hành trong ba a tăng kỳ kiếp, không quản thân mạng, xả bỏ
quốc thành vợ con, cùng móc mắt để cho người, cắt thịt để chuộc mạng chim
bồ câu, cắt đầu để bố thí, xả thân cho hổ đói, không keo kiệt tủy não.
Ngài hành những khổ hạnh như thế vì chúng sanh, nên mới thành Phật, trụ
tại thế thuyết pháp giáo hóa chúng sanh trong bốn mươi chín năm, khiến
người chưa an được an, khiến người chưa độ được độ. Lúc hết duyên lành với
chúng sanh, Ngài nhập niết bàn. Từ khi Ngài nhập niết bàn cho đến ngày
nay, một ngàn bốn trăm chín mươi bảy năm, con mắt và ánh sáng của thế gian
đã diệt. Chúng sanh lâu dài đau khổ triền miên. Sau mười ngày, răng xá lợi
Phật sẽ được thỉnh ra và mang đến tịnh xá Vô Úy Sơn. Chư tăng cùng kẻ tục
trong nước, ai muốn gieo phước lành, hãy cùng nhau quét dọn đường xá cho
sạch sẽ, nghiêm sức thương cảng đạo lộ, bày biện hương hoa, cùng sắp đặt
đầy đủ vật dụng cúng dường.
Lời xướng vừa ban ra, quốc vương bèn sai người đến hai bên đường lộ, tạo
năm trăm hình tượng báo thân biến hiện của Bồ Tát từ xưa đến nay, hoặc làm
Thuận Ðại Noa
[209], Ðàm Biến
[210], vua loài voi
[211], hươu nai, ngựa, v.v... Những hình tượng
như thế đều được tô vẽ trang sức dạng trạng giống như thật. Kế đến, răng
xá lợi Phật được thỉnh ra và diễn hành giữa đạo lộ, đi đến các nơi, tùy
chỗ mà được cúng dường, rồi được đưa vào chánh điện Phật của tịnh xá Vô Úy
Sơn. Chư tăng cùng kẻ tục tụ hội, dâng hoa đốt hương cùng hành bao pháp
sự, liên tục ngày đêm không ngớt, mãi tới chín mươi ngày sau mới viên mãn,
tức khi răng xá lợi Phật được cung thỉnh trở lại tịnh xá trong thành. Vào
những ngày trai giới, cửa của tịnh xá đó được mở, và tăng chúng hành pháp
hội lễ lộc đều như pháp.
Cách tịnh xá Vô Úy Sơn về hướng đông bốn mươi dặm có một ngọn núi
[212], mà trên đó cũng có một tịnh xá, gọi là
Chi Ðề
[213], chứa khoảng hai ngàn tăng sĩ. Giữa
chúng tăng, một vị đại đức sa môn tên là Ðạt Ma Cù Ðế
[214], được tất cả quốc dân tôn sùng kính
ngưỡng. Ngài trụ trong một hang đá hơn bốn mươi năm, thường hành từ tâm,
có khả năng cảm phục rắn chuột, đồng sống trong một thất mà không hại lẫn
nhau.
Chương XXXIX. Lễ trà tỳ một vị A La Hán. Lời thuyết giảng của một
đạo nhân.
Cách thành bảy dặm về phía nam có một tịnh xá, tên là Ma Ha Tỳ Ha La,
chứa ba ngàn vị tăng. Giữa tăng chúng, có một vị cao tăng đại đức, giới
hạnh thanh khiết. Quốc dân đều phỏng đoán Ngài là vị A La Hán sống. Lúc
sắp lâm chung, quốc vương tới xem xét, y pháp vân tập và vấn hỏi chúng
tăng rằng vị tỳ kheo đó có đắc đạo chưa. Chúng tăng đồng xác nhận là vị tỳ
kheo đó thật đã đắc đạo quả vị A La Hán. Tỳ kheo đó vừa nhập tịch, quốc
vương y theo pháp tắc trà tỳ một vị A La Hán như trong kinh luật. Cách
tịnh xá bốn năm dặm về phía đông, một giàn hỏa được dựng lên, rộng và cao
hơn ba trượng. Gần phía trên giàn hỏa, có đặt gỗ chiên đàn trầm thủy, cùng
các loại hương hoa.
Bốn bên giàn hỏa, họ làm thềm cấp để bước lên. Họ quấn thân vị tỳ kheo đó
bằng vải lụa trắng thanh tịnh rất nhiều lớp, rồi làm khuôn kiệu khiêng
linh cữu giống như xe tang ở nước ta, nhưng không có hình cá rồng.
Sắp đến giờ trà tỳ, nhà vua và quốc dân, khắp nơi đồng tụ hội, dùng hương
hoa cúng dường. Trên đường đi theo kiệu mang linh cữu đến phần mộ, quốc
vương dâng hương hoa cúng dường. Ðến nơi tẩm liệm và được cúng dường xong,
kiện mang linh cữu được đặt trên giàn hỏa; dầu và sữa được rắc lên đó, rồi
lửa được nổi lên để trà tỳ nhục thân của Ngài. Trong lúc trà tỳ, vì tâm
cung kính, dân chúng mỗi mỗi cởi thượng y cùng quạt lông, dù lọng rồi
liệng vào giàn hỏa để trợ duyên cho lửa. Trà tỳ xong, họ thu nhặt xá lợi
và tiến hành lập tháp thờ. Tôi đến không kịp lúc vị tỳ kheo đó còn sống,
mà chỉ tới lúc trà tỳ Ngài thôi.
Quốc vương[215]
dốc lòng cung kính Phật pháp, muốn xây tịnh xá mới cho chúng tăng, trước
tiên thiết đại pháp hội. Cúng dường thức ăn cùng tặng phẩm cho chư tăng
xong, quốc vương sai người tuyển một cặp trâu thượng hảo, dùng vàng bạc
bảo vật trang sức trên sừng chúng, và làm một cái cày bằng vàng. Quốc
vương tự cày bốn bên miếng đất sắp xây tịnh xá, rồi sau đó chia cắt, cấp
nhà cửa, điền sản cho tăng chúng và khắc lên bảng thiếc rằng từ đây về
sau, đời đời tiếp nối, không ai có thể phá hoại sửa đổi sắc lệnh đó.
Thời gian trú tại nước đó, tôi đã từng nghe một đạo nhân người Thiên Trúc
ngồi trên tòa cao, tụng lời kinh như sau:
- Bình bát của Phật, vốn tại nước Tỳ Xá Ly. Hiện nay bình bát đó đang ở
tại nước Kiền Ðà Vệ
[216]. Vài trăm năm sau (tôi nghe ông ta đọc
rõ niên số, nhưng nay quên mất) bình bát sẽ đến nước Tây Nguyệt Dân
[217]. Vài trăm năm sau sẽ đến nước Vu Ðiền.
Vài trăm năm sau sẽ đến nước Khuất Tỳ
[218]. Vài trăm năm sau sẽ đến đất Tàu. Vài
trăm năm sau sẽ đến nước Sư Tử (Tích Lan). Vài trăm năm sau sẽ trở về
trung Thiên Trúc. Sau đó bình bát sẽ tự bay lên cung trời Ðâu Suất. Bồ Tát
Di Lặc thấy thế tán thán: "Bình bát của Thích Ca Văn Phật đã đến!"
Bồ Tát Di Lặc liền cùng với chư thiên dùng hương hoa cúng dường trong bảy
ngày. Ðược cúng dường xong, bình bát tự trở lại cõi Diêm Phù Ðề, và được
Hải Long Vương thâu nhận cùng đem đặt vào long cung. Lúc Bồ Tát Di Lặc sắp
thành đạo, bình bát tự phân làm bốn, rồi bay trở lại lên đỉnh núi Át Na
[219]. Sau khi ngài Di Lặc thành đạo, trời Tứ
Thiên Vương lại nghĩ đến Phật (với bình bát mà họ cúng dường cho đức Phật
thuở trước). Thật thế, ngàn vị Phật trong đời hiền kiếp, đồng dùng một
bình bát. Bình bát mất đi, Phật pháp dần dần diệt mất. Sau khi Phật pháp
diệt mất, tuổi thọ con người giảm xuống cho đến năm tuổi. Lúc đó, lúa gạo,
bơ, sữa đều diệt mất, và dân chúng rất ác độc; cỏ cây biến thành đao
trượng. Người người dùng chúng để cùng nhau tương tàn sát hại. Trong đó có
những người còn phước đức, trốn ẩn vào núi. Khi những người ác đã giết
nhau hết, thì những người này từ trong núi trở ra lại, rồi cùng bảo nhau:
"Người xưa sống rất trường thọ; vì quá tàn ác, làm bao việc phi pháp, nên
thọ mạng của chúng ta mới ngắn ngủi như vầy, cho đến chỉ còn năm tuổi.
Ngày nay chúng ta hãy cùng nhau hành các việc thiện, khởi tâm từ bi, tu
hành nhân nghĩa."
Như thế, họ thường hành nhân nghĩa và các việc thiện, nên thọ mạng triển
chuyển tăng gấp bội, cho đến tám mươi ngàn tuổi. Khi Phật Di Lặc xuất thế,
và bắt đầu chuyển bánh xe pháp, trước tiên Ngài sẽ độ hết những đệ tử xuất
gia của Phật Thích Ca còn sót lại cùng những người đã từng thọ tam quy y
ngũ giới và bát quan trai giới, cúng dường Tam Bảo. Chuyển pháp luân lần
thứ hai, lần thứ ba, Phật Di Lặc độ những người hữu duyên từ bao đời tiền
kiếp.
Nghe qua những lời này, ngài Pháp Hiển muốn viết bài lại kinh đó. Người
đó bèn bảo:
- Không có bài kinh nào như thế mà chỉ do tâm khẩu tôi tụng đọc.
Chương XL. Sau hai năm tu học tại vương quốc Sư Tử, trở lại đất
Tàu.
B.
Gặp nạn trên đường đến Da Bà Ðề (Java). Tiếp
tục cuộc hành trình trở về đất Hán. Ðến Sơn Ðông, tới Nam Kinh. Lời kết
thúc của người viết.
Tôi trú ở nước đó hai năm, tìm được bản Luật Tạng của phái Di Sa Tắc
(Mahisâsakah), kinh Trường A Hàm (Dirghâgama), Tạp A Hàm (Samyuktâgama),
và một bộ tạp tạng (Sayukta-sanchaya-pitaka)
[220]. Những bộ kinh này nước Tàu không có.
Ðược những quyển kinh luật tiếng Phạn, tôi lên một chiếc thương thuyền
lớn, có hơn hai trăm người trên đó. Phía sau thuyền có buộc theo một chiếc
thuyền nhỏ để phòng bị khi gặp hiểm nạn trên biển cả. Thuận buồm xuôi gió,
thuyền chạy về hướng đông ba ngày, rồi lại gặp gió lớn, khiến thuyền bị
lủng, nước tràn vào. Thương nhân muốn lấy chiếc thuyền nhỏ, nhưng những
người trên chiếc thuyền nhỏ sợ quá đông người qua đó, nên chặt đứt dây
kéo, khiến thương nhân rất sợ hãi. Mạng sống chỉ còn trong giây phút vì
nước chảy ào ạt vào thuyền, nên họ liệng hết đồ đạc cồng kềnh xuống biển.
Tôi cũng quăng chậu tắm và những vật dư thừa xuống nước. Song, sợ rằng
thương nhân sẽ liệng kinh tượng của mình xuống biển, nên tôi nhất tâm niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cùng quy mạng về chư tăng ở đất Tàu:
- Con vốn đi viễn hành để cầu pháp. Xin nguyện oai thần của các ngài gia
hộ cho con sớm được trở về nước, và đến nơi an lành.
Gió lớn như thế thổi mãi trong mười ba ngày đêm, đưa thuyền đến bên một
hoang đảo (có thể là đảo Ni Khắc Ba). Thủy triều vừa xuống thì họ thấy chỗ
lủng của thuyền, nên liền trét bít lại, rồi thuyền tiếp tục chạy. Trên
biển có rất nhiều hải tặc, gặp chúng thì không toàn tánh mạng. Biển rộng
bao la không bến bờ; thuyền trưởng không biết hướng đông tây nơi nào, chỉ
chạy theo hướng của mặt trời mặt trăng và tinh sao mà thôi. Lúc gặp mưa
gió, thuyền chỉ việc chạy theo chiều gió mà không có định hướng. Khi trời
tối tăm, chỉ thấy những đợt sóng triều cuồn cuộn chảy cùng ánh sáng lập
lòe như lửa cháy với những con rùa biển to lớn và những quái vật trong
biển. Thương nhân rất đỗi kinh hoàng, không biết thuyền đang hướng về phía
nào. Biển sâu không đáy, lại không có nơi để bỏ đá cắm neo. Lúc trời trong
mây tạnh, thuyền trưởng mới định phía đông tây để lái thuyền chạy đúng
theo phương hướng. Nếu gặp đá ngầm, chắc không sống nổi.
Thuyền chạy như thế khoảng chín mươi ngày đêm thì đến một vương quốc, tên
là Da Ba Ðề (Yavadvipasumatra). Tại vương quốc này, ngoại đạo bà la môn
rất hưng thạnh, còn Phật pháp thì không được bàn tới. Trú ở nơi đó năm
tháng, tôi lại theo thương nhân lên thương thuyền khác, cũng có khoảng hai
trăm người. Họ đem theo lương thực cho năm mươi ngày. Thuyền nhổ neo vào
ngày mười sáu tháng tư.
Tôi tự an cư trên chiếc thuyền đó. Thuyền chạy về phía đông bắc, hướng
tỉnh Quảng Châu. Hơn một tháng sau, vào đêm nọ, vừa đánh trống canh hai
thì thuyền gặp một ngọn gió đen thổi đến và mưa rơi ào ạt. Hành khách cùng
thương nhân đều kinh hoàng. Lúc ấy, tôi chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm cùng chúng tăng ở đất Tàu. Mông nhờ oai thần gia hộ, trời sớm
quang đãng trong sáng trở lại. Chư bà la môn đồng luận nghị:
- Thuyền chúng ta chở theo ông sa môn kia (tức là tôi); thật là một điềm
xấu. Chúng ta bị hoạn nạn lớn vừa rồi, đều do ông tỳ kheo đó. Vậy hãy để
ông ta lại trên một hòn đảo. Không thể vì một người mà khiến cho mọi người
đều bị nguy hiểm.
Liền đó, một vị đàn việt của tôi bảo với họ:
- Nếu các người muốn bỏ vị tỳ kheo này xuống thì cũng phải bỏ tôi luôn.
Nếu không, thì hãy giết tôi đi. Nếu bỏ vị tỳ kheo này xuống hòn đảo hoang,
lúc đến đất Tàu, tôi sẽ thưa rõ mọi sự tình với quốc vương. Quốc vương đất
Tàu rất cung kính Phật pháp, tín trọng chư tỳ kheo.
Nghe qua lời này, các thương nhân trù trừ rụt rè, không dám bỏ tôi xuống.
Bấy giờ, liên tiếp qua bao ngày, bầu trời u ám nhiều mây. Thuyền chạy hơn
bảy mươi ngày, tức là đã đi lạc hướng, nên thuyền trưởng và thủy thủ chỉ
biết nhìn nhau mà thôi. Lương thực và nước uống gần cạn hết, nên họ phải
dùng nước biển mặn để nấu cơm và làm cách thủy nước lọc để uống. Mỗi người
được khoảng hai bình nước. Chẳng bao lâu lương thực gần cạn hết, thương
nhân bèn bàn luận với nhau rằng theo thường lệ thì thuyền chỉ chạy khoảng
năm mươi ngày là đến Quảng Châu. Nay đã quá hơn kỳ hạn nhiều ngày, vậy có
phải thuyền đã chạy lạc hướng rồi chăng?
Lập tức, họ quay thuyền chạy về hướng tây bắc để tìm bờ bể. Thuyền chạy
khoảng mười hai ngày đêm thì đến biên giới quận Trường Quảng, nơi bờ bể
phía nam của Lao Sơn. Ðến nơi, họ mua được nước ngọt rau tươi. Qua bao
ngày hiểm nạn, kinh hoàng sợ hãi trên biển cả, họ đến được bờ bể này. Nhìn
thấy rau lê lá dâu, tức nhiên biết đây là đất Tàu, nhưng không gặp dân
chúng cùng dấu chân của khách lữ hành, nên họ không biết đang ở đâu. Vài
người bảo rằng chưa đến Quảng Châu. Vài người bảo rằng đã vượt quá Quảng
Châu. Họ bàn tán xôn xao, không thể định được nơi đó là đâu. Họ liền hạ
một chiếc xuồng nhỏ và chèo vào lạch sông để tìm người, hầu mong hỏi han
xem coi đó là vùng nào. Họ gặp hai thợ săn, liền quày trở lại nơi thuyền
lớn đậu, và nhờ tôi phiên dịch những câu hỏi. Ðầu tiên, tôi an ủi họ, rồi
thong thả hỏi:
- Các người là ai?"
Họ đáp:
- Chúng con là đệ tử Phật.
- Các người vào núi tìm gì?
Họ bắt đầu nói láo[221]:
- Ngày mai là rằm tháng bảy. Chúng con muốn đi hái trái lê để cúng Phật.
Tôi hỏi:
- Ðây là nơi nào?
- Ðây là Thanh Châu, ranh giới quận Trường Quảng (núi Lao Sơn), thuộc
vùng đất của Thống Lưu Phổ Gia.
Thương nhân nghe thế rất vui mừng và lấy ra một phần tài vật nhờ người
mang đến quận Trường Quảng.
Thái thú Lý Nghi rất cung kính Phật pháp; nghe có sa môn mang kinh tượng
theo thuyền vượt bể mà đến thì ông ta liền theo người tới bờ biển để gặp
mặt. Ðến nơi, thái thú cung ngưỡng tiếp thọ kinh tượng về đến quận thành
nơi ông ta đang trị vì. Thương nhân từ đó trở lại Dương Châu. Lúc đến
Thanh Châu, thứ sử Lưu Ðạo Liên lại thỉnh tôi lưu lại nơi đó trong một mùa
đông và mùa hạ. An cư kiết hạ xong, tôi mau mắn trở về Trường An vì đã xa
cách các tôn sư quá lâu ngày. Lại nữa, việc này rất quan trọng, nên tôi
tức tốc xuôi vào nam, hướng đến Trường An. Bấy giờ, chiến loạn nổi lên
khắp vùng Hoa Bắc, nên tôi không có cách chi để đến Trường An, ròi đành
phải xuôi vào nam, tới Kiến Nghiệp (tức Nam Kinh). Gặp lại chư sư, tôi đưa
cho họ xem những kinh luật tạng đã được thâu thập. (Ðến đây là chấm dứt
phần tự thuật của ngài Pháp Hiển.)
Từ Trường An, trải qua sáu năm, ngài Pháp Hiển đến trung Ấn Ðộ. Ngài ở đó
hơn sáu năm, rồi ba năm sau mới về đến Thanh Châu. Ngài đã đi qua gần ba
mươi vương quốc; vượt sa mạc đi về hướng tây phía Thiên Trúc; oai nghi
pháp hóa của chúng tăng tại các nơi đó rất tinh tường nghiêm túc, không
thể dùng lời mô tả được hết. Ngài suy nghĩ rằng chư sư của mình chưa từng
nghe hoàn toàn về các dữ kiện ở những nơi đó. Do đó, Ngài đi sang Thiên
Trúc để cầu pháp, mà không màng mạng sống tầm thường, hoặc những cơn hoạn
nạn gian nan trên đất liền cùng biển cả. May mắn thay, mông nhờ oai thần
của Tam Bảo gia hộ, tuy gặp bao nguy khốn mà Ngài vẫn được bình an. Vì
vậy, Ngài dùng trúc lụa viết lại những gì Ngài đã từng trải qua, hầu mong
chia xẻ những việc thấy nghe với chư hiền giả.
Bấy giờ là năm Giáp Dần, triều Tấn, niên hiệu Nghĩa Hi thứ mười hai
(416). Sau mùa kiết hạ an cư, tôi (người viết lại cuộc hành trình của ngài
Pháp Hiển)[222]
cung ngưỡng đạo nhân Pháp Hiển. Lúc Pháp Hiển đến, tôi giữ Ngài lại với
mình qua mùa đông. Trong những buổi đàm đạo, tôi thỉnh cầu Ngài thuật lại
cuộc hành trình Tây Du rất nhiều lần. Ngài chấp thuận và y theo sự thật mà
trả lời những câu hỏi của tôi. Kế đến, tôi lại khuyên Ngài kể rõ cuộc hành
trình theo thứ tụ và từng chi tiết. Ngài đồng ý và kể rõ từ đầu đến cuối
theo trình tự. Ngài tự bảo:
- Nhìn lại những gì đã đi qua, bất giác tâm động rùng mình toát mồ hôi.
Gặp những hiểm nguy khổ nạn tôi không quản thân mạng; nhờ kiên trì giữ mãi
chí nguyện, không suy nghĩ đắn đo, chỉ cố gắng hoàn thành sứ mạng và
chuyên tâm chất trực, sẳn sàng thí mạng tại những vùng đất chết, nên mới
đạt một trong muôn ngàn sở nguyện.
Những lời này khiến tôi rất cảm động. Xưa nay ít có những ai như Ngài. Từ
lúc đại giáo (Phật pháp) lưu truyền sang đông độ (đất Tàu), chưa từng có
ai dám quên thân cầu pháp như Ngài. Do đó, tôi nhận thấy rằng nếu có chân
tâm thành ý thì sẽ vượt qua mọi chướng ngại dẫu có lớn đến đâu đi nữa.
Ðộng lực đó sẽ không thất bại hoàn thành bất cứ sứ mạng gì. Có phải sự
hoàn thành sứ mạng nhờ quên đi những gì quan trọng và bám chặt trọng yếu
vào những gì đã quên chăng?
Ngài
Pháp Hiển ghi rằng tăng chúng ở Thiên Trúc và Tây Vực đều tuân thủ giới
luật, oai nghi đoan chánh, phụng hành pháp hóa khiến người người cảm phục.
Vì muốn tăng chúng đất Tàu hiểu rõ sự tình của việc tu đạo ở bên phương
tây, cùng phát tâm tầm cầu kinh luật, nên xem thường thân mạng, không quản
bao gian nan nguy hiểm mà sang Thiên Trúc. Nhờ từ ân của chư Phật gia hộ,
mà Ngài bình an mang kinh luật trở về vào năm 413.
Y cứ theo quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập', ngài Pháp Hiển dịch được sáu bộ
và sáu mươi ba quyển kinh như sau: Kinh Ðại Bát Niết Bàn (6 quyển), Kinh
Phuơng Ðẳng Niết Bàn (2 quyển), Ma Ha Tăng Kỳ Luật (40 quyển), Tăng Kỳ Tỳ
Kheo Giới Bổn (1 quyển), Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận (13 quyển), Tạp Tạng Kinh
(1 quyển).
Sau này, ngài Pháp Hiển rời Kiến Nghiệp, đến chùa Tân Tự ở Kinh Châu. Nơi
đó, ngài Pháp Hiển nhập tịch, thọ tám mươi sáu tuổi.
[1]
Trường An là kinh đô của nhà Tiền Hán (202 tT.L-24 s.T.L) và nhà Tùy
(589-618). Nhà Tây Tấn, gần thời ngài Pháp Hiển, dời kinh đô về gần
hay tại Nam Kinh. Ðương thời Trường An là kinh đô của tam Tần (Tiền
Tần, Hậu Tần, Tây Tần).
[2]
Niên hiệu Hoằng Thủy từ 399 đến 414, là vương quốc
mạnh nhất của triều Dao Hưng, Hậu Tần.
[3]
Pháp danh của các vị tăng.
[4]
Tạng Luật là một trong ba đại tạng quan trọng của
Phật giáo, tức là Kinh, Luật Luận.
[5]
Lung ở thị trấn Lan Châu, phía tây của thành phố
Tây An.
[6]
Càn Quy là vua thứ hai của Tây Tần thuộc bộ lạc
Tiêu Ti, đóng đô gần Lan Châu. Hiện tại là Lan Châu Thị Tứ của tỉnh
Cam Túc.
[7]
Ðức Phật chế giới cho chư tỳ kheo vào mỗi năm phải
an cư kiết hạ để trau dồi giới đức cùng việc tu tập.
[8]
Ngũ Lương trong thời loạn ly Ðông Tấn. Danh hiệu
Lương cho đến này nay vẫn còn, tức Lương Châu ở tỉnh Cam Túc. Nam
Lương do Thái Sơ Ðiểu Cô lập nên vào năm 397, rồi người em là Lợi Lộc
Cô kế vị vào năm 399, và người em kế là Nậu Ðàn kế vị vào năm 402.
[9]
Trường Dịch ở tỉnh Cam Túc, gần Vạn Lý Trường
Thành.
[10]
Ðàn Việt phát xuất từ chữ Ðàn Na, hay là hạnh Bố
Thí trong lục độ. Ðàn Việt là những vị hành hạnh bố thí để vượt qua
biển khổ.
[11]
Giữa những vị du tăng thầy Bảo Vân là vị xuất sắc
nhất vì đã phiên dịch rất nhiều kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Hán
khi trở về cố quốc. Hiện giờ hình như chỉ còn một bản dịch của Thầy.
Thầy tịch vào năm 449. (Hãy xem bản Nanjio's Catalogue ofTripitaka,
col 417.)
[12]
Ðây là lần an cư kiết hạ thứ nhất của các du tăng
vào năm 400, từ khi rời Trường An.
[13]
Tức là huyện Ðôn Hoàng của tỉnh Cam Túc, và ở tại
tây ngạn của sông Hắc Hà.
[14]
Lý Hạo được vua nước Bắc Lương phong làm thái thú
vào năm 400, và làm chức quận công của nước Tây Lương cho đến khi mất
vào năm 417.
[15] Bãi sa mạc này dài khoảng 2.100 dặm. Theo truyền thuyết có 360 thành ấp bị gió cát sa mạc này chôn vùi trong vòng một ngày.
[16]
Nước Thiện Thiện (Lobnor) là một quận nhỏ của nhà
Tiền Hán.
[17]
Ðây là ngài Pháp Hiển muốn nói đến nước Hán (hay
nước Tàu). Triều Hán kéo dài gần năm thế kỷ. Song, đôi khi ngài Pháp
Hiển cũng dùng danh tự "đất Tần hoặc đất Tấn" để chỉ cho nước Tàu.
[18]
Danh từ sa môn tức chỉ cho các vị tăng sĩ Phật
giáo. Chữ sa môn xuất phát từ chữ Sramana của tiếng Phạn hay Samana
của tiếng Pali.
[19]
Thiên Trúc tức là nước Ấn Ðộ ngày nay.
[20]
Người Tartar hay người Mông Cổ.
[21]
Nước Ô Di (Karashhr) hiện nay là huyện Yên Kỳ ở
tỉnh Tân Cương, thuộc vùng tự trị của người Hồi.
[22]
Chỉ cho nước Tàu.
[23]
Những vị bị bỏ lại tại Ðôn Hoàng.
[24]
Cao Xương (Turfan hay Tanggut), thuộc vùng đất của
Ouighurs.
[25]
Vu Ðiền (Khotan) là thị trấn quan trọng nằm trên
con lộ phía nam ở Tây Vức. Dân chúng đương thời theo Phật giáo đại
thừa.
[26]
Nghĩa là tăng phòng dành cho chư khách tăng từ bốn
phương khác đến.
[27]
Tăng Già Lam nghĩa là ngôi chùa.
[28] Cù Ma Ðế (Gotami) tiếng Tàu dịch là Ngưu Ðiền.
[29]
Tịnh nhân tức là chư sa môn thanh tịnh.
[30]
Bảy vật trân báu là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, kim ngân, hỗ phách.
[31]
Tức ngọn núi Thông Lĩnh.
[32]
Theo quyển Hán Thư thứ 96, tr.78, kinh đô của nước Kế Tân (Kashmir)
cách Trường An khoảng 12.200 dặm. Hiện nay, nước Kế Tân là một phần
hay toàn phần của Cabulistan.Thủ đô Capul của nước Afghanistan (A Phú
Hãn), có thể là vùng Kế Tân.
[33]
Tử Hợp tức Karghlik.
[34]
Ư Huy nằm phía tây nam của Kỳ Bàn Trang, và tây nam cửa khẩu của núi
Khố Lạp Mã Ðặc.
[35]
Ðã trải qua hai năm từ khi họ rời Trường An. Vậy
thì lần an cư kiết hạ này là vào năm 402.
[36]
Vị đi trước họ từ nước Vu Ðiền.
[37]
Lễ Bàn Giá Vượt Sư tức là pháp hội Vô Giá trong
mỗi năm năm do vua A Dục phát khởi. Pháp hội Vô Giá được tổ chức với
mục đích ban phát của cải cho người nghèo. Ðây cũng là pháp hội sám
hối. Ở Ấn Ðộ, pháp hội Vô Giá thường được nhà vua tổ chức để cúng
dường thức ăn cho chư tăng và phân phát đồ đạc cho người nghèo. Trong
quyển Lịch Sử Văn Minh Ấn Ðộ, trang 157, ông Nguyễn Hiến Lê viết:
"...Huyền Trang, nhà sư đi thỉnh kinh nổi tiếng nhất của Trung Hoa,
bảo rằng vua Harsha cứ năm năm lại tổ chức một đại lễ để bố thí. Ông
mời đại diện tất cả tôn giáo, gọi tất cả những người nghèo khổ trong
nước lại. Ông có thói quen, trong quốc khố còn chứa bao nhiêu tiền
thuế dành dụm từ đại lễ lần trước (nghĩa là năm năm trước), lần này
đem ra bố thí hết. Huyền Trang ngạc nhiên thấy biết bao nhiêu vàng
bạc, tiền và nữ trang, tơ lụa gấm vóc chất đống trong một khoảng rộng,
chung quanh có cả trăm cái lều chứa cả ngàn người. Ba ngày đầu cúng
bái, tụng kinh; ngày thứ tư bắt đầu bố thí. Theo lời vị cao tăng đó -
có vẻ không tưởng tượng nổi - hàng vạn tăng được cấp thức ăn uống, rồi
được tặng mỗi người một viên ngọc trai, y phục, hoa, dầu thơm và trăm
đồng tiền. Các tu sĩ Bà La Môn cũng được hậu tặng gần như vậy, rồi tới
các tư sĩ Jain, rồi tới các giáo phái khác, sau cùng tới lượt các
người nghèo không theo một tôn giáo nào, những trẻ mồ côi trong nước.
Có khi bố thí tới ba bốn tháng mới hết. Sau cùng chính nhà vua Harsha
cởi hết y phục rực rỡ, lột hết vàng bạc châu báu đeo trong mình để
phân phát."
[38]
Hiển nhiên là chư tăng nơi đó có thần thông khống
chế thời tiết.
[39]
Nước Ðà Lịch hiện nay là biên giới phía bắc vùng
Ðạt Lệ Di của nước Pakistan (Ba Cơ Tư Thảm).
[40]
Nội viện Ðâu Suất (Tushita) là nơi chư Bồ Tát nhất
sanh bổ xứ thành Phật, nghĩa là nơi chư đại Bồ Tát trú ngụ đời cuối
cùng trước khi giáng sanh thành Phật. Tuổi thọ ở cõi trời Ðâu Suất là
4.000 năm. Một ngày một đêm ở cõi trời Ðâu Suất bằng bốn trăm năm ở
cõi Ta Bà.
[41]
Bồ Tát Di Lặc sẽ đản sanh xuống cõi Ta Bà trong
5.000 tới, và sẽ thành Phật dưới cội Long Hoa. (Xin xem kinh Di Lặc
Thượng Sanh và Hạ Sanh.)
[42]
Sông Tân Ðầu tức là sông Ấn Ðộ (Indus).
[43]
Chức phẩm quan lại đi theo đoàn quân Hán viễn chinh về miền tây để làm
người phiên dịch.
[44]
Trương Khiên vốn là sứ quân nhà Hán. Theo lệnh vua
Võ Hán (t.T.L 140-87) ông đi qua các nước Ô-tôn, Ðại Uyển, Khương Cư,
Ðại Hạ (A Phú Hãn) và tuyên dương oai đức của nhà Hán, khiến cho nhiều
nước quy phục Hán Triều. Do đó, ông được vua nhà Hán ban hiệu là
'Xuyên Hư Không'.
[45]
So với Trương Khiên, ông ít được biết đến. Với
chức quan sứ giả triều đình, ông đi đến đế quốc La Ma theo lịnh của
vua nhà Hán vào năm 88, nhưng chỉ đi tới biển Caspian rồi trở về.
Song, nhờ ông mà triều thần đương thời mở rộng kiến thức về sự phát
triển của các vương quốc ở phía Tây.
[46]
Chu Ðể Bình làm vua từ năm 750 đến 719 trước T.L
(?)
[47]
Tam Bảo tức Phật, Pháp, Tăng.
[48]
Vào năm 61, vua Hán Minh Ðế (58-75) mơ thấy một vị
thần tướng hảo uy nghiêm, thân vàng sáng chói, bay đến trước cung
điện. Hôm sau, vua bèn hỏi triều thần và được quan Phó Nghị đáp rằng
đó là đức Phật ở bên nước Thiên Trúc, một vị đại giác và có thần thông
bay khắp nơi. Liền sau đó, vua Hán Minh Ðế bèn gởi đoàn sứ giả sang
Thiên Trúc để tìm hiểu về vị thánh này cùng lời dạy của Ngài.
[49]
Nước Ô Trường hiện nay thuộc địa phận vùng Tư Ngõa
Ðặc ở bắc bộ thượng du sông Ấn Ðộ, của Pakistan.
[50]
Na Kiệt (Nagara) là một vương quốc thời cổ. Vương
thành nằm về phía nam con sông Cabul, cách Jellalabad khoảng ba mươi
dặm về phía tây.
[51]
Tức là năm 403.
[52]
Hiện tại thành Swat của Pakistan.
[53]
Tức thành đạo.
[54]
Cách Bạch Sa Ngõa của Pakistan về phía đông bắc 17 dặm.
[55]
Vua A Dục (Asoka) là cháu nội của vua
Chandragupta, vị đã từng lánh nạn trong trại lính của đại đế Alexander
the Great. Hai mươi năm sau, Chandragupta đánh đuổi quân Macédoine (Hy
Lạp) và tuyên bố Ấn Ðộ độc lập, rồi lên làm vua của nước Ma Kiệt Ðà
(Magadha) đông đô tại Pataliputra. Sau khi kế ngôi vị của ông cha, vua
Asoka được một vị A La Hán tế độ nhờ địa ngục trần gian của ông, rồi
trở thành một vì vua Phật tử thuần thành nổi tiếng qua việc cho xây
các cột trụ đá (nhờ những cây cột trụ mà các nhà khảo cổ học mới tìm
được các di tích về cuộc đời và sự truyền giáo của đức Phật ở Ấn Ðộ)
và 84.000 ngọn tháp xá lợi, gởi những đoàn truyền giáo đi khắp châu Á,
và ban hành những đạo luật về tôn giáo phù hợp với tinh thần của Phật
pháp.
[56]
Ðây là mẫu truyện về tiền thân đức Phật trong
quyển Jâtaka.
[57]
Tại Lạp Ngõa Di Phẩm Ðệ về tây bắc cổ thành Tích Di Tạp Mạt,
Pakistan.
[58]
Trong truyện Jâtaka, khi Bồ Tát là vị bà la môn ở làng Daliddi, Ngài
cắt đầu mình cho người. Nhờ công đức này mà Ngài được vãng sanh lên
cung trời Ðâu Suất.
[59]
Tức vùng Bạch Sa Ngõa của nước Pakistan.
[60]
Xuất thân từ bộ lạc Kushan, có huyết thống với dân tộc Thổ (Turc), ở
Trung Á, vào năm 10 ông đem quân xâm chiếm Taboul rồi làm vua cả vùng
tây Ấn Ðộ và một phần lớn Trung Á. Sau khi được sự giáo hóa đột ngột
của một vị thánh tăng, ông trở thành một Phật tử thuần thành hăng hái
như vua Asoka. Chính ông đứng ra triệu tập chư tăng tham gia việc kết
tập kinh điển, ghi soạn khoảng 300.000 kinh, luật, luận. Ông là một vì
minh quân và vương quốc của ông vào đương thời rất hùng mạnh.
[61]
Nói cho đủ là Nam Diêm Phù Ðề (Jambudvipa), là một trong bốn châu
chung quanh núi Tu Di. Ba châu kia là Ðông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu
Hóa Châu, và Bắc Câu Lưu Châu. Cõi Nam Diêm
Phù Ðề thường được chỉ cho Ấn Ðộ.
[62]
Có lẽ là vua Kiền Ni Ca vào đương thời.
[63]
Nghĩa là nhà vua tự nghĩ rằng mình chưa đủ phước báo để gìn giữ bình
bát của đức Phật.
[64]
Tức các vị cư sĩ tại gia.
[65]
Xưa kia, lúc vừa thành đạo thì đức Phật liền được
Tứ Thiên Vương dâng y bát cúng dường, nên Ngài nhận cả bốn rồi hóa
thành một bình bát mà như có bốn lớp chồng lên nhau.
[66]
Theo Ðại Ðường Tây Vực ký quyển 2 thì một do tuần
được tính là 20 km; theo quốc tục Ấn Ðộ thì có 15 km. Phật giáo tính
là 8km; theo phần Giáo Chú trong Hữu Bộ Bách Nhất Yết Ma 3 của Nghĩa
Tịnh thì quốc tục Ấn Ðộ tính là 16 km, Phật giáo tính là 6 km.
[67]
Thành Hải La, hiện tại là Hidda, phía tây của Peshâwur (Trúc Sát Thi
La), và cách Jellalabad năm dặm về phía nam.
[68]
Vị Phật thứ hai mươi bốn trước Phật Thích Ca Mâu
Ni.
[69]
Cây tích trượng đồng màu nâu. Phía trên có dạng
hình đầu trâu. Ðược làm gỗ chiên đàn từ Bắc Câu Lưu Châu.
[70]
Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của đức
Phật.
[71]
Tức là tất cả chư Phật.
[72]
Tức là đức Phật Ðộc Giác, do ngộ lý mười hai nhân
duyên mà chứng quả, và ra đời khi không có vị Phật nào trụ thế.
[73]
Thầy Ðạo Chỉnh và Huệ Cảnh.
[74]
Núi Tiểu Tuyết Sơn nằm vào phía nam ngọn núi Tắc
Phất Ðức Khoa (Safeid Koh), trên đường đến thành Lạp Ba Ðức ở cửa khẩu
Cổ Lạp.
[75]
Nước La Di (Kurram) gần rặng núi Tô Lai Mạn, tức
là vùng phía đông của nước A Phú Hãn, và nằm trên đường đến sông Ấn
Ðộ.
[76]
Tức là năm 404.
[77]
Hiện tại là quận Barnu của Pakistan.
[78]
Hiện tại là vùng Nỗ Giá Phổ (Punjâb) của Pakistan.
[79]
Hiện tại là vùng Mã Hoặc Lý về phía tây nam của Mã Thổ Lạp (Muttra),
Ấn Ðộ. Là quê quán của Krishna, người có biểu tượng chim khổng tước.
[80]
Hiện nay là sông Chu Mộc Nã (Jumna hay Yamunâ)
[81]
Tức là trung Thiên Trúc.
[82]
Hoặc Chiên Ðà La (Chandâlas), là những người đồ
tể, ác ôn, và thường cầm cờ hiệu ghê gớm để đuổi người khác. Họ thuộc
tập cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Ðộ. Song, họ vẫn được chấp nhận vào
tăng đoàn để làm tăng sĩ.
[83]
Tập tục khắc ấn những đặc hứa cho tăng lữ vào mảnh
đồng thiếc thịnh hành trước và sau thời ngài Pháp Hiển.
[84]
Theo giới luật (Nam Tông), không vị tăng sĩ nào được dùng thức ăn cứng
sau giờ ngọ, và không được uống những chất men say. Song, những vị du
tăng có thể dùng những chất như bơ, sữa, dầu mè, mật ngoài giờ quy
định.
[85]
Tức là theo luật nghi của tăng chúng.
[86]
Tôn giả Xá Lợi Phất (Sâriputtra) là đại đệ tử có trí huệ bậc nhất, và
là cánh tay phải của Phật trong việc truyền bá chánh pháp. Tôn giả
viên tịch trước khi đức Phật nhập Niết Bàn.
[87]
Tôn giả Mục Kiền Liên (Maha-maudgalyâyana) là cánh tay trái của Phật
trong việc giáo hóa chúng sanh. Tôn giả là đại đệ tử có thần thông bậc
nhất. Tôn giả đã từng dùng thần thông xuống địa ngục cứu độ bà mẹ
(kinh Vu Lan Bồn). Tôn giả cũng viên tịch trước lúc đức Phật nhập niết
bàn.
[88]
Tôn giả A Nan (Ânanda) là đại đệ tử đa văn bậc nhất. Tôn giả là người
em họ của đức Phật. Tôn giả đản sanh vào ngày đức Phật thành đạo, nên
Tôn Giả cũng có biệt danh là Khánh Hỷ. Tôn giả là vị thị giả thường đi
theo hầu đức Như Lai trên hai mươi năm. Nhờ Tôn Giả cầu thỉnh mà đức
Phật cho phép thành lập ni chúng, và cũng nhờ Tôn Giả tụng lại những
lời giảng dạy của đức Phật mà hiện nay chúng ta mới có kinh điển để tu
hành theo.
[89]
A Tỳ Ðàm (Abhidharma) tức là tạng Luận.
[90]
Tức là gia đình của những Phật tử thuần thành.
[91]
Tôn giả Ðại Ca Diếp (Mahâ-kasyapa) vốn là người dòng bà la môn ở
vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha). Tôn giả là đại đệ tử tu hành khổ hạnh
bậc nhất và được đức Phật truyền y bát, chính thức làm sơ tổ thiền
tông. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, Tôn Giả dẫn năm trăm vị A La Hán
vào hang núi để kiết tập kinh điển. Hiện giờ Tôn Giả vẫn còn nhập định
trong núi Kê Túc để đợi đến khi Phật Di Lặc ra đời để truyền lại y bát
của Phật Thích Ca.
[92]
Tôn giả La Hầu La (Râhula) là đại đệ tử có mật hạnh bậc nhất. Tôn Giả
làm Pháp Tử cho chư Phật trong đời vị lai.
[93]
Bồ Tát Văn Thù (Manjusri) được tôn xưng là bậc 'Ðại Trí' (Mahâmati),
và được sùng tín thờ phụng tại núi Ngũ Ðài (Trung Quốc).
[94]
Theo các học giả Phật giáo, huyền sử về Bồ Tát Quán Thế Âm
(Avalokitesvara) cũng như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là một nghi vấn lớn.
Song, trong kinh điển Ðại Thừa thường nhắc đến hai vị Bồ Tát này như
kinh Pháp Hoa và Lăng Nghiêm. Ở Trung Quốc, Bồ Tát Quán Thế Âm với
ngàn tay ngàn mắt và dung mạo người nữ được tín chúng sùng bái rất phổ
cập, nhất là tại núi Phổ Ðà, vốn là đạo tràng của Ngài. Ðối với người
Tây Phương hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm cũng tương tợ như đức mẹ Mary
của họ.
[95] Danh hiệu Tăng Già Thi cũng vẫn còn tại một ngôi làng cách Canouge về hướng tây bắc bốn mươi lăm dặm ở Samkassam.
[96]
2. Cung trời Ðao Lợi là nơi đức Phật thuyết kinh Ðịa Tạng cho mẹ
Ngài. (dict.?)
[97]
Tôn giả A Na Luật (Anuruddha) là vị có thiên nhãn bậc nhất. Theo kinh
Lăng Nghiêm thì do bị đức Phật quở trách vì ngủ gật trong khi nghe
giảng kinh, nên Tôn Giả quyết chí tinh tấn tu hành suốt bảy ngày đêm
mà không chợp mắt, khiến phải bị đui mù, nhưng sau này nhờ đức Phật
chỉ dạy nên tu chứng quả thánh và đạt được thiên nhãn thông. Ngoài ra,
trước khi đức Phật nhập niết bàn, nhờ Tôn Giả nhắc nhở mà tôn giả A
Nan mới bạch vấn đức Như Lai bốn câu hỏi quan trọng (kinh Ðại Bát Niết
Bàn), liên quan đến sự duy trì và tu hành của tăng lữ.
[98]
Chuyển Luân Thánh Vương (Chakravartti) cai trị bốn châu thuộc núi Tu
Di và làm cho chánh pháp được trường tồn dài lâu ở thế gian. Cõi nước
của vua giàu đẹp và nhân dân an lạc. Vua có bốn đức như sống lâu,
không bệnh tật, dung mạo oai nghiêm, kho báu dồi dào. Vua có đầy đủ
bảy báu như xe báu, voi báu, ngựa báu, minh châu báu, ngọc nữ báu, cư
sĩ báu, binh đội báu.
[99]
Hoàng tuyền tức là dòng suối dưới mặt đất.
[100]
Ba vị Phật ra đời vào Hiền Kiếp của thời hiện tại, mà đức Phật Thích
Ca là vị thứ tư, còn Phật Di Lặc sẽ là vị thứ năm và cuối cùng nhất
trong kiếp này. Ba vị là: Thứ nhất, Câu Lưu Tôn Phật (Krakuchanda) đã
ra đời và giáo hóa vô lượng chúng sanh. Tuổi thọ con người khi ấy là
bốn mươi ngàn tuổi. Thứ hai, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật đã giáo hóa vô
lượng chúng sanh. Ðương thời, con người thọ đến ba mươi ngàn tuổi. Thứ
ba, Ca Diếp Phật cũng đã giáo hóa vô số chúng sanh. Thọ mạng con người
đến hai mươi ngàn tuổi. Hardy's M.B., tr. 95-96.; và Davids' 'Buddhist
Birth Stories', tr.51.
[101]
'Hardy, M.B., tr. 194 viết:" Ðể biểu thị cho việc cúng dường ngôi
vườn, nhà vua dâng nước và đổ trên lòng bàn tay của đức Như Lai. Từ
đó, ngôi vườn ấy trở thành chỗ thường trụ của Ngài."
[102]
Tức là nơi trà tỳ nhục thân của Ngài. Hầu hết nhục thân của các vị
tăng đều được trà tỳ (hỏa thiêu). Hardy's E.M., tr.322-324.
[103]
Tức là năm 405.
[104]
Kế Nhiêu Di hiện nay là thành Tạp Não Quý (Canouge), Ấn Ðộ.
[105] Sông Hằng (Gangâ) nghĩa là 'dòng nước phép' và 'từ trên trời mà chảy xuống'.
[106]
Ðại quốc Sa Chi hay là Sa Kỳ.
[107]
Chư tăng thường nhai nhành dương chi vào mỗi buổi sáng để xúc miệng.
[108]
Xá Vệ là vương thành của vương quốc Câu Tát La. Tướng Cunningham,
nhà khảo cổ học người Anh, chấm nơi đó tại phía nam của Rapti,
khoảngnăm mươi tám dặm về hướng bắc của Ayodyâ hay Oude. Nơi đó vẫn
còn một thôn ấp lớn, nhưng đã bị hoang tàn, là Sâhet Mâhat.
[109]
Xưa kia, Ấn Ðộ có hai vương quốc, ở miền nam và miền bắc, đồng danh
hiệu này. Ðây là vương quốc nằm ở miền bắc, một phần của Oudh.
[110]
Ba Tư Nặc (Prasenajit) là vị vua được đức Phật hóa độ trước nhất, và
là một đàn việt tín thành nhất.
[111]
Tỳ kheo ny Ðại Ái Ðạo (Mahâ-prajâpati) vốn là nhũ mẫu của đức Phật và
là vị dẫn năm trăm bà dòng Thích Ca đến nhờ tôn giả A Nan cầu thỉnh
đức Thế Tôn cho phép hàng nữ chúng được xuất gia. Sau khi được đức
Phật chuẩn y, bà chuyên cần trì giữ luật nghi cùng 'Bát Kính Giới'
thanh tịnh, rồi đắc quả A La Hán.
[112]
Trưởng giả Tu Ðạt (Sudatta), thường được gọi là Cấp Cô Ðộc như trong
kinh Phật Thuyết A Di Ðà. Khi ngài Pháp Hiển đến đó thì chỉ còn thấy
tường vách và hồ nước của nhà ông thôi.
[113]Tỳ
kheo Ương Quật Ma (Angulimâya) vốn đã từng giết 999 người để lấy ngón
tay trước khi được đức Phật hóa độ.
[114] Tịnh xá Kỳ Hoàn (hay Kỳ Viên) do ông Tu Ðạt dùng vàng để mua lại căn vườn của thái tử Kỳ Ðà (Jeta) con của vua Ba Tư Nặc. Ðức Phật đã từng trú nhiều năm và thuyết nhiều bộ kinh tại nơi đây.
[115]
Ðây là lần đầu tiên mà ngài Pháp Hiển dùng chữ 'Hòa Thượng'. Ở Ấn Ðộ,
tiếng địa phương của hai chữ này là 'Vẫn Xã'. Ở Kustana và Kashgar gọi
là 'Cốt Xã'. Từ đó, người Tàu gọi là 'Hòa Xà', rồi 'Hòa Thượng'. Ban
đầu, người Ấn Ðộ dùng chữ này để chỉ cho những ai dạy được Vedângas,
một phần Vedas. Sau này, các nước Phật giáo ở miền Trung Á dùng chữ
này để chỉ cho những vị tăng già niên trưởng, khác biệt với các vị Lạt
Ma. Xưa kia, ở Trung Quốc, có ba danh từ khác nhau. 'Pháp Sư' chỉ cho
những vị thường giảng kinh thuyết pháp. 'Luật Sư' chỉ cho những vị chú
trọng về giới luật. 'Thiền Sư' chỉ cho những vị thường tu theo Thiền
tông. Lần hồi, danh từ 'Hòa Thượng' được dùng để chỉ cho các vị trụ
trì. Ngày nay, danh từ 'Hòa Thượng' được dùng phổ biến, tức chỉ cho
mọi tăng sĩ.
[116]
Bà
Tỳ Xá Khứ Mẫu (Vaisakha) vốn là vợ của ông Tu Ðạt
[117] Theo sử thì bà Tôn Ðà Lợi (Sundari) bị các ngoại dạo bà la môn giết, rồi họ vu oan cho đức Phật.
[118]
Ðịa ngục A Tỳ.
[119] Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) là anh của tôn giả A Nan. Từ bao đời tiền kiếp cho đến thời nay, ông luôn tìm cách hãm hại đức Phật. Song, dẫu bị đọa xuống địa ngục khi thân còn sống, đức Phật bảo rằng ông ta vốn là thầy của Ngài cùng là vị thiện tri thức, nên huyền ký cho ông ta sẽ thành Phật trong đời vị lai. (kinh Pháp Hoa, phẩm Ðề Bà Ðạt Ða).
[120] Thiên tự là nơi bà la môn ngoại đạo thường hành lễ. Từ khi tôn giả Ca Diếp Ma Thắng và Trúc Pháp Lan được triều đình nhà Hán xây cho ngôi chùa 'Bạch Mã Tự', thì chữ 'Tự' được dùng phổ cập cho tất cả ngôi chùa. Song, ngài Pháp Hiển lại dùng chữ 'Tự' cho các đền thờ của chư bà la môn.
[121] Theo ngài Pháp Hiển thì có ba giai đoạn của người Phật tử. Thứ nhất, 'Nhập Ðạo' tức là xả tục xuất gia cầu đạo. Thứ hai, 'Ðắc Ðạo' tức là chứng quả A La Hán. Thứ ba, 'Thành Ðạo' tức là thành tựu quả vị Phật.
[122] Có thể là trung Ấn Ðộ.
[123] Theo cổ giáo thì có ba mươi hai tông. Có thể mỗi tông phân thêm thành ba phái nhỏ.
[124]
Ðương thời, trên đường tiến quân sang đánh nước Ca Tỳ La Vệ, vua Lưu
Ly gặp đức Phật đứng bên vệ đường dưới cây cổ thụ sakoto khô tàn. Ông
ta liền hỏi đức Phật rằng tại sao Ngài lại đứng tại nơi không có bóng
mát che chở. Ðức Phật đáp rằng thân tộc và quyến thuộc của Ngài là
bóng cây che mát cho mình. Cảm động trước lời này, vua Lưu Ly tạm thời
rút quân trở về thành Xá Vệ, nhưng sau này lại dẫn binh qua đánh chiếm
thành Ca Tỳ La Vệ. Biết đây là định nghiệp, nên cuối cùng đức Phật
đành bó tay.
[125]
Vua Lưu Ly (Virudhha) vốn là con của vua Ba Tư Nặc, vương quốc Câu
Tát La. Ông giết sạch dòng họ Thích Ca và tàn phá vương thành Ca Tỳ La
Vệ (Kapilavastu) vì nhân duyên oán ân trong đời tiền kiếp. (Xin xem
lại câu chuyện về dân làng nọ ăn thịt cá, và đức Thế tôn bị quả báo
đau đầu vì đánh côn lên đầu con cá đó, trong quyển truyện Jataka, tức
những mẫu truyện về tiền thân của đức Phật.)
[126] Nước Xá Di tức là vương quốc Ca Tỳ La Vệ.
[127]
Thành Ðô Duy được ông Cunningham chấm là làng Tadwa, cách
Sâhara-mahat chín dặm về phía tây.
[128]
Nơi đản sanh của Phật Ca Diếp chung quy thường được nghĩ là xứ Ba La
Nại (Benâres). Theo sự tính toán của Rémusat thì từ khi Phật Ca Diếp
đản sanh cho đến năm 1832 là 1.992.859 năm!
[129]
Dường như là mỗi vị Phật đều phải gặp cha mình tại nơi đó.
[130]
'Sau khi trà tỳ, toàn thân xá lợi xương cốt của Ngài vẫn còn y nguyên
hoàn hảo. Thế nên, tất cả dân chúng trong cõi Diêm Phù Ðề cùng nhau
xây ngôi tháp thờ toàn thân xá lợi của Ngài cao một do tuần', Hardy's
M.B., tr.97.
[131]
Theo ông Eitel thì đức Phật này đản sanh tại thành An Hòa, còn
theo ông Hardy thì Ngài đản sanh tại Mekhala.
[132]
Thành Ca Tỳ La Vệ nằm bên bờ sông Rohini, xứ Kohana, cách thành Ba La
Nại (Benâres) khoảng 100 dặm về hướng tây bắc.
[133]
Vua Bạch Tịnh (Suddhodana) thường bị gọi nhầm lẫn là vua Tịnh Phạn.
[134]
Hoàng
hậu Maya là con của vua Anjana, vương quốc Koli.
[135]
'Trước khi giáng sanh từ cung trời Ðâu Suất xuống đến cõi Ta Bà để thị
hiện thành Phật chứng quả, Bò Tát quan sát xem bốn phương, rồi cuối
cùng thấy bà hoàng hậu Ma Da chính là từ mẫu, nên vào giữa đêm, hiện
thân voi trắng sáu ngà mà nhập thai.' Hardy's M. B., tr.140-143. (xem
thêm trong kinh Bản Hạnh)
[136]
'Ngày nọ, khi thái tử Tất Ðạt Ða vừa ra cổng thành phía đông thì thấy
một vị Phạm Thiên hiện thân một kẻ bịnh cùi đầy lở loét, thân hình như
bọc nước, đôi chân ốm gầy như chày giã gạo. Sau khi được Xa Nặc, người
đánh ngựa, cho biết đó là ai thì thái tử bèn xoay trở về cung thành.'
Hardy's M.B., tr. 154-155.
[137] Tiên A Tư Ðà, tiếng Pali gọi là Kalâ Devala, đã từng làm quan dưới triều cha của vua Bạch Tịnh. Eitel, tr. 15.
[138]
Trong quyển' Cuộc đời của đức Phật' viết: "Những người Lệ Xá ở thành
Tỳ xá ly gởi đến cho thái tử Tất Ðạt Ða một con voi đẹp. Song, vừa đến
thành Ca Tỳ La Vệ thì Ðề Bà Ðạt Ða vì tâm ghen ghét nên bèn đấm chết
con voi này. Nan Ðà, người em cùng cha khác mẹ của thái tử, đang trên
đường đi, thấy xác voi bèn kéo nó sang bên vệ đường. Bồ Tát vừa thấy
thế bèn quăng xác voi qua bảy tầng lưới và bảy ao hồ. Xác voi rơi
xuống quá mạnh nên làm thành một ao trũng. Ðương thời, Bồ Tát chỉ mới
được mười tuổi.
[139]
Năm mười bảy tuổi thái tử Tất Ðạt Ða thi bắn cung tên và thắng hết
mọi cuộc thi.
[140]
Tôn giả Ưu Ba Ly là vị đại đệ tử nghiêm trì giới luật tinh cẩn nhất.
Tôn giả vốn là thợ hớt tóc nhưng cũng được Phật cho phép xuất gia. Sau
này, chính Tôn Giả là vị đã tuyên đọc lại tạng luật trong lần kết tập
kinh điển đầu tiên do tôn giả Ðại Ca Diếp chủ trì.
[141]
Theo Mr. Rhys Davids' note, Manual, tr.39, thì một nhánh cây Ni Câu
Luật (nyagrodha) được chiết ra từ Buddha Gayâ và đem qua Anurâdhapura
ở Tích Lan vào giữa thế kỷ thứ ba trước công nguyên, mà hiện nay vẫn
còn sống. Ðây là cây già nhất trong lịch sử thế giới.
[142]
Tu Ðà Hoàn là sơ quả A La Hán, và được gọi là quả 'Dự Lưu', tức là vừa
vào dòng thánh, và sẽ chứng quả A La Hán sau khi sanh lên cõi trời và
người trong bảy đời. (Xin xem kinh Bốn Mươi Hai Chương).
Vừa chiếm kinh thành Ca Tỳ La Vệ, vua Lưu Ly ra lịnh bắt năm trăm
cung nữ dòng họ Thích Ca để làm cung nữ phục vụ ông ta, nhưng bị họ cự
tuyệt. Tức giận, vua Lưu Ly ra lịnh cắt chân tay của họ, rồi liệng
thân hình còn lại xuống bờ ao. Ðức Phật nghe tin bèn đến đó, nhờ các
đệ tử giúp họ buộc lại những vết thương và thuyết pháp cho họ. Mạng
chung, họ vãng sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, rồi bay xuống đảnh lễ
đức Phật tại tịnh xá Kỳ hoàn. Ðược nghe Phật giảng dạy, họ liền chứng
sơ quả A La Hán. 'Cuộc đời của đức Phật', tr. 121.
[143] Râma ở giữa Kapilavastu và Kusanagara.
[144] Trà tỳ kim thân đức Phật xong thì một người bà la môn đứng ra chia xá lợi của Ngài ra làm tám phần để cho tám quốc vương mang về xây tháp phụng thờ. Ông là một trong tám vị vua đó.
[145] Ðây là biểu trưng cho 84.000 pháp môn đức Phật đã giảng dạy,
[146] Ðại giới tức là giới luật của tỳ kheo.
[147] Tên của con ngụa này là Kanthaka. Tuy được thái tử Tất Ðạt Ða bảo trở về hoàng cung để mình tự đi tầm đạo giải thoát mà Xa Nặc và con ngựa trắng vẫn quyến luyến người chủ không rời. Cuối cùng, con ngựa trắng chết và vãng sanh lên cung trời Ðao Lợi.
[148] Thán Tháp là nơi làm lễ trà tỳ kim thân của đức Phật.
[149]
Tên của vương thành Câu Di Na Ðề (Kusinarâ) xuất xứ từ một loại cỏ
Kusa ở nơi đó.
[150]
Tu Bạt (Subhadra), người dòng bà la môn ở Ba La Nại (Benâres), được
120 tuổi khi đến thỉnh vấn đức Phật, nhưng lại bị tôn giả A Nan ngăn
trở vì đức Thế tôn sắp nhập niết bàn. Biết điều này, đức Phật bèn bảo
tôn giả A Nan hãy dẫn ông ta đến và thuyết pháp cho. Nghe qua những
lời giáo hóa này, ông bèn xin xuất gia, chứng quả A La Hán vừa khi đức
Phật nhập niết bàn. (Xin xem kinh Ðại Bát Niết Bàn.)
[151]
Theo lời di huấn, cách thức trà tỳ kim thân của đức Phật phải hành
giống như trà tỳ vua Chuyển Luân Thánh Vương. 'Nơi làm lễ trà tỳ vốn
là điện đường Ðăng Quang của các thái tử vương quốc Kusinâra, và được
trang hoàng cực kỳ lộng lẫy, và kim thân của đức Phật được đặt trong
một áo quan bằng vàng ròng.' Hardy's M.B., tr.347.
[152]
Quốc vương của các vương quốc như Kusanagara, Pâvâ, Vaisâli, v.v...
Mỗi quốc vương đều muốn lấy hết xá lợi, nhưng cuối cùng chấp thuận cho
bà la môn Drona chia làm tám phần đồng nhau, rồi mỗi người đem về nước
một phần xá lợi để phụng thờ.
[153]
Họ là 'Ðại Lực Sĩ' của vương thành Tỳ Xá Ly (Vaisâli). Vương thành
cũng còn hiện hữu nhưng đã hoang tàn, tại Bassahar về phía bắc Patna
và cách Hajipur về hướng bắc khoảng hai mươi dặm.
[154]
Am Bà La (Âmbapâli, Âmrapâli, hay Âmrapâli), 'nữ thần của cây Âmra',
nổi tiếng trong sử Phật giáo. Bà vốn là một kỹ nữ. Bà đã từng bị đọa
vào nhiều địa ngục, 100.000 lần làm bà lão ăn xin, 10.000 lần làm kỹ
nữ, nhưng giữ được thân hình viên mãn thanh tịnh trong thời Phật Ca
Diếp. Kế đến, Bà được tái sanh làm thiên nữ, rồi cuối cùng hiện thân
xuống cõi Ta Bà tại vương quốc Tỳ Xá La dưới cội cây Âmra. Nơi đó, Bà
trở lại con đường cũ, làm kỹ nữ và có con với vua Bình Sa Vương
(Bimbisara). Nhờ oai đức của đấng Như Lai, Bà xả tục xuất gia tu đạo
chứng quả A La Hán.(Hardy's M.B., tr.456-8)
[155]
Tiền thân của Phật Thích Ca là một trong 1.000 vị hoàng tử đó.
[156]
Hiện tại vốn là đời Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa), và bốn vị Phật đã ra
đời (Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca
Mâu Ni Phật). Ðời Hiền Kiếp kéo dài 236 triệu năm nhưng hiện nay đã
trải qua 151 triệu năm rồi. (Eitel, p.22)
[157]
4. Ma vương (Mara), được gọi là kẻ giặc phá hoại công đức của các bậc
tu hành, và là hiện thân của tham lam, si ái, tội lỗi, và chết chóc,
tức là kẻ thù của thiện hạnh. Ma Vương trú tại cung trời Paranirmita
Vasavartin trên đảnh Kâmadhâtu. Ma Vương thường hiện hình thù quái gở
để khủng bố các vị thánh, hoặc sai ma nữ đến quyến rũ các ngài, hay
xui khiến những kẻ ác độc như Devadatta hoặc Nirgranthas làm theo ý
mình. Ma Vương thường hiện thân với một trăm cánh tay và cỡi voi to.
Trong câu truyện này, nếu tôn giả A Nan ba lần cầu thỉnh đức Phật trụ
thế thì Ngài sẽ tạm đình chỉ việc nhập Niết Bàn.(Buddhist Sutta,
tr.41-45.)
[158]
Ðây là pháp hội kết tập kinh điển lần thứ hai vào năm 300 trước công
nguyên do đệ tử của tôn giả A Nan là Yasada làm chủ tọa. Ðương thời
tất cả kinh, luật, luận đều được chư thánh tăng A La Hán kiểm thảo lại
kỹ lưỡng, nên cuối cùng chư vị đồng thỏa thuận là phải trách mắng
những tỳ kheo phạm mười giới hạnh. Cũng nhắc lại là pháp hội kết tạp
kinh điển lần thứ nhất do tôn giả Ðại Ca Diếp chủ trì tại Râjagriha
vào ba tháng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn.
[159]
Vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha), nơi thánh địa, đầy ắp cả các tịnh
xá, và đã từng là trung tâm truyền bá Phật pháp. Nơi đó hiện nay có
tên là Behâr.
[160]
Vua A Xà Thế (Ajâtasatru) là con của vua Bình Sa Vương (Bimbisâra), vì
nghe lời xúi giục của Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) mà giết cha mình, nhưng
sau này được đức Phật hóa độ, rồi trở thành một vị đại hộ pháp.
[161]
Ấp Ba Liên Phất hiện nay là Patna. Tiếng Phạn gọi là 'Hoa Thành'.
[162]
Sau khi lên ngôi, vua A Dục thiên đô từ Râjagriha đến Pâtaliputtra.
Mười tám năm sau, vua A Dục đứng ra triệu tập pháp hội kiết tập kinh
điển lần thứ ba (theo Nam Tông), khoảng năm 250 trước tây lịch.
[163]
Núi Giả Ðồ Quật (Gridhra-kuta) gần Râjagriha. Ngọn núi này có rất
nhiều hang đá nên được nổi tiếng là nơi tu hành của các vị tu khổ
hạnh.
[164]Có
thể vì tài trí xuất chúng nên vị bà la môn này được gọi là Văn Thù Sư
Lợi.
[165]
Ngài Huyền Trang gọi đó là Indra-sila-guhâ hay 'Hang Ðộng của Indra'.
Ngọn đồi này nằm gần làng Giryek, bên bờ sông Panchâna, cách Gayâ
khoảng ba mươi sáu dặm.
[166]
Cây sáo của ông ta dài mười hai dặm.
[167]
Câu chuyện này có trong kinh Sakra-prasna.
[168]
Tân thành Vương Xá vốn là kinh đô của các quốc vương ma Kiệt Ðà từ
Bình Sa Vương đến A Dục, và là trung tâm đầu tiên của Phật giáo. Vương
thành này nằm dưới ngọn núi Giả Ðà Quật (Gridhra-kuta). Nơi đây, tôn
giả Ðại Ca Diếp chủ tọa pháp hội kết tập kinh điển lần đầu tiên. Ngày
nay, những di tích cổ của vương thành này vẫn còn hiện hữu ở làng
Rajghir, cách Behâr mười sáu dặm về hướng tây nam. Ðược gọi là Tân
Vương Xá (New Râjagriha) vì để phân biệt với Kusâgârapura, là Cựu
Vương Thành, cách đó vài dặm.
[169]
Tỳ kheo Mã Thắng (Asvajit) là một trong năm vị tỳ kheo đầu tiên.
[170]
Ni
Kiền Tử (Nirgrantha) là một trong sáu ngoại đạo.
[171] Ông Kỳ Cựu (hay Kỳ Bà Jivaka) vốn là con của bà Am Bà La và vua Bình Sa Vương. Ông suốt đời hành nghề thầy thuốc.
[172]
Thiên ma Ba Tuần (Pisuna) cũng là Ma Vương.
[173]
Tức núi Linh Thứu, hay là 'Ngọn đồi của hang con
chim kên'.
[174]
Ðược ngài Huyền Trang miêu tả là cao một trượng tư
và rộng ba mươi bước.
[175] Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thì trong đêm đó có hai con hổ đen đến trước hang, le lưỡi và vẫy đuôi. Khi thấy ngài Pháp Hiển thì chúng cúi đầu, cong đuôi, và nằm xuống như thể đảnh lễ Ngài vậy.
[176]
Ca Lan Ðà (Karanda) là con vật đánh thức vua Bình
Sa Vương khi sắp bị rắn cắn, nên được toàn mạng. Theo ông Hardy thì đó
là con sóc, còn ông Eitel thí bảo là chim oanh vũ. Vua Bình Sa Vương
cúng dường Phật ngôi vườn này để làm tịnh xá cho chư tăng trú ngụ.
[177]
Vào lúc ấy, có thể nhiều bài kinh hoặc luận đã đưọc sao chép.
[178]
Có lẽ ngài Pháp Hiển lầm lộn vì tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
đã viên tịch trước khi Phật nhập Niết Bàn.
[179]
Có lẽ ngài Pháp Hiển lầm lộn vì tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
đã viên tịch trước khi Phật nhập Niết Bàn.
[180]
Tôn giả A Nan không thể vào được vì chưa chứng quả A La Hán. Ðêm
trước ngày kết tập kinh điển, tôn giả A Nan vừa đặt đàu xuống chiếu
thì liền đắc quả A La Hán, nên được tham gia và pháp hội kết tập kinh
điển, và sau này được tôn giả Ðại Ca Diếp truyền y bát của đức Phật để
làm vị tổ thứ hai của Thiền tông. (Xin xem qua quyển Tổ Thìền Tông do
hòa thượng Thanh Từ dịch.)
[181]
Ðức Phật chế giới cấm tự sát và đàm luận về những sự liên hệ đến việc
đó. (E.M., tr.152.)
[182]
Ba độc là tham sân si.
[183]
Tu Ðà Hoàn ( Srotâpanna) là sơ quả A La Hán. Kinh Bốn Mươi Hai Chương
dạy:" Vị đắc quả Tu Ðà Hoàn, thì còn bảy lần sanh và bảy lần chết. Ái
dục đã đoạn như bốn chi (hai tay hai chân) đã bị cắt, không thể dùng
được nữa."
[184]
Quả A Na Hàm (Anâgâmin) tức là tam quả A La Hán. Kinh Bốn Mươi Hai
Chương dạy: "Vị chứng quả A Na Hàm, sau khi lâm chung, thần thức sẽ
bay lên cõi trời thứ mười chín (hay Ngũ Bất Hoàn Thiên), liền chứng
quả A La Hán."
[185]
Già Da là một thành ấp của vương quốc Ma Kiệt Ðà, nằm về hướng đông
bắc của Gayah. Nơi đây, đức Phật ngồi dưới cội Bồ Ðề trong bốn mươi
chín ngày đêm rồi thành đạo chứng quả vị Phật. Ngày nay chư Phật tử
khắp nơi trên thế giới thường hành hương đến vùng thánh địa nầy.
[186]
Cây Bồ Ðề được gọi là Giác Thọ.
[187]
Tức là cỏ kusa.
[188]
'Trong quyển 'The Life of the Buddha' viết: "Ðức
Phật đến nơi trụ xứ của rồng mù Văn Lân Mục. Cuốn xung quanh mình đức
Phật và dùng đầu cùng xòe hai mang ra, rồng mù Văn Lâu Mục che nắng
mưa cho Ngài trong bảy ngày đêm."
[189]
'Diêm La (Yama) vốn là vị tử thần Âryan, trụ ở Nam
Diêm Phù Ðề, bên ngoài Chakravâlas (hai vòng núi ở bên trên), trong
cung điện đồng sắc. Ông ta có người em gái coi về nữ tội nhân, còn ông
thì coi về nam tội nhân. Song, ba lần trong hai mươi bốn giờ ông bị
một con quỷ đổ nước đồng sôi vào cổ họng, khiến đau đớn vô ngần. Khi
hết nghiệp báo ông sẽ thành Phật hiệu là Phổ Vương.' Eitel, tr.173.
[190] 'Núi Kê Túc có hình thể giống nhu chân của con gà, cách cội Bồ Ðề bảy dặm về phía đông nam, và là nơi tôn giả Ðại Ca Diếp đang nhập định để chờ Phật Di Lặc ra đời hàu mong truyền lại y bát của Phật Thích Ca.' Eitel, tr.58. Song Hardy (M.B., tr.97) bảo rằng sau khi trà tỳ kim thân đức Phật Ca Diếp, toàn thân xá lợi xương cốt của Ngài vẫn còn nguyên dạng. Chương này bàn về Phật Ca Diếp chứ không phải tôn giả Ðại Ca Diếp, đệ tử của đức Phật Thích Ca.
[191]
Có lẽ thầy Ðạo Chỉnh đã ở lại ấp Ba La Phất vào lúc đoàn du tăng đến
đó lần thứ nhất.
[192]
Vương thành này được bao bọc nhiều con sông.
[193]
Người em chú bác của đức Phật. Kiều Trần Như và bốn khác đã từng tu
khổ hạnh với đức Phật trong sáu năm liền.
[194]
Câu Ðàm Di (Kausâmbi) hiện nay là Kosam ở Jumna, trên vùng Allahabad.
(E.H., tr.55)
[195]
Cù Sư La Viên (Ghochiravana) là tên của một vị trưởng giả, người đã
cúng dường đức Phật ngôi vườn này. Ðức Phật trú nơi đây trong chín năm
liền. (Hardy's M.B., tr.356.)
[196] Ðạt Sấn (Dakshina) vào thời cổ được gọi là Deccan.
[197] So sánh với chuyện đức Phật đi một bước chân đến 15 do tuần ở Tích Lan trong chương XXXVIII.
[198]
Ðây là bộ Luật mà sau này được ngài Pháp Hiển dịch
sang tiếng Tàu.
[199]
Xa cách nơi chư Phật ra đời.
[200]
Ðại quốc Chiêm Ba có lẽ hiện nay là Champanagur,
cách Baglipoor ba dặm về hướng tây.
[201]
Ma Lê Ðế vốn là thương cảng trao đổi hàng hóa giữa
Tích Lan và Trung Quốc. Ngày nay là Tam-look, cửa khẩu của Hoogly.
[202]
Singhala là tên của một thương nhân, người sáng
lập ra vương quốc này. Tên cha của ông ta là Singha, tức là Sư Tử, nên
vương quốc này được gọi là Singhala hay Singha-Kinghdom, nghĩa là
vương quốc Sư Tử.
[203]
Việc đức Phật đến nước Sư Tử có lẽ chỉ là huyền
thoại. Hardy có viết là đức Phật qua đến nước này ba lần vào năm thứ
nhất, thứ năm, và thứ tám sau khi Ngài chứng quả Phật. (M.B., tr.
207-203.) Hiển nhiên, theo ngài Pháp Hiển thì Phật giáo được thịnh
hành khắp vương quốc vào đầu thế kỷ thứ năm.Trong chương cuối của
quyển 'Buddhism', ông Davids viết là sau lần kết tập kinh điển tại
Patna vua A Dục gởi đoàn truyền giáo sang vương quốc này do vị tăng
Mahinda, vốn là con của vua A Dục, cầm đầu. Ðương thời, vua Tissa đang
trị vì. (tr.T.L 250-230).
[204]
'Trên đỉnh núi đó vẫn còn có dấu ấn, trũng xuống.
Bề rộng khoảng hai thước rưỡi Anh. Chiều dài khoảng năm thước ba tấc
và bốn phần ba Anh. Người Ấn Ðộ Giáo cho đó là dấu chân của Siva.
Người Hồi Giáo cho đó là dấu chân của Adam.' (Hardy's M.B., tr.
211-12.)
[205]
Ngày nay cũng còn ngọn tháp Vô Úy Sơn, cao 250
thước Anh và là ngọn tháp cao nhất ở Tích Lan, do Watta Gâmini xây vào
năm 90 trước Tây Lịch, khoảng 160 năm sau pháp hội kết tập kinh điển ở
Patna, và 330 năm sau khi đức Phật nhập Niết Bàn. Khi đó, ba tạng kinh
điển bắt đầu được ghi chép.' (Davids' Buddhism, tr. 234).
[206]
Có lẽ thương nhân kia là người Tàu.
[207]
Sau khi đoàn truyền giáo đến Tích Lan, thầy
Mahinda, con của vua A Dục, lại yêu cầu em mình là bà tỳ kheo ny
Sanghamitta, vị công chúa xuất gia đồng thời với Thầy, qua đến đó để
phụ giúp công việc hoằng pháp vì có nhiều bà hoàng muốn xuất gia. Trên
đường rời Ấn Ðộ, tỳ kheo ny Sanghamitta thỉnh một nhánh cây Bồ Ðề tại
Buddha Gayâ để mang sang Tích Lan trồng, mà vẫn còn sống cho đến ngày
nay. Trong lần sang Tích Lan, ngài Pháp Hiển không nhắc gì đến đoàn
truyền giáo của vua A Dục, thầy Mahida, và ny cô Sanghamitta gì cả.
[208]
Thương nhân Tát Bạc (Sabean) có lẽ là người Ả Rập
(Arabs), tổ tiên của người Moormen, những thương nhân ảnh hưởng rất
lớn đến cộng đồng thương mãi của Tích Lan trong hiện tại.
[209]
Thuận Ðại Noa là tiền thân của đức Phật trước khi
vãng sanh lên cung trời Ðâu Suất để sau này xuống nhập vào thai của
hoàng hậu Ma Da rồi tu hành thành Phật Thích Ca. Trong truyện
Vessanatara Jataka, Bồ Tát đã viên mãn hạnh xả thân bố thí, nên bảo:
- Trái đất này thật vô tình lạnh nhạt với đau khổ hay an vui. Song,
hạnh xả thân bố thí của ta lại khiến nó phải rung động bảy lần.
Nói xong, Bồ Tát thị tịch rồi vãng sanh lên cung trời Ðâu Suất.'
(Buddhist Stories, tr. 158.)
[210]
Ðàm Biến (Sâma) xuất hiện trong truyện Sâma
Jâtaka.
[211]
Theo Hardy thì Bồ Tát đã từng hóa thân làm voi sáu
lần, làm nai mười lần, và làm ngựa bốn lần.
[212]
Ðây là ngọn núi thánh của Mihintale, cách cây Bồ
Ðề về phía đông khoảng tám dặm.
[213]
Chi Ðề (Chaitya) là danh xưng cho tất cả nơi như
chùa chiền tháp miếu và đồ vật như xá lợi tượng Phật v.v... Nghĩa của
Chi Ðề là nơi thờ phụng và cúng dường.
[214]
Ðạt Ma Cù Ðế là một vị tăng tu khổ hạnh nổi tiếng
và là tổ sư của một tông phái rất thịnh hành ở Tích Lan vào năm 400."
(Eitel, tr. 31.)
[215]
Chắc rằng đó là vua Mahâ-nâna (410-432). Trong thời vị vua trước,
Upatissa (368-410), lần đầu tiên ba tạng Kinh, Luật, Luận được phiên
dịch sang tiếng Singhalese. Trong triều đại của vua Mâha-nâna, ngài
Buddhaghosha viết những bộ luận nổi tiếng.
[216]
Ngài Pháp Hiển đã từng chiêm ngưỡng qua bình bát
của Phật tại Purushpura, mà Eitel bảo rằng đó là cổ thành của Gandhâra
(Kiền Ðà Vệ)
[217]
Tây Nguyệt Vệ (Western Tukhâra) có lẽ là Tukhâra
của chương XII, mà một ông vua muốn mang bình bát của Phật đi nơi khác
từ Purushapura.
[218]
Khuất Tỳ (Kharachar) nằm về phía bắc của hồ Boseng.
(E.H., tr. 56.)
[219] Ðỉnh núi Át Na (Anna hay Vina) là những dãy núi bao xung quanh núi Tu Di, và là nơi trú ngụ của chư thiên hộ trì bình bát của Phật.
[220]
Kinh Trường A Hàm, Tạp A Hàm là những bộ kinh của
Phật giáo Nam Tông.
[221]
Có lẽ họ là những thợ săn. Vì thấy ngài Pháp Hiển
là tăng sĩ nên họ tự xưng là Phật tử. Song, sao người Phật tử lại đi
săn bắn? Vì đã lỡ nói láo nên họ phải nói thêm nữa là đi hái trái lê
để cúng Phật.
[222]
Không biết người viết lại cuộc hành trình của ngài
Pháp Hiển tên là gì. Quyển sách này được gọi là 'Pháp Hiển Truyện',
hay 'Phật Quốc Ký'.
Nguồn: www.quangduc.com