Chương chín: Những đồ pháp khí, hiệu lệnh
Vào
thời thượng cổ có hóa mà không giáo; hóa không đủ nên lễ nhạc hình thành để
tán ca, không như bản cửu thành. Cái chén để uống, không như cái men say Ngũ
Tề. Nhưng người có văn đối chất nên nghĩ tới gốc. Các bậc thánh nhân Thiên
Trúc (Ấn Độ) ban đầu chỉ hóa, có nghĩa là mọi người ai cũng giác hết, vốn
không phàm thánh, mọi vật đều toàn chân không có dơ sạch! Không mượn tu chứng,
cũng chẳng cần dụng công mà kẻ mê đương nhiên tự mất, nếu có người điếc ở chỗ
tùy cơ dạy bày. Gõ kiền chùy (kiểng, kẽng) để tập họp chúng tới nghe pháp hoặc
tu tập thiền quán. Suốt 49 năm Phật giáo hóa đến cuối đời. Tiếng Phạn kiền
chùy dùng loại đất nung, gỗ, đồng, sắt làm ra tiếng kêu. Như chuông, khánh,
nạo bạt, trống, chùy bảng, loa bái (ốc tù và)… cho tới nay tòng lâm chế tạo và
dùng mấy thứ đó để cảnh báo, làm hiệu lệnh dẫn người bê trễ mà hòa với thần
nhân. Nếu luận đại định thường thích hợp, trong khung cảnh hoàn toàn vắng
lặng, nghe chẳng nghe, biết cũng chẳng biết. Vừa đánh vừa thúc kêu gió chỉ
sáng người sử dụng, vô tư vô ý hóa ngày tự dài ra hòa hòa kêu tới thành nhân
thọ, phố Thanh Thái.
1.1 Chuông
Chuông có lớn, nhỏ nhiều cở khác nhau. Tiêu biểu là đại hồng chung. Tòng lâm
làm hiệu lệnh khởi đầu trong ngày. Buổi sáng gióng lên thời phá tan đêm dài,
báo thức tĩnh ngủ, đồng thời cũng đánh thức người nông phu trong làng dậy
chuẩn bị ra đồng làm việc, trong khi chiếc đồng hồ báo thức chưa chế tạo như
ngày nay. Buổi tối nghe tiếng chuông u minh cảnh tĩnh bao người say mê trong
hơi men đời, những tâm hồn mê đắm, cũng như giục dậy những cô hồn vất vưỡng
không nơi nương thân. Người thủ chuông gióng khoan thai, hòa huởn, mạnh tay để
cho tiếng ngân kéo dài. Hễ gióng ba hồi chậm rãi mỗi hồi 18 tiếng đầu khoan
thai, cộng chung thành 108 tiếng, đuôi hồi chuông phải khẩn nhặt và chấm dứt
mỗi hồi cho thật rõ ràng.
Phàm
hô chuông, phải đọc bài kệ, sau mỗi câu thỉnh một tiếng chuông, như:
Buổi
tối niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
Buổi
sáng niệm:
Nam mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật
Nguyện tiếng chuông này vượt ngoài pháp giới
Núi Thiết Vi u ám thảy đều nghe
Nghe chuông lòng thanh tịnh chứng viên thông
Hết thảy chúng sanh đạt thành chánh giác.
Nghe chuông ngân lòng nhẹ lâng
Trí huệ phát bồ đề tâm
Lìa địa ngục, thoát lửa hầm
Nguyện thành Phật độ chúng sanh.
Phá địa ngục chân ngôn:
Án, già ra đế da ta bà ha (3 lần).
Chuông gióng lên đợt đầu
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu tường địa ngục
Nam mô Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U Minh
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài rộng thênh.
Chuông gióng lên đợt hai
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu tường địa ngục
Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U minh
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài rộng thênh.
Chuông gióng lên đợt ba
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu tường địa ngục.
Nam mô Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U Minh
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài viên thành.
Ngưỡng chúc Phật pháp mãi rạng ngời
Bánh xe pháp đời đời chuyển vận
Gió hòa, mưa thuận thấm nhuần
Dân an, nước thịnh khắp cùng nơi nơi
Trong ba cõi, bốn loài
Mỗi mỗi thoát luân hồi
Trong mười loại hữu tình
Ắt lìa khổ ngục hình.
Năm tháng thuận gió mưa
Khỏi gặp năm đói khát
Đông nam sống hòa lạc
Thời Nghiêu Thuấn thái bình.
Thôi chấm dứt chiến tranh
Tử nạn những thương vong
Đều siêu sanh Tịnh độ
Đất lành, người hoàn hảo.
Loài chim bay, thú chạy
Không bị lưới, bẫy giăng
Kẻ lưu lãng, cô thân
Sớm quay về hương quán.
Vô biên thế giới
Đất rộng trời cao
Thí chủ gần xa
Phước thọ dồi dào.
Thiền môn hưng thịnh
Phật pháp phát huy
Thổ địa, long thần
Hộ tăng an tịnh.
Cha mẹ cùng thầy học
Còn mất đều lợi lạc
Tổ tiên bao đời trước
Cùng nhau được siêu thoát.
Nam mô Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
Nam mô Đức Phật Lô Xá Na
Nam mô Đức Phật Thích ca Mâu Ni
Nam mô Đức Phật Di Lặc từ tôn
Nam mô Đức
Phật A Di Đà cõi Cực Lạc
Nam mô mười phương ba đời các đức Phật
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Thế chí
Nam mô Ðức Bồ Tát Già Lam Thánh chúng.
Mười phương ba đời 7 đức Như Lai
Cùng tám mươi tám Phật trên liên đài
Chúng sanh sáu đường mong thoát khổ
Chín cõi, mười loài khỏi trần ai.
Chuông ngân dồn dập lại gióng lên
Chùa viện chúng tăng hãy nhớ ghi
Tu tập bốn thời tuân qui chế
Xuống giường cất bước giữ oai nghi.
Trăm tám tiếng chuông hướng Phật tiền
Trên thông dưới thấu thảy an nhiên
Sáu đường chúng sanh mong thoát khổ
Chín cõi mười loài hết lụy phiền
Nam mô siêu lạc độ Bồ Tát ma ha tát.
* Ghi chú: có thể tụng chú Đại Bi, Kinh Di Đà,
Bát Nhã, niệm Phật, Hồi hướng, phục nguyện, tự quy y và cuối cùng đọc đoạn
chót trên đây.
** Cần chú ý: chuông bảng ở chùa rất hệ trọng,
chỉ người có trách nhiệm phụ trách đúng giờ giấc, không được sai trể làm động
chúng.
- Chứng nghĩa ghi rằng, đại hồng chung buổi sáng, tối mỗi lần
thỉnh 108 tiếng do sự hiển lý. Đó là do 108 phiền não ngu si nên nghe mỗi
tiếng chuông liền thức tĩnh. 108 thiền định, mỗi dùi nện mạnh vào phát ra
tiếng vang kéo dài lan xa để cho mọi người, loài vật đều nghe.
Trước đây ngài Chí Công mượn đạo nhãn vua Lương Võ Đế thấy tướng khổ địa ngục,
hỏi làm sao để chấm dứt? Chỉ nghe chuông cảnh khổ địa ngục liền dứt.
Vua
nghe thế bèn mời các tự viện lại và nói rằng: phàm gióng thỉnh chuông phải từ
từ khoan thai ra tiếng, lúc hô nên tụng hoặc niệm Phật. Kinh Tăng Nhất A Hàm
ghi rằng, như lúc gióng chuông nguyện cho những sự khổ ở đường ác đều dứt
sạch. Nếu nghe tiếng chuông có luôn chú Phật thời trừ hết được tội nặng 500 ức
kiếp sanh tử. Ngoài ra, Kim Lăng Chí ghi rằng, Dân bị chết uất, ở âm ty, thấy
5 tội buộc lên cây chỉ đó bảo rằng, Ta là Nam Đường tiên chủ, là binh của Tống
tề bị giết lầm cùng binh lính ở Châu Hàng cả hơn nghìn người như thế, mỗi lần
nghe chuông ta liền tạm được dứt khổ. Xin ông làm ơn về thưa Từ quân vì ta mà
tạo chuông. Dân tĩnh lại sau khi nghe tiếng chuông. Nhân đó, vua tạo đại hồng
chung để tại chùa Thanh Lương có khắc chữ “tiến cúng liệt Tổ - Hiếu Cao hoàng
đế - vượt khỏi u ám, thoát hiểm nạn”. Ngoài ra, sách Văn Thê Sùng Hành lục
ghi: đời Tùy có vị tăng là Trí Hưng ở chùa Đại Trang Nghiêm, phụ trách việc
thỉnh chuông. Năm Đại Nghiệp thứ 5 có vị tăng cùng ở chung là Tam Quả, vị này
có người anh ruột theo xe vua bị mất. Vợ anh ta ban đêm mộng thấy chồng về báo
rằng: anh tới Bành Thành bịnh và mất, đọa trong địa ngục. Chùa Đại Trang
Nghiêm hô chuông tiếng vang thấu địa ngục nên anh thoát khỏi, muốn báo ân này
có thể dâng cúng 10 hộc lúa. Người vợ đem lúa cúng chùa. Hưng lấy chia cho
chúng. Chúng hỏi thỉnh chuông làm gì cảm được như vậy ?
-
Hưng nói: Tôi thỉnh chuông cầu nguyện rằng: nguyện chư Thánh Hiền cùng nhập
đạo tràng, bèn gióng ba tiếng thỉnh ba hồi dài; lại chúc rằng: nguyện các cõi
ác nghe tiếng chuông của tôi bèn dứt hết khổ não. Mùa đông lạnh buốt tê cóng
da thịt, tay chân co ro máu như ngưng tụ, vẫn thỉnh chuông không từ khổ nhọc.
Nếu làm như thế có thể cảm thấu cõi u minh thọ lãnh được lời chú nguyện.
Cho
nên chuông gọi là tụ hội dùng để nhóm chúng nhằm ý nghĩa này.
1.2 Bảng
Bảng
có bảng bên trong nhà và bảng treo ở ngoài khác nhau; chất liệu tạo khác nhau
như gỗ, gang, sắt, thép v.v… dứt chuông câu sang bảng mà cách thức sử dụng tùy
mỗi phái qui định.
Tại
thiền đường đều có bảng nhỏ bên trong, phía ngoài bảng lớn gọi là báo bảng
(báo hiệu chúng) lúc vào thiền đường làm hiệu nhóm chúng. Tuần chúng ban đêm
cũng báo hiệu bảng gỗ, nhà bếp lo xong thức ăn đã lên mâm sẵn sàng cũng gõ
bảng báo cho Ban Hành đường biết - bảng lớn bằng sắt - điểm tâm. Buổi ngọ trai
đều dùng bảng lớn gõ một hồi 3 tiếng, nếu xa chúng phải gõ 3 hồi 3 tiếng mới
nghe rõ.
1.3 Mỏ con cá
Mõ
tròn bằng gỗ khắc hình con cá mở mắt dùng để tụng
kinh, bởi vì loài cá ban đêm thường mở mắt được khắc sâu trên mõ để tụng kinh
gõ lên cảnh thức người mê và dẫn chúng hòa âm theo đều. Mõ hình con cá dài
treo ở trai đường để làm hiệu hai bửa ăn, cho thời kinh Tịnh Độ và cho nhà
trù, mời chúng tập họp… Song việc xử dụng cũng còn tùy theo mỗi phái có khác,
nên biết tùy nghi cho thích hợp.
1.4 Kiền chùy
Kiền
chùy là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là khánh. Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi rằng, A
Nan thăng tòa giảng pháp thường gõ kiền chùy. Đây là tiếng làm tin của Như Lai
vậy. Ngoài ra, các kinh, luật, luận đều luận loại kiền trùy hay kiền chùy.
Trùy đọc âm là đất; sách Yết Ma sớ nói là kiền địa. Luật Ngũ Phần ghi rằng,
tùy theo có các loại như đất, gỗ, đồng, sắt có tiếng kêu đều gọi là Kiền địa.
Do cái nhìn như vậy nên hễ vật nào phàm phát ra thành tiếng tập họp chúng đều
dùng tạo nên được cả. Cho đến lên chánh điện, thuyết pháp trước phải gõ khánh
mà từ quen gọi là bạch chùy. Lời bạch như sau: pháp diên hoàn bị, đại chúng
nên quán đệ nhứt nghĩa, nói xong nhịp khánh gọi là kết chùy.
Xưa
Đức Thế Tôn một hôm thăng tòa, đại chúng tọa thiền, ngài Văn Thù bạch chùy
rằng: lắng nghe Pháp Vương nói pháp, Pháp Vương nói pháp. Sau khi Phật nói
xong Ngài xuống tòa, đây gọi là kết chùy.
1.5 Khánh
Khánh tròn dùng dẫn lễ, xướng tụng đầu khóa lễ và cuối khóa, do Duy Na chủ
trì. Phàm Phương Trượng, bậc tôn túc, quan chức, thí chủ v.v… lạy Phật đều
phải gõ hồi khánh.
Khánh dẹp hình như đám mây gọi là vân bảng treo phía ngoài hành lang chỗ Thầy
trụ trì, nơi khách dễ trông thấy. Lại có khánh cầm tay như đã nói trên, muốn
rõ chi tiết xem chương đại chúng. Phụ giới điều còn ghi thêm: lại có não bạt
(chụp chõa hay phèng la) linh v.v… dùng xướng tụng cúng Phật đều phải hòa nhã
đừng cho động chúng mất thanh tịnh.
1.6 Trống
Trống lớn gọi là đại pháp cổ cùng với đại hồng chung khua lên sớm tối, thỉnh 3
hồi lại 4 tiếng. Bài kệ thủ chuông trống Bát Nhã như sau:
Bát Nhã hội/ Bát Nhã hội/
Thỉnh Phật/ thượng đường//
Đại chúng cùng nghe
Bát nhã âm/ Bát nhã âm//
Nhập Bát Nhã Ba La Mật/ nhập Bát Nhã Ba La Mật.
Nhập Bát Nhã Ba La Mật...///////
Đón
các bậc tôn túc, quan chức, các lễ vía Phật, Bồ Tát đều dùng chuông trống Bát
Nhã cho long trọng. Ngoài ra còn có trống loại trung, trống nhỏ dùng vào việc
tán tụng, nhất là tán bài Thượng lai… vào thời công phu khuya. Trống nhỏ nhất
đường kính cỡ 30cm, gọi là trống cơm, tiếng kêu nghe tung tung lạ tai không
như hai loại trước.
Nói
chung người thủ tay trống phải nhuần nhuyễn, giữ khoan thai, hòa huởn ăn nhịp
với chuông mõ, thời kinh mới thanh tịnh, làm toát ra tiết tấu âm nhạc Phật
giáo, là một trợ lực của pháp khí vậy.
Chứng nghĩa ghi Kinh Kim Quang Minh, Tín Tướng Bồ Tát đêm nằm
mộng thấy trống vàng mà hình dạng to lớn, ánh sáng nó phát ra tỏa rạng như mặt
trời, trong lằn ánh sáng ấy thấy được 10 phương chư Phật, ngồi tòa lưu ly dưới
các cây báu có trăm nghìn quyến thuộc vây quanh vì họ mà nói pháp. Có một
người giống như Bà La Môn dùng trống khua vang phát ra âm thanh lớn, trong âm
thanh ấy phát ra kệ sám hối của Bồ Tát Tín Tướng. Bồ Tát tĩnh dậy đi đến chỗ
Phật kể rõ trong mộng thấy trống vàng và kệ sám hối. Liền đọc kệ cho Phật…
Ngoài ra, kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, A Nan: ông lắng nghe nơi vườn Kỳ Viên này
sau bửa ăn xong lại có tiếng trống. Chúng nghe trống nhóm họp trống vang ra
trước sau không dứt. Nên biết từ đó trở đi tòng lâm đều dùng âm thanh mà làm
Phật sự.
Phần
sau cùng là tên các vùng đất, các tỉnh… xưa của Trung Quốc, lược bỏ không
dịch, vì thấy không thông dụng. Có tất cả là 36 trang chữ Hán, từ trang 859
đến trang 894
Bản do Phật Giáo xuất bản xã ấn hành
Tháng 6 năm THDQ thứ 71 (1982) tại Taipei - Đài Loan
Dịch xong ngày rằm tháng 5 năm Đinh Hợi
Nhằm ngày 29 tháng 6 năm 2007
Tại tu viện Đa Bảo - Campbelltown
Úc Đại Lợi
Cẩn bút
Sa môn Thích Bảo Lạc