Quyển Đầu
BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM
THANH QUY CHỨNG NGHĨA
1.1 Lời Tự
Trần
Sau khi dịch xong tác phẩm và
xem lại từ đầu chí cuối, dịch giả nhận ra điều này: mặc dù sách ví như
kim chỉ nam của giới thiền gia, nhưng chưa thấy có ai dịch ra văn tiếng
Việt, đó cũng là việc lạ mà không ai đủ thẩm quyền giải thích thỏa đáng.
Theo nhận xét của riêng tôi, có quá nhiều vấn đề hay công việc mà ngày
nay không còn thích hợp nữa. Nếu bỏ không dịch lại không đúng với nghĩa
dịch thuật, còn như trung thành theo sách lại khó cho đọc giả hay hành
giả với những việc mà hiện thời nghe quá xa lạ như ban sài, hầu liêu,
liêu nguyên, tịnh đầu. Từ chỗ suy nghĩ đó cho ta có một cái nhìn phóng
khoáng hơn để hiểu vấn đề cho tinh tường theo tinh thần giới luật, luật
tắc hay luật lệ.
Nói đến luật lệ hẳn có hai phạm trù tách biệt rời
nhau giữa luật và lệ hoàn toàn không giống nhau. Luật của tổ chức, đoàn
thể, hiệp hội, thiền gia hay rộng hơn như quốc gia, quốc tế không thể
làm khác được. Nếu người nào vi phạm hẳn bị phạt do theo mỗi qui định
riêng của từng lãnh vực áp dụng. Trong khi lệ có tính co giãn
(flexible), tùy nghi có thể đúng nơi này lại không hợp nơi khác, hay
thời này áp dụng và bước sang giai đoạn khác hay thời khác lại quá xa
lạ. Trong Bách Trượng Thanh Quy cũng vậy, có những lệ xưa, ngày nay
không còn phù hợp nữa, nhưng chúng ta cũng cần phải biết mà chỉ biết ghi
nhận chứ khó áp dụng vì thấy không còn thích ứng nữa.
Trong lúc dịch, chúng tôi cũng có tự ý thêm vào những
từ cập nhật như thông báo trên đài, trên báo… là những việc mới phát
sinh gần đây chưa lâu, nhưng là thực tế cần thiết mà các tòng lâm hay
thiền môn không thể thiếu được. Ấy là chưa đề cập tới các phương tiện
truyền thông đại chúng như email, website, mobile phone, cách đây nửa
thế kỷ làm gì có và đâu ai sử dụng bao giờ. Nếu cho rằng ta cần nên cách
mạng, sao còn để tồn đọng lại những việc xưa cũ như cúng trăng sao, cúng
ông táo, cúng cầu sâu bọ đừng phá hại mùa màng hay những việc như bán
đấu giá đồ vật của vị tăng quá cố, nhận vật rơi đem cất vô kho và thông
báo cho chủ nhân tới nhận lại… đều là những sự kiện mà ngày nay được xem
như là bất cập vậy. Có điều chúng tôi rất tâm đắc là tác phẩm có nhiều
điều cần phải học mà chư Tổ đức đã dày công tạo nên trong chiều dài lịch
sử hơn nghìn năm qua và còn lưu lại bây giờ cũng như mãi về sau. Bao
nhiêu tâm tư và tuệ giác đã được hình thành mà hàng hậu bối thừa hưởng
hôm nay, chúng ta phải xứng đáng nhận lấy vai trò là đàn con cháu của
các Ngài trong hàng Thích tử.
Cũng như những dịch phẩm trước, ở đây chúng tôi xin
ghi nhận sự đóng góp vô cùng cao quí của hai ban: ban kỹ thuật, và ấn
tống.
Ban kỹ thuật gồm có đánh máy, lay out, bìa và in ấn.
Phần này có những vị đã nhiệt tình làm việc bằng nhiều cách để mới thành
hình được dịch phẩm này. Đó là T.T Thích Như Điển, Đ.Đ Thích Nguyên
Tạng, Đ.Đ. Thích Hạnh Bình, Đ.Đ. Thích Phổ Huân, sư cô Thích Nữ Giác
Anh, chú Hạnh Bổn, Phật tử Thiện Tuệ, quý cô Giác Duyên, Giác Trí, Giác
Niệm, chú Giác Thuần, Phật tử Quảng Tuệ Duyên.
Ban ấn tống do quí Phật tử: Chúc Quốc Lịch, Tiên
Ngọc, Chúc Mân, Tâm Phước, Vi Quang, Diệu Ngọc, Ánh, Chúc Vân- Quí Hội,
Hương Ngọc, Đức Phương, Túy Nga, Diệu Tịnh, Tâm Lan, Lê Văn Búp, Nguyễn
Thị Chơn, Chúc Liêm, Diệu Yên, Quảng Thành. Tiền chuyên chở kinh do ban
Ấn tống kinh chùa Viên Giác Đức quốc phát tâm cúng dường. Nguyện hồi
hướng công đức này lên Tam Bảo chứng minh gia hộ quí vị Bồ đề tâm kiên
cố, thân tâm an tịnh và đạo quả viên thành.
Sau nữa, dịch giả ngưỡng mong chư tôn đức tăng già
hoan hỷ những chỗ sai lầm thiếu sót trong bản dịch, và cũng xin quí Ngài
và quí vị thức giả vui lòng bổ chính giúp những điểm lệch lạc, sai trái
để cuốn sách được hoàn chỉnh trong dịp tái bản lần tới.
Nguyện hào quang chư Phật soi sáng chan hòa Phật Pháp
tới khắp mọi người và mọi nhà để cho tất cả đều được thấm nhuần pháp
giải thoát trong đời sống hiện tại và tương lai. Với tâm thành dịch giả
cầu nguyện quí vị và pháp giới chúng sanh người còn an lạc, kẻ thác sớm
được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc quốc.
Sydney mồng 9 tháng 11 năm
Đinh Hợi,
nhằm ngày 18 tháng 12 năm 2007.
Sa môn Thích Bảo Lạc
1.2
Lời Tựa Đầu Tiên
Lời Tựa Đầu Tiên Cuốn Bách Trượng
Thanh Quy Hàn Lâm Học Sĩ Dương Ức Khai Quốc Hầu Thuật
Bách Trượng Đại Trí thiền sư ứng dụng thiền từ Thiếu
Thất (Đạt Ma) đến Tào Khê (Lục Tổ) tới lúc đó phần nhiều Ngài ở chùa
luật tông. Tuy sinh hoạt nơi biệt viện nhưng đối với những việc thuyết
pháp, trụ trì… chưa đúng Qui Tắc nên Ngài thường ôm hoài bão muốn chấn
chỉnh; bèn cho rằng đạo của Phật Tổ là muốn giữ nguyên không bị biến
thái, đâu có phải cùng hành như phái A Cấp Ma Giáo ư? Hoặc nói các Kinh
Du Già, Anh Lạc là giới luật Đại thừa cớ sao y cứ vào đó chứ?
Ngài nói: Tông của ta không hạn cuộc Đại - Tiểu thừa;
không khác Tiểu hay Đại thừa mà đem chiết trung chỗ sâu rộng lập ra qui
tắc, miển sao cho thích hợp. Như thế ngài có sáng kiến lập thiền riêng
là ở phàm mà vẫn đầy đủ đạo nhãn, có đức đáng tôn gọi là trưởng lão. Bên
Ấn Độ vị trưởng lão đạo cao hạ lạp thâm niên được gọi là A Xà Lê, là vị
thầy Giáo Thọ chính ngạch. Vị thầy ở nơi phương trượng như căn nhà nhỏ
của Duy Ma Cật, không phải chỉ riêng phòng ngủ mà nơi đó còn là điện thờ
nữa. Ở trước là Thọ Pháp đường tiêu biểu Phật Tổ quen thuộc mà đương
thời tỏ lòng tôn kính. Nơi qui tụ đồ chúng không cần nhiều hay ít, cao
hay thấp mà hể người đã vào tăng viện rồi đều căn cứ tuổi hạ mà sắp xếp,
đặt giường theo dãy dài có hộc tủ, giá móc đồ đạc. Khi ngủ hẳn cần mền
gối, nằm phải nghiêng bên phải theo thế kiết tường. Do vì hành giả ngồi
thiền lâu chỉ cần chỗ đặt lưng xuống nghỉ phải đủ phép oai nghi. Trừ
nhập thất, làm việc chung, học tập không phân trên dưới, không theo tiêu
chuẩn, nhưng hể người đã nhập chúng (tăng viện) rồi thì sáng phải tham
thiền, công phu, làm việc, tối tùng chúng tụng kinh, học tập, hội họp…
Bậc trưởng lão thăng tòa thuyết pháp, chủ sự làm việc
chúng, lớp lang thứ tự, chủ khách thăm hỏi nhau. Xiển dương tông yếu là
biểu hiện y pháp thực hành.
Ngày hai buổi cháo cơm tùy nghi thích hợp, cần kiệm miển
sao cho dòng pháp mạch lưu thông. Công tác tập thể dưới trên đều góp
sức, cắt đặt 10 việc xá (phòng) mỗi việc cử một người lãnh đạo trông coi
chúng làm việc, làm cho mọi việc đều chu toàn. Nếu có ai giả dạng trá
hình trà trộn trong chúng thanh tịnh, gây động chúng; liền phải cho Duy
Na kiểm tra đưa ra giữa chúng xử phạt hay tẩn xuất ra khỏi viện, cốt giữ
cho chúng được thanh tịnh. Nếu như có người phạm lỗi phải họp chúng bàn
thảo hình phạt phải thích đáng rồi cho ra khỏi chùa như hình thức tẩn
xuất, làm cho đương sự hổ trẽn. Hình phạt này có 4 điểm lợi:
1- Giữ cho trong chúng thanh tịnh làm cho người tin
kính,
2- Không làm mất thể cách vị tăng để tuân lời Phật dạy,
3- Không làm quấy nhiễu cửa chùa, dè dặt đến cửa quan,
4- Không tiết lộ ra ngoài để giữ gìn tông phong.
Chúng cùng ở chung, thánh phàm cho rõ ràng. Ngay như khi
Phật còn tại thế mà bọn lục quần Tỳ kheo còn quấy phá; huống chi ngày
nay thuộc đời mạt pháp, đâu thể hoàn toàn không lỗi lầm được! Khi thấy
một vị tăng phạm lỗi liền đem ra khiển trách (chỉ lỗi), còn hơn là chẳng
biết để chúng coi thường làm hại giáo pháp, gây tổn thương cho đạo không
nhỏ vậy.
Ngày nay thiền môn như ít đề phòng chỗ phương hại nên
theo Thanh Quy tòng lâm của Bách Trượng có phân định từng mục, từng phần
các việc hẳn hoi. Vã lại, luật pháp để phòng gian, không phải là để cho
bậc hiền sĩ, thà có tư cách không phạm lỗi hơn là phạm mà không giáo
hóa. Đại Trí thiền sư lập Thanh Quy- duy trì Phật pháp- thật lợi ích
biết bao nhiêu! Đây là qui tắc duy nhất trong thiền môn được xem là xưa
nhất. Đại cương của thanh qui định nơi Thanh Quy thứ mục rất thứ tự rõ
ràng, lượng được chỗ yếu chỉ san định lại làm đèn sáng cho lớp đàn em.
Nhân đây mà viết lời tựa này.
1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy
Chứng Nghĩa
Quốc gia (chính phủ) trị dân có luật và lệ, Phật Tổ dạy
chúng tăng có giới luật và Thanh Quy. Đạo Phật cũng như đạo Nho có luật;
chỉ có điều Phật nói luật nhưng không nói thừa.
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ
gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương
(thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch. Ngài vâng sắc chỉ của vua soạn ra Thanh
Quy để ngăn trừ lỗi phạm của hàng tăng đương thời mà lưu lại tới đời
Đường (618-907). Vào đời nhà Lương thiền nói riêng và Phật giáo nói
chung chưa lớn mạnh, đến đời Đường giáo pháp Thiền có thể nói rất là cực
thịnh. Ngài Bách Trượng sưu tập lại thành sách nên đặc biệt đề tên Ngài
làm tên sách.
Toàn bộ gồm có 9 chương: chúc quốc gia hùng mạnh, dân
tộc phú cường, báo đáp thâm ân như cha mẹ, sư trưởng, ân vua và ân Tam
Bảo. Uống nước phải nhớ nguồn; những ngày vía Phật, Bồ Tát, những ngày
giỗ kỵ chư Tổ sư tiền bối dày công xây nền đạo. Chương Trụ Trì có những
công việc thiết yếu cần hành xử thích hợp như hai dãy Đông-Tây liêu
chúng, các ban chức sự, pháp lục hòa sống giữa chúng. An cư kiết hạ,
tuổi đạo (hạ lạp) và chương cuối cùng là pháp khí dùng trong chùa như
chuông, trống, vân bảng, khánh, linh v.v… đều đưa vào Thanh Quy làm hiệu
lệnh cho nhân thiên để lưu truyền rộng rãi.
Lành thay! Bậc sư biểu chỉ Bách Trượng Đại Trí là một
người tiêu biểu nổi bật. Sách “Bổn Sơn Các ký” ghi rằng: “Đạo của Phật
nhờ Đạt Ma mà sáng,việc của Phật nhờ Bách Trượng mà hoàn bị” Dù đời có
lắm thiên sai vạn biệt, những hơn thua, bỉ thử, một mặt buông một mặt
níu bất nhất. Văn phong có làm phật lòng một số người, nhưng không thể
không mỗ xẻ phân tích để cho thật lợi ích nhiều người. Cho chí những đề
cương, tiết mục lớn chưa từng thiếu trong Thanh Quy này. Tiếc thay việc
lưu truyền đã lâu nên chân ngụy xen tạp khó phân. Cũng vì Phật Pháp đang
trong buổi suy vi, giới luật như bị lơ là bỏ phế. Ôi, Thanh Quy đây ở
vào lợi thế cao vút như thế- cứu nguy của thời đại- nên gấp phổ biến
sách này vậy.
Ở đây tôi (Tỳ kheo Nghi Nhuận) tham khảo nhiều sách, chỉ
có cuốn này là quá tuyệt, thấy các chương mục cũng giống như trong Đại
Tạng Kinh và gần giống như mục lục cuốn “Liệt Tổ đề cương”, văn gọn mà
lại trong sáng, nghĩa rõ ràng lại thâm sâu. Nghĩa lý đầy đủ nên có thể
nói là sách khá hoàn bị. Hễ nghiên đọc dù kẻ căn sắc bén hay chậm lụt gì
đều được lợi cả, nên không gian hay thời gian không còn là vấn đề nữa.
Song sợ kẻ sơ tâm chưa am tường nên dẫn lời bậc cổ đức thành văn giải sơ
lược để chứng minh đó, cốt để nêu lên yếu nghĩa càng làm cho thêm rõ
ràng, gọi là Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy chứng nghĩa ký làm duyên
khởi cho cuốn sách.
Muốn tường tận ý nghĩa mong cho bậc thức giả đọc nội
dung sách và cũng mong được chư vị tiếp tay lưu hành rộng rãi. Mấy lời
sơ lược cẩn bạch cùng chư phương hiền giả liễu tri.
Đạo Quang năm thứ ba, nhằm năm Quí Mùi nhân ngày lễ Tự
Tứ giải hạ, tại tệ liêu thư phòng chùa Chân Tịch- Cổ Hàng.
Cẩn bạch.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận
1.4 Tựa Khắc In Lại
Thanh Quy Chứng Nghĩa
Thanh Quy một quyển tương truyền là của thiền sư Bách
Trượng Hoài Hải lấy bản nguyên thủy của ngài Pháp Vân đời Lương, phụng
sắc chỉ vua soạn ra mà tham khảo, sửa đổi đem khắc in lại.
Ngài vốn người Mân Trung (Phúc kiến) xã Phước Châu,
huyện Trường Lạc, là con của giòng họ Vương. Từ nhỏ đã có chí xuất gia
tự cạo tóc, cho tới lúc đắc pháp (gặp thầy ấn chứng). Ngài ẩn tu nơi núi
non, tiếng đồn ra nên mới dốc lòng đi khắp bốn phương cầu học, đặc biệt
lưu tâm tới luật tắc thiền. Lớn tuổi, ngài trụ tích ở chùa Thọ Thánh
thiền tự thuộc Bách Trượng sơn tại Hồng Châu. Do qui tắc cũ ngài Pháp
Vân soạn chưa hết bèn cố công đọc lại luật tạng rút tỉa góp nhặt những
tinh yếu soạn lại để chứng minh cho người sau hiểu rõ yếu nghĩa mô phạm
trong Phật giáo và đạo giáo. Người học đạo cố chấp nên đặt tin tưởng nơi
một cuốn sách. Rất tiếc là sách ấy ở Triết giang nhưng bị thất lạc, tăng
sa môn Mân (Phúc kiến) suốt đời lại không thấy được mà chỉ nghe được vài
chương thiếu khuyết sai lầm quá nhiều, bèn muốn gởi mua một cuốn khác
giá trị để đối chiếu khắc bản in lại nhưng ở Tây Hồ qua cuộc binh biến
trước đó các bản kinh cũ bị thiêu rụi sạch.
Ôi! Khuôn phép người trước đây sao mà mai một đến
thế? Vì chỗ lo sợ đó nên không quản vất vả nhiều cách sưu tầm hỏi thăm
may mắn gặp được đúng cuốn sách muốn tìm ở chùa Mã Não. Vui mừng khôn tả
cầm sách đến thương lượng các pháp lữ là Thiên Thành, Từ Thủ, Từ Định và
Chiếu Nhân, cả bốn vị đều rất lấy làm phấn khởi vui mừng việc này vô kể.
Nhân đó cùng quyên góp thiền sinh chúng thường trụ thuộc các sơn môn;
đọc kỹ lại rồi cho khắc in để lưu thông rộng rãi.
Ước nguyện chân thành là vâng giữ làm đúng qui tắc
mong không phụ chí nguyện tu hành đạo xuất thế mà như tôi đã lược thuật
ở phần duyên khởi để ghi lại sơ lược.
Quang tự năm thứ tư ngày tốt tháng quế năm Mậu Dần,
viết tại Thiền Thất Long Đàm.
Tỳ Kheo Giám Viện Càn Đà
1.5 Lời Bạt
Bách Trượng thiền sư viết Thanh Quy gồm 9 chương mà
phần luận thuật đều mô tả qui tắc thuần túy, lại được tỳ kheo Nghi Nhuận
về sau dẫn thêm sự tích xưa thành lời giải thích bằng yếu nghĩa câu văn
chứng minh rõ ràng khiến người học lớp sau một khi xem là thấy rõ như
xem chỉ bàn tay, đó là công dụng của cuốn sách dạy cho ta vậy. Nên suy
nghĩ tới lời Phật dạy: Thuyết pháp là đàm KHÔNG, nhưng trước hết nếu
không từ thật lo công phu thì đạt đến không môn trong tương lai do đâu
ngộ được? Cho nên hễ có đạo ắt có việc mà trong Thanh Quy đã đề cập. Đã
có công hành trì hẳn có quả thực tế liền theo sau, cho dù siêu phàm nhập
thánh cũng không phụ chí người học hạnh xuất thế.
Người xưa nói rằng: “Ngộ được khổ ở trong khổ mới là
người đáng bậc thượng nhơn; vị tỳ kheo một bát cơm nguyên chẳng làm tự
nhiên có được”. Mong cùng nhau tham cứu cùng với đại chúng sách tấn tu
tập vậy.
Chùa Hoa Lâm tại Lãnh Nam, kính đề lời bạt.
Hậu học Khoáng Nhàn
1.6 Thanh Quy Thiền Môn
Thanh Quy Thiền Môn do Tổ Bách Trượng soạn toàn quyển
(bộ) gồm 9 chương
1.
Chúc nước giàu dân mạnh
2.
Báo ân: đáp đền những ân đức cao trọng
3.
Báo bổn (báo gốc): uống nước nhớ nguồn những ngày lễ vía Phật, Bồ
Tát
4.
Ân đức Tổ xây nền đạo
5.
Vai trò trụ trì
6.
Hai dãy Đông – Tây liêu chúng
7.
Giữ phép lục hòa trong chúng
8.
Kiết hạ an cư
9.
Pháp khí, Hiệu lịnh trong chùa.
Phàm Lệ
Xác minh Thanh Quy cần có 13 điều như sau:
1- Thanh Quy từ đời Đường (thế kỷ 8) đến nay, thời
gian đã lâu trên hơn 1200 năm. Tăng tôi liệt nêu điểm đặc thù của cổ
kim, phong tục có khác nhau Nam-Bắc, do chưa thể thích hợp thời cơ; phép
tắc có thêm bớt; hành theo gốc chung bắt nguồn từ đó. Nhưng các sách lưu
hành hiện nay nếu không mắc phải lỗi quá rườm rà, cũng rơi nhằm chỗ quá
giản lược. Quá rườm rà thì không hợp chỗ tịnh tu, quá giản lược lại
không đáp ứng được việc thực hành. Duy chỉ có sách này không rườm rà
cũng không quá giản lược mà ở bậc trung. Văn các nghi hàm đủ mà lý rõ
ràng dễ dàng cho việc hành trì; lại rất thích hợp thời nghi đáng làm kim
chỉ nam.
2- Từ Ngài Bách Trượng đến nay qua nhiều thời đại,
lâu dài Thanh Quy nguyên gốc không có để khảo chứng mà bản còn lưu hành
hiện nay phần nhiều do sự tích hậu thế. Tưởng cũng nên biết bản gốc viết
tay do Bách Trượng hiệu đính đã bị thất truyền từ lâu. Nhưng không thể
cho rằng sách này không phải do chính tay Bách Trượng hiệu đính mà không
chỉ dẫn đúng, chính xác. Người nào tham cứu những việc cận đại hẳn thấy
liên hệ tri thức lâu đời, tùy thời gian tùy nơi chốn mà việc trở nên dễ
nhận biết. Bởi vì lễ tùy nghi có thay đổi mà dung thông để được lợi ích
chung. Người xưa nói rằng: lời nói không có cũ mới hễ hợp lý là hơn; chỉ
e người đọc thấy những việc cận đại nghi cho rằng không phải nguyên bản
của Bách Trượng mà sanh tâm khinh thường mới đặc biệt nêu lên điểm này.
3- Thanh Quy nguyên gốc gồm có 9 chương, nay y theo
đó liệt nêu các quyển. Chỉ có một phần Thủy Lục, nguyên ở chương Trú
Trì, do văn quá dài nên nay in ở một cuốn riêng.
4- Các danh từ của Thanh Quy có cả cổ kim lẫn lộn.
Như cổ gọi đầu thủ, nay gọi là Thủ tòa hoặc gọi là Tòa nguyên. Cổ xưng
Giám tự, nay gọi là Giám viện; thậm chí thư trạng nay đổi gọi là thư ký
hay tăng đường nay đổi thành thiền đường; cho dù đổi tên mà không đổi ý
nghĩa. Vã lại, trong những điều quy định trước có mà nay không như điểm
trà, xạ hương v.v…; trước không mà nay có như kỵ tổ thêm Bách Trượng,
Thủy lục thêm Vân Sái… và không có ngay cả việc như xin lửa v.v…
5- Thanh Quy lưu truyền đã lâu không sao khỏi lấy giả
truyền giả, như chữ chấp trong từ chấp sự, khảo rộng trong tự điển
(Phật) không có chữ cho chức đó. Bởi vì chấp có nghĩa là chấp trì; người
nắm giữ việc mà nhờ người làm, tuy nêu các chức của người giữ chức đó,
nhưng do chấp là chức nên rốt cuộc thành gượng ép. Ngoài ra, như sai lầm
về 3 y, như cúng thí thực v.v… nên ở đây cần phải đính chính sửa đổi.
6- Tập trung nghĩa không chẳng đầy đủ nhưng văn có
lược rõ như nghi chúc diên có nêu rõ nơi chương đầu, lược bớt ở tiết bốn
chúc thọ dịp Tết Nguyên Đán; lược bỏ những ngày sóc vọng (rằm, mồng
một). Ngoài ra, những việc hằng ngày không thể nêu lên hết được. Nên nói
rằng sách không thể nói hết lời, lời không thể hết ý mà chỉ do người
khéo lãnh hội mà đạt được.
7- Phật sự ở tòng lâm tuy nhiều song không ngoài 4
việc:
a- Chỉ
b- Trì (chỉ tức ngăn dứt ác; trì là giữ giới, trì
giới)
c- Tác trì (giữ các oai nghi tế hạnh)
d- Tụng niệm (làm cho pháp âm lan rộng);
Thuyết pháp (chuyển pháp luân hay truyền bá giáo pháp
khắp nơi, làm tỏ rõ đệ nhứt nghĩa) hoặc chỉ do một việc, hai việc hay
kiêm cả ba; hoặc do một mà hàm đủ cả bốn, chỉ do nơi vị Trụ Trì tùy nghi
thiết đặt, đôi đàng hòa hài sao cho được lợi lạc. Quy tắc cổ không thấy
xuất hiện đời nay.
8- Sách này từ ngài Phương Trượng cho đến ban chấp sự
không một người nào chẳng đọc qua, mà với kẻ mới học thật là cần thiết
để việc hành trì được thuần thục; chẳng nên gặp việc không nghi. Vã nhờ
đó hành giả mới có thể thúc liễm hình nghi, huân tập tâm thức; hiện tại
không buông lung gây thêm lầm lỗi, mai hậu mới xứng đáng bậc thầy mô
phạm làm lợi ích không nhỏ vậy. Nên xem thêm sách Thành Nghi Nhơn Phụng
cho đầy đủ hơn.
9- Sách này, ba hạng căn đều được lợi, người lợi độn
căn đều thấm nhuần một lần đọc qua dường như văn dễ hiểu, đọc kỹ lại đến
lần thứ ba, thứ tư nghĩa lý thâm sâu khó lường. Kẻ thô tâm hời hợt trong
sách khó mong nuốt trôi. Trong tập này đối với chỗ nghĩa sâu khó hiểu
thời dẫn chứng nghĩa rõ ràng dễ hiểu để tiện cho người sơ cơ lãnh hội.
10- Phần chứng nghĩa hoặc theo văn giải thích hoặc
mượn sự rõ lý, như Nguyệt Kỵ, Tịnh Đầu v.v… hay bổ sung thêm nghĩa hoặc
suy rộng diễn sâu cho người đọc đều phải lưu tâm chú ý.
11- Chứng nghĩa tuy do người chấp bút (Nghi Nhuận),
nhưng lời dẫn phần nhiều do từ bậc cổ đức tức đem cổ so kim cho người dễ
sanh lòng tin. Dẫn giải có chứng cứ như từ nhân vật nào, sách nào hẳn có
nêu rõ danh mục. Nếu trích chương đoạn lấy y nghĩa mà không ghi rõ danh
mục tức là thất sách, đâu dám lấy đó làm hay đẹp.
12- Tập trung tất cả văn chú giải, tưởng chừng như
chẳng phải Bách Trượng trước thuật; cho nên sách của Ngài hoặc có trích
dẫn hay không, nhưng với hàng Thích tử, không nên lấy lời phù phiếm làm
công khóa để phân tâm tu tập mà căn cứ vào việc, mệnh lệnh không thể
không tin tưởng nơi sự thích đáng. Cho nên ở đây vẫn chiếu theo nguyên
bản ghi ra để người sử dụng thấy được sự thật; lại cũng đâu dám quá lời
cho là tri thức nhưng cũng phải bổ khuyết thêm một ít.
13- Trừ Thanh Quy ngoài tạng bản ra, sách khắc in gần
đây, thậm chí việc sao chép lại hoặc do không để ý làm sai lạc, hoặc do
tự ý thêm bớt đem giả truyền giả, dần dần làm mất nguyên bản làm cho sự
liên hệ di ngôn của lão Tổ về Quy tắc tòng lâm thật chẳng còn tinh tế.
Nghi Nhuận tỳ kheo tôi có được bản văn này đem đối chiếu với tạng bản
chừng như rập khuôn đại bộ không khác biệt. Nhân đó suy ra, đây là sách
quí nên gấp phải lưu truyền rộng không để bị thất thoát mai một. Mỗi tắc
một thuyết như dưới đây để chứng minh lời nói trên đây, mong người đọc
giở sách đọc kỹ hẳn rõ, không còn nghi ngờ gì nữa. Ngưỡng mong các bậc
cao minh kỳ túc bổ chính chỗ sai sót lỗi lầm, được vậy xin dám khắc cốt
ghi tâm. Mong thay! Cũng mong các bậc thiện trí thức hiểu sâu ý Tổ, khéo
thích hợp tùy nghi mà hiệu chính chỗ sai sót thì thật là vạn hạnh!
1.7 Tán
Tây Phương văn tự vốn toàn vô,
Hoài Hải Thiền Sư bậc phạm mô,
Một quyển Thanh Quy như gậy hét,
Còn hơn hậu thế lập phù đồ.
Sáu thời lễ tụng ngọn đèn chăm,
Tinh tấn cần tu mô phạm Tăng,
Thanh Quy không dụng như khuôn thước,
Nam thiền đảo ngược pháp Huệ Năng.
Đầu non Bách Trượng
nhụy đơm hoa,
Tích xưa phòng xá của Duy Ma,
Xuất gia vui đạo nhàn thanh tịnh,
Nên biết thiền môn sự sự đa.
Bến thanh đây dõi bước dò tầm,
Người tìm thoạt chứng ngộ thiền tâm,
Cành Nam, hướng Bắc phơ phơ động,
Bên tai đồng vọng pháp phạm âm.
Nam Huân – Tử Hư cư sĩ tại Nam Hải
1.8
Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, Chùa Chân Tịch
tại Cổ Hàng
Trụ Trì Diệu Vĩnh giảo chính, Chùa Giới Châu
tại Việt Thành
Đây là Thanh Quy chứng nghĩa, trước hết nói rõ 5
trùng nguyên nghĩa:
1- Lấy nhơn dụ - pháp làm danh
2- Quyền - thật - tướng làm thể
3- Giữ luật lệ nội hộ làm tông
4- Y pháp rõ sự làm dụng
5- Lấy sữa đặc bơ và dụng là giáo tướng.
Trước tiên về nhơn dụ - pháp làm danh. Giải Nhơn vật
là Bách Trượng hai chữ. Nhơn tức là Ngài Bách Trượng – tên bổn sơn mà
nhiều người quen gọi là Đại Hùng Sơn, đường Long Hưng cách Quận Trị 300
dặm tại Hồng Châu, nay thuộc phủ Nam Xương, huyện Phụng Tân. Ngài là
Hoài Hải đại sư, họ Vương ở thôn Trường Lạc, xã Phước Châu. Năm 20 tuổi
Ngài thế phát xuất gia với Hòa Thượng Huệ Chiếu ở Tây Sơn, thọ Tỳ kheo
giới với Pháp Triêu luật sư ở Hoành Sơn, đắc pháp với Mã Tổ Đại Tịch
thiền sư ở Giang Tây; nhưng thuộc đời Chánh tông thứ 2 thiền phái Nam
Nhạc. Ngài trụ ở núi Nam Nhạc này, Chùa Đại Trí Thọ Thánh Thiền Tự và
phát huy thiền tông rất mạnh, chuyên hành trì giới luật nghiêm minh,
thường dùng Chùa Lương Triều Quang Trạch làm đạo tràng vân tập chúng
tăng, tận lực lập tăng chế, cho trùng tuyên luật tạng tham bác rộng,
phân tích chi li, lập quy chế; công việc làm thích hợp thời cơ. Ngoài
ra, chính Ngài lấy mình làm gương mẫu như mỗi ngày ra sức làm việc làm
chỉ nam cho chúng. Chúng khuyến thỉnh thôi làm việc, Ngài bảo:
-
“Ta
không có đức nên dùng sức người”.
Chúng bèn thôi không khuyên nữa. Ngài liền nhịn ăn và
nêu rõ mục tiêu: “một
ngày không làm là một ngày không ăn”, nay còn truyền
rộng trong đời. Ngài viên tịch vào ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Hòa
thứ 9, thọ 95 tuổi. Đến năm Nguyên Hòa thứ 13 cải táng mộ Ngài tại núi
này.
Vào niên hiệu Trường Khánh nguyên niên, Vua sắc phong
Ngài là Đại Trí thiền sư và hiệu tháp là Đại Bảo Thắng Luân, và Thanh
Quy Ngài được lưu hành rộng rãi. Vào đời nhà Tống (tk10) niên hiệu Đại
Quang nguyên niên, được Vua phong thêm hiệu Giác Chiếu và tháp hiệu là
Huệ Tụ. In khắc lại Thanh Quy vào đời Nguyên, niên hiệu Nguyên Thống năm
thứ 3, Vua sắc phong Ngài là Hoằng Tông Diệu Hạnh thiền sư hiệu Tăng Đức
Huy; và cho trùng tu lại Thanh Quy lưu hành chốn tòng lâm.
Xưa Tư Mã đầu đà thường lại núi Bách Trượng toản ký,
trong có bậc pháp vương cư trú, làm thầy tiêu biểu trong thiên hạ, thật
là ứng hợp vậy. Y cứ theo bản đồ, Bách Trượng là tên núi mà Bách Trượng
nói đây thuộc về Hồng Châu vậy. Lại từ đời Đường trở đi Bách Trượng là
tên người, nhưng làm nổi bật một số người trước tác. Ở đây xưng là Hoài
Hải Lão Tổ Bách Trượng, đó là đã giải lược về người xong.
Tiếp đây giải thích Dụ: Hai từ tòng lâm là Dụ; tòng
lâm là một nơi thảo mộc đan xen dụ cho tăng phường, nơi chúng tăng cư
trú, chỗ một số tịnh hạnh nhơn tu hành, điểm phát xuất gieo mầm đạo
hướng đến Thánh quả, đem lại lợi lạc cho quần sanh. Lại theo nghĩa này
có đầy đủ trong các kinh luật, như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly thế nhàn có
bài kệ thế này:
Bồ Tát Diệu Pháp Thọ
Trực tâm đất phát sanh
Tín căn từ bi hạnh
Trí huệ ấy là thân
Phương tiện chính cành nhánh
Năm độ thêm sung thạnh
Lá định, hoa thần thông
Nhứt thiết trí quả lành.
Ngoài ra, Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo dụ cũng dùng
thảo mộc tòng lâm để dụ người tùy cơ thọ sự giáo hóa. Cũng như trong
luật có nêu rõ: phàm từ 4 vị tăng trở lên cho đến trăm ngàn vị cùng ở
chung một nơi là đúng pháp biện sự, như nước với sữa hòa hợp gọi là tòng
lâm. Suy rộng tiếng Tỳ Kheo mà xưng là Bí Sô, theo Tây Vức (Ấn Độ) gọi
là cỏ có 5 đức:
1- Tánh mềm mại dụ cho đức định của vị tăng nhiếp
phục được thân tâm không để thô lậu.
2- Như vải đan bện với nhau dụ huệ đức của vị tăng
trong việc truyền pháp độ người như gấm bền không đứt.
3- Hương phảng phất bay dụ giới đức; hương giới
thoảng mùi thơm làm cho mọi người nể trọng.
4- Hay trị lành bịnh đau nhức dụ đức giải thoát, có
thể đoạn dứt phiền não làm cho mầm độc hại không khởi.
5- Không phản lại ánh sáng mặt trời, dụ đức giải
thoát tri kiến; thường hướng tuệ quang Phật nhựt tỏa chiếu, giải thoát
mọi tà kiến, tà nghiệp, cho nên Tỳ Kheo xưng Bí Sô là vậy.
Căn cứ hai thí dụ thảo mộc trên cho thấy làm vị tăng
hoàn toàn nương vào sự tu tập làm gốc, cho nên nói rằng, trụ trì có đạo
đức, tòng lâm ngày càng hưng thạnh; thiếu đạo đức tòng lâm càng thêm
nguy khốn. Chúng tăng đủ 5 đức có quy củ thật xứng đáng; không quy tắc
là hoàn toàn hỏng bét. Song quy tắc tòng lâm đâu phải dễ duy trì mà Tỳ
Kheo cũng đâu có dễ xưng gọi được! Trên đây là giải thích dụ xong.
Tiếp theo giải thích Pháp: Hai chữ Thanh Quy là Pháp.
Trước hết dựa vào sự giải thích có nghĩa là gạn cho lắng sạch, mô phạm
thanh bạch, trải ra hằng ngày mà xiển dương giáo pháp Phật đà. Lại Thanh
Quy chế định theo pháp có từng phẩm mục. Dựa theo cuốn 10 thuộc Hữu Bộ
có đề cập 101 pháp Yết Ma, đức Phật dạy: “Vả
như gặp việc mình tự ra trước chúng sám hối; không lừa dối, không che
đậy. Như đối với một việc thuận theo là không thanh tịnh; ngược lại là
thanh tịnh. Đây là việc bất tịnh đều không nên làm. Nếu như một việc
thuận là thanh tịnh, ngược lại là không thanh tịnh. Đây là việc tịnh nên
thuận theo mà làm”.
Luật Tứ Phần ghi: “Như
Phật chế định không nên từ khước; không phải Phật chế thời không được
chế”. Lời này dựa theo Thanh Quy Tổ Bách Trượng nhắc lại ý
đó.
Ngoài ra, Kinh Phạm Võng ghi: “Lúc
mời tăng phước điền
cầu nguyện nên vào hàng tăng
phường
hỏi vị Tri sự xem, nay tôi
(con) muốn thỉnh Tăng cầu nguyện.”
Thầy Trị sự đáp rằng: “Cứ
theo thứ tự mời thỉnh. Như thế là mời được 10 phương các bậc hiền thánh
tăng.”
Ngoài ra, luật Tứ Phần cuốn 10 mục Ni Tát Kỳ Ba Dật
Đề ghi rằng: “Bạch
Đại Đức, nay vì Ngài nên có người gởi chiếc y giá trị này Thầy nên nhận
cho”.
Vị Tỳ Kheo đó nên đáp: “Kia
nhờ nói lời như thế, tôi không nên nhận y giá trị này. Nếu tôi cần y hợp
thời thanh tịnh mới thọ”.
Vị Tỳ Kheo kia thay lời người ấy hỏi rằng: “Bạch
Đại Đức, có người giúp việc không?”
Vị Tỳ Kheo cần y nên đáp rằng:
“Có,
hoặc người trong tăng già lam (chùa viện) hay là Ưu Bà Tắc. Vị Tỳ Kheo
chấp sự này thường vì các Tỳ kheo mà làm việc đó.”
Lại như Kinh Dược Sư ghi rằng: “Có
người tuy chẳng phá giới
nhưng lại phá phép tắc”.
Nên biết Thanh Quy tòng lâm hồi Phật tại thế đã có
rồi. Khi Phật giáo vào Trung quốc, từ đời Hán Minh Đế (thế kỷ thứ 1 Tây
lịch) trở đi, nơi chúng tăng cư trú đông gọi là tòng lâm. Theo đúng giới
luật hành trì là Thanh Quy vậy. Đến đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) thời kỳ
Ngài Bách Trượng, Thanh Quy lưu hành tại Trung quốc đã hơn 600 năm rồi.
Lâu ngày con người sanh tệ nên Tổ mới đề ra pháp này, ngỏ hầu gia tâm
chấn chỉnh để lưu đức cho hậu thế. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Hồi Hướng ghi
rằng: “Bồ
Tát lấy pháp thí làm đầu để nẩy sanh các thiện pháp thanh tịnh; gìn giữ
đạt đến nhứt thiết trí”, đó là ý của Lão Tổ vậy.
Kế dựa theo lý giải thích: giới châu của Ngài Diệu
Vĩnh giải chữ Thanh Quy như sau: như tâm ta vốn đầy đủ cái diệu đạo viên
mãn. Luận tâm vốn viên minh; chỉ do mê, ngộ có khác; qua lại 10 cõi mà
có khác biệt y-chánh báo, song pháp tánh vốn đồng và đầy đủ vậy. Nhưng
tâm chuẩn mực của ta đầy đủ tất cả, hàm 10 cõi y chánh báo không thừa,
là đồng nhau vậy; do cơ cảm mê ngộ nhân quả không sai lầm, là quy vậy.
Thành sự lý vạn pháp nhưng không lệch, không lệch là trung vậy. Không dư
thừa là giả vậy; không khác ấy là không vậy; không là giả, giả là trung,
là 3 pháp quán tâm ta đó. Ba pháp quán đó có thể là dụng của quy tắc,
KHÔNG chiếu chân dứt bợn trần, giả chiếu tục lồng trong vạn hữu, trung
chiếu cả hai mà, không trụ ở hai. Chân là nhất chân, hết thảy chân,
không tục không trung mà chẳng phải chân. Tục là nhất tục, hết thảy tục,
không chân, không trung mà chẳng phải tục. Trung là nhất trung, hết thảy
trung, không tục, không chân mà chẳng phải trung. Chân ấy, tục ấy, trung
ấy tức là 3 đế nơi tâm ta. Ba đế ấy nương vào thể của phép tắc, do đấy
bản thể khó mất, cho nên lấy pháp làm chuẩn đích. Đối với Phật giáo là
luật tắc, Nho giáo là luật lệ, còn Tổ Bách Trượng gọi đó là Thanh Quy
vậy. Tuy nhập thế - xuất thế không đồng, dù dứt ác sanh thiện tuy khác
tên mà đồng nghĩa vậy. Đây gọi Thanh Quy là pháp như trên đã giải xong.
Đi vào phần chi tiết hẳn thấy rộng hơn như sau đây:
qui định giải thích dụ cong ngay thành vuông vức, nay dựa trí đại chúng
như cỏ do hộ trì giới luật trình bày. Lấy Kinh Kim Quang Minh giải thích
làm thí dụ: Quy tức là pháp vậy.
Sách Trì Pháp Tụ ghi rằng, đạo vốn thật tế nhưng lễ,
nhạc, pháp chế là quyền của chế hóa vậy. Không quyền thì giáo không lập
mà đạo cũng không hành được. Khổng Tử viết bộ Xuân Thu, trước thuật sách
Lễ Ký… là hoàn bị quyền pháp chế (pháp định). Muốn không dùng lời chỉ
còn một cách là quán thông để hiển tỏ cái thật của tánh giác, tức hồng
ân chư Phật rõ suốt ba cõi.
Pháp biến hóa một khi phát chiếu tự giác sinh hiện
lượng thánh trí. Dùng
khai – giá – trì - phạm
của quyền - thật tướng làm hiển phát sự tin hiểu là thể dụng của hành
chứng được nhất như.
Như hội Linh Sơn có số chúng đông đến trăm vạn người
mà có được sự hòa hài không trái chống nhau, chẳng làm mất thanh danh
như nước hòa với sữa, nên mới có câu rằng: “không
trị mà chẳng loạn; không nói mà tự tin, nhìn kim tướng Phật mà cảm hóa,
và chẳng cần đợi phủ dụ, khuyến cáo, răn dè mà vẫn tự răn dè vậy.”
Và những người hành thiện, tránh ác mà làm phép tắc của luật nghi như
mái che, đòn chống, hẳn không lưu lại gì nơi Niết Bàn cả.
Phật cố xoay mệnh lệnh bảo rằng:
-
“Tỳ
Kheo các con vào lúc sau khi Ta diệt độ, các con phải tôn trọng Ba La Đề
Mộc Xoa (giới luật) là Thầy của các con; vương pháp ấy giáo hóa cả đại
thiên mà chở che cho mai hậu.” Bậc trí chẳng vượt qua đó!
Lý - Sự không hai là lời dạy bất nhị rất sáng tỏ vậy.
Vào thời kỳ
chánh pháp
giáo pháp mới bắt đầu khởi sắc; lúc đó Phật pháp hưng thạnh, mọi lễ nghi
phép tắc đều còn hòa hưỡn.
Từ Ngài Đạt Ma trở về sau mới truyền riêng tâm yếu,
người thực chứng nhiều, nhưng trong số chẳng phải không có kẻ phù hư,
đến phải rơi vào số không! Như lấy dung nghi tướng bề ngoài đo đạc là
không đủ làm thước đo phẩm hạnh, là không đúng trình độ; không rõ phép
quyền đến thật, thật ở đâu? Không cần Quyền đúng là bậc đại trí đáng làm
mẫu mực; Dụng để tán thán luật tắc; Kỹ cương giềng mối ở Lan nhã vắng
lặng, là long tượng dũng mãnh, không tin sao? Lý không ngoài sự mà việc
Phật nơi Không môn
(cửa Thiền) không bỏ một pháp. Nên lấy quyền - thật tướng làm Thể vậy.
Cho dù Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều phải hành trì giới
luật. Một lời xấu ác đã phát ra, ngưng làm tức gìn giữ, đây cũng chính
là Thanh Quy vậy. Chốn Thiền môn có điều luật cấm lỗi, ngăn quấy v.v...
là để giữ luật, dứt ác. Mỗi mỗi nghi tiết như tham thiền, niệm Phật
v.v... là giữ luật hành trì. Cả hai điều dứt và làm đây phù hợp với giới
luật.
Ngoài ra, lấy đức cảm hóa người làm cho họ phát tâm
tin Phật pháp. Trong lo việc duy trì chánh pháp, luôn đem pháp truyền bá
sâu rộng, làm cho bánh xe pháp lưu chuyển mãi không ngừng, như vậy để
lợi mình và lợi người: Đây gọi là giữ luật bên trong làm Tông vậy. Nếu
người không giữ giới luật, không theo đúng Thanh Quy chính là ác ma tự
phá diệt Phật pháp.
Kinh Phạm Võng ghi: “Phật
pháp chẳng phải ngoại đạo, thiên ma phá được, như sư tử chỉ có vi trùng
bên trong mới ăn thịt nó; giáo pháp của Phật cũng thế, chỉ đệ tử Phật
mới tiêu diệt được mà thôi.”
Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng: “Thế
nào là kẻ tặc? Kẻ mượn chiếc áo ta, bán đứng Như Lai, tạo đủ ác nghiệp
lại cho là Phật Pháp, hủy báng người xuất gia thọ giới tỳ kheo, làm
người truyền đạo, do đó làm cho vô số chúng sanh lầm phải đọa vào địa
ngục Vô gián.” Do chỗ tệ hại đó, khi Phật sắp nhập Niết
Bàn, luôn nhắc nhở chư Tỳ kheo giữ giới luật; lại quở trách người phá
giới. Người giữ đúng luật là người thật sự giữ giới mà ở đây gọi là
Thanh Quy, nghĩa thật là nghiêm túc, nên lấy việc trì giới luật bên
trong làm tông vậy.
Y pháp luận sự làm dụng có hai việc:
1- Việc thường xảy ra như ngày Tết, lễ Thanh Minh,
cho chí lễ Phật Đản, ngày giỗ Tổ v.v.. có ấn định thời gian tổ chức.
2- Việc bất thường như lễ Khánh Chúc, cầu thọ, nhậm
chức trú trì, lui về Phương Trượng v.v... Việc trước việc sau có tổ chức
hay không, không nhất định.
Như vậy, việc tuy nhiều mà ở đây chỉ nêu có 2 cũng
đủ, gọi sự để làm rõ lý, vì rõ lý mới dễ giáo hóa. Nhưng việc thường gặp
trở ngại phải biết khéo léo quyền biến để sự giáo hóa mới chu toàn. Xưa
nay chư tăng cần phải biết rõ nghĩa này không nên bỏ bê không làm sai
nghi cách (quy tắc). Người co cụm do hoặc cố chấp không hiểu biết đến
đổi cách ngăn khó thực hành, nhắc tới Thanh Quy là bịnh, không sai lầm
sao! Phép tắc đạo dần dần suy rồi đưa tới chỗ tệ hại ấy.
Trước hết phải đề xướng ý nghĩa luật cho thấm nhuần
mà không ngại chỗ quê hèn, lấy đây làm sách tấn vậy. Vã nên y pháp luận
sự mới thấy rõ việc đổi ma thành Phật, chuyển tà thành chánh, trừ gian
manh đem an lạc tới mọi người, chỉnh đốn lễ nghi, trưởng dưỡng đạo đức,
làm cho tòng lâm hưng thạnh. Giáo hóa chúng sanh không bỏ sót một ai,
mới gọi là mạng mạch tăng bảo, nếu không giới luật, Thanh Quy thì không
thể nào tồn tại được lâu dài, phải tin như thế.
Ngài Thiên Thai trí giả trích dẫn Kinh Niết Bàn nói
rằng: “từ bò mà có sữa cho đến bơ” 5 vị để luận một đời giáo hóa của Như
Lai chia làm 5 thời:
1- “Thời thuyết Kinh Hoa Nghiêm dụ như sữa,
2- Thời nói Kinh A Hàm dụ như sữa đặc,
3- Thời nói Kinh Phương Đẳng dụ váng sữa sống,
4- Thời nói Kinh Bát Nhã dụ như váng sữa chín,
5- Thời nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn dụ như bơ.”
Thanh Quy này cũng mượn dùng ví dụ của Kinh trên.
Phân định sữa – bơ đều là Dụng của 5 thời Phật thuyết giáo. Kinh Phạm
Võng và Kinh Hoa Nghiêm nói đồng thời, chỗ thô chỗ diệu dung hợp, mảy
may tinh tế không chi chẳng phải nhứt chân pháp giới; có nghĩa là lời lẽ
răn đời, tư cách, nghề nghiệp v.v.. đều hợp với chánh pháp. Nay với
Thanh Quy này, nghĩa tuân thủ Kinh Phạm Võng để cho kẻ thượng căn hành
trì; lý-sự vô ngại, nơi nào cũng viên mãn đặc trưng như vị sữa. Đến như
Kinh A Hàm tuy chuyên về pháp sanh diệt
Tứ Đế,
nhưng quy định của Tiểu Thừa là ngộ vô sanh, vô tác; còn lý của Đại Thừa
khởi từ bơ cũng phát xuất do váng mà váng sữa do sữa đặc mà có. Thanh
Quy đây so với Kinh A Hàm tức nằm trong phạm vi Tiểu Thừa, khiến cho nó
cũng đóng vai trò dây mực, có nền móng chớ để hư hỏng, như người có 2
tay, hai chân không thiếu lại mặc áo quần đẹp càng xinh; như bức họa
khéo pha chế màu không kém làm cho màu sắc trở nên nổi bật, mới có thể
so sánh sữa đặc. Cho nên lấy sữa đặc dùng làm giáo tướng.
Trước đây Ngài Tông Hy nói rằng, các lệ chốn thiền
môn, dù không phân thành 2 hình thức giới luật và con nhà mô phạm, nhưng
phải có một mẫu mực qui định. Như vậy, trong việc thọ dụng người tu tự
nhiên có tư cách thanh cao khác thường; còn kẻ gặp việc xây mặt vào
vách, là làm mất cái thể con người vậy. Vì thế, người xuất gia phải trải
qua các tòng lâm, đến tham học phương xa.
Người đầy đủ kiến văn hiểu biết hẳn làm tai mắt (lãnh
đạo) tức chuẩn mực để nhờ đó trang nghiêm chùa viện, thiết lập đạo tràng
hoằng pháp, tức làm Phật sự ở thiền môn; thiếu một không được, như Bồ
Tát đủ
ba tụ giới
Thanh Văn
bảy thiên luật.
Đâu còn niềm vui nào hơn của đạo pháp nữa. Đúng là tùy căn cơ mà lập
giáo, kẻ
hậu học sơ cơ
phải thật khéo léo tham vấn bậc trưởng thượng thương xót chỉ dẫn.
Trở lên bên trên 5 việc chứng nghĩa đã thuật xong.
Mời chư quý độc giả theo thứ tự xem qua quyển 1 đến quyển 9 của toàn bộ
sách này để nắm vững điểm cốt yếu cho việc hành trì khỏi sai sót, khuyết
phạm. Mong mỏi lắm thay.
Dịch giả cẩn khải,
Sa môn Thích Bảo Lạc