Bảo Tạng
Tùng Thư
Phật lịch
2552
BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Thích Bảo Lạc
dịch
Quyển 8
Chương tám: Tuổi đạo
Lời thuật ghi rằng, vị tăng không tính theo
tuổi mà tính hạ lạp để phân biệt với thế tục. Ở Ấn Độ năm có ba mùa, lấy một mùa
làm an cư từ 15 tháng 5 đến 15 tháng 9 là khoảng thời gian cấm túc, đình chỉ mọi
việc ra vào. Những việc tọa thiền, tụng kinh, thiền hành đều y cứ năm thọ giới
trước sau thứ tự mà chế lấy 9 tuần (3 tháng) để tấn tu đạo nghiệp; dùng 3 tuần
để bồi dưỡng thân thể (cộng chung lại là 4 tháng), làm cho trưởng dưỡng thân tâm
trong an định để thúc liễm chuyên tu không luống phí thời gian, tiếc giữ sinh
mạng, tịnh tu nhẫn cần, tuân lời Thánh huấn. Đời đời tôn trọng Qui chế nên mỗi
năm nơi Trúc Lâm rộng lớn nóng lạnh, gió mưa… thời tiết không đều vẫn có mùa an
cư. Cho nên an cư lấy ba thời điểm: tháng tư, tháng năm, tháng 12, song đều bắt
đầu chọn ngày 14, 15 hoặc 16 nhân duyên tùy lúc; chỉ cần thích hợp hòa hài để
sắp xếp công việc. An cư cũng gọi là nhập hạ, tọa hạ có nghĩa là giới lạp hay
tăng lạp khởi đầu từ đây. Ngày nay Tòng Lâm kiết hạ chọn rằm tháng 4, kiết giới
và giải hạ nhằm rằm tháng bảy, đây là ba tháng an cư. Lại kiết đông lấy ngày 15
tháng 10 và giải đông vào ngày 15 tháng 1, dùng ba tháng này chuyên tu thiền
định đã trở thành qui củ lâu đời. Việc giáo hóa phải tùy nghi từ hơn 1200 năm
nay qui củ được duy trì, xem quí ngôi của bậc long tượng, chủ khách xướng họa mà
lần lượt được nghe tiếng gầm của sư tử; tốt đẹp vậy thay, hưng thạnh thay!
An cư cũng gọi là kiết hạ hay còn gọi là kết
chế. Trước hết dự bị, kế là tác pháp an cư.
Y luật chế an cư là việc hiển nhiên của tăng.
Ngày nay tạm quyền thay đổi lấy 16 tháng 4 âm lịch kiết hạ; phải niêm yết ngày
an cư kiết hạ tại nhà khách. Thông tư ghi rõ an cư, ngày 15 các ban Tri khách,
Tri sự, Duy Na và ban Hành Đường, ẩm thực, ghi rõ giới lạp… đầy đủ để tiện làm
bản phương danh. Lại phái ban Duyệt chúng lập thẻ, phát thẻ, người nghinh tiếp,
sắp đặt những người có trách nhiệm để đến lúc hành lễ không bị lộn xộn. Phải cho
người chuẩn bị các thứ bàn, tọa cụ, hoa quả, hương đèn… đầy đủ trước.
Sáng ngày 16, sau khi điểm tâm xong, Tri Khách
thỉnh 3 hồi đại hồng chung, đại chúng đắp y chỉnh tề vào chánh điện. Duy Na,
Duyệt chúng thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng đến trước niêm hương bạch Phật, thị
giả cắm hương lên lư, đảnh lễ 3 lạy. Duy Na xướng lễ, đại chúng lạy Phật 3 lạy,
đứng thành 2 hàng đối diện nhau xá một xá rồi ngồi xuống tọa cụ. Thỉnh Phương
Trượng khai thị, Hòa Thượng nói: thưa đại chúng, theo luật chế, hôm nay là ngày
tác pháp kiết giới an cư, đại chúng phải nhiếp niệm lắng lòng cho thân tâm thanh
tịnh để giới châu tròn sáng và thân thể tráng kiện trong mùa kiết giới này. Đại
chúng đồng đáp: chúng con xin vâng.
Duy Na đứng lên lạy 3 lạy, quì gối chấp tay
lấy một thẻ lớn 2 tay nâng 2 đầu và đọc lớn như:
Úc châu quốc, ngày… tháng… năm…
Ba tháng hạ an cư tập chúng. Nam mô Trung
thiên Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh, thẻ thứ nhất đọc xong để
trên mâm đứng xá một xá. Người thâu thẻ lấy mâm không để thẻ ấy lên mâm lạy Phật
3 lạy, tiến lên và quỳ gối 2 tay nhận thẻ đặt vào mâm trống. Sau đó bưng mâm đi
tới từng người phân thẻ tả hữu hai bên, từ Hòa Thượng Phương Trượng xuống đi
theo thứ tự. Người nhận thẻ phải cúi mình nhận thẻ rồi để vào mâm trống. Theo
thứ tự đi giáp lượt như thế xong. Duy Na để thẻ trên mâm bước tới 3 bước, 2 tay
bưng một thẻ lớn đọc lớn tiếng rằng:
Úc châu quốc, ngày… tháng… năm…
Hôm nay tập hợp chúng trong 3 tháng hạ an cư,
ngưỡng mong Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên từ bi gia hộ. Lấy thẻ sau cùng lên đọc xong
rồi để trên bàn. Lại tiến tới, người thu thẻ lấy mâm để thẻ trên mâm. Người thâu
thẻ đều tới trước tượng Vi Đà, bất kể số người là bao nhiêu. Nói về gởi dục, cho
biết có bao nhiêu người cũng phải báo cáo rõ ràng. Duy Na đọc lớn rằng, ngày…
tháng… năm, hôm nay chư Tăng tập trung về đạo tràng… tại thành phố… an cư kiết
hạ 3 tháng, con Tỳ kheo… kiểm trong đây có… vị tỳ kheo, Sa di… người. Kiểm chúng
xong, Duy Na lại nói: Con vì chúng mà bạch như thế, xin đại tăng chứng minh. Hòa
Thượng đáp: được tốt lắm.
Duy Na: dạ vâng.
Hòa Thượng nói: đại chúng cùng ở chung đã biết
nơi đây mùa hạ này có… người như thế an cư. Về sau trong kỳ tụng giới không cần
đi thẻ nữa, mỗi người tự nhiếp thân tâm trong 9 tuần (mỗi tuần 10 ngày), nỗ lực
làm đạo. Nhận thẻ (bản tên) xong, tụng hồi hướng, ba tự quy y xong. Tất cả đồng
đứng lên lạy 3 lạy rồi lui về chỗ.
Chúng tụng giới, tùy theo tháng có trăng hay
không trăng theo nghi thông thường. Duy Na bắt tán lư hương xong, quỳ đọc rằng:
Thích Ca Như Lai (3 lần) kiết hạ an cư (đại chúng hòa theo). Duy Na chấp tay tác
bạch: cấm túc an cư là qui tắc của đức Như Lai để thức tâm đạt bổn, là hạnh môn
của con giòng họ Thích. Đạo do người hành, công phu do mỗi ngày mà tiến, nay là
ngày 16 tháng tư lễ kiết hạ an cư, chúng tăng vân tập tề chỉnh tại chánh điện,
trì tụng kinh chú, khởi sự kỳ kiết giới. Từ đây trở đi phát 10 nguyện khởi 3
tâm, trí tánh sáng tỏ, báo đáp bốn ân, nhổ sạch 6 đường, tiêu trừ các chướng.
Thường niệm hiệu Phật, nghĩ tưởng các bậc Thánh, không được đi vào nơi mạo hiểm
giết hại sanh mạng. Thọ 7 tụ giới, sạch như sương tuyết, giữ gìn ba luật nghi
sáng không tì vết. Nước định lắng trong, trăng tuệ soi chiếu, trong hợp nguồn
chân, ngoài tròn phạm hạnh. Nuôi lớn mầm linh Bát Nhã thành diệu quả Bồ Đề; do
pháp môn đây hưng thịnh thời hải chúng an hòa. Trời rồng ủng hộ, vua quan tôn
trọng, Phật pháp rộng truyền.
-
Đại đức một lòng thương xót con Tỳ kheo… nay
nương… Tự viện Tăng già lam nội giới kiết giới an cư ba tháng. Mỗi người tự bạch
lời kiết giới như thế xong. Tất cả đồng tụng bài:
Chúng sanh không số lượng,
Thệ nguyện đều độ
khắp
Phiền não không cùng tận,
Thệ nguyện đều
dứt sạch
Pháp môn không kể xiết,
Thệ nguyện đều tu
học
Phật đạo không gì hơn,
Thệ nguyện được
viên thành.
Tiếp tán bài:
An cư kiết giới
Đạo thể thành hình
Phát nguyện chân thành
Cần tu giới hạnh
Đáng làm mô phạm
Giới luật nghiêm minh
Mau chứng pháp thân
Như Lai pháp vương.
Hoan hỷ địa Bồ Tát Ma ha tát (3 lần).
Tụng hồi hướng, phục nguyện, ba tự quy y…
- Chứng nghĩa ghi rằng, kiết hạ an cư từ
khi Phật chế về sau, không luận tông phái chưa hề có việc không tuân hành. Gần
đây tông môn đặt định đi ra ngoài cũng đáng buồn thay. Như sách Liệt Tổ đề cương
đăng tải pháp ngữ của mùa kiết hạ thiền tông 90 điều (tắc) sáng sủa đáng xem.
Nay chỉ nêu lên một số điều để thấy rõ đại ý. Ngài Bạch Vân Đoan nói rằng, khởi
đầu của an cư gọi là cấm túc. Nghĩa cấm túc chỉ lấy ý ở chỗ tu tiến đạo mà hộ
trì sanh mạng. Ngài Chân Tịnh Văn nói rằng, chư tăng mười phương qui tụ lại 3
tháng kết giới dứt tâm cuồng vọng, trừ khổ não bức bách, đạt được thanh lương,
chứng Niết Bàn an lạc, đến bờ đại giải thoát, ra khỏi vòng sanh tử. Vì đây là
Thánh chế nên không hư dối. Ngài lại nói: nay là ngày đầu hạ, thời giờ chúng
tăng kiết giới, Tỳ kheo khắc chế cùng đại chúng thanh tịnh. Xưa Bồ Tát thừa tu
hạnh vắng lặng lấy đại viên giác làm già lam, thân tâm an ổn bình đẳng giao tiếp
là tự tánh Niết Bàn không bị ràng buộc. Nay Ta cung thỉnh không theo Thanh Văn,
nên cùng 10 phương Như Lai và các vị Đại Bồ Tát. Ba tháng an cư là đại nhân
duyên tu Bồ tát vô thượng diệu giác. Lìa sạch cấu nhiễm, giới hạnh thanh tịnh,
nếu được như vậy tựa như hoa sen không dính nước, tâm thanh tịnh thắng hơn kia
vậy.
Ngũ Tổ Diễn nói rằng:
Hạ này ở Bạch Vân,
Ngẫu nhiên gặp Thiền tăng,
Ba tháng 9 tuần chẳn,
Tôn ti tự định phân,
Cháo cơm, trà dùng chung,
Ngon dỡ vẫn âm thầm,
Thành ý học kinh thư,
Tự tại quán thiền cơ.
Đây kia trẻ xuất gia,
Phóng giáo bụng dày da,
Nhà đá ngọc quí đa.
Hôm nay rằm tháng tư,
Chư tăng đi khất thực
Nghĩ trên đầu không tóc,
Chân mang giày cỏ sướt,
Quần áo lộng gió thu phong,
Gậy chống ngao du đây đó,
Cò trắng mến tiếc ao không,
Phượng hoàng đâu ngại gai gốc.
Bình sanh can đảm hơn người,
Biết nhau cũng như không biết thôi!.
Ôi! Thuyết pháp như thế, há không phải làm
qui phạm thiền tông hay sao, ngày nay không được như vậy.
An Cư Kiết Hạ là muốn trau dồi thiền định,
nhưng theo thông thường nên tọa thiền, nếu không ngồi được, cũng phải lấy niệm
Phật làm công khóa. Trong thời gian đó mỗi ngày khóa công phu sáng như thường
lệ, đại chúng vào chánh điện tụng Kinh Lăng Nghiêm, chương Thế Chí Viên Thông,
chú Đại Bi và mười bài chú ngắn, tâm kinh Bát Nhã, niệm Phật, sám 10 nguyện Phổ
Hiền: một là kính lễ chư Phật cho đến mười đều nguyện hồi hướng, phục nguyện, ba
tự quy. Sau khi điểm tâm xong đọc kinh 16 phép quán chương quán tạp tưởng, chú
vãng sanh 3 lần, niệm Phật (càng nhiều càng tốt), lạy 12 nguyện Phật A Di Đà,
lạy Bồ Tát Quán Thế Aâm, Đại Thế Chí, Địa Tạng Vương mỗi vị một lạy, hồi hướng
ba tự quy y.
Cúng ngọ; giờ ngọ trai, cúng quá đường xong,
đi kinh hành niệm Phật, đọc sám nguyện, niệm Phật, ba tự quy y, đại chúng về
liêu. Buổi chiều, tụng kinh Di Đà, mông sơn thí thực và Hồng Danh (nếu có thì
giờ). Buổi tối đọc kinh 16 phép quán, chương thượng phẩm thượng sanh, chú vãng
sanh ba biến, niệm Phật, lạy Phật A Di Đà, các vị Bồ Tát mỗi vị 3 lạy, hồi
hướng, ba tự quy y. Trước giờ chỉ tịnh có thời tọa thiền, hoặc niệm Phật 30
phút.10.30 giờ tối kiểng chỉ tịnh, đại chúng lên giường ngủ, nhất là mùa an cư,
nghiêm ngặt cấm bàn tạp, cũng như không được vô ra sái phép. Người nào trái phạm
cấm không được ở chung; người phạm trọng giới y luật trị.
Phàm tại thiền đường và chánh điện chư Tăng
vui vẻ học tập nhất là Kinh luật, lắng nghe hiệu lệnh chung bảng (kiền chùy).
Hễ hiệu lệnh cùng luân phiên nhau phụ
trách
Phải cùng giúp nhau học tập Kinh,
Luật, Luận cho tinh thông
Ai không theo chúng chiếu Nội Qui phạt.
Chúng muốn nghe giảng kinh gì, Duy Na bạch Trụ
Trì biết để mời Thầy giảng kinh Lăng Nghiêm hay kinh khác cũng được.
Chứng nghĩa ghi rằng: việc kiết hạ an cư
có nguồn gốc từ lúc Phật còn tại thế. Kinh Phạm Võng ghi rằng, mùa đông, mùa hạ
tọa thiền nên mới thiết lập Thanh Quy. Lấy An Cư, mãn hạ, kết đông, giải đông
làm bốn mùa vậy. Gần đây Thiền Tông chỉ kết đông mà không kết hạ, đã sai lời
Phật dạy rồi. Luận việc quan trọng của tu hành là không sai lầm hai pháp Thiền
Tịnh. Ngày nay đã chọn kết đông cho việc tọa thiền, tức là có thể lấy kiết hạ
giảng kinh, học luật đều là việc tu tập, nhưng lấy niệm Phật làm chính.
Giảng Kinh mùa hạ, hay Luật, Luận đều thích
hợp trong thời gian này.
Sắp giảng kinh nào nên cho đại chúng biết.
Trước hết để đầy đủ lễ nghi, phải thưa thỉnh Thầy Phương Trượng, Thầy có thể cử
người khác giảng thay thế, tức là đổi thỉnh vị khác theo cách thỉnh sư. Người
thỉnh sư phải đắp y, cầm tọa cụ tới trước mời Thầy ấy khai giảng kinh (phần này
có Nội qui giảng đường xem ở sau). Ngày đầu khai giảng, buổi sáng sau khi đại
chúng dùng điểm tâm xong, trên chánh điện nên chuẩn bị hương đèn, thiết trí pháp
tòa giảng kinh. Trước bục kinh để một tượng Phật và hai bên đặt ghế thính giả
nghe kinh. Nếu không có chánh điện, có thể tại trai đường, sau giờ điểm tâm xong
mới thiết trí. Sau điểm tâm, nghe hiệu lệnh chuông đại chúng đắp y, cầm tọa cụ
vào chánh điện đứng hai bên. Thầy Trụ Trì sai thị giả 3 người: một lo về giờ
giấc, một lo kinh và một lo nhang đèn chánh điện hay trai đường.
Ba hồi chuông trống Bát Nhã thỉnh sư, thị giả
tới thỉnh Phương Trượng pháp sư đăng tòa, khánh dẫn đầu, chúng theo sau. Giám
Viện cầm hương đứng sau. Hòa Thượng Phương Trượng tới, đại chúng đứng hai bên
đối diện, thị giả và Duy Na mời pháp sư đăng tòa. Giám viện tiến ra dâng hương,
trải tọa cụ ngay ngắn xong, lễ ba lạy nhưng theo nhịp khánh trước. Giám Viện cầm
hương đứng sau đại chúng, pháp sư cũng đứng sau, thị giả theo hầu tại chánh
điện. Duy Na hầu pháp sư tới ngay chính giữa dừng lại nhịp một hồi khánh. Chuông
trống trổi lên nhịp điệu theo bài kệ như sau:
Hàng phục oán thế lực ma
Trừ dứt sạch không còn thừa
Nghe âm thanh vi diệu xa
Hết thảy nên vân tập (nhóm lại) cả.
Nam mô Vân lai tập Bồ Tát Ma ha tát (3
lần).
Thỉnh pháp sư niêm hương, đảnh lễ Tam bảo
xong, mời đăng pháp tòa xong rồi, Duy Na xướng, chúng đảnh lễ ba lạy, mỗi người
về chỗ ngồi, tọa thiền một vài phút xong, Duy Na nhịp 3 hồi khánh lại 3 tiếng.
Nhập khánh xướng rằng:
Tiếng chuông vang thấu cõi ba ngàn
Phật pháp hoằng dương vạn ức phương
Công lao ân đức bậc quân vương
Lợi ích vô cùng thật khó lường…
Tiếp theo đọc: “kệ khai kinh:…” Nam mô Thập
phương thường trú Tam Bảo (3 lần). Sau đó buổi giảng bắt đầu. Pháp sư tùy nghi
giảng hợp căn cơ, trình độ của đại chúng, cho tới trước khi bài giảng chấm dứt,
dành 5, 10 phút cho chúng nêu câu hỏi: đáp xong. Cuối cùng, pháp sư niệm hồi
hướng như:
Công đức giảng kinh
Hữu tình, vô tình
Lợi lạc khó lường
Đồng thành chủng trí.
Tụng xong, thỉnh ba hồi chuông trống Bát Nhã,
pháp sư xuống tòa, tới lễ Phật và lui ra. Đại chúng đứng ngay ngắn hai bên thỉnh
pháp sư hồi phương trượng xong, xoay vô lạy Phật ba lạy rồi lui về liêu phòng.
Nếu pháp sư bảo khỏi tiễn đưa, liền ngưng, không cần phải theo thường lệ. Từ đây
về sau các lễ nghi có phần hơi khác là không thỉnh chuông trống, cũng chẳng có
Giám Viện rước thỉnh. Người dự nghe cũng không lên phòng Phương Trượng mời mà
chỉ đứng tại chánh điện hầu đợi. Tới giờ, thỉnh đại hồng chung ba hồi ba tiếng
nhóm chúng. Duy Na, Duyệt Chúng phải là hai người trực, một người lo pháp tòa,
một người bưng khay lễ tới phòng Phương Trượng để thỉnh pháp sư. Nếu lãnh chúng
giảng thay, tức thì mời ngay tại phòng. Sau khi pháp sư đăng tòa xong, nên có
một người trực niêm hương thỉnh, đại chúng đều chấp tay đứng. Ngoài ra, mùa hạ
trời oi bức khỏi đắp y, đại chúng lễ pháp sư một lễ rồi cùng ngồi xuống nghe
giảng.
Ngày đầu giảng và ngày viên mãn nên làm lễ
cúng ngọ như nghi thường lệ. Chỉ có tờ sớ hơi khác, lời phải thích hợp ý nghĩa
giảnh kinh, nên ở đây không nêu đủ.
- Chứng nghĩa ghi rằng, trong Luật nói
năm hạ về trước chuyên học giới Luật, năm hạ về sau mới học giáo pháp, tham
thiền. Cho nên Đức Thế Tôn giảng rộng nhiều kinh luật cũng qui về niêm hoa. Đến
khi giáo pháp truyền sang Đông độ trước tiên cũng là Kinh Luật rồi kế tiếp đến
Thiền Tông, cho nên Kinh Luật và Thiền Tông đều quan trọng, làm mẫu mực ở đời
vậy. Sỡ dĩ mùa đông tham thiền, mùa hạ học tập nên bổ túc cho nhau mà không trái
nhau. Thiền tông ngày nay đối với Kinh Luật là hai, như chẳng lưu ý hẳn lầm. Do
vậy, người học Kinh luật phải biết rõ 5 điều quan trọng này:
1. Tin có cảnh giới chư Phật: mỗi người đều có
niềm tin vốn không sai biệt, chẳng sanh tâm khiếp sợ.
2. Điều quan trọng thứ hai là quy tụ về mình
(tự lo tu tập), chẳng bàn ăn uống, của báu.
3. Tâm trống rỗng ưa thiện, kém biện tài lại
muốn làm thầy người. Nên phải chọn người lành mà theo, không nên kết bạn mình
chẳng biết.
4. Thương xót hết tất cả, hễ kham được ý này
mới khuyên nhắc nhau mà chẳng tiếc lời thống thiết.
5. Tha thứ người tự trách mình, người không
như pháp; phát tâm lân mẫn, chớ thấy lỗi người.
Nếu ta phóng túng ôm lòng kiêu mạn thời không
thành thật. Mỗi khi thấy người đời muốn học kinh luật, nhập bọn theo kẻ phóng
túng nên gây ra bao nhiêu chướng nạn. Quí vị gặp được duyên lành, trái lại tríu
mến phù hư chẳng tiếc thay! Ngoài ra phàm người giảng kinh phải hiểu ý Phật Tổ,
đừng chỉ y theo văn mà giải nghĩa làm chướng ngại kiến thức người có học. Nên
biết thay Phật tuyên dương pháp làm tai mắt cho trời người không thể sơ sót
được. Căn cứ kinh Chánh Pháp Niệm Xứ ghi rằng: phàm người đời giảng kinh, thọ
giới, tu tập, chứng quả… kể cả ra làm việc Phật là đền đáp địa thần đến không
thần. Như vậy lần lượt trên đền đáp ba cõi, nhẫn đến chư Phật.
Sách Thiền Tông Mật Yếu ghi rằng, pháp sư Tùy
Du giảng Kinh Duy Ma Cật, có dẫn Lý lục sự sau khi chết thành quỉ dựa vào người
cùng nói tiếng người. Sư hỏi:
Nay giảng Kinh này người nào nghe được?
- Từ đầu người trở lên là quỉ thần, các cõi
trên và chư thiên kính trọng rất mực. Song chư thiên thấy nghe pháp sư xông mùi
rượu đều quay mặt bỏ đi không nghe.
Pháp sư Dư liền sám hối lỗi lầm không uống
rượu nữa.
Quỉ lại nói: không phải chỉ hội này riêng cảm
đến chư thiên mà bất cứ nơi nào có pháp sự đều có chúng tôi giá lâm. Y cứ theo
kinh điển, phàm làm việc pháp sự phải chú tâm thành kính.
Luận Thiền và Giáo chẳng hai: Giáo nằm trong
Thiền, Thiền không rời Giáo. Chấp văn mà giữ cả nghĩa lý, Thiền cũng là Giáo,
lìa nghĩa văn mà hợp tâm, Giáo cũng là Thiền. Hành nghi phản ảnh chân như, nương
mô phạm mà thành diệu đạo.
Thiện Tài Đồng Tử đi tham bái (học) khắp pháp
giới, Đức Thế Tôn chỉ do học mà thành giác ngộ. Nêu gương cho người học hỏi, để
làm thềm bậc cho kẻ đến sau. Nên biết rằng do tin hiểu để tu chứng, nhân khai
thị mà ngộ đạo, bậc mô phạm quan trọng đến như vậy đó!
Không có qui tắc không do đâu mà duy trì đạo.
Mong mõi mỗi người nên tuân theo, và trân trọng 12 điều như sau:
1. Trong hội giảng kinh, nếu có người phạm
giới căn bổn,: uống rượu la lối, tranh cãi nhân ngã, thị phi, hủy báng việc
giảng pháp, kể cả giảng sư và những người cùng học. Hễ ai phạm một việc như
trên, đều bị đuổi khỏi viện.
2. Mượn cớ ngoại đạo nhàn du hợp theo kinh
điển họ cho ra khỏi chùa.
3. Không tuân theo chúng bị phạt.
4. Ra vào áo mũ (giày dép) không đúng, phạt.
5. Mỗi ngày sau khi điểm tâm sáng vào lớp nghe
kinh, nếu không, đắp y lên chánh điện tụng một biến kinh hay một thời lễ sám cầu
cho tiêu trừ nghiệp chướng, để gia tăng trí tuệ.
6. Mỗi ngày sau buổi ăn sáng thỉnh giáo thọ
giảng kinh, chúng đều đến giảng đường nghe giảng. Pháp sư đến an tọa, niệm hồng
danh Phật ba lần xong mà đến trể, không được vào lớp.
7. Những sách nhãm nhí khác không được xem, ai
phạm bị phạt.
8. Giảng kinh gì nên thông báo chi tiết rõ
ràng, để lúc nghe giảng chúng dễ lãnh hội. Có điểm chỗ nào không hiểu, ghi chú,
chờ sau thời giảng hỏi riêng pháp sư. Nếu lười biếng không nghe hoặc trong lúc
giảng sư giảng ngủ gật bê bối, cho ra khỏi lớp.
9. Nghe kinh phải hiểu nghĩa mới mong tỏ ngộ;
chỉ đồ lại bả văn mà không rõ nghĩa lý ắt không ngộ lý. Nếu tin văn cũng không
hiểu trình tự rõ ràng, hư cấu dựng chuyện cho ra khỏi lớp.
10. Trước giờ giảng kinh có 3 bồi chuông báo
chúng, trong ngoài đều tới lớp. Giá như ngồi sai chỗ, nói cười thô tháo, nghênh
ngang tự cao trong lớp, không chịu nghe pháp bị phạt.
11. Người giảng quen thuộc lên phòng Phương
Trượng báo cáo chỗ ngồi; nhẫn đến ra trước đại chúng, báo cáo có bao nhiêu
người. Đại chúng đồng đứng, phải có một người trực cầm dâng hương. Pháp sư hướng
về Tam Bảo lạy Phật, đến giảng cho tới lúc hoàn mãn.
12. Mỗi ngày ngoài việc luân phiên tiểu tọa,
rút thẻ chọn tiểu tọa để biết ngày kế tiếp, trừ kẻ thật tối dạ mới không biết.
Trở lên bên trên là những điều qui định, mỗi
người nên tuân thủ. Người nào bịnh hoạn hoặc có khách quí thăm, tùy hỷ tới nghe
không bó buộc theo Nội Qui.
Ngày…tháng…năm…
Trụ trì… kính ghi lại.
Luận Nội Quy giảng đường để học người, học
việc. Riêng về Tọa Chủ cũng phải giữ qui tắc trên hẳn mới có ý nghĩa. Lấy một
việc giảng kinh thôi bèn thay Phật tuyên dương pháp, trời người các cõi đều lắng
nghe; lý nên tôn kính. A Nan kết tập kinh tạng cầm bút thăng tòa ngồi tỏa tướng
tốt như Phật, kết tập kinh, giảng kinh cùng một nghĩa. Tọa chủ bỏ các lỗi thị
phi, há vạn nhất chẳng xứng hay sao? Nên nêu lên 9 qui tắc của tọa chủ để tiêu
biểu oai nghi, cho sự thành kính:
1. Phải đầy đủ đức từ bi dạy người không mệt
mỏi, thuyết pháp bình đẳng không có phân biệt sang hèn; không lựa kẻ oán người
thân, không kể sự cúng dường khu biệt.
2. Nên đắp y thanh tịnh sạch trong sạch ngoài.
Không được mặc y bẩn thăng tòa, dù trời nóng nực cũng phải đắp y. Kham chịu nhẫn
nhục, và không được do ngồi lâu mà bỏ y ra.
3. Lắng lòng soi chiếu quán sát mọi pháp đều
không. Phạm hạnh lan xa, trời người chung nhóm, nên xem hình vóc là giả dối.
Quán không chẳng không, xem giả chẳng giả nên hình thể ở trung gian. Mượn sự qui
lý mới nhập sâu diệu lý.
4. Ngồi phải ngay ngắn trang nghiêm, không
được nghiêng mình xoạc cẳng, nói cười thô tháo.
5. Không được để lại phần chánh không giảng mà
phần nhiều chỉ nói chi tiết ngoài lề. Nếu muốn phát huy yếu chỉ nên đưa thí dụ
chính xác, dù ngôn ngữ thế đế nhưng không trái ngược (chân đế, chân lý) đạo.
6. Phàm giảng kinh nên nêu ra điểm chính làm
móc cho người nghe dễ nhận nghĩa lý, song phải quên văn. Muốn vậy cần phải có
nội lực công phu. Không hiểu nghĩa mà lược văn khiến người hiểu cạn cợt, mơ hồ,
không sáng tỏ.
7. Với quan điểm riêng không nên chấp đúng mà
bài bác các ý khác; hoặc cưỡng kinh cho rằng của mình gây lầm lỗi cho người sau.
Nếu gặp trường hợp nầy nên nói thẳng là không biết, không nên gượng cho là biết.
8. Không được dẫn dụ sự tích mà lạm bàn thú
dâm dục mua vui đem pháp làm trò đùa. Nếu có Ni cô dự nghe phải nên thận trọng.
9. Không nên sợ phiền lánh an, phô diễn sự
hiểu việc.
Trở lên là những điều làm sáng tỏ pháp sư hiểu
nghĩa kinh để dự phòng trường hợp lỗi lầm. Như tự lượng sức mình không hiểu
nghĩa kinh thời pháp tòa này đâu có dễ lên ngồi bày ra cho chơn thiên xem đâu.
Nhân quả phân minh mỗi người nên cẩn thận vậy.
Chứng nghĩa ghi rằng, việc thiên thần nghe
kinh đã có giải thích ở trước. Ngoài ra, phàm ở tòng lâm bàn kháo, nói thiên địa
cũng đều có quỉ thần tới nghe quan sát. Sách Chích Cổ ghi rằng vào đời Tống
Quang Hiếu có sư An chùa Thanh Thái không thích làm việc theo chúng. Ban ngày
chỉ ngồi không tự nhiên nhập định, trong định bỗng thấy 2 vị tăng dựa lan can
nói chuyện, trước có thiên thần ủng hộ lắng nghe, nghe hồi lâu bỏ đi, chốc lát
ác quỉ mắng nhiếc, chà đạp dấu chân. An bèn xuất định hỏi thần vì sao? Thần cho
hay bởi lúc đầu bàn Phật pháp, kế nói sang việc đời, bàn về tư dưỡng. Sư An nghe
hai vị Tăng nói, từ đó khắc phục tôi luyện suốt đời chưa từng đề cập chuyện thế
gian. Sau khi Sư viên tịch hỏa thiêu toàn thân cháy hết chỉ lưỡi còn nguyên vẹn
mềm mại như cánh sen hồng. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục cũng có ghi lại sự tích
này. Ôi ! dựa lan can bàn kháo mà thần còn nghe được, huống gì đăng tòa giảng
kinh há không thận trọng sao!
Rằm tháng 7 âm lịch thiết cúng lễ Vu Lan.
Chuẩn bị thông báo, đọc trên đài, đăng báo, dán nơi cửa chùa, trai đường, giảng
đường, đại ý như: Lễ Vu Lan Thắng Hội. Tới ngày lễ, như thường lệ khóa lễ công
phu khuya, chúc tán thù ân xong (cách thiết trí lễ đàn tưởng không cần thiết ghi
ra đây). Chúng điểm tâm sáng, kiểm điểm lại địa điểm hành lễ. Đến giờ nghe hiệu
lệnh đại chúng đắp y đi vào đàn tràng thành 2 hàng, cầm phan đi trước hương án
(bàn thờ), niệm hương xong, thị giả cắm hương lên lư, Duy Na cử tán bài: Tịnh
đàn Vu Lan:
Mục Liên bạch thưa,
Thế Tôn tuyên dương
Bát cơm hòa la
Lợi kẻ tồn vong (còn, mất)
Thoát sanh thiên đường
Vi diệu thật không lường
Hiếu hạnh mãi xưng dương.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma ha tát.
Phương Trượng lạy Phật xong rồi 2 tay bưng thủ
lư đưa lên đọc:
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Duy Na bưng chung nước tịnh đưa lên ngang trán
đọc:
Bồ Tát với nước mát nhành dương,
Rảy một giọt, biến khắp mười phương
Tanh nhơ hết thảy tẩy sạch không
Gia trì đàn tràng đẹp thanh lương.
Lời Phật mật ngôn kính xin trì tụng. Tụng chú
Đại Bi (Đại chúng). Duy Na đi nhiễu đàn 3 vòng và sái tịnh (rảy nước tịnh).
Phương Trượng chấp tay xưng tán rằng: chúng
con cùng chí hiếu tu hành chánh nhân Tịnh Độ, sám trừ 3 tội chướng, báo đáp ân
đức song thân. Người còn phước thọ, kẻ mất được siêu thăng, vãng sanh cõi Cực
Lạc, độ hết kẻ oán, người thân.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Bồ Tát
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo
Nam mô Vu Lan khải giáo Đại Mục Liên tôn
giả.
Tụng Bát Nhã, niệm Phật, sám nguyện, hồi
hướng, phục nguyện, ba tự quy y, lễ 3 lạy rồi lui ra.
Đại chúng cùng tán bài Hội Vu Lan sau:
Vừa khai lễ hội cúng Vu Lan
Thỉnh Tam Bảo thân đến đàn tràng
Xin an tọa trên vòm đài sen
Ngưỡng mong thương xót chứng trai diên.
Nam mô Mỹ hương trai Bồ Tát ma ha tát (3
lần).
Duy Na đứng giữa niệm hương xong, lạy 3 lạy,
qùy gối chấp tay bạch:
Cung kính nghe rằng:
Pháp thân vắng lặng,
Vốn không đến cũng không đi
Diệu trí viên dung,
Thật phi không phi sắc;
Rỗng rang dứt bặt mọi đối đãi
Biển giác khó lường,
Che trùm khắp chúng sanh mê mờ,
Soi hào quang chiếu diệu.
Hôm nay chính là ngày chư Phật hoan hỷ.
Chúng Tăng tự tứ (giải hạ). Con vì bảy đời cha
mẹ mà sắm sửa trăm vị thơm ngon, tuân theo gương hiếu người xưa, bắt chước Mục
Kiền Liên, dâng cơm với mùi thơm nhẹ.
Cung kính lễ đấng Pháp Vương, mong rọi từ
quang thọ nhận cúng dường.
Đứng dậy đọc tiếp: Ba thân Như Lai (chúng cùng
hòa theo). Hiến cúng Vu Lan dâng lên Tam Bảo, hai tay nâng thủ lư bưng đưa lên
bạch thỉnh:
Đấng Đại hùng xuất thế cũng chứng trai tại
thành Xá Vệ mà Chánh pháp lưu hành, cũng dự cúng dường nơi cung nội của Vua Ba
Tư Nặc. Phật tùy cơ mà hiện tướng độ khắp hết quần sanh. Hôm nay chúng con cung
kính thiết lễ Vu Lan, tâm thành đảnh lễ tỏ bày hiến cúng.
Trên đài sen nghìn cánh lung linh, trăm báu
sáng ngời. Đức Năng Nhân (Phật) 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp tuyệt vời nghiêm thân.
Bậc Đại Giác khắp ở mười phương pháp giới; quá, hiện, vị lai vô lượng Phật bảo.
Ngưỡng mong bất xả từ bi, thọ phẩm vật cúng dường này.
Tiếp theo trổi chuông trống, phách, chụp chã…
cúng dường kệ tán dương Phật:
Kính lễ đấng Đại giác nơi liên đài (sen)
Oai đức rực rỡ không ai sánh cùng
Ngưỡng mong Phật bảo đại hùng
Từ bi nạp thọ lễ mừng Vu Lan.
Nam mô hương thủy hải hoa tạng giới Lan
bồn cúng hiến chân như Phật đà da.
Duy Na cầm 3 nén hương bạch thỉnh:
Hôm nay đệ tử chúng con cung kính thiết lễ Vu
Lan, tâm thành kính lễ một lòng phụng hiến:
Nước Tây Thiên Trúc, kinh điển liễu nghĩa
thượng thừa tu đa la (Kinh), truyền qua chùa Bạch Mã 12 bộ chân kinh diệu điển;
khắp mười phương vô biên pháp giới quá, hiện, vị lai vô lượng pháp bảo. Ngưỡng
nguyện bất xả từ bi thọ pháp cúng dường này.
Chuông trống, phách đổ hồi, Duy Na tiếp:
Nam mô pháp tối thắng tương ưng
Thành tựu quả Bồ Đề Niết Bàn
Ngưỡng nguyện pháp bảo đại từ bi
Thọ pháp cúng dường Vu Lan hội.
Nam mô Hương Thủy hải, hoa tạng giới,
Lan Bồn cúng hiến hải tạng Đạt ma da.
Chuông trống, phách đổ hồi, Duy Na bạch tiếp:
Hôm nay đệ tử chúng con thiết lễ Vu Lan chí tâm kính lễ chuyên vì phụng hiến:
Ba minh, tám giải, năm nhãn, sáu thông, phân
thân nơi cõi này và các cõi khác, ứng hiện tại nhân gian, trên cõi trời khắp 10
phương cùng tận pháp giới trong quá khứ, hiện tại, vị lại vô lượng Tăng Bảo,
ngưỡng mong bất xả từ bi thọ nhận cúng dường này.
Chuông trống, phách đổ hồi, xướng tiếp:
Nam mô tự tại chúng trung tôn
Giữa rừng chiên đàn kẻ nhiếp tâm
Ngưỡng mong Tăng Bảo đại từ bi
Thọ cúng dường Vu Lan hội thí.
Nam mô Hương Thủy hải, hoa tạng giới,
Lan Bồn cúng hiến phước điền Tăng già da.
Đại chúng đồng tụng hòa hưởn như sau:
Nam mô Thường trụ mười phương Phật
Nam mô Thường trụ mười phương Pháp
Nam mô Thường trụ mười phương Tăng
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam mô Quá Khứ Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật
Nam mô Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Phật
Nam mô Đa Bảo Như Lai
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam mô Cam Lồ Vương Như Lai
Nam mô A Di Đà Như Lai
Nam mô Thế Gian Quảng Đại Oai Đức Tự Tại
Quang Minh Như Lai
Nam mô Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh
Nam mô Đại Từ Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Hộ pháp chư thiên Bồ Tát
Nam mô Già Lam thánh chúng Bồ Tát
Nam mô Lịch đại Tổ sư Bồ Tát
Nam mô Vu Lan Hội thượng Phật, Bồ Tát
Nam mô Cổ vãng tự tứ Duyên Giác, Thanh
Văn Tăng
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên tôn giả
Nam mô ba cõi Thánh phàm ẩn hiển Tôn
Thần.
Tiếp theo tụng chú biến thực biến thủy 21 lần,
cam lồ thủy, phổ cúng dường, mỗi câu 7 lần.
Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo (3
lần)
Và đọc sớ văn như sau: Lại vì, tụng điển
chương, thế thường tình rỗng, thật khó lưu giữ, tham chiếu yếu chỉ, Thánh điển
Vu Lan Bồn, cảm niệm tu hành hướng thuyền từ cứu độ, bèn tỏ tấc lòng thành…(tên
tự viện) tại…trụ trì…
Chúng con nhiếp niệm sớm cắt duyên trần, từ bỏ
tình thân, hoặc cha hiền mất sớm, thiếu hẳn tình nồng. Hoặc cha mẹ còn sống mãi
trái với tâm hiếu kính không làm lợi mình, lợi người, lại còn ngồi không, thọ
của người thí, ngước lên xấu hổ, cúi xuống thẹn thùng. Dám mong hoài niệm về cội
nguồn. Có được thân này đã nương nhờ ân đức thân sanh dạy dỗ nên người, nhờ bậc
thầy sáng dẫn dắt. Gốc nguồn vô tận lưu giữ nghìn thu, giòng dõi, thành tâm độ
khắp siêu ngoài pháp giới hữu tình; nương mượn thuyền con, gánh nước, hái hoa
dâng cúng, kính nương theo Pháp Bảo. Giao hòa thiên địa để lưu ân đức, nhổ tận
gốc khổ để bước lên bờ giác. Do vậy, chúng con chọn ngày này trong tháng khởi sự
cho tới ngày… chấm dứt. Kính xin vân tập chúng tăng lên chánh điện, tụng kinh Vu
Lan lễ Phật sám pháp.
Lại nguyện, ánh hào quang chiếu diệu cõi Ta
Bà, chẳng nơi nào không sáng tỏ. Biển pháp mênh mông, hữu tình chúng sanh trong
vũ trụ đều được gội nhuần ân đức. Cha mẹ nhiều đời của chúng con, vô lượng kiếp
đầy đủ nhân duyên, đồng thời sư trưởng và bà con quyến thuộc; được gia tăng
phước huệ, kẻ mất chứng phẩm sen vàng, khắp thấm nhuần thiện nhân lợi lạc hằng
sa cõi khổ. Lại nguyện sơn môn thanh tịnh, chúng lý an hòa, có bị ngăn chướng,
mọi việc mong được như ý. Văn sớ bên trên, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh gia hộ
(có thể biên tên của Phật tử vào đây để đọc cầu nguyện…)
Lại nữa, pháp hội Vu Lan rành rõ thành Xá Vệ
thơm hương còn in dấu, công đức vượt cõi nhân thiên. Hiếu hạnh Mục Liên mãi nhắc
tên. Muốn cho bảy đời cha mẹ sanh lên phẩm sen, nên lễ 3 thân Phật tại đài sen.
Chúng con chạnh nghĩ: xướng vị viên âm theo mỗi cõi chúng sanh thảy đều nhập
pháp hội bình đẳng. Diễn hiếu tâm của bao đời hoặc thiện nam hay tín nữ thảy
tuân theo di huấn của Phật. Ngưỡng mong thương xót bao dung, cứu thoát khỏi khổ
bị treo ngược. Do đó, bổn tự chọn ngày… tháng này, cung kính về chùa… dâng cúng
Vu Lan thắng hội, cầu siêu độ khắp tất cả hàm sanh. Chúng con sa nơi tội lỗi, ít
gặp nhân lành, rạp mình nơi pháp hội, ngưỡng mong thương xót! Do đã chuẩn bị sẵn
sàng pháp diên, biểu tỏ tâm thành dâng cúng. Nương nhờ oai đức Tỳ kheo Hòa
thượng, mong hồng ân Tam bảo cầu siêu độ các tiên linh hiện được gội nhuần ân
phước.
Lại nguyện: tâm từ cảm cách, Thánh nhãn tùy
cơ, rải một cơn mưa thảy thấm nhuần, cõi đại thiên mong mỏi nhờ ân. Tứ thân phụ
mẫu của chúng con, cùng nhiều đời thân thuộc đồng thừa phước lực này mà thoát
khỏi cảnh khổ của 3 đường ác, vãng sanh về cõi Tịnh Độ lạc an. Cha mẹ còn hiện
đời an khang khỏe mạnh, năm phước gia tăng, ba tai
biến mất. Như có cầu mong đều được như ý nguyện:
Đại chúng cùng tán bài sau đây:
Năm loại quả trăm mùi vị
Sắc màu tươi mới sạch thơm
Hội tự tứ hiến cúng Năng Nhơn
Nguyện đấng thân thoát trầm luân
Cứu độ khắp cõi u minh
Pháp giới chan hòa nắng xuân.
Nam mô phổ cúng dường Bồ Tát ma ha tát
(3 lần).
Tiếp theo tụng Bát Nhã, sám nguyện, hồi hướng,
phục nguyện, ba tự quy y.
Nguyện đem công đức cúng Vu Lan
Báo đáp mẹ cha sanh dưỡng ân
Người còn thọ phước sống an khang
Kẻ mất thoát khổ siêu lạc bang
Chúng sanh chín cõi các hàm thức
Giải khổ tám nạn và ba đàng
Mỗi mỗi tự hối tẩy tội vương
Ngưỡng mông thương cứu dứt trầm luân.
Tất cả đồng lạy Phật 3 lạy và lui về hậu
liêu.
Sau khi cúng ngọ xong, Duyệt chúng sắp đặt
phẩm vật cúng Tự tứ (vật của tín chủ dâng cúng như khăn tay, xà phòng, dầu cảm
mạo, giày dép v.v…
để yên một chỗ. Ngày lễ Tứ Tứ bày ra trước bàn kim đài (trai đường) để cúng
chúng và khách Tăng. Phẩm vật cúng chia đều (phổ đồng) bất luận tăng ở chùa hay
khách tăng có mặt tại trai đường; Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, khi nghe hiệu
lệnh (bảng), đại chúng đắp y mang bình bát tới trai đường ngồi vào chỗ sẵn sàng.
Trai chủ tác bạch cúng dường, Hòa Thượng đáp từ xong, trai chủ lễ 3 lạy. Tất cả
nâng bát cúng dường và đọc:
Cúng dường thanh tịnh… tới chỗ đương nguyện
chúng sanh, đổi lại đọc là: cha mẹ quá khứ bảy đời siêu thăng; song thân hiện
đời luôn được không bịnh, không lo buồn. Ta và người đều lợi lạc, người còn, kẻ
mất thảy được nhờ hồng ân, lìa hẳn ác đạo, rốt ráo thọ lạc an thân. Thị giả cúng
xuất sanh, xướng tăng bạt, đại chúng quán tưởng 5 phép quán: 1) kể công nhiều ít
so của người đem tới 2) xét đức hạnh mình đủ thiếu để thọ nhận 3) ngăn ngừa tâm
tội lỗi, tham là gốc 4) xem thức ăn như thuốc hay trị bịnh gầy thân thể 5) Muốn
thành đạo nghiệp mới thọ thức ăn này. Cử vài ba vị đem phẩm vật cúng dường tới
dâng Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức v.v… cho tới người cuối cùng xong. Kết
trai, phục nguyện và đại chúng kinh hành niệm Phật.
- Chứng nghĩa ghi rằng, Vu Lan đại trai
- làm chay cúng lớn - Phật dạy cử hành lúc giải hạ, vì mùa hạ an cư 90 ngày (9
tuần, mỗi tuần 10 ngày) chư tăng gia hạnh tu tập không cứ là 4 quả cũng nỗ lực
huân tu. Ngày giải hạ thiết đại trai cúng, việc làm ấy phước đức rất lớn. Mỗi
năm cúng một lần bởi cha mẹ thương yêu niệm niệm không rời nhau; người con hiếu
muốn báo ân nên hằng năm tiếp nối lễ cúng dường này. Ngoài ra, ý kinh là để trừ
dứt khổ mà báo ân là chính yếu, việc này có khác thế tục. Hiếu của người đời là
thuận theo tình, điều đó cũng có nghĩa là thuận theo tánh tình của cha mẹ nữa.
Hiếu ở đời chỉ chuộng nơi hình thức. Còn ở đây (đạo) hiếu kiêm luôn cả tinh
thần, người đời không biết nên không tin, bèn cho rằng họ Thích không có quân -
thân (vua và đấng thân) cũng chỉ vì chưa khảo cứu sâu rộng. Luận về đạo: thuận
tánh nuôi thần có điểm khó sáng tỏ, nhưng giữa hình thức và tình cảm cũng đâu có
xa với con người chứ? Như Đức Thế Tôn thuyết pháp cho mẫu thân cõi trời Đao Lợi,
tiễn biệt phụ thân mà khiêng quan tài, như thế không hiếu sao? Kinh Phạm Võng
cho Hiếu là giới, và ghi rằng: hiếu thuận là pháp chí đạo. Kinh 42 chương ghi:
phàm sự của người, trời, quỉ thần… không gì bằng hiếu hai đấng thân, song thân
là thần tối cao đó. Trong Luật dạy: người không vâng lời cha mẹ, không cho xuất
gia. Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ mở đầu rằng, hiếu dưỡng cha mẹ là chánh nhơn
thành Phật. Kinh Đại Báo Aân, Tâm Địa Quán đều nói rộng thâm ân cha mẹ và pháp
báo hiếu. Nguyên một cuốn kinh Cảnh Tử nêu rõ hiếu sự. Ngài Địa Tạng vì hiếu với
mẹ mà lập thệ nguyện độ sanh. Đến như Đức Bổn Sư chúng ta dạy khuyên đệ tử rằng;
cha mẹ như Bồ Tát bổ xứ. Ngài bảo với đệ tử nên giảm mặc, bớt ăn để nuôi dưỡng
cha mẹ. Cha mẹ có tin chân chánh (đúng) mới phát tâm ban phát rộng rãi. Nếu
không có chánh tín ít hay ban cho, nếu không ban cho khó mong chuyển hóa. Kinh
tạng có những ngôn từ khuyên về hiếu ta từng thấy xuất hiện vô số, há chẳng lấy
hiếu làm đầu sao? Đặc biệt kinh dạy gồm có thuận tánh, dưỡng thần nên thế pháp
không làm sao theo kịp. Nay Qui tắc này hoàn toàn tuân lời Phật dạy tụng kinh
bái sám, dâng phẩm vật cúng, bố thí siêu độ cầu cho 7 đời hương linh cha mẹ
thoát khỏi u minh, dứt lìa mọi sự trói buộc. Thoát khỏi sự trừng phạt ở địa
ngục, nơi nghiệp khổ không thể buộc được.
Pháp cúng Vu Lan lợi lạc phi thường, đâu phải
chỉ làm phong phú dồi dào năm đỉnh trong 3 lần hiến cúng với hiếu tâm ân cần như
vậy mà được. Nên biết tôn chỉ hiếu chỉ có Phật dạy là sâu sắc nhất.
Trở lên là pháp giản đơn thực hành chỉ trong
một ngày, nếu 7 ngày hoặc 5 ngày nên dựa theo phần sau để thực hiện.
Ta từng nghe giai tiết lễ Vu Lan là dịp đại bố
thí rộng khắp, trông mong vào lực lượng đại đàn tràng, thiết cúng vô giá cam lồ
pháp vị. Pháp hỷ biến khắp mà thiền duyệt Phật, Tăng gội nhuần cả Thánh phàm.
Thực hiện hai việc bố thí vật thực (thức ăn) và pháp thí đời sau được đầy đủ hai
môn phước và huệ. Những qui ước chuẩn mực được nêu theo thứ tự sau:
1. Mỗi năm đến Rằm tháng bảy người biết chữ
đến liêu Tạng chủ nhận lãnh chú thích, in ấn Kinh Vu Lan. Tạng chủ hỏi danh tánh
cho ghi vào sổ. Đến ngày mồng 6 hoặc bắt đầu tu Phật thất, nếu không tổ chức chỉ
chú trọng mỗi ngày giảng Kinh Vu Lan một thời cũng được. Dán thông báo tại phòng
khách, cổng chùa, giảng đường nêu rõ thời giảng kinh và tên giảng sư vào ngày
giờ nào…
cho đăng báo, đọc tin trên đài, thí chủ cúng tiền, trai phạn, cúng dường trai
tăng, truy tiến hương linh
hết thảy đều nên cho đại chúng biết rõ để tâm mọi người độ lượng (mở rộng) mới
hợp lời Phật dạy.
2. Hội cúng này không luận tăng, tục ai cũng
tham dự được trong việc niệm Phật nghe kinh, chỉ không cho các ni cô nhỏ tuổi
vào đàn, vì sợ mất uy danh đạo tràng.
3. Qui định cũ dùng trước chánh điện thiết lập
đàn tràng cúng lễ, phía trên có che tấm bạc (lều) dưới lấy gỗ làm cọc cho chắc
chắn để tránh gió mưa. Tùy số người tham dự và đồ cúng nếu đông; còn như ít có
thể thiết trí trong chánh điện cũng được.
4. Lời bạch đều do Duy Na và Trụ Trì lo chuẩn
bị trước đọc nhuần nhuyễn. Đến ngày cúng, bận rộn, thiếu thực tập, khó mà đọc
trôi chảy, cho nên đứng nơi lễ đàn chỗ bục cầm giấy đọc rõ ràng khúc chiết. Chỉ
Kinh Vu Lan hầu như mọi người đều nên thuộc.
5. Mâm bát cũ có thể dùng được nên dùng. Nếu
không chuẩn bị kịp một mâm lớn lấy gỗ làm cũng được, hình thức như tháp hương
dưới rộng như chậu, giữa phân làm 4 từng, mỗi từng đặt thức ăn 6 vị, chồng 4 lớp
thành 24 vị, đồ ăn đều nấu chín. Mâm lớn rộng 3m bên dưới có giá: lại lấy một
bát lớn chứa gạo đổ vào trong để cúng.
6. Phàm cúng lễ chỉ cốt do tâm thành kính,
không cần phải ngụy trang dồi dào; cũng không nên tiếc tiền của mà giản tiện quá
mức. Tùy người nghèo giàu dụng tâm thành mà sắm sửa.
7. Dâng cúng đồ dựa theo kinh Vu Lan nên chọn
đủ 5 loại trái cây, thức ăn 100 vị: quả khô 10, canh nóng 10, quả nước 10, dưa
đậu 10, bánh bột 10, bánh ngọt 10 loại, dầu ăn 10, đồ xào khô 10, đậu 10 loại,
tương 10 thứ.
(Việc sắm sửa trên không tuyệt đối, tùy địa
phương mà châm chế cũng được).
Ngoài ra, cúng cơm, nước trà và nói chung là
thức ăn chay đều cúng được. Cúng xong dọn đãi cho Phật tử. Cúng dường trai tăng
dọn mâm riêng. Đã là việc Phật tùy nghi theo từng trường hợp, nếu người của
nhiều thời sắm đủ trăm vị, cúng 1000 vị tăng, tụng kinh, sám pháp đều làm cho
thêm phần lợi ích. Như người nghèo ít của chỉ cần 3 loại quả, 6 vị thức ăn, thậm
chí cúng 10 vị tăng cũng đủ, gọi là phú la thiên hạ kỳ trân (những vật trân quí
bày trong thiên hạ). Nghèo mà tận lực, cốt ở chỗ tấm lòng thành mà thôi.
8. Hội cúng Vu Lan giống như cúng Thủy Lục,
đàn nội cúng Phật, đàn ngoài nên tụng kinh Hoa Ngiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện,
quyển 24, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 12 bộ, Kinh Địa Tạng 12 bộ, Kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật 12 bộ, Kinh Kim Cang 24 bộ, Kinh Dược Sư 24 bộ, Kinh Kim Quang Minh 12
bộ, Kinh A Di Đà 108 lần, Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni 24 bộ, Kinh Vu Lan
Bồn 7 ngày cũng được.
9. Hội Vu Lan tuy cúng tiến cha mẹ tôn thân,
nhưng gồm độ luôn 6 cõi phàm hay 6 đạo luân hồi chuyên chú tâm tới các quyến
thuộc. Phàm phu không biết, Phật dạy phóng sanh để trợ lực công đức, nên khuyên
rộng mọi người tới ngày hoàn mãn mua chim cá để thả, cần thiết không thể bỏ qua.
10. Nếu có lễ sám ngày 13 tháng 7 bắt đầu lạy,
tắm rửa sạch sẽ thanh tịnh. Xem thêm qui tắc tụng niệm có nói trước, sau khi
kiết đàn nên giữ gìn trang nghiêm, đừng để người, súc vật, cũng như không có vật
bất tịnh rơi vào. Giả sử có rơi vào, y theo pháp qui tội rất nặng.
11. Đàn sám tăng chúng không được lộn xộn, như
đàn Tỳ kheo chỉ nên toàn Tỳ kheo, nếu Ni chúng kết đàn phải dùng đàn riêng cho
ni chúng. Nam chúng tại gia theo chúng Tỳ kheo, nữ theo Tỳ kheo ni, không xen
tạp. Nếu Ni không thể làm chủ đàn nên mời một vài vị tôn túc trưởng lão cao đức
giúp hộ. Bên ngoài đàn, Chủ sám dạy không được lập đàn cúng hương đèn, không
được lộn xộn cũng thế. Tấn đàn niệm hương lễ bái, cũng vào đàn nội niệm hương lễ
bái như vậy.
12. Trong lúc lạy sám cần đi vệ sinh, vào
restroom không được mang y sạch vào. Trước tiên phải cởi y sạch, giày sạch để
chỗ sạch rồi mới mặc áo, mang giày vào nhà cầu. Việc xong tẩy tịnh, rửa tay sạch
sẽ, cởi áo giày ra rồi mặc y sạch, giày sạch lại phòng rửa mặt, lau mặt, súc
miệng rồi nhập đàn.
13. Lúc lạy sám không được tiếp xúc người
ngoài, không được nói chuyện riêng với họ, cũng không được xem các sách kinh
khác.
14. Cúng ngọ dùng thức ăn đã nấu chín, cúng
xong liền thâu dọn để trên bàn đậy lại; cúng Phật chỉ dùng hương hoa, nước trong
là đủ.
15. Cúng trai Vu Lan, Phật dạy ở vào dịp lễ
giải hạ, có nghĩa là chư Tăng an cư 9 tuần, tu tập tinh chuyên, giới đức thanh
tịnh, có thể cứu độ ngạ quỉ (quỉ đói). Phàm vị thầy sám đều phải giữ thanh tịnh
không ăn sau giờ ngọ, cũng giống tu Bát Quan Trai. Không được kéo dài giờ giấc
làm hỏng giờ thọ trai (đúng ngọ).
16. Lễ sám tới canh năm thức dậy rửa mặt, dùng
trà xong nhập đàn là thời thứ nhất, mặt trời lên dùng điểm tâm xong nghe hiệu
lệnh vào đàn là thời thứ hai, lễ lạy chừng hết một cây hương nghỉ giải lao, sau
khi giải lao độ 15 phút trở vào đàn là thời thứ ba lễ tới 11 giờ. Dùng ngọ trai
xong đi kinh hành, giải lao, chỉ tịnh. Lúc 14 giờ nhập đàn là thời thứ tư, lễ độ
1 giờ và nghỉ giải lao; từ 4 giờ15 nhập đàn là thời thứ năm tới 5,30 giờ nghỉ.
Buổi tối lúc 8,30 giờ nhập đàn là thời thứ sáu lễ sám. Sau khi ra đàn là giờ chỉ
tịnh nghỉ ngơi.
17. Sau khi ra đàn tọa hương đều phải chuyên
tu thiền quán không được phóng túng hoặc hôn trầm. Giả sử không ngồi tọa hương
được, có thể niệm thầm kinh chú hoặc niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát cũng được,
không nên bàn nói lớn tiếng làm động người khác hoặc cười nói, v.v…
18. Mỗi khi nghe chuông hiệu lệnh liền đi tiểu
giải, rửa mặt. Nghe một hồi 3 tiếng chuông dài liền theo thứ tự mà đứng, đừng
đứng trước sau không hàng lối.
19. Trong quá đường thiết một bàn dùng hương
đèn, trên bàn hiến cúng Vu Lan Bồn, khải giáo Đại sĩ, đại hiếu Đại Mục Kiền Liên
tôn giả liên tọa. Trên đó chỉ cần người hầu hương đèn. Giả sử có việc cần cấp
ngưng lại có thể theo việc mà nói thẳng không được không nói nguyên do. Nói lời
khiên cưỡng khác, thảng hoặc có kẻ uống rượu say tới dạo chơi, Tri khách nên nói
khéo làm cho đương sự đứng xa nhìn, không được gây rối.
20. Lễ sám đến ngày Rằm, đại chúng tắm rửa,
thay quần áo sẵn sàng nghi cúng ngọ, xong thọ trai. Xem Quy tắc nghi ở trước có
nói rõ. Nếu không có lễ sám Vu Lan, có thể sám pháp Đại Bi hoặc sám Tịnh Độ thay
cũng được.
Ngày…tháng…năm…
Trụ trì… ký tên.
-Chứng nghĩa ghi rằng, chú giải kinh Vu
Lan, trong tạng Kinh chỉ thấy đời Đường Ngài Khuê Phong Tông Mật pháp sư chú sớ
1 quyển. Sau đời Tống dựa theo sách ấy cho ra đời sách Hiếu Xung sao 2 quyển.
Cuối đời Minh Ngẫu Ích đại sư của Tông Thiên Thai viết Tân sớ 1 quyển, Luật tông
có pháp sư Ngọc Luật viết Hiệp Thích 1 quyển. Bản còn lưu hành ở phòng Kinh sách
Chiêu Khánh, song Qui Tắc nghi cúng lâu không thấy lưu hành. Người đời lầm cho
rằng thí quỉ thần là cúng chay lễ Vu Lan, đây là sự lầm lẫn. Sách Vân Thê Chánh
Ngoa tập ghi rằng, Vu Lan Bồn duyên khởi do Ngài Mục Kiền Liên, cho rằng ngày
Rằm tháng bảy chư tăng giải hạ làm lễ Tự tứ (chỉ lỗi và nhận lỗi) sau 3 tháng tu
học đạt được nhiều đạo quả. Ngày này nên cúng dường được phước đức tăng gấp
trăm, chứ không phải cúng thí cho cô hồn (quỉ thần) ăn. Cúng thí thực duyên khởi
do Ngài A Nan không hạn ngày rằm tháng bảy, sắm sửa đồ vật tại Ma Kiệt Đà cũng
không phải hội Vu Lan. Bởi vì theo một nguyên tắc, trên cúng Thánh Hiền, một mặt
khác dưới giúp loài quỉ đói do thương kính là nguyên nhân khác nhau, chớ có lẫn
lộn. Ngày nay Thanh Quy có cúng thí thực Trung Nguyên nhằm ngày cúng lễ Vu Lan,
dâng cúng Tam Bảo, ban đêm thí hộc thức ăn, giúp đều cho quỉ thần, đây là một
việc lưỡng lợi nên làm.
Ngày 16 tháng 7 âm lịch là ngày giải hạ. Thông
báo dán tại phòng khách ghi rằng: ngày mai là lễ Tự tứ: Ngày giải hạ (Tự tứ)
nghi thức giống như kiết hạ. Trụ trì định giờ giấc, tới giờ báo hiệu lệnh ba hồi
3 tiếng chuông, đại chúng vân tập vào chánh điện, đốt nhang, Trụ trì niệm hương,
Duy Na cử tán: Vu Lan chánh giáo…
xong, đứng giữa niệm hương, trải tọa cụ lạy Phật 3 lạy rồi quỳ gối chấp tay bạch
rằng: Nam mô Thích Ca Như Lai (2 lần) mãn hạ tự tứ (đại chúng hòa theo). Duy Na
đọc tiếp: mãn hạ Tự Tứ là pháp quan trọng của Phật môn, sám trừ tội khiên, chừa
bỏ lỗi lầm là cách tốt đẹp cho tăng hành, nuôi dưỡng thiện nhân vun bồi quả
chứng. Nếu không nương thuyền giới định không sao đến Niết Bàn được. Hôm nay
nhân ngày 16 tháng 7 đương lúc chúng tăng giải chế, mãn kỳ kiết hạ, chúng tăng
vân tập Phật điện trì tụng kinh chú giải kỳ kiết giới. Từ đó đến nay có ai phạm
4 giới trọng trong 10 điều ác, phải tự thú tội sám hối; khởi 3 độc (tham-sân-si)
phạm 7 già tội
tùy theo đó mà nói ra. Hoặc thấy tội, nghe tội hoặc nghi tội mỗi mỗi đều phải
sám hối. Hoặc thân phạm, miệng phạm, ý phạm chồng chất phải nên tỏ bày sám trừ
căn trần trói buộc, thanh sắc dẫn lôi liên miên chứa nhóm các tội lỗi ngăn
chướng bản tâm. Nếu không tỏ bày sám hối do đâu tâm sạch như băng tuyết được?
Pháp sám hối đặc biệt rửa sạch hết tội của ta - người, sám tức là tự ăn năn lỗi
trước; hối là lương tâm ray rứt không dám phạm ở tương lai. Nên bày tỏ rằng: con
đã phạm tội, nguyện cầu xin sám hối để được tiêu sạch; tội chưa phạm không dám
phạm. Vì vậy, nay là ngày giải hạ; tự thú nhận tội.
Duyệt chúng gõ khánh, người bạch Tự tứ thưa
rằng:
- Bạch đại đức một lòng thương xót, chúng tăng
ngày nay Tự tứ, con Tỳ kheo… cũng Tự tứ. Nếu thấy, nghe, nghi có tội, xin Đại
Đức thương xót chỉ bảo, nếu con thấy có tội, sẽ y như pháp mà sám hối (3 lần).
Mỗi người lần lượt ra trước bạch như thế cho đến người cuối cùng. Xong rồi, đại
chúng cùng tụng bài kệ sám hối:
Xưa con đã tạo các ác nghiệp
Đều do vô thỉ tham sân si
Sanh khởi đều từ thân miệng ý
Hết thảy tội con xin sám hối.
Án tam đà ra già đà ta bà ha (3 lần).
Tụng Bát Nhã, niệm Phật, sám nguyện:
Tự tứ giải hạ
Phật quả viên thành
Nghiệp chướng sạch thanh
Tánh giác lắng trong
Trí tuệ rạng soi
Pháp giới nhuần ân.
Nam mô cầu sám hối Bồ Tát Ma ha tát (3
lần).
Tiếp tụng hồi hướng, phục nguyện và 3 tự quy
y.
* Nếu không tổ chức cúng lễ Vu Lan thắng hội,
ngày giải hạ Tứ tứ là Rằm thay vì ngày 16.
- Chứng nghĩa ghi rằng, giải hạ tự tứ,
sau khi đã kiết giới an cư để ngăn các Tỳ kheo thời kỳ hạ không được đi khất
thực gọi là nghỉ hạ. Sáng hôm mãn kỳ kiết giới, mỗi người biết có lỗi, chính tự
mình bày tỏ, tự không biết lỗi xin nhờ chư tăng nêu lỗi, nên gọi là Tự tứ.
Có người hỏi Ngài Liên Trì rằng hứa cho Tăng
Tự tứ nghĩa là gì?
- Người có lỗi như bịnh nhân mắc bệnh, nêu lỗi
ra như hương y chữa khỏi. Dấu bịnh là thầy thuốc ác, là kẻ đại ngu si. Thế thì
biết có lỗi nêu lên là làm đúng. Lại cũng hỏi rằng, có lỗi như tự mình nêu lên
càng tốt, hoặc người khác nêu ra mà không sợ kẻ ấy chối cải sao?
- Đáp: Luật ghi rõ tăng có tội, vị tăng bên
cạnh bạch Phật. Phật triệu tập chúng tăng lại mỗi mỗi khiển trách, nhân đó Phật
chế luật; tòng lâm nay đều y cứ theo đây áp dụng vậy.
Điều này, tuân lời Phật dạy không phải xuất
phát do ý riêng làm sao có sự tranh cải.
Vã lại, pháp thế gian còn cho rằng, vua tranh
với thần, cha tranh với con, kẻ sĩ tranh bằng hữu. Cho nên nói rằng, minh quân
thưởng thần dám can ngăn thẳng; Thánh chúa lập đài chỉ trích. Huống là tăng sĩ
tu hạnh xuất thế há lại không có bằng hữu giúp chỉ lỗi hay sao? Nếu trực ngôn
thời chỉ trích trực tiếp, người nịnh hót cố ngăn che chống trái, làm thất đức,
mất sự nghiệp, gây tổn thất chẳng phải nhỏ vậy.
Nhân đây lại có bài tụng rằng:
Trước chỉ lỗi hội Vu Lan
Nay Tự tứ lòng càng nhắc răn
Rao lỗi người giận khởi lên
Luật lệ sờ sờ mắt híp chẳng nhìn.
Hằng nào chánh pháp không bị ma quân tiêu diệt
tan tành chứ! Ngài Vân Thê pháp chủ đến đổi phải than thở rằng, một phép thương
tâm ta, một tắc vỗ về chí ta, anh há chẳng thấy yêu kính lễ nên còn dê; Tuyên Ni
từng nói được ban tòa ngồi gỗ. Sách Thiền Tông Bí yếu ghi rằng, xưa tôn giả Xà
Dạ Đa tới thành La Duyệt Kỳ tuyên dương đốn giáo, nghĩa là đi suốt ngày đấu lý
bẻ giẹp hết chúng nhơn. Thế nhơn giả đã đạt được không phiền não nội tâm chưa?
- Đáp: Ta nhớ lại bảy kiếp trước ta sanh ở
nước Thường An Lạc, thầy ta là Trí Giả Nguyệt Tịnh thọ ký cho ta chẳng bao lâu
sau được chứng quả Tư Đà Hàm. Lúc bấy giờ có Bồ Tát Đại Quang Minh ra đời, ta vì
già cả phải chống gậy đến lễ bái. Sư gặp quát lớn hỏi ta:
- Đồng tử khinh cha, một kẻ hèn vậy sao?
Lúc ấy ta tự cho không có lỗi, nên thỉnh thầy
chỉ giáo.
Thầy nói: ông lễ Bồ Tát Đại Quang Minh để gậy
dựa vách vẽ hình diện Phật để thấy lỗi này. Ta liền mất hết 2 quả vị và từ đó tự
trách sám hối lầm lỗi. Nghe những lời ác như vang theo gió, huống chi được uống
vị cam lồ cao thượng mà còn sanh lòng sân hận sao? Ôi! Đây đáng gọi là gương
sáng của phép Tự tứ vậy!
1. Khóa tu sáng sớm: chúng thức dậy theo hiệu
lệnh, sau khi lo các thủ tục cá nhân xong, nghe ba hồi chuông và 3 tiếng, đại
chúng đắp y lên chánh điện. Hô chung bảng xong, chúng nhiếp tâm tọa thiền 30
phút. Sau đó là giờ công phu khuya tụng kinh Thủ Lăng Nghiêm.
2. Thiền trước giờ ngọ: lúc 9.30 giờ, đại
chúng nghe hiệu lệnh vào chánh điện hay thiền đường tọa thiền cho tới 11 giờ xả
thiền. Sau đó lúc 11giờ 10 phút cúng ngọ. 11.30 giờ đại chúng thọ trai, xong đi
kinh hành niệm Phật, chỉ tịnh.
3. Thời tọa thiền buổi chiều:
Thủ tục như thường lệ, lúc 14 giờ nghe hiệu
lệnh, đại chúng đắp y vào chánh điện tọa thiền cho tới 15 giờ, đi thiền hành 30
phút, nghỉ giải lao 15 phút. Giờ công phu chiều, theo mỗi ban đã phân trước.
4. Giờ thiền buổi tối:
Buổi tối sau thời kinh Tịnh Độ, có giờ tọa
thiền từ 8 giờ đến 9 giờ. Tất cả đèn đều tắt, chỉ trừ đèn lưu ly ánh sáng nhỏ
không trông thấy rõ. Tới giờ Duy Na gõ 3 tiếng chuông đại chúng đứng lên đi
thiền hành 15 phút (3 vòng) rồi lui ra.
5. Ngồi tọa hương ban tối: tối trước giờ chỉ
tịnh đại chúng ngồi tọa hương, ngồi tĩnh tâm quán chiếu cho tới khi tàn một cây
nhang; có hiệu lệnh chỉ tịnh, tất cả đèn đều tắt hết và chúng lên giường ngủ.
Qui tắc cổ mất dần mỗi ngày thành lệch lạc,
thời cuộc trải qua nhiều tệ đoan, nêu gìn điểm tinh mật, tuy qui tắc nay trở
thành công án
mà điều cần yếu là đại chúng phải biết, hành trì bổ túc cho nhau mới không hổ
với Tông Tổ; đạo phong kiêm toàn mới lợi lạc cho người lớp sau. Đó là do đồng
tâm cùng nhau tuân thủ (chấp hành) 32 điều sau đây:
1. Người phụ trách chuông bảng không đúng giờ
giấc; phạt quì hương lễ sám, tuần liêu không tuân, cho ra khỏi.
2. Chọc phá thị phi, đánh đấm, đôi co… cho ra
khỏi chúng.
3. Trừ phi già bịnh, phải tham gia công tác
chung, nếu riêng trốn tránh, yết bảng không cho ở trong chúng.
4. Trong ngoài thiền đường nói bàn
tạp, việc tạp bị phạt. Giờ chỉ tịnh làm động chúng bị phạt, bất tuân: đuổi.
5. Thủ hiệu lệnh bảng (mộc ngư) sai làm động
chúng: phạt.
6. Không có bổn phận mà dụm đầu kề tai nói
chuyện: phạt nặng.
7. Giờ tiểu tham, các khóa lễ… phải đắp y, cầm
theo tọa cụ tập trung tại chánh điện, đứng theo thứ tự. Có hỏi mới lên tiếng,
không được làm trái; người nào phạm: phạt.
8. Chưa xong tọa thiền không được đi ra ngoài,
trừ có việc công ai tự ý rút lui bị phạt; bất tuân, bị phạt nặng.
9. Lén xem đọc kinh sách, ngủ phi thời: phạt.
10. Ra vào tự ý không thưa ban chức sự: phạt.
Giờ chỉ tịnh không lên giường bị phạt nặng.
11. Ngồi thiền, tọa hương không đến dự phạt,
lầm tán hương, tuần hương: phạt
12. Trị nhựt luân phiên không rõ ràng: phạt,
làm hư hỏng đồ đạc phải bồi thường
13. Không chú tâm tham thiền, lấy đồ nhọn chọc
phá: phạt, dối làm bộ xướng tụng bình luận công án: phạt.
14. Bên trong chùa ra vào theo lối mà đi, ai
vi phạm: phạt. Nếu loạn đơn đổi chỗ, đi băng xuyên thẳng tắt và đương không vào
phòng người: phạt nặng.
15. Mượn dùng riêng đồ chùa đem ra ngoài bị
phạt.
16. Thô tháo mất oai nghi không nghe ban chức
sự can ngăn, phạt, phạt bất tuân cho ra khỏi chúng.
17. Đi, đứng, tụng kinh, ăn uống, công tác
v.v… không theo chúng phạt .
18. Phê phán việc thị phi người khác, quấy rối
số đông làm động chúng bị phạt nặng.
19. Cảnh cáo chễnh mãng, tối dạ không xuống
giường bị phạt quỳ 3 cây nhang.
20. Cố tình thả buông theo hôn trầm (ngủ gật)
phạt, cải lại hương bản phạt, ai không tuân đuổi.
21. Cảnh cáo ngủ gật sau đó vẫn như cũ bắt
đứng tham thiền. Tái 3 lần cảnh cáo không kết quả bắt quì tham thiền, không tuân
đuổi ra khỏi
22. Qua lại ngang nhiên, nói cười khạc nhổ,
hoặc đi giày phát ra tiếng phạt, không tuân bị phạt đuổi.
23. Đi ra ngoài không được mặc áo dài chấm
gót, mặc bị phạt.
24. Có việc ra ngoài không về đúng hẹn, bị
phạt.
25. Có các tôn khách tham quan, mỗi người giữ
theo thứ tự không được mất oai nghi, ai vi phạm phạt.
26. Đi vào phòng khách cùng nói chuyện tạp với
người bị phạt nặng.
27. Sau giờ chỉ tịnh khuya nói cười ở liêu
Giám Tự, hay dạo chơi bên ngoài phòng ngủ phạt
28. Sắm đồ ăn uống riêng phạt, hoặc nhóm lửa
nấu nướng phạt nặng
29. Xông nhào vô tĩnh tọa phạt (làm mất oai
nghi, động chúng)
30. Tuần hương tự ý, hoặc đem công báo tư, cố
lấy lòng phạt, ai phạm phạt nặng
31. Có bịnh xoàng cho nghỉ 3 ngày, bịnh nặng
ra ngoài điều trị, không được cố ở lại làm ảnh hưởng chúng, ai vi phạm phạt
32. Trở lên là 32 điều qui định, điều chính
phụ có liên quan như không tuân hành, tự mình mất lợi lành. Cùng ở chung với đại
chúng lấy đó răn nhắc nhau.
Ngày… tháng… năm… Trụ trì ấn ký.
Chứng nghĩa ghi rằng, thiền đường
cũng là nơi lui tới của hiền thánh, chỗ liễu sanh thoát tử. Muốn thấu rõ môn
hướng thượng nếu bỏ nơi đây không do đâu mà vào được. Do vậy mười phương cùng
câu hội, mỗi mỗi học đạo vô vi. Đây là tuyển Phật trường (trường chọn người làm
Phật), tâm không bậc thứ là vậy. Đã học đạo vô vi tức ứng hợp dứt các duyên,
chuyên tâm tham cứu. Nếu ngang bướng làm hỏng, ngông láo, theo thói quen tùy
tình, không phải chỉ không khả năng học vô vi mà cũng e trái lại làm tăng thêm
dị kiến. Nên nói không có qui củ chẳng thể ngăn dứt việc tà, không tinh tấn
không thể đạt thành chí hướng là vậy. Kinh ghi rằng, nhân giới sanh định, nhân
định phát huệ, chỉ 2 từ này đã bao hàm được hết thảy. Sách Thiền Tông Bí yếu
ghi: xưa có người con trai họ Lữ xuất gia học đạo, được Ngài Ưu Bà Cúc Đa vì đó
thuyết pháp yếu, thấy chân lý đắc quả Tu Đà Hoàn, bèn nói rằng: Ta đã đoạn 3
kiết sử rồi, còn mong gì nữa ? Do tuyên bố như vậy mà chìm nổi đó đây qua bảy
lần sanh tử. Tôn giả bảo rằng, việc sanh tử thật đúng là ác tặc, như phẩn nhơ,
ít nhiều đều hôi hám cả, bèn liền tới thôn Chiên Đà La thấy một đứa bé thân thể
mọc đầy ghẻ lỡ, vi trùng rúc tỉa, máu mủ tươm ra, thật rất là khổ sở, hỏi rằng:
Tỳ kheo có thấy đứa bé này không? Đứa bé đó là Tu Đà Hoàn. Thuở xưa khi Phật tại
thế có một vị La Hán thân thể nhỏ bé bị chứng bịnh ngứa, cào gãi ra tiếng, vị
Duy Na sân nói rằng, thân ông bị trùng độc rĩa thế kia ư, hãy nên đi tới thôn
Chiên Đà La. La Hán nói rằng: nay con đã mắc tội đừng có buông lời này nữa. Lúc
đó Duy Na liền sám hối, và tinh tấn tu tập đắc quả Tu Đà Hoàn. Về sau biếng trễ
không cầu đạo vô thượng nên sanh vào nhà này để thọ sự khổ não như thế. Đứa trẻ
lại đi về phía trước thấy có một người bị lửa đốt thân thể cháy đỏ đau đớn vô
cùng, nó đi tới nữa lại thấy có một người phạm pháp luật nhà nước thân thể bị
đâm xỏ qua một cái cây lớn treo lên vang ra tiếng than ai oán, hết sức đau khổ.
Lúc đó tôn giả hỏi tỳ kheo rằng:
Ngươi có thấy 2 người đó không?
Tỳ kheo đáp:
- Dĩ nhiên là thấy.
- Tôn giả nói: người trước xưa kia là Tư
Đà Hàm, người sau ngươi thấy đó trước kia là A Na Hàm. Cả 2 đều biếng trễ không
cầu đạo vô thượng, nên sanh cõi người thọ cái khổ độc này. Vì thế nay ngươi phải
tự tinh tấn sớm cầu giải thoát. Vị Tỳ kheo nghe xong, đêm ngày tinh chuyên tu
tập, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán. Ôi thôi ! căn cứ vài người chứng đạo quả;
nhân đạt một ít đã cho là đủ như thế mà lui sụt biếng lười nên phải rơi vào khổ
báo. Thiền giả ngày nay mới kiết đông vài lần bèn cho ta đây là ngộ thiền, sao
lại phải miệt mài như vầy! Chưa biết rõ ngộ thiền như thế chứng được quả vị gì
vậy? Nếu không tinh tấn tu hành đến lúc đại khổ báo ập đến mình phải chịu lãnh
đủ!
(mạnh đông: tháng đầu mùa đông)
Tuần đầu tháng 10 chùa viện chuẩn bị dọn dẹp,
quét tước phòng xá, cửa nẽo, lau chùi chánh điện, giảng đường, phòng khách, cửa
ngõ v.v… trong ngoài tươm tất, chuẩn bị khai đàn kết đông. Trình bạch ngài
Phương Trượng duyệt qua chương trình, bàn thảo thêm bớt quyết định chấp thuận.
Thư ký viết thông báo, đọc trên đài, đăng báo (dịch giả thêm) dán tại chùa.
Đến ngày 14 tháng 10 (âm lịch) sau thời công
phu sáng, điểm tâm xong nghe hiệu lệnh, đại chúng đắp y tập trung tại thiền
đường làm lễ cung an chức sự (mỗi nhân sự trong ban điều hành). Duy Na bạch
rằng: Hôm nay là ngày kiết đông, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ tác
bạch. Để cho đạo tràng được trang nghiêm chúng con thành tâm cung thỉnh Hòa
Thượng Phương Trượng đương vi chứng minh, cung thỉnh Thượng Tọa… đương vi Duy
Na, cung thỉnh Thượng Tọa… đương vi Duyệt chúng; cung thỉnh chư tôn Đại Đức đồng
tác chứng hộ niệm. Bạch xong thỉnh lên chánh điện, Duyệt Chúng dẫn khánh đi đầu,
2 thị giả: một người bưng khay lễ đi kế Duyệt Chúng, một người cầm phất trần,
tích trượng theo sau, tiếp theo là Ngài Phương Trượng, tới nơi Hòa Thượng lễ
Phật, thỉnh đăng tòa. Duy Na cử tán: “Dương chi tịnh thủy…” xong, tiếp
đến trước niệm hương lễ 3 lạy, trãi tọa cụ, lui về vị trí. Đại chúng đồng tán:
Nam mô Thanh lương địa…
Nam mô Vân lai tập Bồ tát Ma ha tát (3 lần). Hồi một hồi khánh thỉnh Hòa thượng
khai thị, xong chúng đứng lên lễ Hòa Thượng 3 lạy. Tác pháp yết ma vấn hòa, kiết
giới mùa đông, phân ban lo công việc khóa tu (xem thêm chương Trụ Trì ở trước).
Chứng nghĩa ghi, y cứ theo Kinh Phạm
Võng: trái tôn ti thứ tự phải răn, và ngoài ra luật tạng cũng có đủ các phép thứ
tự, bởi 2 dãy (chúng) luận chấp cùng một cách. Luận rằng giới chính do Phật chế,
tòng lâm ngày nay nhận chúng không hỏi giới, chẳng hỏi hạ lạp, cùng trong một
cách chấp. Kẻ tới trước đứng trước, tới sau đứng sau dường như đúng mà sai, trái
lời Phật dạy. Người thọ giới trước ngồi trước, thọ giới sau ngồi sau, mới theo
đúng luật.
Rằm tháng 10 lễ kiết đông là thời gian nghiêm
tu 9 tuần (3 tháng) của chư tăng, trong ngoài đều trang nghiêm thanh tịnh. Nội
bất xuất, ngoại bất nhập và dứt hết mọi duyên, chỉ một mặt chuyên tu học mà
thôi.
Đúng sáng rằm, sau thời công phu khuya, Trụ
Trì niệm hương xong, Duy Na cử tán: lư hương (giống nghi đón giao thừa). Sau khi
dùng điểm tâm xong, có hiệu lệnh đại chúng vào thiền đường họp (không cần đắp y)
chúng và tuyên bố Nội Quy. Duy Na đọc bản Nội Quy chung toàn chúng. Đọc Nội Quy
xong, đại chúng cùng dùng trà, chuyện vãn thân mật vui vẽ. Buổi chiều khởi sự
thiền thất.
- Chứng nghĩa ghi rằng, đầu mùa đông
kiết giới chính là vì sự sanh tử. Nếu không tự tẩy trừ tâm địa cho trong sạch,
nên chỉ thấy hẹp hòi tự cho là mô phạm thật rất đáng trách. Người trông ta giống
như tham thiền, thậm chí còn hiểu rõ chỗ âm u mờ tối như đại địa. Thật là đáng
thương sống không biết thiền là gì, chỉ biết liên quan tới mình, còn người khác
bỏ mặc. Nếu bạn khẳng quyết sắp đạt tâm đốn ngộ, rồi buông thỏng (lơi) thì đến
lúc nào mới được tương ứng?
Cổ nhân nói rằng, làm công phu chẳng đắc lực,
rõ bịnh nhiều biết nhiều xuyên qua lò luyện công án. Tập khí bám chặc tháo gỡ
không ra, do vậy Phật tánh không sáng tỏ. Nếu quả đúng là người nghĩ tới việc
sanh tử thời không để tâm tạp loạn. Một câu thoại đầu (công án) tương tợ như uốn
vòng sắt, quyết không để phải gãy vụn. Nếu uốn không được sắt, thà bỏ mạng, để
thân này rơi vào địa ngục chứ trọn không bỏ câu thoại đầu. Lực tin mạnh mẽ như
thế, thế nên nghi tình ngày càng dứt sâu hơn; mắt nhìn tỏ rạng sáng suốt khắp
cùng mọi sự mọi vật biết rõ không sai. Như nói: từ trên đến chư Tổ phần nhiều
lấy cơ tiếp độ người, nay tại sao truyền cho người lấy câu thoại đầu “tử”, tử
lấy làm công phu sao?
- Đáp: Ôi! Nói gì vậy? Luận về phép tham câu
thoại đầu có từ Hoàng Bá Triệu Đoan và được chư tôn tuân thừa mà đại biểu là Đại
Huệ Vưu chủ xướng. Thời trung hưng thạnh phát của Đại Huệ tế độ miệt vùng Bắc,
đâu chỉ dùng cơ duyên là đủ mà còn phải khai thị người tới học. Dùng một câu
thoại đầu chặn cổ họng người hỏi, làm hao hụt kỹ năng của đương sự; rồi sau mới
chỉ rõ đại cơ đại dụng, hầu khích lệ tinh tấn mà đạt chứng đắc. Hơn 40 người,
bởi vì lão sư dùng cơ, người học ra công phu hẳn cả hai hợp nhau mà thành tựu
vậy. Nếu không sách tấn người học luyện công phu mà chỉ dùng cơ tiếp người thời
kẻ thượng căn được lợi, còn người trung căn, hạ căn hoàn toàn mất phần lợi lạc
mà nhận lấy chỗ trống rỗng. Thừa gió phát tiếng quét sạch bụi là một tông yếu
của Đạt Ma. Tổ Đạt Ma từ Tây Vức sang 9 năm ngồi quay mặt vào vách, có thể nói
là vách tường sừng sững vạn kiếp, nhưng rồi Ngài tiếp hướng dẫn Thần Quang cũng
là dùng phương tiện.
Cũng có thể nói rằng, chỉ dứt hết ngoại duyên,
nội tâm không đầu mối, tâm như tường vách mới có thể nhập đạo. Đây là nói về
công án tử vậy. Bởi vì công phu bất tử thời tình thức nảy sanh. Chẳng màng danh
lợi tức gắn liền với hiểu biết, tuy dùng cơ mà có làm cho được an lạc không chứ?
Cho nên nay mời kết chế tu thiền, khán câu thoại đầu tử là việc chính, may ra
không dùng cơ làm công án khiến rối loạn tâm vậy. Song nói khán câu thoại đầu tử
chính là dụng công ngay trên câu thoại đầu, gọi là khán tử thoại đầu. Không phải
đương nhiên ngồi không quán vắng lặng được. Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi rằng có
pháp sư Quật Đa xứ Tây Vức (Ấn Độ) ngoạn cảnh Ngũ Đài tới huyện Định Nang thấy
một vị tăng kết cỏ ngồi. Pháp sư hỏi: ông ngồi một mình đây làm gì?
-
Quán tịnh, vị tăng đáp.
-
Sư hỏi: Ông xuất phát từ ai?
-
Thần Tú đại sư.
Pháp sư hỏi: Tây Vức ta khác đạo, người nào
căn cơ thấp nhất không rơi vào chỗ thấy này, ngồi yên trống rỗng đối với đạo có
ích gì?
Không cứ lúc nào đều có thể bắt đầu thiền
thất, cũng không cần chọn ngày mồng một tháng 10. Phàm bắt đầu tu thiền thất
trước một ngày, cần xem xét lại kho lẫm, gạo, muối, tương, dầu…
tất cả mọi thứ sẵn sàng. Thiếu thứ nào nên mua sắm cho đủ dùng. Mời người hộ
thất, cân nhắc cắt đặt xong, nghe báo cáo thực phẩm; cử người khán hương, giám
hương, hầu Phương Trượng… ngày khởi tu thiền thất, Duy Na bạch chúng rằng: hôm
nay ngày… khởi thất, đại chúng nghe hiệu lệnh (vân tập Tổ đường lễ Tổ, đến phòng
Phương Trượng thỉnh Hòa Thượng ban giáo từ khai thị xong, tiễn Hòa Thượng về
liêu phòng. Sau đó Duy Na điều hành buổi lễ, đại chúng đều đứng sẵn sàng, vị hộ
thất thu tọa cụ. Duy Na bạch thưa: các thầy tham gia thiền thất làm lễ Thầy Thủ
Tọa, sư Hậu Đường, sư Đường Chủ, thầy hương đăng, thầy hộ thất, thầy vận thủy,
mỗi vị ba lạy.
Tiếp theo vị thủ tọa nói: lễ Thầy Duy Na, thầy
Duyệt Chúng mỗi vị 3 lạy. Phàm pháp quyến của bổn tự cùng chư sơn các chùa viện
xa gần đến tu thất, tức vào nhà phụ ở sau. Nếu cư sĩ tu thất đặt đơn bên ngoài.
Người tu thất nhất loạt phải theo chúng đến mãn thất mới được phép ra khỏi viện.
Ni và người nữ không được phép vào thiền đường; có các vị tôn khách hay thí chủ
tùy hỷ tọa hương, không nêu ra ở đây. Lễ xong, thầy Duy Na nói: 2 dãy liêu đồng
tọa thất quý Thầy đảnh lễ A - B Hòa Thượng. Mời Hòa Thượng tôn túc thuyết pháp
mở đầu kỳ nhập thất. Ban ẩm thực nhà trù nấu thức ăn xong phân ra tô dĩa, ban hộ
thất bưng dọn lên bàn (hoặc cơm hay mì tùy ý). Tới giờ điểm tâm nghe hiệu lệnh
chúng vào trai đường ngồi theo vị trí, niệm Phật rồi dùng bửa. Mỗi ngày 4 buổi
tọa thiền, thiền hành: Duyệt chúng luân phiên hướng dẫn khóa tu theo khuôn khổ
nề nếp trang nghiêm. Chương trình mỗi ngày giống nhau. Nếu trong kỳ thất có thí
chủ cúng linh tinh cho chúng dùng phụ, nên tùy thời sắp xếp cho tới mãn thất.
Tới ngày thứ sáu, duyệt chúng dẫn theo hai người đến phòng Phương Trượng thỉnh
ngày hôm sau giải thất, hoặc mời Ban Thủ thay thế giải thất. Phàm thiền thất,
tham khảo sư cả, chỉ ghi nhận ý chính để lợi ích cho người học. Một người tiểu
tham thoại đầu không cho phép làm xáo trộn công án. Phàm đứng hương người đứng
phải đứng hai chân cho đều, không được đứng chữ bát so le, 2 tay buông xuống,
không được xoa tay. Đi kỵ xăn tay áo, ngồi kỵ vén quần. Phàm thiền thất lấy giờ
khắc làm chứng, hiểu rõ việc sanh tử, chuyên vào việc tham thiền là chính. Quản
chúng không được nói nhiều làm trở ngại việc chánh (tu thiền).
Giờ quá đường (dùng cơm trưa), khởi hương, bỏ
hương, đứng hương… Duy Na đều gõ bảng hiệu 3 hồi, tuần hương chỉ đánh lúc có
người ngủ gật (đập vào vai cho tỉnh dậy). Thủ tòa coi tổng quát quán sát đại
chúng để sách tấn thiền giả. Cho nên người đi tuần hương phải cầm hai tay, không
được thả một tay. Giám hương một tay thả xuống không được đưa hương xuống quá
thấp, nên tưởng cho hợp cách cúng dường. Hai tay dù đưa cao hay thấp không thành
vấn đề, miễn gặp người cựa quậy, hôn trầm đều đập lên vai phía sau.
Chứng nghĩa ghi rằng ở tòng lâm quanh
năm tọa hương tham thiền, sao lại còn có thiền thất? Vì muốn ghi đậm nét thời kỳ
tu tập là ý này. Kẻ học giả thời đại ngày nay đang ỷ mạnh trước tình trạng Phật
giáo. Đối chiếu với ngày thường nên gia tâm tham thiền gấp đôi ba lần. Người
tham thiền tức là tham cứu một câu thoại đầu. Tham thoại đầu không ngoài việc
khởi nghi tình. Cho nên mới có câu rằng: tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ
(nghi nhỏ ngộ nhỏ, nghi lớn ngộ lớn), không nghi không ngộ. Nghi tức là tham
vậy, luận về niệm của nghi, đó là chướng của thể giác mà nhân là lợi thế người
tham được thiện dụng. Trái lại có thể mượn đó để như cái thuật phá chướng ngại.
Bởi lấy nghi đó cho người ngộ cơ hội dễ dàng mà tư thế là giúp người. Cho nên
người muốn ngộ hẳn quí chỗ nghi. Luận về cơ nhân tâm không ngưng trệ, chắc chắn
không thể khai thông suốt được. Như thạnh đông đóng cửa chặc thành như núi Thái
Nguyên. Như hơi thở không khí không đủ thì sẽ sanh ích tắt, không đủ sức, cho
nên quí nhất là nghi. Nghi thời bị ngăn chặn, không thể đi sâu vào nguồn chân
của pháp giới, hẳn không đạt đến sâu sắc được. Cho nên hễ người nghi chắc hẳn
nghiền ngẫm, nên biết nghi là nhân của ngộ, ngộ là quả của nghi. Trái ngược như
tối phải có sáng, hít vào ắt thở ra vậy! Sao không nghi chứ ! Sao không nghi chứ
! Do chỗ nghi mà ngộ thời ngộ lại chẳng tồn tại, đối với nghi hẳn phải tôi luyện
mới thành công được.
Tu thiền hoặc một, hai hay ba thất tới ngày
viên mãn, Thầy Phương Trượng báo cho Duy Na bạch chúng biết giờ giấc. Vâng lời
Hòa Thượng mời thầy nào… vì chúng giải thất và thỉnh vị ấy thuyết pháp xong,
tụng nghi thức hồi hướng.
Duy Na bạch: sau nhiều (7,14,21) ngày kham tu,
đại chúng hai liêu lễ tạ thầy Thủ tọa, thầy hộ thất, thầy chủ hỏa đầu quân, thầy
vận chuyển nước, thầy bổ củi v.v…
chí thành lễ ba lễ. Đến phòng đảnh lễ Hòa Thượng Phương Trượng xong, đại chúng
về liêu nghỉ, Chúng trưởng đi tuần các liêu thăm hỏi, sau đó giờ chỉ tịnh.
Chứng nghĩa ghi rằng, nói thiền thất chỉ hiểu
thời gian 7 ngày mà không rõ tham thiền là gì nữa.
Hỏi: Vì nghĩa của tham thiền ta đã nghe và làm
theo, nhưng chưa biết việc tham thiền bắt đầu lúc nào?
- Đáp: Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, ở ngay tại
đây có cái tinh minh diệu hảo. Cũng nói: nghiên cứu trong và ngoài, lại nói:
nghiên cứu sâu rộng. Ngoài ra lại còn cho rằng nghiên cứu tinh mật, không phải
tham ư? Trong việc tham thiền có 7 chỗ trừng tâm, tám nơi thấy rõ ánh sáng bay,
đưa nắm tay lên, thả tay xuống, tạo tiếng hét v.v… đều chỉ mối hồ nghi. Từ đây
trở đi phàm dạy khán công án, khởi nghi tình đều từ đây mà có. Ngoài ra, Kinh
Hoa Nghiêm, phẩm Phạm Hạnh và các kinh như Lăng Già, Viên Giác v.v… đều có nói
tới thiền mà nói rất rõ ràng. Thiền Sư Nga Hồ Đại Nghĩa nói rằng, nếu người nào
tịnh tọa không dụng công, cho tới năm nào (bao giờ) mới đạt được tâm KHÔNG? Ngài
còn nói: nên đề khởi ngay: thổi bay mảng lợi, cần mổ xẻ Tây lai đệ nhất nghĩa là
gì. Lại nói: chợt mở mắt sáng, dựng đứng lông mi phản diện xem hắn ta là ai? Nói
những lời như thế người tham thiền nên viết xuống đai áo; tuy nhiên, nếu hướng
tới ngữ cú nghĩ suy xuyên suốt trên tình thức xem thử độ, rộng lượng lại nhận
lầm thời gian nói dụng công, nói phân tích, nói phản phúc là ý của khán. Thời
cho rằng người tịnh tọa làm thinh bất động, việc này cũng chẳng giống, mà lại
như người bịnh vậy. Cũng không thể không bàn đến lời tóm tắt như thế này: môn hạ
thiền tông vô ý thức lãnh đạo lược thâm áo thiền, cũng không còn là giai đoạn
nói tới thiền gốc, cũng không từ từ tu tập đạt đến thâm áo thiền nữa. Vì thế,
cần thiết ta phải đập vỡ chỗ mù lòa, đẩy lùi đi không để mơ hồ loạn tưởng lầm
cho là hiểu rõ nữa. Như tin rằng mình lỗi lầm bèn tham cứu như thế mà không cần
phải hỏi đông hỏi tây. Bởi vì đại sự chưa tường dù tu hết trăm nghìn thất vẫn
chưa thuần thục nghi tình, chỉ cần một tắc là mạng bỏ đi. Nếu một tắc qua được
trăm tắc tức qua được hết thảy. Mong cố gắng đó!
Ngày Rằm tháng giêng là kỳ giải đông (khóa
kiết đông từ 15 tháng 10, trong 3 tháng, 9 tuần tu tập). Nghi thức như thông
thường. Ngày nay các tòng lâm hầu hết chỉ kiết hạ từ 16 tháng tư đến 16 tháng 7
mà ít có nơi tổ chức kiết đông. Vì chư tăng đa phần học trường ngoài nên phải
theo cho kịp chương trình cập nhật của bộ Giáo dục (người dịch chú). Tuy vậy,
vẫn còn một số ít đạo tràng giữ theo cổ Thanh Quy này.
Chứng Nghĩa ghi rằng: Phật dạy từ Rằm
tháng giêng đến rằm tháng ba là giải đông. Thời gian đi khất thực là từ 15 tháng
8 đến 15 tháng 10, cũng là thời kỳ giải hạ. Tăng sĩ ngày nay phần nhiều đi khất
thực quanh năm là trái lời Phật dạy. Người an cư kiết giới đa phần theo lệ xưa
mà ít có sự hành trì thật sự. Ngài Vân Thê có bài kệ giải đông rằng:
Bụi trúc trước sân vẳng tiếng ca
Báo tiết thượng nguyên đã sẵn sàng
Khảy tay lượng sáng càng lướt qua
Lớp áo vá nhận ra được gì?
Nghĩ cho sâu sắc thật là thấm thía mỗi người
nên hồi tâm quyết tu mãnh liệt. Khởi lên câu thoại đầu trực tiếp theo đuổi để
phá nghi vây chặc.
Tháng giêng có Tết nguyên đán là ngày lễ cổ
truyền của các dân tộc Á Đông. Vì vậy, tòng lâm phải lo sửa soạn dọn dẹp, lau
quét trong ngoài, chưng bông, trái mới, sắm sửa bánh mứt, thức ăn cúng Tổ. Cúng
chư hương linh…
lễ gồm có đón giao thừa, chúc tết, phát lộc Xuân, lễ vía Phật Di Lặc, lễ thù ân,
lễ mừng khánh tuế Phương Trượng v.v… Hòa Thượng ban lời khuyến tấn đại chúng,
phát lộc đầu năm, chúng đảnh lễ Hòa Thượng.
Đặc biệt, trong ngày Mồng Một cử người thỉnh
đại hồng chung suốt ngày và khách thập phương cũng tới chùa lễ bái, cầu nguyện,
ngoạn cảnh, thăm chư tăng, dùng trà, chuyện vãn…
Chứng nghĩa ghi rằng, cúng chư thánh thế
gian như:
Chánh giác thế gian: chư Phật, Bồ Tát, 4
thánh
Hữu tình thế gian: thiên, nhơn, a tu la,
súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, sáu cõi phàm.
Khí thế gian: y báo 3 cõi như đất, nước,
gió, lửa, các loài thần v.v…
ngày nay cúng 4 thánh như Phật Di Đà, Di Lặc, Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm,
Thế Chí, Chuẩn Đề, Địa Tạng và Tổ Đạt Ma, Bách Trượng, Thiên Thai, Hiền Thủ, Nam
Sơn, Viễn Công, cho đến trai đường, ruộng vườn, đất đai…
đều có nói tới nơi quyển 8 ở trước, nên ở đây không ghi
nữa. Phàm trên 4 Thánh không cúng giấy vàng mã, nếu cúng là phạm tội bất kính.
Lục phàm có thể cúng được (nhưng nay ít người dùng). Ngoài ra các thần khác đều
dùng vàng mã. Lưu ý: tốt nhất cúng bánh trái, thức ăn mà không có niệm tụng gì,
đến như cúng cha mẹ, sư trưởng, quỉ thần nên tụng niệm cầu nguyện. Xin đừng có
lạm dụng vậy.
Phụ: các bài tán cần dùng:
Trừ các nghi cúng thông thường ra cũng có thể
tùy nghi xử dụng.
Thiền đường:
Đại Thừa rốt nghĩa thể toàn không
Thấy nghe, giác biết dường hư không
Chỉ dấu bày kim dung
Tinh tấn cần gia công
Buông tay thoát lao lung
Nam mô Tỳ lô giá na Phật.
Điện Quán Âm:
Đức giáo chủ viên thông
Thường ở chốn Lạc già
Tùy duyên ứng hiện không sai
Nhà lửa cứu tà ma
Nhành dương rảy rưới
Một giọt biến sơn hà
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lầu kinh các:
Pháp hội chư Phật ứng khắp đại thiên
Từ bi thương cảm cứu nhân thiên
Nghĩa thánh giáo thâm uyên
Kinh, luật, luận rộng truyền
Hành, hiểu chứng kim tiên
Thuyền duyệt tạng Bồ Tát ma ha tát.
Điện Hoa Nghiêm:
Pháp hội hoa nghiêm
Xá na như lai
Tạng hải liên hoa tọa
hoa đài
Chư Phật hoan hỷ tuyệt
vời
Vạn tượng thông suốt
U ám mở khai hợp thời
Hoa Nghiêm hải hội
Phật Bồ Tát.
Tại giới đàn:
Ngàn hoa trên đài Xá
Na từ tôn
Lui về bản xứ cứu hàm
linh
Tâm địa giới làm nhân
Ngàn ức Phật thân
Khúc hát hòa nắng xuân
Nam mô Lô Xá Na Phật.
Điện Dược Sư
Phật Dược Sư bậc y
vương
Thân đến thủy nguyệt
đàn trường
Lòng thương cứu khổ
giáng cát tường
Khỏi nạn trừ tai
chướng
Con xin sám hối ba
nghiệp tội
Nguyện được phước thọ
mãi miên trường
Sao cao chiếu diệu gội
nhuần ân quang
Mọi điều như ý an
khang
Tiêu tai Diên Thọ Dược
Sư Phật.
Đèn tháp Dược Sư
Tán lễ Mãn Nguyệt thế
giới Đông Phương
Lưu ly cảnh diệu phi
thường
Sáng rực rỡ huy hoàng
Nhân trong thệ nguyện
rõ ràng
Phật Dược Sư phóng tỏa
từ quang
Diệt sạch hết chúng
sanh tai chướng
Ban rải sự cát tường
Hiện giờ đại chúng tán
dương
Phước thọ thật vô
lường
Hiện thời đại chúng
xưng dương
Phước thọ khó nghĩ
lường
Nam mô Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai.
Lầu Đại Bi
Trang nghiêm cứu giúp
đời
Cao vời tâm đại bi
Mắt, tay hiện phép
thông hành thí
Diễn pháp Đà la ni
Chư Phật đồng hoan hỷ
Công đức khó nghĩ
nghì.
Đại bi Quán Thế Âm Bồ
Tát.
Điện La Hán Đông:
Chín trời (cõi) phiền
dứt chứng quả vô sanh
Cúng dường trời người
quả đạt thành
Tích phước ban rãi
điều lành
Hổ phục, rồng hoan
nghinh
Muôn đời mãi thơm danh
A La Hán tôn giả.
Điện La Hán Tây
Phạm hạnh đầy đủ ngộ
lý chơn không
Thiền định du hí phép
thần thông
Chấn hưng nền nếp Phật
gia phong
Người tôn sùng lợi lạc
mãi không cùng
A La Hán tôn giả.
Điện thờ ngài Chí
Công
Điểu sào xưa sử tích
Lương Võ Đế trọng sư
Từng ở Bửu Hoa tướng
uy nghi
Tên núi lấy hiệu Bảo
Công ghi
Truyền pháp giáo hóa
khó nghĩ nghì
Vạn đời sám pháp mãi
còn ghi.
Độ nhơn sư Bồ Tát.
Tổ sư Phổ Am
Phổ Am linh ứng
Đại đức danh xưng
Trời rồng tám bộ tùy
thân
Đất nước thảy hòa bình
Pháp mầu ban rãi khắp
Quả lành mãi đẹp xinh
Độ nhơn sư Bồ Tát.
Trước bàn xuất sanh
Chim đại bàng cánh
vàng
Quỉ dữ mẹ và con
Bỏ ác quy Thế Tôn
Trước thọ giới giữ tâm
Thệ nguyện rộng bền
kiên
Hướng về đồng rộng vô
biên
Sanh thiên giới Bồ tát
ma ha tát.
Tại kho lẫm
Nhân duyên tấn đạo ngũ
cốc trước tiên
(Có thực mới vực được
đạo)
Đàn na không xan tiếc
trừ dứt tham
Kính tin gieo phước
điền
Bố thí vững an nhiên
Cảm ứng đến long thiên
Hộ pháp tạng Bồ Tát ma
ha tát.
Điện Quan Thánh
Trung quân báo quốc ân
Dũng mãnh trượng phu
thần
Ủng hộ Phật pháp diệt
dần tà ma
Giữ gìn an ổn tăng già
Tiến tu đạo nghiệp lợi
tha
Muôn đời ghi nhớ tán
ca bảng vàng
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
Điện Tam Quan
Ba quan đại đế công
đức khó lường
Đài mây đỉnh thượng
phóng luồng hào quang
Ân phước ban cát
tường
Hài tội, trừ tai ương
Cởi trói giữ an khương
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
Điện thiên vương:
Trì quốc, Tăng trưởng,
Quảng Mục, Đa văn
(Bốn vị thiên vương
cai quản 4 châu)
khuôn phò đất nước mãi
hằng an ninh
rừng giáo pháp tạo kim
lăng
Ủng hộ mối giềng tăng
Giúp đạo luôn thường
hằng.
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
Thần giữ sơn môn
Sanh ra trong cõi nhân
hoàn
Chủ gìn cửa nẽo đứng
hàng thần tôn
Hộ trì tăng chúng an
ninh
Nhờ ân Phật đại uy
linh
Trừ tai, diệt họa
thanh bình an vui.
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
Những người ở chung
có cha mẹ sư trưởng hiện tiền
Tòng lâm đất báu, sống
chung lục hòa
Niệm ân cha mẹ cùng là
ân sư
Nương nhờ đức Phật đại
từ
Cần chuyên nỗ lực công
phu
Hưởng pháp bình đẳng
ví như dự phần
Sanh thiên giới Bồ Tát
Thả vật phóng sanh
Sanh thai, đẻ trứng,
ẩm thấp, hóa sanh
Nhiều kiếp trôi nổi
lộn quanh luân trầm
Quy y Tam Bảo phát bồ
đề tâm
Lưới, lồng tù hãm
những mong thoát lìa
Nhởn nhơ dưới nước,
bay bổng trên không
Dứt thọ báo sanh đao
lợi thiên cung
Sanh thiên giới Bồ Tát
ma ha tát.
Chứng nghĩa
ghi rằng, các nhà tín thí cúng dường nhiều ít không giống nhau, song điều cần
yếu tâm thành kính mới là chính. Ở tòng lâm ngày nay, tuy dựa sự cúng dường
nhưng phần nhiều là rau cải trồng, hoặc dùng đồ đông lạnh, không phải thức ăn
liền. Chỉ biết người, việc mà không nghĩ tới vật cúng do tâm sanh. Lễ nghi đơn
giản nên người nhận cần phải biết. Tâm đã không thành thời dâng cúng làm gì cho
thêm vất vả. Cúng dường như vậy là để cho ai kia khi dễ, là trực tiếp đem lễ làm
trò đùa vậy. Nên phải biết lỗi lầm này rất là tai hại, mong khắp những ai giới
đầu tròn cùng tránh theo cách này.
Tháng 2
Ngày mồng một đóng cửa
sơn môn mùa đông. Mồng 8 lễ vía Phật xuất gia, Rằm tháng 2 lễ vía đức Phật Thích
Ca nhập Niết Bàn. Tháng 2 nhằm giữa mùa xuân gọi là trọng xuân. Ngày 19 vía đức
Quán Thế Âm Bồ Tát, ngày 21 vía Bồ Tát Phổ Hiền. Tùy nghi cúng lễ theo nghi
thông thường.
Tháng 3
Tháng 3 gọi là quí
xuân, tháng cuối của mùa xuân, cũng gọi là mạt xuân, vãng xuân, diểu xuân (cuối
xuân).
Ngày 16 vía Bồ Tát
Chuẩn Đề.
Tháng 4
Vào tháng 4 thời tiết
nắng ấm, vì bắt đầu vào hạ, khí hậu mát mẻ, cây cỏ xinh tươi tiếp theo mấy tháng
mùa xuân. Mồng 4 lễ vía Bồ Tát Văn Thù. Mồng 8 đến rằm lễ vía đức Phật Thích Ca
giáng sanh. Từ xưa, lễ cử hành mùng 8 tháng 4, nhưng từ năm 1950 đến nay được
giới Phật giáo thừa nhận chọn ngày Rằm tháng 4 lễ Phật Đản (người dịch chú). Rằm
tháng 4 cũng là lễ khánh đản Bồ Tát Dược Vương. Tháng 4 gọi là mạnh hạ, sơ hạ,
thanh hòa, cũng gọi quỳ nguyệt: vì thứ hoa quỳ nở về mùa hè, hoa vàng nhạt có 5
cánh ở giữa màu tím.
Tháng 5
Tiết Đoan Ngọ cũng gọi
là Đoan Dương, nhân gian tưởng niệm ngày mùng 5 tháng 5. người Hoa hay người
miền Nam Việt Nam thường lên rừng tìm các thứ cây, lá thuốc hái đem về chặt vụn,
phơi khô cho vô bao để dành nấu nước uống (trị bịnh?) (người dịch chú)
- Chứng nghĩa
ghi rằng, trong tông môn không một việc gì, không một tiết nào mà chẳng lấy việc
thuyết pháp làm đề tài cống hiến mọi người. Nay lục lại lời pháp ngữ tiết Đoan
Ngọ làm một tắc để nêu ra những câu khác, như Thiền sư Trạm Nhiên đăng đường nói
rằng:
Mồng 5 tháng 5 tiết
đoan ngọ
Lưỡi trắng sạch, dấu
đào, miệng đỏ
Trị cọp beo lui mãn
đầu rủ
Trỉ vàng, xương bồ,
hòa rượu hủ
Say mềm chẵng biết
tháng ngày qua
Ngàn tinh trăm quái
đều đuổi sạch
Ai hay ma tới hay Phật
đà
Quyết lòng nắm chốt
cổng thiền na.
Như thế đại chúng làm
sao mà không thấy được đạo. Bảo vệ sanh mạng phải nên sát, sát hết mới an ổn.
Nên biết rõ đạo lý sát đưa tới giờ tốt này, lấy lá ngãi làm cờ, lấy xương bồ làm
kiếm, lấy tâm làm bén nhọn. Đãm tiết anh hùng không quản ngại đắc thất, thánh
phàm, chân vọng; cho chí tham sân si, ái, hết thảy giặc phiền não để vung lên
một lưỡi dao hai nhát đạt thẳng tới thân tịnh. Rưới rưới đỏ, viên đà đà, trôi
trôi chảy tạo đại trượng phu thế gian, xuất thế gian. Anh em còn có nghĩa gì?
đạt được sự thật gì? Địa gì? Nếu không đạt địa gì, sơn tăng có cái bùa hộ thân
đem vứt đi. Niêm Trụ trượng nói rằng, xem rõ thái thượng lão quân, gấp gấp như
sắc lệnh. Tháng 5 làm ngọ cúng dê đực cũng gọi là sanh tân hoặc tiết trung thiên
hay tu nguyệt còn gọi là bồ nguyệt, ngãi nguyệt, lưu nguyệt v.v…
Tháng 6
Tháng 6 gọi là quí hạ
- cuối mùa hạ - khí trời oi bức, cũng gọi là lâm chung, thả nguyệt, hà nguyệt
v.v… Ngày 19 tháng 6 lễ vía Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tháng 7
Tháng 7 gọi là mạnh
thu - đầu mùa thu - có nhiều lễ tiết quan trọng. Tháng của chay tịnh đối với
người muốn ăn chay báo hiếu chọn thời gian này.
Ngày 13 vía đức Bồ Tát
Đại Thế Chí
Ngày 15 lễ Vu Lan
Thắng Hội hay Vu Lan Bồn
Ngày 16 lễ Tự Tứ hay
giải hạ của Tăng Ni các tòng lâm, tự viện tại nhiều nơi.
Ngày lễ Vu Lan được
xem là đại lễ - ngày báo hiếu nên rất quan trọng đối với hầu hết các nước Á
Đông. Đặc biệt dịp lễ này cúng cho người quá cố và đồng thời cũng cúng cho người
còn sống, cầu an lạc và sống thọ; cũng như cầu siêu độ.
Ngày 24 Lễ kỷ niệm Bồ
Tát Long Thọ
Ngày 30 Lễ vía Bồ Tát
Địa Tạng.
Có những danh từ gọi
tháng 7 như: mạnh thu, di tắc, tương nguyệt, xảo nguyệt v.v…
Tháng 8
Tháng 8 gọi là trọng
thu - giữa mùa thu - thời tiết mát dịu êm đềm, lá vàng rơi rụng lác đác đầy sân
vườn, đường sá. Cảnh trí tiêu sơ, buồn ảm đạm, cũng gọi là thanh thu, tráng
nguyệt, quế nguyệt v.v…
Ngày 15 lễ trung thu
hay còn gọi là tết nhi đồng.
Ngày 22 lễ vía cổ Phật
Nhiên Đăng.
Tháng 9
Tháng 9 gọi là Trùng
dương, quí thu, mộ thu, thâm thu, diểu thu, nguyên nguyệt, cúc nguyệt v.v…
Ngày 19 Lễ vía Quán Âm
Bồ Tát
Ngày 30 Lễ vía Đức
Phật Dược Sư.
Các đại tòng lâm, tu
viện thướng có tự điền làm hoa lợi để nuôi tăng chúng, điều hành Phật sự. Đất
canh tác cho tá điền thuê mướn, chùa chỉ chia được 1/3 hoa lợi mà thôi. Dù vậy,
tiết thu là mùa lúa chín chùa phải cử người tới ruộng lúa trông coi thợ gặt, hầu
tránh sự thất thoát, lạm dụng của Tam Bảo. Thu hoạch lúa xong đem về trình
Phương Trượng duyệt qua rồi nhập vào kho.
Tháng 10
Tháng 10 gọi là mạnh
đông - đầu mùa đông - mưa gió, bão lụt
thường xảy ra vào mùa này.
Rằm tháng mười, dân
gian gọi là lễ hạ nguơn, nên có câu rằng: rằm tháng mười, mười người mười quảy,
rằm tháng 7 kẻ quảy người không, rằm tháng giêng, ai siêng thì quảy.
Tháng 11
Tiết đông chí, còn gọi
là trọng đông - giữa mùa đông - hay còn gọi hoàng chung, cô nguyệt, chí nguyệt
v.v… ngày 17 kỷ niệm lễ vía đức Phật A Di Đà. Người tu pháp môn Tịnh Độ thường
tổ chức mừng lễ vía Ngài rất long trọng, có nơi tổ chức tu Phật thất, có nơi
thiết đặt lễ đài trang nghiêm với cảnh giới Cực Lạc như Kinh A Di Đà diễn tả.
Phóng sanh, phóng đăng, bố thí, chẩn tế cô hồn, bạt độ các âm linh v.v…
Tháng 12
Tháng 12 gọi là quí
đông … cuối mùa đông… tiết trời khá lạnh.
Ngày mùng 8 lễ vía đức
Phật Thích Ca thành đạo.
Ngày 29 lễ vía Bồ Tát
Hoa nghiêm.
Từ 23 đến ngày 30 là
thời điểm rất bận rộn, lo quét tước, sơn sửa lại, dọn dẹp sạch sẽ trong ngoài để
đón giao thừa. Lễ đón giao thừa vào đêm 29 tháng 12 (nếu tháng thiếu) hoặc 30
tháng 12. Ngày cuối năm rất quan trọng, có những khóa lễ như: cúng ngọ, cúng chư
hương linh thờ tại chùa, tối có lễ sám hối hồng danh chư Phật, khuya có lễ đón
tân niên, lễ cầu nguyện quốc gia thái bình, nhân dân an cư lạc nghiệp, chúc Tết,
lộc Xuân v.v…
- Chứng nghĩa
ghi rằng: cổ nhân cho đêm trừ tịch là tử nhựt, vì một năm đã hết, cũng như một
đời chấm dứt. Thiền Sư Hoàng Bá nói rằng, nếu những việc gì dự định trước làm
chưa xong, đến ngày 30 tháng chạp cũng đủ làm cho ta rối lên. Song ngày Mồng Một
tháng giêng theo lẽ là tiếp nối đêm trừ tịch (ngày 30) không phải là mới. Trước
hết, phải biết người, biết việc, thời liền hội lý với tử nhựt không phải là mới
mà là thấm thoát, dằng dặc rộn dâng. Không biết tuổi thiếu niên rồi tráng niên,
tráng rồi lão, lão rồi chết. Huống chi còn có những sự bất cập từ tráng tới lão,
há chẳng buồn thay! Cho nên sắp đến đêm trừ tịch là báo hiệu vô thường để luôn
luôn cảnh giác, tự nguyện tự hứa là không thể dựa cũ mà buông thỏng cho qua đi.
Làm một việc nào cho thấu triệt (xong) việc đó, không thể lơ là xem rồi bỏ qua
được. Không phải giải được thông một ít kinh luận mà cho là hoàn bị đâu; không
phải ngồi tọa hương một vài lần không động không dao mà cho là triệt ngộ được.
Không phải giải được vài công án của cổ đức về việc vấn đáp, hiểu ít câu thoại
đầu, niêm cổ mà tự cho là thấu triệt. Không phải đối đáp đôi câu thiền thoại hời
hợt mà cho là hiểu hết được. Cổ nhơn gọi việc này là động nhiên như đáy thùng
lủng, hoát nhiên như cơn mộng tĩnh lại, không còn một tơ tóc nào còn có chỗ nghi
mới có phần ứng hợp. Như có một vị tăng thường ở miếu thần, ngủ trong lò đốt
giấy, có một vị tăng khác ẩn núp trong lò giấy đợi người kia tới ở, lại ngăn
đuổi không cho ở lại. Liền hỏi rằng: ý Tổ sư từ Tây lại là gì?
- Đáp: trước thần là
bàn rượu.
Lại có vị tăng nhơn tự
cho là đắc ngộ, cùng đi với sa di đến chỗ mé nước bỗng té ngã dưới nước, gấp hỏi
Ngưu Đầu lúc chưa gặp Tứ Tổ thời như thế nào?
- Tăng đáp: xoạt chân
để chân thẳng.
Bên trong dường như
hai vị tăng này có thể nói là dự biết trước, đã thấu rõ thời 7 tình, 8 gió,
thấu triệt tới trăm nghìn hô đâu ứng đó… đưa tay giở chân đều không sai thời.
Phát ra lời nào đều có qui ước như thế, tự tại như thế. Như lúc rãnh rỗi dùng ý
thức xem rộng biết độ đáp cơ tác tụng, không phải thản nhiên mà quán sát được.
Bịnh đến nghĩ tới vô thường, cũng giống như đêm trừ tịch tới vậy. Người thật bận
rộn, tay quay tít một cảnh đời bi đát, há không tiếc thay! Mong rằng chúng ta
nên lấy đây để cảnh tỉnh mới thấu rõ tám khổ giao xen nhau hoàn toàn không ngăn
được, hoặc chưa được như vậy cũng khó tránh sự hiểu lầm. Xưa kia Ngài Thiên Thai
Trí Giả đại sư đắc Pháp Hoa tam muội tọa thiền nơi Hoa đảnh, bổng trong đêm sâu
có gió lớn sấm chớp, quỉ mị bao vây hình dạng rất đáng sợ. Ngài an tâm ngồi yên
tự nhiên mà chúng thoái lui; rồi lại hiện hình cha mẹ, sư tăng kêu gào than
khóc. Ngài niệm sâu thật tướng tìm cách làm tiêu mất những hiện tượng ấy. Đến
lúc Ngài sắp tịch diệt đệ tử hỏi: không rõ Thầy đạt quả vị gì? Chết đây sanh về
đâu?
- Ngài đáp: ta không
lãnh đạo chúng hẳn 6 căn vì người mà giảm, chỉ đạt năm phẩm vị thôi. Ngài còn
khuyên Duy Na rằng, mạng ta sắp chấm dứt, nghe tiếng chuông khánh nên gia tăng
chánh niệm, càng lâu càng tốt. Hơi thở dứt là một đời qua, khóc than, tang phục
đều không hợp với ngôn ngữ. Chết như nhập thiền định. Ôi, đại sư Trí Giả còn nói
là tha tổn, huống gì chúng ta ư? Đâu chẳng tự cảnh tỉnh chứ?
Tháng 12 còn gọi là
diểu đông, lạp nguyệt (tháng chạp), thái cung, trừ nguyệt v.v…
Hết
quyển 8
--- o0o ---
Mục Lục >>
01 >>
02 >>
03 >>
04 >>
05 >>
06 >>
07 >> 08 >>
09
--- o0o ---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật 07-2008