1. Chương hai: Báo
Ân
Lời thuật rằng, lễ trọng ở cúng tế; do vậy báo đền ân
đức là một trong các ân.
Ân tổ quốc là trọng, những mong triều đình thịnh đạt
biết trọng Phật, hộ trì chư tăng vì cái thể của sự thương xót cao tột mà
các bậc thánh kế thừa. Thoảng hoặc lúc nhàn hàng Thích tử hâm mộ theo
tôn dung các Ngài! Do vậy mới lập ra quy tắc quốc khánh, cho chí chư
thiên có ân hộ trì giáo pháp trong đó có nghi Tề Thiên. Mặt trời, mặt
trăng có ơn chiếu sáng nên có nghi bảo vệ nhứt nguyện; ân đàn việt tín
thí có cầu nắng cầu mưa nên có nghi trừ sâu bọ v.v.. Những việc trên đây
đều nhằm báo ân vậy. Ngoài ra có người cầu ân thì theo nghi cầu chúc Vi
Đà, dùng thiên tôn hiện thân trời mà ủng hộ Phật pháp, nguyện lực rộng
sâu, có cảm liền ứng nên có bài tán rằng:
Vi Đà thiên tướng quân
Hộ pháp nhuận hồng ân
Thấy ma phá khuấy tỳ kheo
Xót thương xông tới bên
Hợp thời dứt trừ ngay.
Hộ pháp Vi Đà tôn thiên Bồ Tát.
Cho nên gọi rằng khéo hiện hình tướng thiên tôn mà
gia tâm hộ pháp đó.
Nay ở tòng lâm thường lúc gặp tai nạn hay cầu hộ pháp
Vi Đà, không phải cầu sự linh ứng. Biết cầu ban ân cũng tự biết báo ân.
Cho nên dành một chương báo ân riêng. Thần Táo lấy việc ăn uống của số
đông làm chỗ nương dựa, vốn là một trong 5 lễ kỵ nên sẽ đề cập ở cuối
quyển.
Ngày lễ Phật chung cả nước
1.1 Lễ kỵ bậc tiên
Thánh
Vân tập tăng chúng lên Phật điện, niệm hương đảnh lễ,
tán Phật, tụng Thủ Lăng Nghiêm thần chú, Đại Bi, thập chú, Kinh Bát Nhã,
Thượng Lai…niệm Phật, hồi hướng, phục nguyện:
Thiền môn nghiêm tịnh,
Bốn chúng an hòa,
Phật nhựt sáng soi,
Pháp luân thường chuyển.
Hôm nay ngày…tháng... năm…(tên) Hoàng Đế Thánh vị,
đại chúng cung tựu đại điện trước Phật trần thiết hương hoa quả phẩm,
đèn nến đủ diên kỳ nguyện dân an nước thịnh, đời trị thái bình, cùng hết
thảy chúng sinh đều thành Phật đạo.
Sáng hôm lễ húy kỵ, tăng chúng vân tập chánh điện,
thầy Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư, đảnh lễ Tam Bảo, tán lư
hương, tụng Kinh Kim Cang xong, châm trà cúng, tụng Bát Nhã, sám nguyện,
hồi hướng, phục nguyện..
Hôm nay…(như trên)… phục nguyện:
Thức thần rong chơi tám hướng, cởi xe mây ngựa gió
tới đây chứng minh trong ngôi vị trời, thọ điện ngọc, lầu son vui thỏa
thích; mười phương ba đời hết thảy chư Phật chứng minh gia hộ cho…Hoàng
Đế, cùng quốc dân đồng bào và nhân dân trên thế giới được thân tâm an
lạc, thọ mạng kéo dài, cùng Phật pháp mãi trường tồn, chúng sanh đều
trọn thành Phật đạo…
1.2 Cúng Chư Thiên
Phàm pháp cúng chư Thiên, dự định ngày. Thầy Tri
Khách lo chuẩn bị trần thiết pháp đàn, nhờ hương đăng quét dọn sạch sẽ
và trang hoàng tràng phan, cờ phướn, lọng… cho thật trang nghiêm đầy đủ.
Giữa chánh điện thiết trí tòa cao tôn trí Tam Bảo, kế đó hai bên đặt bàn
hương án, trên bàn sắp đồ cúng, hiến cúng đèn quang minh theo hầu chư
thiên; và các vị thần linh 3 cõi gồm 46 bài vị trên bàn cũng bày hương
hoa, trà quả, đèn đuốc v.v.. Kế ở dưới bậc thấp hơn đặt bài vị thiên
tiên sắp đồ cúng giống nhau. Như cúng cơm rau, mì, thức ăn…đều phải đầy
đặn đúng pháp; ắt không nên dùng sanh vật, không thể đồ ăn nguội nhạt,
ngược lại rước lấy lỗi thiếu cung kính. Sắm sửa các thứ sẵn trước một
ngày. Trước giờ đi ngủ, vị Tri Khách gióng 3 hồi trống để thông báo giữa
chúng buổi lễ sáng hôm sau, và cắt đặt, đề cử các phần vụ xong xuôi, đại
chúng chỉ tịnh.
Sáng sớm thức dậy, thúc hiệu lệnh, chư tăng vân tập
chánh điện. Đảnh lễ Tam Bảo, khai chung bảng, niệm hương, cử tán… (như
nghi trên, chỉ thêm phần tán cuối):
Trên cao thần hộ pháp soi sáng,
Trời, trăng, sao tỏ rạng nhân gian,
Giữ đất nước an khang,
Lòng, thành dâng hiến cúng ,
Phước thọ vững bình an.
Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
(Nghi lược bớt, tham khảo thêm cuốn Thiền Môn Nhựt
Tụng).Chỉ 49 tôn hiệu Phật phải viết như dưới đây:
Pháp đàn thiết lập đàn tràng:
Chính giữa: trung thiên giáo chủ: Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Văn Phật, Đông Phương A Súc Phật, Nam Phương Bảo Tướng Phật, Tây
Phương Vô Lượng Thọ Phật, Bắc Phương Vi Diệu Thanh Phật, Bảo Hoa Công
Đức Hải, Lưu Ly Kim Sơn.
Chư Phật quá khứ: Chiếu Minh Bảo Thắng Phật, Vô Cấu
Xí Bảo Quang Minh Vương Tướng Phật, Kim Diệm Quang Minh Phật, Kim Bách
Quang Minh Chiếu Tàng Phật, Kim Sơn Bảo Cái Phật, Kim Hoa Diệm Quang
Tướng Phật, Đại Cự Bảo Tướng Phật (14 vị Phật viết chung 1 tấm).
Đàn nội ở trên bên trong treo phía trái:
Nam Mô Kim Quang Minh hải vi diệu pháp cự tối Thắng
Kinh Vương.
Ở trên bên phải:
Nam Mô Quang Minh hội thượng chư đại Bồ Tát, Tín
Tướng Bồ Tát, Kim Quang Minh Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát, Thường Bi Bồ Tát,
Pháp Thượng Bồ Tát…(6 vị Bồ Tát này viết chung 1 tấm). Ta Bà giáo chủ
hiệu lịnh độc tôn Đại Phạm Thiên Vương và các quyến thuộc vị ấy. (Để bên
trái ở dưới vị thứ nhất)
Bên trái vị thứ 1: Địa cư thế chủ Đao Lợi Trung Vương
- Đế Thích tôn thiên.
Bên trái vị thứ 2: Đông Phương hộ thế càng đạt Bà Chủ
- Trì Quốc Thiên Vương.
Bên trái vị thứ 3: Nam Phương hộ thế: Cưu Bàn Trà Chủ
tăng trưởng Thiên Vương.
Bên trái vị thứ 4: Tây Phương hộ thế: Đại Long Vương
Vương - Quảng Mục Thiên Vương.
Bên trái vị thứ 5: Bắc Phương hộ thế - Đại Dược Xoa
Chủ: Đa Văn Thiên Vương.
Bên trái vị thứ 6: Thân phục oán ma thệ vị lực sĩ –
Kim Cang Mật Tích Tôn Thiên
Bên trái vị thứ 7: Đặc tôn chi chủ cư sắc đảnh thiên
– Ma Hê Thủ La tôn thiên.
Bên trái vị thứ 8: Nhị thập bát bộ thống lãnh quỉ
thần tán chỉ đại tướng tôn thiên.
Bên trái vị thứ 9: Năng dữ tổng trì đại trí huệ tụ -
Đại Biện Tài tôn thiên.
Bên trái vị thứ 10: Tùy kỳ sở cầu linh đắc thành tựu
- Đại Công Đức tôn thiên.
Vị 11 bên trái: Ân ưu tứ bộ ngoại hộ tam châu – Vi Đà
Thiên Tướng tôn thiên.
Vị 12 bên trái: Tăng trưởng xuất sanh, chứng minh
công đức – Kiên Lao Địa Thần tôn thiên.
Vị 13 bên trái: Giác trường thùy ấm nhân quả: Hổ
Nghiêm Bồ Đề Thọ Thần tôn thiên.
Vị 14 bên trái: Sanh chư quỉ vương bảo hộ nam nữ -
quỉ tử mẫu thần tôn thiên.
Vị 15 bên trái: Hành nhựt nguyệt tiền, cứu binh phạt
nạn – Ma Lợi Phộc tôn thiên.
Vị 16 bên trái: Bách minh lợi sanh thiên quang phá ám
- nhựt cung Thái Dương tôn thiên.
Vị 17 bên trái: Tinh chư tú vương thanh lương chiếu
dạ nguyệt cung Thái Âm tôn thiên.
Vị 18 bên trái: Bí tạng pháp bảo chủ chấp quần long –
Ta Kiệt La Vương tôn thiên.
Vị 19 bên trái: Chưởng u minh quyền, vi địa ngục chủ
- Diệm Ma La tôn thiên.
Vị 20 bên trái: Ngũ nhạc cư đông Thái sơn phủ quận –
Thiên Tề Nhân Nguyên tôn thần.
Vị 21 bên trái: Thiết Vi lưỡng sơn thập bát ngục chủ
- thập điện minh vương tôn thần.
Vị 22 bên trái: Không thần, địa thần, trú thần, dạ
thần; nhứt thiết hộ thân chư thần đẳng chúng.
Vị 23 bên trái: Vô sắc tứ không, phi phi tưởng xứ, vô
sở hữu xứ, thức xứ, không xứ chư đại thiên vương.
Bên phải vị thứ 1: Sắc giới tứ thiền, Ngũ Na Hàm
Thiên, Sắc cứu cánh, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Vô Nhiệt, Vô Phiền chư đại
thiên vương.
Bên phải vị thứ 2: Sắc giới tứ thiền, ngoại đạo sở cư
– vô tưởng thiên vương.
Bên phải vị thứ 3: Sắc giới tứ thiền cư phàm phu vị -
Quảng Quả, Phước Sanh, Vô Văn Thiên thượng, chư đại thiên vương.
Bên phải vị thứ 4: Sắc giới tam thiền: Biến Tịnh, Vô
Lượng Tịnh, Thiểu Tịnh chư đại thiên vương.
Bên phải vị thứ 5: Sắc giới nhị thiền: Quang Âm, Vô
Lượng Quang, Thiểu Quang, chư đại thiên vương.
Bên phải vị thứ 6: Sắc giới sơ thiền thiên vương Đại
Phạm thứ cập Phạm Phụ, Phạm Chúng chư vị thiên vương.
Bên phải vị thứ 7: Dục giới chi gian thị vi Ba Tuần,
ngũ đế đại ma, cập chư ma thiên.
Bên phải vị thứ 8: Dục giới ở đảnh Tha Hóa, Đại Tự
Tại thiên vương.
Bên phải vị thứ 9: Dục giới hàng thứ, hằng Thọ Hóa
Lạc Tự Tại Thiên Vương.
Bên phải vị thứ 10: Dục giới ở giữa, Đẩu Suất Đà
Thiên-Tri Túc Thiên Vương.
Bên phải vị thứ 11: Dục giới không cư - Dạ Ma Thiên
Vương.
Bên phải vị thứ 12: Ở Tu Di đảnh bốn phương mỗi
phương bốn vị: tam thập nhị đại thiên vương.
Bên phải vị thứ 13: Ở Tu Di xéo tứ phương tứ bộ chư
Thiên Thiên Tử.
Bên phải vị thứ 14: nhơn bổn không cư ứng thế kiết
hung chư tinh tú thiên.
Bên phải vị thứ 15: Tu Di sơn hạ như thứ tam cấp
Thường Kiều Thiên, Trì Man Thiên, Kiên Thủ Thiên, Chư Thiên Thiên Tử.
Bên phải vị thứ 16: Quang Minh hội thượng tích thị
bát bộ Khẩn Na La Vương, Ca Lâu La Vương, Ma Hầu La Già Vương v.v.. nhứt
thiết thần vương.
Bên phải vị thứ 17: Quang Minh hội thượng, tích
chưởng khí giới, Ni Liên hà thần, chư vũ đại thần, đại ẩm thực thần,
phong thủy chư thần, hỏa thần hết thảy chư thần.
Bên phải vị thứ 18: đông tây lưỡng độ, thập bát già
lam, bổn tự già lam, hộ pháp thánh chúng.
Bên phải vị thứ 19: thiên can địa chi lục thập thái
tuế, thập nhị cung thần, chư đại tinh quân.
Bên phải vị thứ 20: trị niên thái tuế, bổn mạng cung
tào, nghiệp đạo minh quan, nhứt thiết tinh quân.
Bên phải vị thứ 21: ở tỉnh, tỉnh chủ, phủ, phủ chủ,
huyện người đứng đầu thành hoàng tôn thần.
Bên phải vị thứ 22: đương sơn thổ địa chánh thần, thổ
địa phường nào…. Chánh thần (nơi trai chủ ở).
Có 22 thần thổ địa như trên.
Phàm nghi cúng chư thiên như trong cuốn Thiền Môn
Nhựt Tụng, theo nghi thông thường. Đây chỉ ghi lòng sớ như sau:
Ngưỡng nguyện:
Trên hội Linh Sơn, thọ âm di chúc của Phật, đến đạo
tràng xứ Ma Kiệt Đà chứng minh vua trong đời phẩm Diệu Nghiêm chúng sanh
nương tựa; ba cõi trên cao mong giáng lâm thương tình chứng giám. Nay ở
Châu Nam Thiệm bộ trong 4 châu thiên hạ, tại nước, tỉnh, phủ, huyện,
phố…ở tại địa chỉ… chùa, phụng Phật sửa soạn thiết trai cúng chư thiên,
để cầu việc gì… tín chủ (tên) hôm nay cúi đầu dâng hương bày tỏ lòng
thành, mong phóng hào quang soi tỏ, Thích Ca Văn Phật trên hội Kim Quang
chư Phật, Bồ Tát, trời rồng 8 bộ chúng, các Thánh hiền dùng quyền thật,
ngồi tòa sen vàng, mong thông thấu lời bày tỏ.
Lại nguyện vì việc gì… (nói rõ tâm nguyện). Hôm nay
ngày…tháng…năm chọn sắm mấy thức chay thanh nhẹ dâng cúng, quyền cao của
thiên chủ, mong rủ thiên ân dung thọ tấc lòng thành dâng cúng. Lại
ngưỡng mong: Phật đoái lòng thương, đức Trời trãi rộng theo chỗ cầu mà
ban ân, là tỏ sự cảm ứng như tiếng vang, lòng người khắc cốt. Trời nghe
lời tâu này mà hiển hiện thần thông dùng pháp Phật cảm hóa.
Mong hồng ân Tam Bảo, chư thiên chóng rủ ân từ, chiếu
soi gia hộ cho chúng con được gội nhuần lợi lạc.
Ngày… tháng… năm (tên người) xin chí thành dâng sớ.
Chứng nghĩa
ghi rằng, Kinh
Kim Quang Minh có 3 bản dịch khác nhau như: 1. Đàn Vô Sấm đời Bắc Lương
dịch 4 quyển, là sách lưu hành hiện nay. 2. Hai ngài Bửu Quí đời Tùy và
Chí Đức (người Thiên Trúc) dịch chung 8 quyển. 3. Nghĩa Tịnh đời Đường
dịch 10 quyển văn từ lưu loát gọi là Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương.
Cúng chư thiên nay chỉ dùng bản dịch thời Bắc Tống,
cúng 20 vị trời, lược quá nhiều. Đây có 49 vị bèn dùng ba bản dịch
chính, muốn đầy đủ xem Thanh Quy xưa, hẳn rõ ràng tường tận hơn.
Nay trích dẫn Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương
quyển 8, phẩm Đại biện tài thiên nữ về một đoạn bài kệ để chứng minh cổ
Thanh Quy. Kinh ghi rằng, nay con xin triệu thỉnh: chúng Thanh Văn của
Phật, mong chóng đến đây gia hộ cho tâm cầu của con được thành tựu. Chỗ
mong cầu là lời chân thật, tất cả mong rằng không gian dối. Trên từ trời
Sắc cứu cánh và trời Tịnh Cư thiên, Đại Phạm và trời Phạm Phụ, hết thảy
chúng Phạm Vương cho đến các trời khắp trong 3000 cõi, chủ cõi Tố Ha và
các quyến thuộc của họ. Con nay xin triệu thỉnh mong mỏi được đức từ bi
thương tưởng cùng gia hộ. Trời Tha Hóa Tự Tại và trời Hóa Lạc cho thấy
các chúng trời; đức Di Lặc sắp thành Phật, các chúng trời Dạ Ma và 33
trời, trời Tứ Thiên Vương, hết thảy chư thiên, các vị thần đất, nước,
gió, lửa nương ở núi Diệu Cao, 3 thần nơi 7 biển cùng với hàng quyến
thuộc, thần tài và thần ngũ đảnh, trời, trăng và các sao cùng hết thảy
thiên chúng, làm cho thế gian an ổn; ở đây đang chờ mong các vị thiên
thần… Chẳng ham tạo nghiệp tội; kính lễ quỉ la sát mẹ và con yêu dấu,
trời rồng, dược xoa, càng thát bà, A Tu La, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già
v.v... con dùng thần lực Thế Tôn kính xin triệu thỉnh…Y cứ Kinh văn này
tức là dựa theo cổ Thanh Quy đầy đủ mới có thể cảm thông được. Các bậc
hiền sau này cần nên lưu tâm hơn.
1.3 Mặt trời
mặt trăng bị che mờ
Gặp hôm nhựt thực, hay nguyệt thực, trổi hiệu lệnh
cho chư tăng biết vân tập lên chánh điện làm lễ cầu nguyện.
Niệm hương.. hôm nay ngày… tháng…năm… đến giờ đặt bàn
về hướng mặt trời (hay mặt trăng) vái cúng.
Đảnh lễ Tam Bảo, tán Phật, nam mô thập phương thường
trú Tam Bảo (3 lần) và tiếp đọc:
Nam Mô Nhựt Quang biến chiếu Bồ Tát.
(nếu nguyệt thực đọc là
Nguyệt Quang,
ánh quang trở lại tròn đầy).
Đọc
Tâm Kinh Bát Nhã,
kế đọc biến thực, cam lồ chân ngôn v.v... Tiếp đọc sớ hộ mặt trời như
sau:
Sớ rằng: hôm nay ngày nhựt thực, ngày ngũ Kỵ hay ngày
giáng họa, ra oai tác quái sáu cách, nên kêu gọi dân chúng cứu hộ; mong
nương Phật lực cần cầu. Do vậy, nay vân tập chúng tăng xin phát tâm
thành cùng niệm thánh hiệu Đông phương thế giới Lưu Ly Nhựt Quang Biến
Chiếu Bồ Tát cùng trải ra cứu hộ, mong mặt trời sáng trong chóng ban cho
ánh sáng trở lại.
Lại nguyện: năm sắc mở tung hoàng đạo soi sáng khắp
quần âm cho tiêu mất mà đức dương hưng thạnh trở lại hôm nay. Đọc sớ
xong tán bài Nhựt quang:
Tròn sáng giăng giăng,
Thánh đức khó lường,
Vạn tượng ấn trời thay thiên chương,
Cõi nước được ân hưởng,
Soi rọi khắp âm dương,
Chúc mừng đại luân vương.
Nam Mô Nhựt Cung Thái Dương Tôn Thiên Bồ Tát.
Nguyệt thực: hướng về mặt trăng đọc sớ rằng:Trăng
chiếu sáng cõi âm làm chủ đêm, nương chỗ chiếu soi bầu trời tỏ rõ chốn
nhân gian đang bị nuốt trững, do kiên nể sợ để cầu, để khẩn xin. Do vậy,
hôm nay vân tập chúng tăng xin phát lòng thành cùng niệm thánh hiệu Bồ
Tát Nguyệt Quang biến chiếu ở đông phương thế giới Lưu Ly, dùng trải ra
cứu hộ, mong mỏi mặt trăng tỏ chóng phát ra ánh sáng mát dịu.
Lại nguyện: khí yêu biệt tích, một vầng sáng rỡ đại
địa sơn hà, mặt trăng trường cửu, vạn tượng nhập vào cung Quảng Hàn.
Tán:
Hương bay phảng phất
Gương báu tròn đầy
Bông Ngân lạnh mát
Sao rải xung quanh
Ánh trăng trãi rộng
Nơi khuất càng thanh
Kính lễ nguyệt thực
Trời người lợi lành.
Nam Mô Nguyệt Cung Thái Âm Tôn Thiên Bồ Tát
(3 lần).
Chứng nghĩa
giải rằng, đây là báo ân mặt trời, mặt trăng sáng chiếu. Sở dĩ nói
“thực”, vì mặt trời mặt trăng chồng khít nhau, mặt trời án khuất mặt
trăng là nhựt thực, ngày đêm đều xa; mặt trăng che mặt trời là nguyệt
thực, cũng gọi là bạc thực, vì hắc khí vây chung quanh một lớp mỏng. Mặt
trời, mặt trăng vàng đỏ không có ánh sáng như có hiện tượng bức bách của
vật, hình sắc thiếu khuyết là thực. Mặt trời mặt trăng thiếu khuyết bị
lấn xâm như trùng ăn lá, nhưng đây là ăn một lớp mỏng, cũng là một trong
bảy nạn. Con người và vạn vật đều thọ ân trời đất soi sáng nên cần phải
bảo vệ. Bảo vệ như sau đây nếu kẻ sĩ, dân giả mỗi người hết lòng thành
đoái tưởng tới ý trời. Cũng có thể nói: bảo hộ trời trăng cõi này.
Tại sao niệm
danh hiệu Bồ Tát Đông Phương?
Đáp: Vì danh nghĩa phù hợp, xưng hồng danh vị Bồ Tát
ấy tới cứu mặt trời mặt trăng. Vả lại, Phật pháp rộng sâu, lòng trời hợp
thuận xưng hiệu ấy rất thích nghi vậy. Tóm kết: tuy xưng Nhựt Cung,
Nguyệt Cung nhưng theo gốc xưng danh. Nếu dựa lý để nói thì nhựt là thật
vậy; thường đích thực nên đem thật trí soi sáng lý chân như, khiến chúng
sanh diệt hết mọi mê lầm vào Niết Bàn an lạc. Tạm thời không biết giống
như người chết, nên phải giữ gìn hộ vệ. Mặt trăng khuyết có lúc đầy lúc
vơi, đem quyền trí soi sáng việc thế tục để trừ dứt hết thảy phiền não
của chúng sanh, khiến thảnh thơi trong biển thanh lương. Một niệm chấp
vướng là rơi hầm sụp hố nên cần phải che chở bảo vệ. Nếu như nguyệt thực
buổi chiều không cần phải cúng ngọ, vì chư thiên dùng buổi sáng, không
thọ cúng sau giờ ngọ, nhưng dùng trà tốt, hương đèn cúng là được.
1.4 Phụ: Tết Trung Thu
Rằm tháng 8 âm lịch sau khi dùng cháo buổi chiều
xong, đại chúng vân tập chánh điện cúng rằm Trung Thu. Lễ phẩm đơn giản
gồm hương hoa, trà quả, đèn bánh.
(Nghi tiết xem trước…) Tán:
Mây tạnh trời quang sương đáng yêu
Nõn nà không vết thể tự viên
Một vầng trăng tỏ tỏa vô biên
Sáng soi khắp cùng cõi đại thiên!
Nam Mô Nguyệt Cung Thái Âm Tôn Thiên Bồ Tát
(3 lần).
Tụng Bát Nhã, niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục
nguyện, tự quy… lễ xong lui về hậu liêu, sau khi nghe hiệu lệnh tất cả
tập trung trai đường, uống trà, dùng bánh Trung Thu, văn nghệ v.v…
Chứng nghĩa
ghi rằng: Tết Trung Thu tương truyền là ngày Nguyệt đản nên người đời
đều làm lễ kỷ niệm. Dựa theo Phật Giáo mà luận, như cúng kỷ niệm trăng
nên cúng trước giờ ngọ, vì mặt trăng giống trời bởi chư thiên không thọ
cúng sau giờ ngọ. Vì theo Thanh Quy chỉ thiết lễ cúng gồm hoa hương, trà
quả, đèn bánh mà thôi. Không dâng cúng thức ăn vậy. Từ đó trở đi tòng
lâm cúng trăng giống người thế, lẫn lộn đã lâu đời. Thậm chí có người
gọi lễ Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát hoặc xưng là lễ Giải Thoát Nguyệt
Bồ Tát.
Giá như có cúng nên dùng chay tịnh theo nghi cúng
Phật. Đáng trách là mắc lầm lỗi, người ngu không nên lấy bậy truyền bậy;
các bậc cao minh thức giả cần phải đính chánh lại. Như cho rằng, trời
trăng vận hành là cái đức không hai, xưa nay chỉ cúng trăng mà chưa ai
cúng mặt trời, tại sao vậy?
Trả lời: việc này tùy theo lễ tục, người đời chưa
từng cúng mặt trời bao giờ. Ngoài ra, mặt trăng ở trong âm u tăm tối tỏa
chiếu ánh sáng mà vạn vật được hấp thụ từ chỗ mát mẻ đó. Luận về công
mặt trời vào hàng thứ hai; bàn về đức đại bộ gần với đạo Phật chúng ta
linh chiếu tự như; che lấp không làm hại ánh sáng, huống chi sức sáng.
Bóng hiện trong nước lớn nhỏ dọi không khác, huống gì công năng. Dung
nạp ánh sáng ắt soi tỏ cần gì đầy. Trong sạch tự thuận cần gì vắng lặng.
Nơi bẩn nhơ mà không nhiễm cần gì trong trắng. Xoay vần mãi không dừng
là vận cần gì hằng hữu, đầy vơi không sai trật giờ cần gì tin. Sáng soi
vạn vật mà không lưu tâm cần gì hư không. Sao ban đêm tự độc chiếu cần
gì đốt cháy, phong kín tất cả trước mắt cần gì khắp nơi. Nếu như nhân
mặt trăng ngộ tâm là bổn giác tự sáng; chướng không thể làm mờ tối,
không phải ánh trăng sáng sao? Lợi ích vô cùng, ân oán không hai, không
phải công tâm của ánh trăng sao? Người người là đạo, pháp pháp sáng rỡ,
chẳng phải cái tròn đầy của mặt trăng ư? Xứ xứ luôn hiu hiu tự đắc chẳng
phải cái lặng lẽ của mặt trăng sao? Ở chốn trần lao mà tự mình trong
sạch chẳng phải cái trong trắng của trăng là gì? Tự phát phấn đấu không
ngừng chẳng phải cái hằng viễn của trăng hay sao? Cây mận, cá heo chẳng
cũng tin nơi trăng sáng chứ? Vật đạt thuận ứng không phải cái lồng lộng
của trăng hay sao? Tánh nó gần gủi nơi Phật đạo như thế nên Phật thuyếp
pháp ở núi Linh Thứu thường lấy trăng làm thí dụ. Ngài Hàn Sơn nói rằng,
tâm ta như trăng thu, không vật gì so sánh được. Ôi thôi! Cái đức của
trăng có thể nói là quá nhiều vậy. Đêm Trung Thu xưng tụng là Nguyệt
Đản, dù liên quan theo tục truyền nhưng trời cao khí thiêng bề ngoài
càng thêm sáng. Đại viên cảnh trí như soi trước mặt, trong khi đang cúng
này đây chẳng cũng hợp lắm thay! Hoặc cũng nói: Phật dạy thầy tỳ kheo
không lạy vua, chư thiên vương v.v.. Nay Nguyệt cung đây chưa chứng đạo
quả nên không lễ lạy, nếu lễ lạy e tổn phước. Lập Thanh Quy dựa theo
sách mà luận, phàm các thiên thần đa phần do Thánh hiền biến hóa. Nay
lạy cái đức, vì kính trọng lòng hộ pháp của họ nên có thể lễ lạy. Nếu
như không có đức không ủng hộ pháp, vì không liên hệ với Phật giáo. Phải
tuân lời Phật dạy không lễ lạy là đúng, nếu vì danh lợi mà bày điều mị
hoặc với lễ thế tục, cả ta và người đều tổn hại, lầm lẩn rất lớn vậy.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa
Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim
Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại
Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ
rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài
Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu
tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô
Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất
cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn
tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm,
tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm
hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện.
Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên
không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải
hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ
ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.
Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là
trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên
tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng,
cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn
được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ
nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời
tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời
khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ
Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:
Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,
Viên dung vô ngại khó thể so lường,
Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,
Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật
Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:
Cửa trời im ỉm chẳng mở thông
Ngày đêm thê thiết nổi gió giông
Trừ dứt tai ương dân ước nguyện
Hợp thời hé lộ một vừng hồng
Là một trong bốn châu thiên hạ
Châu Nam Thiệm người người chờ mông.
Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường…
quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ
vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền,
thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời
cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng
con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm
sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng
sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết
lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì
chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây
tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.
Lại nguyện:
Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu
Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên
Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh
Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên
Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên
Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.
Ngày…tháng…năm... Phật lịch...
Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.
Duy Na cử bài tán:
Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,
Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,
Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,
Khắp nơi rải sáng an lành,
Vạn vật vui đón bình minh.
Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).
Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)
Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang
Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.
Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ
hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời
tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.
Chứng nghĩa
giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây
cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật
hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa
đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít.
Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi
người, cũng như mọi loài.
1.6 Cầu Mưa
Trời nắng lâu ngày mà không mưa, sơn môn (chùa) phải
yết bảng cầu mưa. Sau đây dựa theo Kinh Đại Vân Luân cầu mưa. Cần lưu ý:
lập đàn tràng nên chọn nơi sạch sẽ, đủ rộng cho số người tham dự. Cấu
trúc đàn tràng sao cho thích hợp, trang nhã đẹp mắt; trên bàn bày biện
hoa quả, lễ phẩm và hương đèn xoay về hướng đông; các bàn phía tây, nam,
bắc cũng tương tự. Như vậy đều cúng long vương một thân 3 đầu, 5 đầu, 7
đầu hay 9 đầu. Bốn góc đàn tràng, mỗi góc cắm 7 lá phan màu xanh; mỗi
bàn có bình hoa, dĩa quả, đèn dầu. Chung quanh đàn lấy chiếu làm tường,
bốn bên có 4 cửa, mỗi bên có 2 lối đi cho long hộ vệ lấy đó làm ranh
giới. Kinh ghi rằng hoặc lấy tro hay mực làm ranh giới mà ngày nay
thường dùng mấy thứ này thay thế. Đầu rồng hướng ra phía cửa mà đuôi uốn
lượn hợp với bụng nó. Ngoài cửa có che cũng lấy chiếu làm ranh, chọn một
vị cao tăng trì giới đức hạnh làm chủ đàn; chư tăng cũng lựa người giới
hạnh thanh tịnh để tụng kinh mới có hiệu quả tốt.
Ngoài ra, cũng phải cắt đặt 2 người thị giả lo chăm
sóc hương đèn, châm nước cúng và những lúc cần… như Kinh có ghi rõ. Nhất
là trong thời gian Chùa cử hành lễ cầu nguyện, ngày đêm phải nghiêm
tịnh, chí thành tụng kinh, niệm chú đến một tuần, 2 tuần, hay đến 3
tuần; tự nhiên được cảm ứng tới chư thiên và lòng thành được thành tựu
như ý nguyện.
Chứng nghĩa
giải rằng: nói một cách tổng quát, đàn dùng đất vàng thế trâu, núi tai
trâu. Trâu núi tức giống bạch ngưu ở dãy Himalaya, chúng ăn toàn cỏ thơm
ở núi tuyết, mở chúng có mùi thơm có thể dùng được. Những giống trâu
khác đều hôi hám không nên dùng. Ở phương đông chúng ta không thể lấy
được loại hương này nên dùng đất vàng sạch thay thế. Theo Kinh Trang
Nghiêm ghi rằng: màu xanh, sắc xanh án hướng bắc, màu đen là lấy nước
công đức vậy. Ngoài ra, nói một khủy tay mà ngày nay tương đương một
mét; 3 khủy tay tức 3 mét vậy.
Kế nói về hình long vương ở bốn bên đàn tràng. Hình
long vương vẽ trên bình phong, tấm bình phong cao 2m60, rộng 1m60. Bình
phong treo cao 1m20, ở giữa dùng lụa mỏng bồi (dán) chắc chắn. Các hướng
khác theo Kinh chỉ dẫn hình vẽ, số đầu rồng nơi tranh vẽ. Tại hướng
đông, rồng 1 thân 3 đầu; hướng Nam, 1 thân 5 đầu; hướng Tây 1 thân 7
đầu; hướng Bắc 1 thân 9 đầu và cùng với quyến thuộc chúng vây chung
quanh phía dưới là biển sóng, trên có mây bay. Quyến thuộc long vương
rất đông không thể vẽ hết. Nên mỗi phương chỉ vẽ 4 quyến thuộc đứng 2
bên tả hữu; số đầu rồng y theo Kinh mà vẽ.
Kế tiếp, Kinh nói về tấm màn. Tấm màn ở giữa đàn
tràng hướng về Đông che tòa cao, bề ngang bề rộng 2 trượng, chu vi 9m,
giữa nhô lên như mái nhà. Màn này may bằng vải xanh, chống chỏi dùng trụ
gỗ sơn đen. Vã lại màu làm cho đen, buộc vải 4 góc thả thòng xuống đất;
riềm của 4 phía đều rủ châu anh lạc thanh tịnh trang nghiêm, rực rỡ như
châu báu vậy.
Kế tiếp nói về bàn của chủ đàn: chủ đàn là vị tăng,
bàn xoay hướng Đông. Bàn có một chỗ ngồi lấy gỗ đóng, thiết chỗ tòa cao
4 bàn nhỏ cao 2m60, vuông 3m dùng vải xanh trải để Kinh lên trên rồi
dùng miếng vải xanh đậy Kinh lại, khi nào tụng hẳn giở ra. Chỗ ngồi cao
1m60, vuông 2m; chiếu trải ngồi dùng đệm xanh lót lên trên.
Kế nói tới thứ tự 2 bàn ngồi: thứ tự 2 bàn sắp đặt 2
bên chủ đàn nhìn qua 2 phía, Nam Bắc đối diện hoặc cả 4 bên, tùy số
người mà bàn cao 9cm, vuông 2m cũng dùng gỗ đóng để Kinh có
phủ vải giống như bàn chủ đàn. Chỗ ngồi dưới đất trải đệm xanh vuông vức
2m.
Kế là hương đèn hoa quả: một thảo lư dùng dâng hương
(niệm hương), một cặp đèn dùng đèn cầy đốt. Trước bàn để một lư trầm
dùng hương bột, hương xông đốt cho thơm hoặc dùng trầm để ở 2 bàn xông
hương. Nói chung các loại hương thơm phải có thị giả luôn luôn theo dõi
ngày đêm không cho tắt để tỏ lòng thành kính. Bốn bình hoa để ở bốn góc
đàn tràng trước các cây đèn. Bình phải tương xứng không lớn quá cũng
không nên nhỏ quá và để nước bên trong vừa phải để giữ hoa lâu tàn. Dùng
nước thuốc xịt cho hoa tươi tắn cũng như rảy nước sương sương lên hoa.
Mỗi ngày chế châm thêm nước hoặc có thể đem ra ngoài thoáng khí nếu để
cách đêm. Làm vậy làm cho hoa tươi tốt không héo, làm cho long thiên quỷ
thần hoan hỷ.
Kế nói tới quả: mỗi lần cúng chọn 5 loại trái cây
khác nhau để hợp với ngũ hành (5 thứ lưu hành) trong trời đất. Dĩa quả
lớn nhỏ tùy vị trí và bàn thờ, miễn sao quả cho tươi tốt là được.
Kế nói về phan: phan dùng 28 lá trồng trụ chung quanh
4 góc đàn tràng: mỗi góc 7 lá, dùng vải xanh mới để may chiều dài 3m;
cán dùng mực đen sơn, đầu cán gắn khoăn để treo.
Kế nói về cách đặt đèn: thông thường 28 ngọn đặt 4
bên đàn tràng, mỗi bên theo 7 lá phan làm chuẩn. Đèn còn tùy vị trí mà
cở lớn nhỏ cho cân xứng. Trên mỗi đèn khắc chữ Long bên trong có đổ dầu,
và ngày đêm giữ cho đèn cháy sáng mãi.
Bên trên nói về đàn pháp xong, kế nên dựa theo Kinh
làm đúng pháp, Kinh ghi rằng: tôi nay có mặt tại hội này, mong tất cả
các vua rồng nương vào đây vì muốn cầu mưa. Trước là triệu thỉnh các vị
vào đàn; tăng chúng đều tắm rửa sạch sẽ, giữ giới thanh tịnh, tất cả
trang nghiêm vào đàn. Chủ sám và 2 vị tả hữu sẵn sàng và Trụ Trì mặc áo
xanh, đắp y màu xanh. Đến giờ mẹo (từ 5-7g sáng) vào chánh điện niệm
hương, lạy Phật xong. Chủ sám cử tán:
Ngọc trời lồ lộ, biển giác sóng vàng,
Cõi thế giới ba ngàn phân đà tán,
Tam muội sạch làu,
Ít nhiều nước sáng,
Một giọt rạng sơn hà.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Tiếp theo cầm chén nước tịnh đọc vừa kiết ấn cam lồ:
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Đầu nhành liễu Bồ Tát cam lồ rãi
Một giọt tung trải khắp mười phương
Tanh hôi tẩy sạch dường lắng trong
Gia hộ đàn tràng được thanh lương
Lời mật ngôn ngưỡng mong trì tụng…
Chúng cùng tụng
Chú Đại Bi (vị chủ sám đi xung quanh
làm lễ sái tịnh; đi chậm rãi, trước đi trong chánh điện theo phía tay
mặt ra tới ngoài cửa đi nhiễu một vòng, từ từ bước vô lễ đàn đi tới đàn
trên đi nhiễu 3 vòng xong, trở lại chỗ. Chúng có thể tụng 3 biến Chú Đại
Bi tùy theo vị trí rộng cở nào và thì gìờ nữa).
Chủ sám bắt lên: Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
(3 lần). Chủ sám bước tới vào ngay chính giữa niệm hương bạch Phật, phía
sau vị Trụ Trì cùng niệm hương xong, lui ra chỗ của mình, cùng đứng tán
bài:
Ruộng cả đất cằn hạn hán gây nên
Dân chúng tinh thành cầu khẩn nào quên
Lúa mạ khô quèn kỳ nguyện ngày đêm
Mong cho khắp chốn được mát êm
Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Xong rồi xướng đảnh lễ: Nam Mô thập phương biến pháp
giới thường trụ Tam Bảo (3 lần).
Pháp sư nhiếp tâm quán tưởng 10 phương chư Phật, chư
đại Bồ Tát và long thiên thánh chúng đều dùng thiên nhãn trông thấy,
thiên nhỉ lắng nghe, tha tâm thông rõ biết. Biết đây là nước Việt Nam,
tỉnh, huyện, xã… lâu nay không mưa, vì đó mà theo đúng pháp lập đàn,
theo Kinh triệu thỉnh các Ngài tới đây chứng minh gia hộ. Tưởng xong
liền bạch:
Cung kính nghe rằng Như Lai diễn pháp
Thường dạy tụng Kinh triệu thỉnh trời mưa
Lòng từ cao hiển nghĩa cả chở che
Thiết tòa cao phô vẽ màu đất vàng
Chí thành sắp đặt pháp đàn
Đốt đèn nhang, lập tràng phan
Theo Kinh triệu thỉnh sẵn sàng
Nhờ đây khổ hết lạc an tái hồi
Rồng thiêng linh cảm tới nơi
Vẹt mây dâng nước người người hân hoan.
Nay đây tại Việt Nam…tỉnh, quận, xã… ngày… tháng…
năm… trời nắng hạn đã lâu, ruộng lúa nửa khô sắp thành đồng không mông
quạnh. Do vậy, y theo Kinh thiết lập đàn tràng cầu trời giáng mưa để cứu
vớt muôn dân. Song chỉ sợ nghi tiết thất cách thiếu sót, tăng già giới
đức kém nghiêm, cầu không đúng pháp khó mà đạt sự cảm thông. Tha thiết
nghe Đại Luân minh chú hay trừ dứt lỗi này. Đại chúng chí thành cùng
tụng chú Đại Luân Minh Vương 7 biến để an vị đàn nghi. Tụng 7 biến xong,
pháp sư và đại chúng tụng kệ khai kinh, tán lư hương, tụng chú Đại Bi 21
biến. Xong, tiếp xướng thỉnh:
Nhứt tâm triệu thỉnh… long vương… mong mỏi dùng tha
tâm thông, với thần túc thông; trên vâng lời Phật chỉ định, dưới thương
xót chúng hữu tình mà đến tỉnh, quận, xã… sớm giáng cơn mưa. (Chú Đại
Minh Luân Vương).
Thỉnh xong, sám chủ quỳ gối chấp tay bạch theo pháp
đại từ trong Kinh và ban chú an lạc rồi; sám chủ và vị thầy đại diện lắc
linh, đại chúng cùng tụng chú đại từ pháp và thí nhứt thiết lạc 3 lần.
Sau đó sám chủ lễ thỉnh chư Phật:
Nhứt tâm phụng thỉnh hoặc
Đa Bảo Như Lai, Bảo Thắng,
Diệu Sắc Thân, Quảng Bác Thân, Ly Bố Úy, Cam Lồ Vương, A Di Đà Như Lai,
hoặc thỉnh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai v.v.. Thỉnh xong,
tiếp đọc:
Mong thay chư Phật Như Lai dùng từ lực vô duyên sắc
xuống tỉnh, quận… sớm giáng trận mưa. Nếu đàn tràng có 54 vị nên chia
làm 6 ban, mỗi ban 9 vị tuần tự thỉnh cho đến ban cuối thỉnh xong, vị
sám chủ quỳ gối chấp tay, nhịp một hồi 3 tiếng khánh, đọc Kinh, trì chú,
niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện…
Bài hồi hướng:
Cầu mưa công đức hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Khắp nguyện huyện, châu gặp hạn hán
Chóng được mưa nhuần thấm đượm sâu
Việc gấp như cứu lửa cháy đầu
Vì cầu tiêu chướng giáng mưa mau
Ngưỡng mong Tam Bảo, thiên long thảy
Thương xót chúng sanh hợp thời mưa
Mười phương ba đời Phật Như Lai
Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Tam tự quy đảnh lễ.
Đàn này vị thầy hương đăng phải hết lòng lo liệu
không được để cho bất cứ một người nào bàn tạp làm mất thanh tịnh. Sau
giờ ngọ, nghe hiệu lệnh xong, vị pháp sư và 2 người tác bạch cùng Thầy
Trụ Trì là 4 người vào đàn tràng hành lễ. Chí thành tụng kinh đọc lớn
tiếng cầu mưa, như nghi thỉnh trước giờ ngọ, sau ngọ chỉ tụng kinh liên
tục cho đến khi nào mưa lớn mới thôi. Trừ đàn này ra, các điện thờ chung
quanh cũng phải thứ tự luân phiên 10 người hay ít nhất là 4 người tụng
21 biến Chú Đại Bi, niệm hiệu Quan Âm 1000 lần, lạy 12 nguyện của Bồ
Tát, hồi hướng, phục nguyện, tự quy và đảnh lễ. Kế tiếp đổi ban thứ hai
luân phiên tụng suốt ngày đêm không dứt cầu trời chóng mưa. Các nghi
cúng trên một mực theo đúng nghi thường, chỉ viết bài vị: Nam Mô vô biên
trang nghiêm hải vân oai đức luân cái long vương và các quyến thuộc.
Đảnh lễ xong, đại chúng tán bài:
Thánh chúng long vương,
Oai đức khó lường,
Vâng lời Phật dạy,
Tán (rải) ngọc quỳnh tương,
Quang lâm đạo tràng,
Nhuần sạch thanh lương,
Một giọt nhuận 10 phương.
Nam Mô Vân Luân Hội Thượng Long Vương Thánh Chúng Bồ
Tát (3 lần).
Kế đọc sớ cầu mưa bằng giọng thống thiết, nên viết 4
hàng: hàng đầu viết tạo 3 nơi hóa hoặc chế bằng giấy viết hiệu 3 quan,
cũng như 3 lồng sớ, mỗi tờ phóng trên 1 tờ giấy hiệu quan trên tay biến
hóa thật tài tình. Một tờ trình Tam Bảo, một tờ trình chư thiên, một tờ
trình các vị long vương. Để lại một phong bì mỗi ngày đọc một lần cho
đến khi tụng xong hồi hướng rồi mới thiêu đốt.
Sớ rằng: thiết nghĩ, ánh dương thái quá làm nóng
cháy, muôn vật đều khô héo, đây trên do trời phạt, dưới do dân nhiều tội
lỗi. Chỉ chư Phật mở rộng môn từ bi mà thần chú có cảm ứng cơ cầu, do
vậy với lòng thành, thiết lập đàn tràng cầu mưa tỏ bày tâm cảm, ngưỡng
mong thánh đức dũ lòng đón nhận. Nay tại Việt Nam (Úc Đại Lợi)… tỉnh…
phủ… huyện… chùa… Trú Trì (pháp danh). (Nếu có quan chức mời chú nguyện
và biên tên họ vào sớ)… Hôm nay chí thành niệm hương đảnh lễ Đại Vân
luân chủ, Thích Ca Văn Phật, cầu vũ hội thượng chư Phật Thánh hiền,
thiên long tám bộ, ty sở các thần, tọa đài hoa sen, mong cảm thông lời
bày tỏ: Nhân chở che bổn xứ gặp lúc nắng hạn lâu ngày ban cho chỗ mưa
nhỏ. Suối khe cạn nước, vạn vật khô cằn; muôn dân trăm họ, khổ thống
điêu linh. Cơ quan chức trách lo nghĩ như khẩn cầu, nghe Phật dạy lấy
vầng mây lớn, tụng kinh trì chú cầu mưa; xin vì cảm thông, cho… (tên)
nay ngày… (kiến lập đàn tràng), y pháp cần cầu, vân tập tăng chúng tụng
kinh, trì chú, niệm Phật. Song e sự lý không cùng, lễ nghi không đúng
pháp khó cảm đến long thiên xin rộng lòng tha thứ; chưa có mưa nhuần
thấm xuống, do vậy chí thành dâng sớ: trước trình Tam Bảo thánh chúng,
kế thưa 3 cõi chư thiên, tiếp thưa cùng long vương thánh chúng, ngưỡng
cầu rũ lòng thương chứng giám, đoái tưởng chúng sanh, mong cho tội
nghiệp sâu dầy lấy lượng bình đẳng gội nhuần, dậy sấm chớp nơi núi sông,
đỗ mưa tuôn khắp chốn, cứu sanh linh đồ thán, đang phải chịu nạn tai.
Lại cầu cậy gió thầy mưa trên chở dưới che địa thần lúa thóc, hết lòng
quan tâm, che chở cho lúa được mùa cũng giống mùa thu, tháng hòa năm
thuận, muôn dân an lạc thái bình. Cẩn niệm chí thành cúi đầu dâng sớ.
Sớ văn đây cung trình Tam Bảo chứng minh, đài sen
thỉnh tọa; chư thiên cùng lên bảo tòa, long thần chư vị thần linh lên
bảo tòa.
Ngày…tháng…năm …Trụ Trì…cẩn bạch.
* Phụ Chú: Đàn Đại vân: đàn chính ở giữa, 2 bên treo
nhiều câu dùng giấy trắng, mực đen viết chữ đậm nét như:
Đại Chiêm cam sâm điền trù đắc nhi tư dục,
Kỳ phu huệ trạch thảo mộc bị dĩ sanh thành.
(Mưa lớn đượm nhuần ruộng được mùa thêm nẩy nở,
Sông Kỳ thẩm thấu cỏ cây chớn chở phát sanh).
Chứng nghĩa
ghi rằng: tổ chức nghi thức cầu mưa dựa theo Kinh Phật soạn ra. Duy chỉ
lập đàn, sắp xếp chỗ ngồi, phan phướng, hình tượng v.v... việc chi tiêu
tiền bạc tốn kém. Nếu quan chức đứng lo liệu vấn đề trở nên rất dễ giải
quyết. Giả như chư tăng phát tâm lo liệu có thể dùng giấy, gỗ thay vàng
lá. Kỳ nguyện cốt ở thành tâm trang trọng mà thôi. Song trải qua nếu có
lúc mưa lớn cũng làm cho tạnh dứt, tạnh hẳn mới thấy được hiệu quả kinh
này. Cũng có thể dùng để cầu trời tạnh ráo. Chỉ thay đổi nội dung 2 chữ
là được, đổi chữ cầu mưa thành cầu nắng và cũng đổi lời sớ nữa. Đây là
việc lợi ích lớn lao ngoài nghĩ ngợi, cảm thấu các bậc thần minh. Ngoài
ra, đàn tràng tụng Chú Đại Bi, giúp thêm lời ban ân chóng cảm kích tới
mọi sự cầu. Nếu như người cầu không thỏa mãn không phải do tâm đại bi đà
la ni. Thảng hoặc nơi núi cao, thôn làng vắng vẻ, không có quan chức
tham dự, nên mời chư tăng thanh tịnh xa gần tới tụng kinh theo chỗ
chuyên biệt của họ, chí thành cầu nguyện cũng có thể có kết quả trời
mưa. Kinh Hoa Nghiêm cảm ứng lược ký ghi rằng, ngài Tăng Đạo Anh, họ
Trần người quán huyện Bồ, 18 tuổi cưới vợ ở chung 5 năm thề không gần
nhau. Sau theo nghe Cự pháp sư trong huyện giảng Kinh Hoa Nghiêm bèn thế
phát xuất gia theo nhiều người vào núi Chùa Bá Thê tu pháp tham thiền.
Gặp tiết trời nắng hạn giảng Kinh Hoa Nghiêm để cầu mưa. Có 2 cụ già,
mỗi vị có 2 đồng tử theo hầu tìm đến nghe giảng. Ngài Đạo Anh thấy lạ
bèn hỏi, mới biết đó là hải thần. Nhân đó nói rằng, nay vì đàn việt xin
cho trận mưa. Lão trượng sai 2 đồng tử, một từ lỗ cửa sổ phóng ra trong
thoáng chốc, một trận mưa to xối xuống, xa gần đều thấm nhuần. Công đức
giảng Kinh Hoa Nghiêm mà cảm động đến trời làm đỗ cơn mưa lớn. Cũng như
Kinh Pháp Hoa Trì Nghiệm ký ghi rằng, pháp sư Vân Quang, đời Lương, niên
hiệu Phổ Thông, năm thứ hai, tập họp chúng nơi đại điện giảng Kinh Pháp
Hoa, trời rưới mưa hoa giữa thiên không. Vua đem việc hạn hán hỏi ngài
Hòa Thượng Chí Công. Chí Công nói rằng: có mây có thể đưa tới mưa. Vua
nhân đó thỉnh Ngài giảng Kinh Pháp Hoa đến đổi thấm nhuần khắp nơi trời
bèn đỗ mưa to nơi nơi đều lợi lạc. Nhân việc giảng Kinh Pháp Hoa đây mà
cảm động trời đỗ mưa vậy.
Ngoài ra cũng có câu chuyện kể rằng: Ngài Thích Chân
Quán chùa Nam Thiên Trúc đời Tùy Linh Ấn họ Phạm ở Tiền Đường. Lúc nhỏ
tướng dị kỳ, lưỡi đỏ vằn quanh, 2 tay trái phải có chữ tiên nhơn, thường
tụng kinh Pháp Hoa định mỗi ngày một bộ. Năm Khai Hoàng thứ 14 lúc trời
hạn hán mời Thầy giảng Kinh Hải Long Vương, trời liền nhóm mưa. Nhờ
giảng Kinh Hải Long Vương này mà làm cho trời mưa vậy. Ngoài ra, Ngài
Thích Trung Lập ở Minh Châu đời Tống, họ Trần người huyện Ngàn, xuất gia
năm 20 tuổi, được Vua ban hiệu Minh Trí vào đời Hy Ninh. Ở Nam Hồ thay
thế Ngài Thần Trí mỗi ngày chuyên tu pháp tham thiền. Vào năm Nguyên Hựu
Ngài tái chủ trì Chùa Diên Khánh chuyên lạy Kinh Pháp Hoa 7 năm tu pháp
viên mãn. Một hôm trong thiền quán, Ngài thấy mình ngồi trong một chiếc
thuyền lớn bơi đi tự biết tới suối tuyền dũng; Ngài tụng Pháp Hoa hơn
10,000 bộ cứu được hạn hán qua đi rất linh nghiệm. Tụng Kinh Pháp Hoa và
lạy sám Pháp Hoa mà làm cho trời mưa vậy.
Lại một chuyện khác, đời Tống hội Kê Đạo vị sơn, Ngài
Thích Tông Lợi đã thọ giới Tỳ Kheo, tới Cô Châu nương Ngài Thần Ngộ lạy
sám Pháp Hoa 3 năm. Một hôm, thấy Bồ Tát Phổ Hiền cỡi hư không qua trước
mặt, tìm hỏi thành mới bích hồ, chuyên tu niệm Phật tam muội. Năm Chánh
Hòa nguyên niên trời hạn hán, Ngài cầu mưa cảm tới long vương hiện thân
sắc vàng rưới mưa đủ nước. Do công phu niệm Phật chí thành làm cho trời
mưa.
Kinh Kim Cang Trì Nghiệm ký ghi, đời Đường Khai
Nguyên năm 93, Lữ Văn Triển làm việc ở huyện Lãng Trung, rành rẽ Kinh
Phật, lại chuyên trì tụng Kinh Kim Cang đến hơn 30,000 lần nên được điềm
linh ứng kỳ dị. Cuối năm nọ, 3 cái răng đều rụng một lượt, bỗng mọc lại
như cũ. Lúc còn làm việc tại Lãng Trung nhằm năm hạn hán, Vua ra lệnh
dân chúng cầu mưa, Ngài vừa tụng một biến trời bèn đỗ mưa lênh láng; lại
khổ ngập nước liền khiến tụng Kinh cầu dứt mưa, hợp thời đáp ứng. Do
tụng Kinh Kim Cang làm cho trời mưa cũng như dứt mưa.
Một câu chuyện khác:
Ngài Liên Trì đại sư
ở Minh Quí vừa đi tham học trở về Hàng Châu, trên đường đi muốn vào thăm
một tu viện trên núi cao, thấy mây giăng đầu núi u tịch, Ngài bèn lấy
gậy chống. Lúc đó trời đang hạn hán, dân làng mời Thầy tụng kinh cầu
mưa.
Thầy nói: “Lão
tăng ở đây chỉ biết niệm Phật và không có pháp thuật nào cầu mưa được cả”.
Dân chúng nói: “Chỉ
cần thỉnh Đại Sư niệm Phật”. Mời Thầy ra khỏi núi tới bờ
ruộng niệm Phật, thế là mưa kéo tới ngay. Dân làng quá cảm niệm ân đức
Ngài nên hoan hỷ ủng hộ kẻ công người của lập nên ngôi chùa cho Ngài tu
niệm. Đây cũng chỉ do công phu niệm Phật mà cảm được mưa vậy. Cho nên
việc cầu mưa hoàn toàn nhờ vào công đức chư Tăng hằng ngày công phu tu
tập mới có thể cảm ứng được; cũng nên mời vị chủ lễ trang nghiêm giới
đức mới có hiệu quả. Nếu như mời vị không đủ giới đức, chư Tăng thiếu tu
chỉ làm trả lễ chiếu lệ nên cũng khó mà cảm được tới trời. Thậm chí còn
làm ồn ào phức tạp như uống rượu, ăn thịt, vui đùa, làm điều bất chính,
làm sao cảm thấu trời được, lại càng tạo thêm nhiều tội lỗi nữa!
1.7 Lời Phụ: Cầu tuyết
Nghi thức không truyền riêng như pháp cầu mưa để
thành phổ thông. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thường có câu tụng khai kinh rằng:
Một năm chỉ trừ tháng này
Trời cao chưa từng rơi tuyết
Long thần ba cõi xét soi
Mỗi vị lần lượt cho biết
Khắp trời khắp đất nhã bạc
Vã phải hợp thời đúng tiết
Mong nhờ đại chúng từ bi
Trợ lực niệm chú gia trì…
1.8 Họa sâu
ăn hại lúa (mùa màng)
Phàm gặp họa sâu hại lúa, là việc gấp như lửa cháy.
Trong đại tạng không có Kinh tụng trừ họa sâu ăn lúa. Cổ đức chỉ có nghi
thức cầu trời: tại phòng khách chúng bạch Ngài Phương Trượng cho ý kiến
xong, kế đến viết giấy đề di hoàng (họa sâu ăn hại lúa). Tờ giấy này dán
nơi cửa chùa và tại phòng khách, cũng ghi rõ vào ngày…tháng…năm…có lễ
tụng kinh trừ họa sâu lúa, tụng Kinh Kim Quang Minh từ ngày… đến ngày…
Sắm năm loại trái cây, hương hoa cúng thiên, lễ sám Kinh Kim Quang Minh
vài ngày cầu nguyện trừ sâu, trong năm thạnh phát, nhân dân an cư lạc
nghiệp; đọc nêu danh các Thầy ra như sau:
……….
Muốn biết thêm nghi tiết, cần xem phần sau, Chương
Trụ Trì phần niệm tụng có nói rõ. Đây chỉ ghi lòng sớ:
Nay tại nước… tỉnh…phủ…huyện…chùa… Trụ trì hoặc quan
chức đứng cúng hay người làng hoặc người chủ chốt theo đó biên tên họ
đầy đủ. Ngày hôm nay cúi đầu niệm hương đảnh lễ Kim Quang Hội chủ năng
nhân Từ Tôn, trên hội quang minh, chư vị thiên, phạm vương, đế thích bốn
vua, thiên long tám bộ, chư thần binh khí, thánh chúng các ty mời vào
bảo tòa an tọa. Cung kính tỏ bày khẩn niệm: sâu bọ tác yêu gây tai ác
đáng lo để lại nghiệt ngã trong đời e xâm hại thành nạn. Không do công
lực thần trừ khử, dù tận nhơn lực nhưng vẫn lỗi lầm. Do vậy, tháng…
ngày… này xin phát lòng thành lập đàn trừ sâu phá lúa bảo vệ mùa màng.
Mỗi ngày cử chư tăng tụng Kinh Kim Quang Minh và 5 thứ trái cây cúng
thiên, lễ sám Kinh Kim Quang Minh.
Lại nguyện: nguyện đem công đức này làm tiêu dứt nạn
trùng, giáng rãi gió mưa quét sạch các thứ không còn sót lại gì, chảy
vào sông ngòi, theo nghiệp mà đi làm cho dân chúng an cư lạc nghiệp, vạn
vật sanh trưởng. Chúng con không mong gì hơn khẩn thiết lòng thành mong
mỏi.
Ngày…tháng…năm, tên Thầy Trụ Trì, tên vị quan chức..
9 lần trình thưa.
Sớ phải viết trước, ngày đầu tiên đốt một lá; còn một
lá để giữa đàn tràng mỗi ngày tuyên đọc cho đến khi hết sâu mới dứt;
tụng hồi hướng, phục nguyện xong đem đốt. Sau khi đọc sớ xong liền cử
bài tán:
Gìn mạ giữ lúa,
Chư vị tôn thần,
Trừ sạch sâu bọ,
Thỏa mãn sanh dân,
Ruộng lúa đầy đồng,
Mùa mới đơm bông,
Xin đáp tạ thâm ân.
Nam Mô Tiêu Tai Chướng Bồ Tát (3 lần).
Ngoài nghi cúng trên đều theo nghi phổ thông đến khi
sâu bọ dứt là hồi hướng. Sách khác, giữ hội mạ xanh cũng bao hàm như
phần này.
Chứng nghĩa ghi rằng: sâu bọ phá hại lúa mạ là thiên
tai.
Xưa qui định tụng Kinh Kim Quang Minh,
lễ sám Kim Quang
Minh, hiến cúng chư thiên chóng được
cảm ứng.
Y cứ theo Kinh Kim Quang Minh quyển 2 phẩm Tứ Thiên
Vương ghi rằng, Kinh này hay soi sáng cung điện chư thiên, là Kinh mà
làm cho chúng sanh an lạc; cho chí có thể trừ thiếu thốn, đói khát v.v..
Ngoài ra, phẩm công đức thiên ghi rằng, do nhân duyên làm tăng thêm địa
vị nên các địa thần, chư thiên thảy đều hoan hỷ đem gieo giống lúa thóc
mầm mộng lá, bông hạt đều tươi tốt v.v... Phẩm Kiên Lao Địa Thần Kinh
Địa Tạng ghi rằng, vì thế cho nên trong Châu Diêm Phù Đề, mọi cây cối,
cỏ thuốc, nhánh lá gốc cành, hoa quả tuơi tốt, đẹp đẻ, thơm tho, thảy
đều đầy đủ v.v… Phẩm Quỉ Thần ghi rằng, đây do lực Kinh nầy nên làm cho
chư thiên hoan hỷ, trăm thứ hạt kết trái thảy đều tươi tốt v.v.. Y cứ
đây có thể thấy Kinh này đích thật có thể trừ sâu phá lúa mạ; làm cho
mùa màng thêm phong phú tốt đẹp. Cần phải hợp lực làm cho Kinh phổ biến
lưu thông rộng khắp để mọi nơi thường trì tụng không ngừng thì thiên hạ
thái bình, tội diệt, phước tăng. Không có lỗi đối với Kinh này cho nên
đời Đường các nhà dịch kinh gọi là Tối Thắng Vương Kinh. Rất tiếc ngoài
phần thủy lục ra, sách ít thấy nghe hoặc nơi sơn giả hoang địa đều không
có Kinh này. Có thể xem trong Thiền Môn Nhựt Tụng có nghi cúng Tề Thiên
- từ dao thiên ngọc lộ - khởi, đến tán Phật quảng đại từ bi rồi ngừng
dứt. Tụng hết quyển càng tốt, chỉ cần đổi lại nhứt tâm phụng thỉnh thay
vì nhứt tâm đảnh lễ mà thôi.
Kinh Kim Quang Minh cảm ứng ký ghi rằng, đời Tống có
vị tăng tên Tùng Lễ, người Nương Dương, cư ngụ ở Tinh Xá Bình Điền tại
Đài Châu; người cẩn trọng ít nói, vui buồn không lộ ra sắc mặt; sống
giản dị chân thành, giữ giới thanh tịnh. Đời Lương niên hiệu Càng Hóa
mùa hạ nắng hạn, dân chúng mời Ngài tụng Kinh Kim Quang Minh cầu mưa;
Kinh tụng cảm tới cõi thiên trời mưa luôn 3 ngày. Lúc bấy giờ Tiền Võ
Túc Vương nghe danh triệu mời vào cung, lập đạo tràng lễ sám Kim Quang
Minh v.v.. Căn cứ theo đó, tụng kinh đã làm cho trời mưa và hẳn cũng hay
trừ sâu làm hại lúa vậy. Song, người chủ trì ắt phải bậc cao tăng, đức
độ mới dễ đạt sự cảm thông; không phải tư cách của bọn tầm thường mà làm
được. Nếu như thành tâm tụng Chú Đại Bi thay thế cũng được, vì tất cả
chú trọng ở mong cầu. Nếu kết quả không như ý là do không vì tâm đại bi
Đà La Ni vậy. Chỉ cần giữ tâm chân thật cần cầu mọi việc gì cũng đều cảm
ứng cả.
1.9 Kỳ nguyện Vi Đà
hộ pháp
Phàm gặp sự hoang mang hay đang ở chỗ tuyệt lương
thực, hoặc đang tạo lập, hoặc sửa chữa v.v.. Duy Na và Giám Tự bạch Trụ
Trì cho biết ngày giờ hành lễ. Ngoài thỉnh hóa chủ thông báo cho tín đồ
biết, trong viết thông báo dán nơi phòng khách. Thông báo cho biết rõ
ngày…tháng…năm…Tới ngày, nghe chuông, chư tăng đắp y tập trung tại chánh
điện hoặc điện thờ Vi Đà, tụng Thiện Thiên Nữ chú kỳ nguyện Vi Đà. Phải
viết 2 lá sớ ghi rõ làm việc gì, lời phải thích hợp. Một lá tuyên đọc
xong rồi đốt để báo đến Thánh minh, một lá cúng xong hẳn đốt; mỗi lần
tụng kinh có đọc sớ. Mỗi ngày 2 buổi hoặc thúc bảng hay gióng chuông 3
hồi lại 4 tiếng để nhóm chúng tham gia khóa tụng. Đại chúng mời Thầy Trụ
Trì niệm hương xong cắm lên lư. Duy Na cử tán lư hương…Cuối bài đọc: Nam
Mô Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát (3 lần) – nên thủ mõ lớn – Tán xong
tụng Thiện Thiên Nữ chú, vừa đi nhiễu điện hoặc đi nhiễu quanh bàn thờ
Vi Đà vừa đọc chú 108 biến. Tối thiểu cũng đọc cho được 49 biến, tới lần
cuối thỉnh 3 tiếng chuông cho đại chúng ngừng tụng. Đứng chỉnh tề, Thầy
Trụ Trì niệm hương, xong, Duy Na cử bài tán:
Vi Đà thiên tướng, Bồ Tát hóa thân,
Ủng hộ Phật Pháp phát nguyện rộng sâu,
Tay cầm thanh kiếm trấn áp ma quân,
Công đức vô biên thật khó nghĩ bàn.
Nam Mô Phổ Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Tán xong, đại chúng lạy 3 lạy rồi lui về chỗ. Mỗi
ngày 6 thời, khởi sự, chấm dứt như trên. Nếu việc gấp, ngày đêm 12 thời
nên luân phiên nhau tụng phải thành tâm để cầu nguyện. Đúng theo nghi
thông thường cho đến ngày viên mãn, hồi hướng, đốt sớ, tạ thần Hộ Pháp.
Phụ: Ngoài ra,
quyên góp thứ khác ngoài gạo, tùy theo đó sửa đổi
lời lẽ trong văn
sớ. Như dưới đây:
Từng nghe tên chùa…, tên vị thầy chủ sám, từ khi tiếp
nối cho đến nay đã trải qua năm tháng. Nay trụ cột tuy vững, tăng chúng
rất đông, không thiếu thốn lương thực. Sớm trưa chớ trông đợi, đang gặp
hồi kém khó, cơm Hương Tích khó khắc phục. Suối ngọt, trái rừng không đủ
chửa lành cơn đói. Kho trống, bếp lạnh làm sao được no bụng đây? Đã
không có cách dự trù chỉ còn kế nhờ vào sự ủng hộ của đàn việt. Lại
nguyện: người có lòng nhân trưởng giả, bố thí ra công giúp đỡ, thật là
phước đức vô lượng. Hoặc thí đậu, lúa, nấu ba bát cháo, hoặc cho rang
gạo đưa tới mùi vị lục hòa, một hộc, trăm hộc tùy lực, tùy duyên mà vui
thí; ngàn thăng, vạn đấu, do tâm hoan hỷ để quyên góp vào. Một lời, một
việc đều có công đức; hoặc quyên góp hay khuyến khích người đóng góp…đều
là nhân lành. Dựa vào chén cơm để kết duyên vui hưởng thiền duyệt (vị
thiền). Tặng ít mầm mà đăng sổ thiện, phước không thể lường hết. Từ đây
tăng chúng cần tu, sớm tối tụng kinh cầu nguyện. Chư Phật Thánh thần mật
thùy gia hộ, quyết định được an lành, nên sớm vâng hành. Kéo dài huệ
mạng của một ngôi chùa đâu hư tâm lực. Vì Tam Bảo làm lợi ích thấm
nhuần, thần xin khải bạch.
Nếu như gặp việc kiến tạo, sửa sang…vào ngày hoàn mãn
đều nên cúng kiến bẩm bạch Vi Đà tôn thiên để đáp đền ân hộ pháp của
Ngài.
Chứng nghĩa ghi rằng, việc cầu nguyện này thuộc về cổ
tục. Bởi vì, người xưa lấy đạo đức tu hành làm việc nhà, chốn tòng lâm
hoàn toàn không việc đi tụng kinh bái sám. Nhu cầu của đại chúng như y
phục, ẩm thực hoàn toàn nhờ Vi Đà thiên gia hộ. Ngài cảm hóa 10 phương,
chỉ người tu hành hẳn không hề chết đói. Muốn thoát nạn gấp chỉ thành
tâm cầu nguyện Vi Đà
tướng đen gia hộ, theo việc không miễn
cưỡng được tùy duyên. Nay đa phần người ngu mạo tăng đi hóa duyên (quyên
góp) để bưng bít mờ mịt cốt dung dưỡng cái xác thân. Như cây giữa rừng
như dao kề ngọn, như trùng đục khoét, hoặc 4 phía bị đóng đinh, đinh
đóng chặt 7 ngày hay tạm thời giây lát, bó cột dính lại với nhau cho
người ta thấy; hoặc đào đất làm huyệt chôn ngược đầu
xuống, 2 chân chổng lên trời. Có người
chôn sấp lưng đến nổi phù lên màu xanh rồi dùng kiềm siết chặt lại. Bó
mồm miệng người ấy lại chỉ có uống nước gạo mà không thể ăn ngũ cốc
được. Hai chân đứng vắt qua lạy Kinh,
khiến người ta trông thấy hoảng sợ; hoặc lôi khối sắt hoặc kéo thuyền
nhỏ nặng 110 cân. Tu khổ hạnh như thế là làm điều kỳ dị dối người, mê
hoặc chúng. Có nhiều hạng không phải một. Không tham cũng ngu, thật đáng
thương xót. Trong tòng lâm chúng ta quyết định dứt khoát không làm những
việc mị chúng như thế mà chỉ giữ gìn Thanh Quy cẩn thận, nương giáo pháp
tu hành, Vi Đà thiên chắc không phụ các người đâu.
1.10 Phụ:
Vi Đà tôn thiên thánh đản
Ngày mồng 3 tháng 6 hay ngày 13 chưa xác định chắc là
ngày sanh của Vi Đà thiên. Dùng cháo điểm tâm sáng xong, thông báo tại
trai đường, phòng khách. Thông báo đề: hôm nay ngày… tháng…năm…nhằm ngày
Khánh Đản (sanh) của Vi Đà tôn thiên. Đại chúng khi nghe hiệu lệnh vân
tập chánh điện hay điện thờ Vi Đà cúng ngọ theo nghi thức trong Thiền
Môn Nhựt Tụng, nên ở đây không ghi phần này. Chỉ có lời cẩn bạch khác
như sau:
Trộm nghe rằng:
Ba Châu cảm cách Hộ Pháp thần
Vi Đà thiên Bồ Tát hóa thân
Hành Phật sự nhiếp hóa
Đức hàm dung cả thiên nhân
Trên cao nghe thấu
Tăng tục cảm ứng ân cần
Thiện ác rõ phân
Mở lòng thương trí vận
Bồ Tát phương tiện từ tâm
Chứng pháp vô vi thâm diệu
Công đức siêu vượt thế trần
Nghĩ đời mạt pháp,
Tăng chúng phuớc căn cạn dần
Đạo lực suy vi, tập theo thói nhiễm
Đức Vi Đà tôn thiên gia ân
Cảm ngoại ma không quấy nhiễu
Đón mừng ngày Khánh hỷ
Đặc dâng cúng rau vi.
Lại nguyện:
Vua tôi được phước, thiên hạ an hòa
Biển lặng trời thanh
Đất nước thái bình
Nơi nơi gió hòa mưa thuận đẹp xinh
Phật đạo huy hoàng
Giáo pháp nhịp nhàng chuyển vận
Tòng lâm an khang
Chùa hưng thánh hiền tăng đa dạng
Đức chúng rộng dung hòa ái
Bậc long tượng triển khai pháp mầu
Thí chủ đàn na vui thỏa
Đạo lữ thảy nhuần ân
Phàm có niệm mong cầu
Được như ý thành tâm.
Chứng nghĩa ghi rằng, lễ Vía Vi Đà chỉ tụng Kinh Kim
Quang Minh và niệm chư thiên. Truyện tích chỉ biết tên nhưng chưa ai rõ
cốt chuyện, nên hoặc cho rằng Ngài là Mật Tích lực sĩ hoặc là Phật Lâu
Chí…
1.11 Phụ: Già Lam
sanh nhựt
Căn cứ các Kinh như Đại Quán Đảnh ở Tây Vức (Ấn Độ)
thần Già Lam có 18 vị. Ở Đông độ (Trung Quốc) có nhiều vị như Hoa Quang,
Quan Đế (Công), Long vương v.v... Hoa Quang sanh nhựt hoặc ngày 28 tháng
9 âm lịch, sanh nhựt Long vương không thấy chép. Quan Đế thánh đản thông
thường người Tàu lấy ngày 13 tháng 5 âm lịch dựa theo tích truyện đời
Minh (1368-1661) niên hiệu Khương Hy năm thứ 9 tại tỉnh Quảng Đông, các
nhà hội quán đồng lập một tòa miếu thờ Quan Thánh. Tuy nhiên, theo tích
truyện y sanh Trần Diệu do đức Quan Thánh hiển linh về mách bảo, Ngài
sanh tháng 7 chứ không phải tháng 5 như mọi người tin nghĩ. Thánh Hoa
Quang, Long vương thánh tích không ghi rõ ngày sanh. Chỉ có Quan Đế hiển
thánh ở núi Ngọc Tuyền hoặc hiện thân tại Chùa Hoàng Mai v.v…nay không
có nơi nào hiển linh nữa. Vì thế, tại tăng viện giới tăng già mới tôn
Ngài là thần hộ pháp chốn già lam mà ngày sanh nhựt như trên đã nêu.
Nghi cúng giống như lễ vía Vi Đà thiên. Chỉ có lời khác như:
Ngưỡng mong đại đế phò trợ thánh giáo
Của Tam Bảo khí sắc luôn vẫn mới
Xin thuận phàm tình, dẫn sanh linh nương cậy
Bẩm thần oai linh hiển
Trấn các phương hoạnh yểu nơi nao
Tâm chánh trực thông minh
Hết thảy ác tà thanh tảo
Là nhờ ân pháp vương gia hộ
Hằng thường theo hộ điện vàng
Thiên đế giáng chỉ bảo an
Đây ngày thánh đản hân hoan
Vô cùng sạch đẹp mát trong
Cung hiến hương trầm
Ngưỡng mong chứng giám
Từ đây bờ giác dự phần
Dứt trừ oan trái lần khân
Vâng nhờ uy đức độ dần chúng sanh
Rõ soi trong ngoài tăng tục.
Văn này trước kia chỉ dùng cho Quan Đế, nếu bạch
chung ở già lam nên dùng lời như sau:
Cung kính nghe rằng già lam thánh Bồ Tát
Đèn trí soi ba cõi sáng tỏa mười phương
Lấy già lam tựa nương hộ trì Phật Pháp
Làm thành lũy giúp sức bậc pháp vương
Khắp chốn phân thân
Chở che chúng tăng
Trông nom việc Phật.
Ghi tên họ người cúng vào đây…, tên vị Trụ Trì…
Thân nương nhờ ngôi già lam
Theo cội gốc để trở về
Mong gặp ngày tốt sanh
Thiết cúng niệm tâm thành.
Lại nguyện:
Không quên Phật di chúc
Có mặt khắp đạo tràng
Chánh pháp giúp xiển dương
Lối ma sạch thênh thang
Mông ân gia hộ đàn na
Gia đình mọi thành viên an hảo
Chúng đức hộ đạo quyền uy
Đường giác rộng hanh thông
Đạo tràng lập khắp chốn
Chấn chỉnh tông phong
Vĩnh viễn dài lâu
Tăng chúng hòa hài
Thành tựu đạo quả mãi về sau…
Chứng nghĩa
rằng, ở Ấn Độ có 18 vị già lam xuất phát từ
Kinh Thất Phật như:
1) Mỹ Âm
2) Phạm Âm
3) Thiên Cổ
4) Thán Diệu
5) Thán Mỹ
6) Ma Diệu
7) Lôi Âm
8) Sư Tử
9) Diệu Thán
10) Phạm Hưởng
11) Nhơn Âm
12) Phật Diệu
13) Thán Đức
14) Quảng Mục
15) Diệu Nhãn
16) Triệt Thính
17) Triệt Thị
18) Biến Thị.
Các thần già lam Đông độ tùy cơ duyên không nhất định
hoặc chỉ một như Hoa Quang hay Quan Đế; 3 hoặc 5 mà danh tánh được định
như lúc mới khai sơn. Ngày nay nhiều người tin Quan Thánh và Vi Đà nổi
bật hơn cả, nhân vì sự linh ứng của các Ngài vậy. Bài tán ca tụng rằng:
Quan Thánh Đại Đế
Oai thần rộng khắp
Thệ nguyện thâm sâu
Hộ pháp hết lòng lo.
1.12 Cúng Ông Táo
Ngày 24 tháng 6, mồng 3 tháng 8, 23 hoặc 24 tháng 12
âm lịch là lễ cúng. Viết thông tư dán ở trai đường giờ điểm tâm sáng như
sau: hôm nay nhân ngày lễ táo quân có diên (nghi) cúng ngọ. Khi nghe
hiệu lệnh, đại chúng vân tập trước điện Giám Trai để cúng. Nhà bếp đốt
nhang đèn; lập bàn thờ trước tượng Giám Trai, thiết đèn nến, hoa quả,
cơm cúng đầy đủ. Mọi người chỉnh tề, đốt nhang niệm hương, lễ Phật xong,
Duy Na bắt bài tán Lư Hương đến hết, nghi giống nghi cúng Vi Đà. Chỉ lúc
cúng ngọ, thầy Giám Viện dâng hương, hiến trà lễ lạy, đọc tới phần chú
phổ cúng dường xong, đến lượt Duy Na niệm hương lễ 2 lạy tiến tới trước
quỳ gối chấp tay đọc lời này:
Cung kính nghe rằng Giám Trai đại sĩ
Ngài là bậc vô cùng đại trí
Ứng hiện thần diệu tùy nghi
Xôi nếp cúng đầy công niệm nghĩ
Một hạt biến thành núi Tu Di
Không thấy tướng ẩn khuất trong mây
Thân to lớn hiện nhiều cõi đó đây
Hộ pháp an tăng hưng hiển
Việc Phật quyền phương tiện
Ngưỡng mong uy đức
Chứng pháp trai diên.
Lại nguyện:
Nhờ thần minh nguyện lực
Chứng lòng thành thực kính dâng
Tùy cơ duyên cảm hóa thân
Hiện có thân nhưng không sắc tướng
Hiển hóa khôn lường
Hiện thân ăn uống mà trợ pháp luân
Khiến bày bếp núc nhưng tu chứng
Độ khắp quần mông (quần sanh)
Khiến tiếp mùi biết quay về
Mong ủng hộ già lam an tịnh
Tăng chúng đều tinh tấn tu hành
Thấm nhuần pháp lạc
Chốn chốn vững tông phong.
Xá một xá rồi đại chúng cùng lui về liêu nghỉ.
Chứng nghĩa ghi rằng: cúng bếp (ông táo) tuy giống,
nhưng tăng, tục tin có hơi khác nhau. Vị Giám Trai nơi Phật môn là Đại
Thánh, sự tích giống chư thiên, nên cúng vào buổi sáng sớm, bởi vì chư
thiên thọ thực buổi sáng.
Ngày nay qui định cúng vào giờ ngọ cũng được vậy. Gần
đây giới tăng sĩ cúng buổi chiều như thế gian so với giờ ăn của quỉ, là
không đúng, là cúng phi thời, thần không thọ hưởng được; lại thêm phí
phạm vô ích. Ngoài ra, báo huyện Hà Nam cho rằng, từ Đường khởi đầu ở
chùa Thiếu Lâm có một vị tăng đầu bù lưng đeo bầu rượu đi chân trần, chỉ
mặc áo che ngực, làm việc ở nhà trù rất chăm chỉ trong một thời gian dài
không có pháp danh. Đến năm lên 11 tuổi, giặc khăn đỏ nổi lên ở Hiệt
Châu, lệnh động viên đến chư tăng Thiếu Lâm nếu ai muốn thi hành nghĩa
vụ. Vị tăng này bèn cầm một hỏa côn ra đi biến thân cao lớn 10 trượng
phi lên đứng trên chóp núi. Giặc thấy thế khiếp sợ, vị tăng hô lớn nói:
ta là Vua Khẩn Na La. Nói xong, bèn biến mất. Dân chúng mới biết là Bồ
Tát hóa thân, tạc tượng để tại chùa Thiếu Lâm thờ, bèn trở thành thần
Già Lam. Giới tăng già khắp nơi cho vị này là Giám Trai nên nặn tượng
thờ cúng ở nhà trù.
Hết quyển hai.