Bảo Tạng
Tùng Thư
Phật lịch
2552
BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Thích Bảo Lạc
dịch
Quyển 5
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào
đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa
Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu
duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.
Chương 5: Trụ Trì
Lời thuật rằng, Trụ Trì gọi là chủ trì Phật
Pháp; lập trụ trì ở Tòng Lâm là mượn người gìn giữ pháp làm cho tồn tại lâu ở
đời không diệt. Luận về pháp là đạo của bậc đại thánh; có
giới - định - huệ để duy trì được pháp; người làm việc trong tăng
viện, duy trì là việc giữ pháp. Gốc có đứng vững thì mọi việc mới yên; việc yên
nên gốc càng bền chắc. Cho nên người trụ trì có quan hệ rất trọng đại đối với
Phật Pháp. Đáng đảnh lễ Linh Sơn Trụ Trì là Ngài Ca Diếp thống lãnh hết; trụ trì
Trúc Lâm Tinh Xá là Xá Lợi Phất trông coi.
Từ khi Phật giáo du nhập Trung Quốc trải
qua 400 năm rồi Tổ Đạt Ma đến, lại truyền đến Tổ Bách Trượng; thời gian đó chỉ
đem đạo truyền dạy, tuy cùng chúng đồng sống chung nhưng luật lệ lại đơn giản,
qui tắc chưa hoàn bị, chưa có từ gọi Trụ Trì của thiền tông. Tổ Bách Trượng làm
cho thiền tông hưng thạnh, trên từ vua tôi dưới đến sĩ dân đều hướng về học đạo.
Thống nhất đưa Thiền về một gốc, thế chẳng thể không chuyên môn một người mà
người này tạm chẳng xưng vị thì đạo chẳng sáng, chẳng được người tôn sùng thể
đạo ắt pháp không lập được.
Trong khi đó mới
cống hiến một mẫu người lỗi lạc
là Trụ Trì thiền tông, nhưng gọi là Trưởng Lão, vì đức độ rộng đáng tôn. Dần lại
tạo nhà rộng để chúng ở lập thành hai dãy; chia phân người trông coi mà chế độ
nấu ăn bắt đầu cụ thể. Nhưng cái thế của Trụ Trì tuy tôn trọng mà đến như làm
việc chúng cũng chia đều làm việc. Như
Ngài Bách Trượng, hể
một ngày không làm việc là một ngày không ăn (nhất
nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực), là qui tắc hàm ý nghĩa mà Trụ
Trì phải biết. Cho nên đương thời do chúng thúc đẩy hoặc do lệnh quan trên, do
lời mời cất nhắc đưa lên mà Trụ Trì không nhận chức. Trọng trách thật nặng mà
không đáng hâm mộ tới việc quan; thậm chí như ngày nay nhờ sự dồi dào của thuế
má, chiếc xe chở an ổn đều là việc của Trụ Trì không lạ sao? Sang giàu lấn xen
như món hàng kỳ lạ. Than ôi! Trụ trì chẳng phải người như thế. Một ngôi chùa bỏ
hoang phế phương hại đến đời sau như thế nào rồi, thậm chí trong vòng một nghìn
năm mà không có thể phục hồi được không đáng tiếc lắm thay! Người sau cử người
vào Trụ Trì thật là may mắn thay! Xử lý vai trò Trụ Trì nên phải thận trọng;
chọn người thành thật hơn là ở cho có người đạo pháp mới mong sáng tỏ. Thành lập
Ban Điều Hành mọi việc sẽ được giải quyết êm đẹp.
Phàm có Phật tử tới chùa cúng dường nên
định ngày, chùa ra thông báo: mời hoặc sau khóa lễ Tịnh Độ tối có buổi họp
chúng. Tại phòng khách, gõ 3 hồi 3 bảng tập họp chúng, chuẩn bị thức ăn đầy đủ.
Tri Khách mời người cúng dường ra trước đại chúng lễ chư tăng 3 lạy xong, Tri
Khách bạch chúng: Hôm nay, tỉnh… phủ…huyện…, tên họ thí chủ tới chùa đặc biệt
thỉnh 2 liêu chúng, tới thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng, ngày mai thượng đường.
Bạch xong, gõ 3 hồi khánh và 3 tiếng, chúng 2 dãy phòng trước hết tới phòng Hòa
Thượng Phương Trượng, sắp hàng đứng 2 bên; kế trai chủ bưng khay lễ để lên pháp
tòa Phương Trượng. Tri Khách hướng dẫn trai chủ chấp tay tác bạch Hòa Thượng
Phương Trượng. Thị giả báo chư Tăng hay, Thầy Phương Trượng đến chư tăng xá một
xá, nhưng vẫn đứng nguyên hai bên. Tri Khách hướng dẫn trai chủ ra phía trước
đứng chính giữa xá 3 xá rồi lui phía sau. Tri Khách một mình đứng giữa tác lễ,
chấp tay bạch rằng: ngưỡng bạch Hòa Thượng từ bi nhẫn nghe, nay có trai chủ
(tên) hộ pháp, vì việc… đến bổn sơn tự cúng dường trai phạn. Kính mời đại chúng
hai liêu và cần cầu thỉnh Hòa Thượng ngày mai thượng đường, vì đại chúng thuyết
một thời pháp. Ngưỡng mong Hòa Thượng mở lượng từ bi mặc nhiên hứa khả (chấp
thuận) đến chứng minh. Bạch xong, chờ Hòa Thượng đáp: Mô Phật, được ngày mai
Thầy sẽ đến. Lễ 1 lạy rồi lui. Mời trai chủ vào cầm nhang lên vái, lạy 3 lạy.
Thầy Trụ Trì đáp từ xong. Thầy Duy Na nói: 2 hàng đại chúng chư tăng, đảnh lễ
Hòa Thượng 3 lạy. Lễ xong, người sau cùng đi trước lui ra phòng khách, mời trai
chủ cảm tạ, đại chúng lui về chỗ.
Sáng hôm sau, công phu xong, điểm tâm, công
tác hoàn tất, nghe hiệu lệnh đại chúng vân tập Tổ đường lạy Tổ. Phân 2 bên đi
vào chánh điện chấp tay nghiêm chỉnh. Thị giả thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng
chứng minh, Hòa Thượng niệm hương, cắm hương lên lư. Tiếp theo, trai chủ niệm
hương, cắm hương lên lư, đảnh lễ Tam Bảo. Đốt 3 cây nhang cắm lên thảo lư,
chuông trống bát nhã trổi 3 hồi, 4 tiếng. Đại chúng tránh qua 2 bên, thỉnh Hòa
Thượng... Duy Na hô hàng sau đi trước vào phòng khách. Tại phòng khách mời 2 vị
là Duy Na, Duyệt Chúng hướng dẫn lễ. Thị giả bưng khay lễ đi trước, kế đến lư
nhang, kế nữa là bê tích, lọng 4 hoặc 6 người bưng. Trụ Trì cầm chuỗi Như Ý,
chống tích trượng; thị giả theo sau; đại chúng tới pháp đường hay Phật điện,
phân ra đứng đều 2 bên. Tri Khách mời trai chủ đứng một bên phía dưới. Trụ Trì
tiến ra chính giữa phía trước lên tòa ngồi; thị giả đứng bên cạnh. Duy Na câu
chung bảng, trống, tán: Lư hương…Tri Khách mời trai chủ niệm hương, Trụ Trì niệm
hương, thị giả đỡ hương cắm vào lư.
Duy Na xướng:
Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
Lễ 3 lạy xong, chúng đứng đối diện 2 bên;
Duyệt Chúng gõ 3 hồi, 3 tiếng khánh. Duy Na bạch: “Pháp diên chúng long tượng,
đương quán đệ nhứt nghĩa”. Trụ Trì mở lời, tùy cơ mà khai thị. Hàng hạ tọa
(thấp) muốn thỉnh vấn nên thành tâm chân thật tham cứu; phải chấp tay hỏi bằng
giọng nhỏ nhẹ hòa nhã, xong rồi Trụ Trì thuyết pháp hoặc mời một thầy khác. Chờ
cho thời pháp xong, Duy Na bạch rằng: “quán kỹ pháp Phật, Phật Pháp như thị”;
nhập một hồi khánh. Chúng lui ra, người sau cùng đi trước. Khay lễ, bê tích,
phất trần ra trước đến liêu phòng Hòa Thượng Phương Trượng. Tri Khách hướng dẫn
trai chủ đảnh lễ tạ Hòa Thượng và chư tăng.
Phần Cúng Ngọ… Xem thêm nghi thức phạn tăng
ở sau.
Tết Nguyên Đán, lễ Phật Đản, Phật Thành
Đạo, Kiết đông, giải hạ (ra hạ sau mùa an cư), không thường cũng phải ở Phật
điện. Thầy Giám Viện được mời điều động nghi thức trên, duy chỉ không hương tín,
tự thẩn, tề thẩn, công thẩn. Khi vào chánh điện, tu tập mùa đông chúng phải bỏ
nón ngũ ngoài không nên đem theo bên mình. Thí chủ mời pháp sư thăng tòa thuyết
pháp.
Chứng nghĩa ghi rằng:
phàm người thăng tòa thuyết pháp phải chí tâm nghe kỹ không nên gây khó khăn cho
đại chúng làm cho mọi người thoái tâm, cũng như không làm động chúng mà nên dung
dị. Nghe tới những sự thành bại, ắt có cơ hội phát sanh. Đó không phải là ngôn
ngữ của người có học. Chỉ nghe miệng bàn luận có thể như rắn uống nước thành nọc
độc; bò uống nước thành sữa; người tin tưởng học thành Bồ Đề, kẻ ba lơn học
thành sanh tử là vậy. Pháp không phải là người; cũng như không được sanh nơi cao
mà có tư tưởng khinh thường, ngược lại làm ngăn ngại tự tâm. Do vậy nên nói
rằng, y theo pháp chứ không y người là vậy. Cho nên lúc nghe pháp, phải lắng
lòng thanh tịnh mà nghe, thu nhiếp các căn, trần để lãnh hội. Giá có nghi vấn
phải tìm hỏi ngay không nên che dấu, lấy đạo làm tâm niệm; trừ sạch mọi thói
xấu, giữ cho được nhất tâm. Cần tu quán dùng lực chuyển sâu, rèn luyện mà tu tập
để đạt lợi ích thanh tịnh. Như thế, một thời gian lâu định huệ phát hiện ngay
nơi tự tâm. Người chí thành thuyết pháp phải đưa ra điểm chính để cho giới có
học nắm được lợi ích; bằng hình thức vấn đáp, nói chung vì vấn đề sanh tử là
việc lớn phải chặt đứt mối hồ nghi; không thể dùng người mù dắt người mù, người
ngu dẫn người ngu. Giá tự mình thấy kém không bằng người, chẳng cần phòng giữ mà
có thể chuyển qua; mời một vị pháp sư hiền đức thay thế. Như có thiền khách nêu
hỏi, nên thành thật trả lời, chân thành bày tỏ ý mình. Ví mua tài lộng ngôn hẳn
chiêu lấy ác báo.
Sách Thiền tông bí yếu ghi: Căn cứ theo
sách thiền tông Thiên Thai, dưới tòa Thiều Quốc Sư có Hòa Thượng Minh Hưng giáo
hỏi rằng:
-
Ẩm Quang mặc y 6 trượng của Thích Ca, vào núi
Kê Túc chờ Phật Di Lặc hạ sanh. Y dài 6 trượng đắp lên thân một nghìn thước hợp
cở là dễ dàng. To lớn như Thích Ca thân cao 6 trượng, Di Lặc 1000 trượng, phải
thu thân ngắn lại ư? Hay y mở rộng thêm ra?
Quốc Sư trả lời:
-
Ông không lãnh hội, ngày mai cuốn áo đi ra.
Sư nói tiếp:
-
Thằng con nít, sơn tăng nếu trả lời ông không
đúng, phải có nhân quả; nếu ông không đúng ta phải thấy đó.
Ngày hôm sau trở về chỉ ngày đâm ra thổ
huyết. Phù Quang Hòa Thượng khuyên rằng:
-
Ông mau tới sám hối.
Sáng hôm sau Sư bèn tới liêu Phương Trượng
(Quốc Sư), khóc kể rằng “mong Hòa Thượng từ bi cho con sám hối”.
Quốc Sư nói:
-
Như người ngã xuống đất, từ đất mà đứng lên,
không hiểu lời ta dạy, ông đứng lên ngã xuống, mai lại nói tiếp. Nếu hứa cho sám
hối thì một người suốt đời cứ dựa thế. Quốc Sư bèn nói một hơi:
Phật Phật đều đạo
Chẳng có thấp cao
Thích Ca, Di Lặc
Như ấn, đóng vào.
Căn cứ vào câu chuyện này cho thấy nêu lên
vấn nạn không phải là dễ. Lộng ngôn xão ngữ như lưỡi búa trong miệng há không
thận trọng hay sao ?
Công việc hằng ngày của Trụ Trì là hoằng
pháp, trừ ngoài giờ thượng đường ra, ngày rằm giữ theo lệ thuyết pháp hẳn việc
này không thể lơ là buông lõng được. Nếu tham vấn lúc thuyết pháp, hai dãy ghế
ngồi bên dưới chúng đứng lên. Thầy Trụ Trì đăng tòa (vào chỗ ngồi) trước khi
ngồi phải lạy Phật, để chúng tham chiếu học theo. Phàm nhóm chúng khai thị đều
phải tham cứu cổ nhân. Khuôn rập theo khiến chúng sớm tối không buông lung;
không phải thời mà chẳng kích bác đạo. Mỗi tối phải có thời tham vấn riêng gọi
là tham vấn tối, hoặc sáng sau khóa lễ, chúng tới phòng Hòa Thượng Phương Trượng
tham vấn. Nghi thức giống như thượng đường, gọi là tiểu tham. Ngoài ra, gặp khi
an cư, giải hạ, đêm đông, tiết đông, đối trước chư linh v.v.. đều nói tiểu tham
(một bài khai thị ngắn gọn, ý nghĩa sâu sắc). Mới đầu không định nơi chốn, mà
xem số chúng nhiều ít, hoặc tại phòng Ngài Phương Trượng, hoặc tập trung nơi
giảng đường, trước trai đường v.v.. chuẩn bị cuộc tiểu tham. Hoặc tại chánh
điện, quét dọn sạch sẽ chúng cùng ngồi dưới đất hoặc trải tọa cụ, xong đâu đó
một vị đi mời Hòa Thượng hoặc một vị pháp sư đăng tòa ban lời khai thị. Chúng
nêu nghi vấn những gì không hiểu để Thầy giải đáp về việc tu tập, công phu, bái
sám, việc chùa, việc chúng v.v…
Chứng nghĩa ghi rằng:
Xưa ở Phần Dương, Chiêu Thiền Sư ở viện Thái Tử tại Phần Châu, vì một phần đất
sông Phần quá lạnh nên bỏ tham vấn tối. Có một tỳ kheo lạ chống tích trượng đi
tới gọi Sư hỏi:
- Trong chúng hội đại sĩ có 6 người,
tại sao không thuyết pháp?
Nói xong lẫn vào hư không mà biến
mất. Có để lại Sư bài mật kệ, ghi rằng:
Hồ tăng cầm tích trượng vàng
Vì pháp đến đất Phần Dương
Sáu người là bậc Đại sĩ
Khuyến thỉnh vì pháp tuyên dương.
Lúc bấy giờ Sở Viên giữ vườn hiệu Thượng
Thủ mà Sở Viên từ là Từ Minh. Về sau có một thời ở Thạch Sương, là Giám tự Hội
Công tại Dương Kỳ, chúng mời thuyết pháp ban đêm. Từ Minh nói rằng;
-
Tối mà thăng tòa, quy tắc này từ đâu có?
Hội chúng đáp:
-
Phần Châu tham vấn tối, không phải là mực thước
sao?
Từ Minh lãnh hội được ý.
Mỗi tháng 14 và 30 cạo tóc, sám hối, mặc y
phục sạch sẽ. Sau giờ ngọ trai, có chỉ tịnh (nghỉ ngơi), tắm rửa. Buổi chiều,
giờ học xong, dùng dược thạch. Đại chúng nghe hiệu lệnh y hậu chỉnh tề lên Tổ
đường lễ Tổ, vào chánh điện lạy sám hối hồng danh. Sau khi sám hối xong đại
chúng lui ra giải y, chờ có hiệu lệnh vào Thiền đường hoặc trai đường dự buổi
trà đàm hay tiểu tham. Qui tắc buổi tiểu tham như sau: Hòa Thượng Phương Trượng
mời 2 liêu chúng tham gia: một bên quán sát hỏi chỗ kiến giải; bên kia bình luận
công việc thường trụ (y luật kỳ Bố Tát vào 2 ngày này).
Sau thời Kinh Lăng Nghiêm, tới thượng lai
hiện tiền… đảnh lễ Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, ân Thầy, cha mẹ, thí chủ, quốc vương,
những người làm công quả, chư vị thiên thần giữ gìn ủng hộ già lam v.v…
Mỗi tháng các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23 và
28 là những ngày Hòa Thượng Phương Trượng treo bảng nhập thất. Nhập thất có
nghĩa là người kham nhẫn chuyên tu học đạo. Văn sách người ấy chưa đạt đến, điều
chánh bị tà chấp, như lò luyện kim, bao nhiêu quặng, chất chì lọc sạch không còn
lưu lại gì. Người ngọc sánh với ngọc, đá ngọc bỏ hết không nệ tối sáng, không
chọn nơi chốn ở đâu cũng có thể thực hành được. Người học vào thất thỉnh giáo
phải thành tâm, đắp y tề chỉnh mang theo tọa cụ. Trước phải thưa cho Thầy Trụ
Trì biết để Thầy ấy cho người dẫn tới thất Hòa Thượng. Người hướng dẫn thường là
thị giả, thị giả đứng trước cửa khảy ngón tay 3 lần hay bấm chuông 3 lượt. Ngài
Hòa Thượng mở cửa, xá chào rồi đưa người tham vấn vào, lạy 3 lạy quỳ gối chấp
tay cầu xin khai đạo nói:
-
Kính bạch Hòa Thượng, con tự nghĩ suốt đời tham
học chưa tỏ ngộ được hết, chưa khám phá được một tơ hào chỗ bí tàng, chưa đủ
hiểu biết cái vọng chấp của tự thân, ngang tạo dị thuyết, múa may quay cuồng.
Hòa Thượng đương nhiên sẵn từ tâm xót xa
nghe đệ tử như kim châm vào mình. Ngài đề cập gìn giữ duy trì sự tiến bộ là điều
trước nhất. Hòa Thượng khai thị xong, đứng lên lạy tạ rồi lui ra; theo thị giả
về phòng khách không nên tự ý không theo khuôn khổ. Không để thì giờ trống không
mà cô phụ chí phát tâm xuất gia ban đầu.
Chứng nghĩa ghi rằng: Việc nhập thất,
là người có học nên thật thận trọng thỉnh giáo. Vị Thầy nhập thất nên tận tâm
chỉ bày để không phụ người hỏi. Nếu người học tham vấn không thật tâm, vị thầy
đạo nhãn thiếu sáng suốt nào có khác chi nương hình dáng vẽ mèo, chỉ phỏng dựa
đáp ứng sự tích xưa mà thôi. Thời gian gần đây các Ngài trừ một vài vị chân tu ở
thiền lâm, chuyên việc nhập thất ra, đa số thiếu hành, thật là đáng tiếc thay.
Theo Thanh Quy cổ mỗi tháng ngày mồng 3 và
28 chùa tụng Kinh Nhân Vương. Một năm bốn dịp đi tuần liêu. Trước tăng xá dán
bảng tuần liêu, thông báo để chúng các liêu biết. Chuẩn bị hương đèn, trà nước,
chúng nghe hiệu mộc bảng tập trung trước liêu, đợi Thầy Trụ Trì đến cùng đi vào
các liêu. Liêu trưởng đốt nhang đưa cho Thầy Trụ Trì niệm, xong toàn chúng đều
xá xuống 3 lần. Tất cả cùng ngồi xuống hỏi thăm nhau về sức khỏe, việc học hành,
ăn uống, tu tập, kiểm điểm việc thiếu đủ ra sao; mỗi việc Trưởng Liêu cứ tình
thiệt trình bày để chùa bổ túc, cải thiện, nếu việc bất cập. Xong rồi chúng đứng
lên tiển Thầy Trụ Trì lui về. Cũng có thể tuần liêu vào 2 ngày Rằm và Mồng Một
không cần treo bảng. Ngày nay tuần liêu tháng 4 lần, ngày mồng 3 và mồng 8 tụng
Kinh cũng không làm. Mỗi khi gặp ngày Rằm, Mồng Một lễ thù ân chúc Thánh có nơi
thay vào tụng Kinh; nói chi việc tuần liêu, Trụ Trì mỗi ngày sáng chiều 2 thời
khóa tụng, lúc lạy Phật đi chung quanh lạy các thánh tượng, tùy nghi đi tới các
liêu hỏi thăm huynh đệ, kiểm điểm việc chùa viện…
Chứng nghĩa
ghi: Luật Tăng Kỳ ghi rằng; Thế Tôn lấy 5 việc, thường nên 5 ngày một lần đi
tuần các tăng phòng vì:
1- Sợ đệ tử đắm việc đời
2- Sợ mắc vướng luận bàn thế tục
3- Sợ đắm mê ngủ
4- Vì để xem xét chúng bịnh
5- Làm cho các tỳ kheo nhỏ tuổi quán
oai nghi Phật, sanh lòng hoan hỷ.
Ngày nay vị Trụ Trì tuân lời Phật cũng đi
tuần các liêu chúng như vậy. Đó là lý do đi tuần liêu mỗi tháng 4 kỳ.
Nói công khai là nghi cách khởi sự dừng lại
cùng với tiểu tham, tương tự gần giống tiểu tham. Chỉ có Trụ Trì nói lời khai
thị ngay tại thiền đường; trong khi nói công khai có nhiều loại không giống
nhau. Như Trụ Trì nói, hoặc cáo hương, hoặc thông báo trước khi kiết hạ, giữa
hạ, hay làm một Phật sự gì đặc biệt. Hoặc nhân thỉnh khai thị, hay cầu thầy giải
quyết nghi vấn, vì hành giả mà thuyết, hoặc cảnh sách để khuyên bảo hành giả,
hoặc khích lệ đạo đức cổ nhân… Vì lời văn dài ý nghĩa đầy đủ nên gọi là nói rộng
(hay công khai). Bắt buộc hoặc ra lệnh khiến mọi người đều phải nói, tùy theo
lời của họ mà bàn luận. Dùng giấy bút viết thành câu văn thật đàng hoàng nghiêm
chỉnh ghi lại những ý chính quan trọng.
Tòng lâm cổ y theo luật kiết hạ, mỗi lần
trước kiết hạ có phần cáo hương, chưa làm lễ cáo hương không cho nhập thất. Lễ
cáo hương ở phòng Phương Trượng hoặc tại thiền đường. Nay theo thiền tông trong
mùa kiết đông có thêm một ngày.
Khi có hiệu lệnh cáo hương, chúng đắp y hậu
chỉnh tề vào bàn Tổ hay trước điện Vi Đà hộ pháp. Trụ Trì niệm hương, cắm hương
lên lư, lễ 3 lạy.
Duy Na xướng tán:
Lư hương… Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát
(3 lần).
Chúng đứng thành 2 hàng đối diện nhau. Thầy
Trụ Trì bạch lớn giữa chúng rằng:
Nhà tối tâm giảm, mắt thần như điện sáng;
thiện ác báo ứng như bóng theo hình chỉ có đến sớm hay chậm mà thôi, trọn không
trót lọt được. Cẩn bạch đại chúng, nghĩ kỹ mỗi sự thực càng nơm nớp càng kinh sợ
thêm, hầu răn dè cẩn thận đó.
Bạch xong, đến trước tượng Vi Đà niệm
hương, lạy 3 lạy, quỳ gối chấp tay bạch rằng:
Con tên… Trụ Trì, như tòng lâm không thông
suốt, Phật pháp không lưu truyền là do chúng yểm che, tổn hại của tín thí, cho
con đang trong số đó, bớt lộc giảm thọ, tật xấu vây thân, hoặc gặp nạn dữ, chỉ
cho đại chúng thấy rõ. Khi mạng chấm dứt đọa vào trong 3 đường ác thú. Chỉ thần
giáng lâm, lấy đó cảnh báo người sau.
Từ đây trở đi, mỗi vị nên chuẩn bị nhuần
nhuyễn cho lời đọc cáo hương. Cáo xong xá một xá rồi lui về vị trí. Các chúng
trưởng tiến vào niệm hương, quỳ bạch rằng:
Chúng con là… các chúng trưởng chúng A, B,
C… Nếu 3 nghiệp không tinh chuyên, 4 oai nghi không toàn vẹn, buông lung thô
tháo, nợ của thường trụ khiến cho chúng con hiện đời bị chìm đắm trong 3 đường
ác. Ngưỡng mong oai quang chứng giám gia hộ chúng con tội báo tiêu trừ, căn lành
tăng trưởng.
Kế tiếp, Duy Na niệm hương, quỳ gối chấp
tay và đọc lớn tiếng:
Con… Duy Na: như do tư tâm tà chấp, ỷ thế
khinh khi áp đảo, cô phụ nhiều người; chấp sự không tròn khiến con hiện đời…
Tiếp theo các vị Đô Giám, Giám Viện, Phó
Trụ Trì, đệ tử kế thừa v.v… tiến ra trước điện Vi Đà đứng giữa niệm hương, xá 3
xá, quỳ gối chấp tay bạch rằng:
Con Giám Viện, nếu dung chúng hẹp lượng,
tâm thương chúng mỏng bạc, xâm công lợi tư, mê mờ nhân quả khiến con đời này…
Kế Phó Trụ Trì, Tri Chúng, Tri Khách, Chúng
Trưởng, đệ tử kế thừa v.v... hể người điều hành việc chúng đều ra bạch cả.
Con… Tri Chúng, nếu ghét nghèo chuộng giàu,
trọng tục khinh tăng, phí của thường trụ (Tam Bảo), do ý đồ ưa thích, khiến con
hiện đời ...
Kế thiền đường thanh chúng… Nếu người điều
hành nhiều lên 10 người cùng ra trước bạch giống như vậy.
Con… Thanh chúng, nếu giải đãi (biếng nhác)
tìm nhẹ lánh nặng, không làm xong việc, tốn hao của tín thí, nợ của thường trụ…
Kế các chức sự khác 5, 10 người cùng lên
tác bạch:
Chúng con… (nêu chức vụ đảm trách trong
chùa), nếu không hết lòng làm phận sự, cố hiểu lầm chúng, phí của thường trụ mà
giữ cho riêng mình an, khiến chúng con hiện đời v.v…
Cáo còn có nghĩa kính cáo, bày tỏ cho bề
trên biết, hương là thơm, là tinh khiết. Người dâng hương tỏ bày tận tấm lòng
mình trong lúc làm việc không tránh khỏi va chạm, mục đích là để thần minh chứng
minh; cho đại chúng hiểu rõ phận sự điều hành của mình, và cũng để tự thân khắc
phục sửa sai lỗi lầm sái phạm. Tất cả chức sắc điều hành viện đã ra dâng hương
bày tỏ xong, đứng thành 2 hàng chúng xây mặt đối nhau. Duyệt Chúng lấy mõ nhỏ
tất cả cùng ngồi xuống tụng Kinh Phạm Võng về 2 giới không phát thệ nguyện, như
sau:
Phật thuyết Kinh Phạm Võng, phẩm Bồ Tát tâm
địa, nếu Phật tử, thường phải phát nguyện hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, mong
gặp được thầy hay, bạn tốt, bậc thiện tri thức, thường dạy ta Kinh Luật Đại Thừa
về
10 phát thú,
10
trưởng dưỡng,
10
Kim Cang,
thập địa,
khiến cho ta khai mở, như phát tâm tu hành, kiên trì giữ giới luật Phật chế, thà
bỏ thân mạng, niệm niệm không rời tâm. Nếu Bồ Tát không phát tâm nguyện như thế,
phạm khinh cấu tội.
Nếu Phật tử phát 10 đại nguyện rồi, gìn giữ
cấm giới của Phật, đọc lời phát nguyện này: Thà đem thân này ném vào lửa dữ hừng
cháy; hầm lớn, núi đao trọn không hủy phạm Kinh Luật 3 đời chư Phật; và cùng tất
cả người nữ làm hạnh bất tịnh. Cũng nguyện rằng: thà lấy lưới sắt nóng buộc
nghìn vòng quấn quanh thân trọn không để thân phá giới này. Nhận của đàn việt
tín tâm tất cả y phục cũng phát nguyện rằng: Thà dùng miệng này nuốt hòn sắt
nóng và chịu lửa dữ cuốn đi trải qua trăm nghìn kiếp trọn không để miệng phá
giới này. Ăn của tín thí đàn việt trăm vị thức ăn, lại phát nguyện rằng: thà để
thân này nằm trên lửa dữ lưới bao quanh sắt nớng trên đất, trọn không để thân
này phá giới. Nhận của tín tâm đàn việt trăm loại giường, tòa ngồi lại cũng phát
nguyện rằng: thà để thân này chịu 300 kim nhọn đâm vào mình qua một kiếp, hai
kiếp, trọn không để thân này phá giới. Thọ của tín thí đàn việt trăm vị thuốc
thang cũng phát nguyện rằng: thà đem thân này ném vào vạc đồng sôi trải qua trăm
nghìn kiếp trọn không đem thân này phá giới. Nhận của tín thí trăm loại phòng
xá, nhà cửa, ruộng đất, vườn tược, rừng cây cũng lại phát nguyện rằng: thà lấy
dùi sắt dùi thủng thân này từ đầu đến chân khiến thành tro bụi, trọn không để
thân này phá giới.
Nhận của tín thí đàn việt sự lễ bái cung
kính lại cũng phát nguyện rằng: thà để trăm nghìn mũi dao sắt cháy đỏ đâm vào 2
con mắt, trọn không để tâm này phá giới. Thấy người hiếu sắc cũng lại phát
nguyện rằng: thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng nhãn căn trải qua một kiếp, 2
kiếp, trọn không để tâm này phá giới. Nghe âm thanh hay cũng phát nguyện rằng:
thà lấy trăm nghìn mũi dao nhọn cắt bỏ mũi đi, trọn không để tâm này phá giới.
Tham nếm các mùi thơm cũng phát nguyện rằng: thà lấy trăm nghìn mũi dao nhọn cắt
đứt lìa lưỡi ra, trọn không để tâm này phá giới. Người ăn trăm món cao sang cũng
lại phát nguyện rằng: thà lấy búa bén bửa rả thân ra, trọn không để tâm này phá
giới. Tham đắm vuốt ve xúc chạm cũng phát nguyện rằng: nguyện tất cả chúng sanh
đều thành Phật, thành Bồ Tát; nếu không phát nguyện ấy là phạm khinh cấu tội.
Tụng xong, đại chúng cùng đọc bài kệ hồi
hướng:
Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,
Oai linh thưởng phạt phân minh,
Kẻ thiện hay giáng phước,
Người gian ác gặp tai ương.
Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,
Oai thưởng phạt phân minh,
Người trung thường giáng phước,
Kẻ nịnh bị cực hình.
Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,
Oai linh hộ tòng lâm,
Người nào phá quy tắc,
Ương họa gặp tức khắc.
Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,
Xét tra chân giả tình,
Hiện tại người bạch hương,
Thề ghi nhận tinh tường.
Cúi lạy Vi Đà tôn thiên,
Tuần tra chúng phân minh,
Một câu hợp một câu,
Mỗi câu đáp rành rành.
Phật thuyết Kinh Phạm Võng, vì có người
phát nguyện thọ giới, giữ giới nhân đây khuyên gắng giữ gìn; kẻ phá giới nhân
đây chữa lành (bịnh). Nếu nói tâm chân chánh cần dùng lời thề nguyện làm gì: đây
với người ngôn từ hoa mỹ muốn lung lạc tâm kẻ khác để thủ lợi, sợ đứng thề trước
thần, tại sao phải tại tòng lâm? Vi Đà thiên cầm chày đáng sợ nên cẩn trọng chớ
tự dối mình mà phụ lòng người cáo hương. Bướng bỉnh ngẩng đầu phanh da khấn lạy
thần linh hiển gia tăng gấp 3 lần làm cho tòng lâm sắp suy hoại bại, gian tà dần
tiến tới; khấn cầu lực Thần Thánh chóng ban ân phước để trừ sạch.
Tụng xong cử tán bài:
Thần Vi Đà thiên tướng
là Bồ Tát hóa thân
Ủng hộ Phật pháp nguyện cao thâm
Cầm Bảo xử trừ ma quân
Công đức thật khó lường
Tùy loài giúp quần sanh.
Nam Mô Phổ Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát (3
lần).
Chứng nghĩa ghi rằng: cáo hương lập
thệ; lời thệ hẳn là tâm phải bền vững; mới đầu tâm còn yếu nên phải cần hành
trì. Nên phát thệ nguyện để giữ mình. Nếu không phát tâm thệ nguyện đạo do đâu
thành chứ ? Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 38 ghi rằng: Tỳ kheo không phát thệ
nguyện trọn không thành Phật đạo. Phước của thệ nguyện vô cùng không thể kể hết,
như vị cam lồ rưới sạch một nơi. Muốn duy trì tòng lâm hẳn cần nên cáo hương
để chứng tỏ sự thanh bạch. Nhưng thanh bạch cùng không chỉ mình tự biết, người
khác không biết được. Con người không biết nhưng thần minh biết rất rõ. Giá như
có ngu tăng dối láo đối với thần tự cho rằng thần là gỗ, bùn đất; nếu tỏ
ra khinh thường tham muốn bưng bít ắt rơi vào quả báo xấu ác. Giả sử
hiện thời chưa bị quả báo, cuối cùng hẳn thọ nhận lấy họa tai. Không ai chạy
trốn được, không đáng sợ hay sao!
Hỏi: Nguyện phần nhiều là mong đợi, thề là
loại nguyền rủa, dường như không thích hợp với người tu hành?
Đáp: Thề, nguyện là ý chí vô cùng mạnh mẽ;
trong khi nguyền rủa có hàm chứa ý thâm độc oán hận bên trong. Cớ chi cho tâm
dũng liệt, mạnh mẽ là độc hại chứ? Cũng như 4 nguyện sâu rộng chẳng phải thệ ư?
Bồ Tát tu hành không có 4 lời thệ nguyện đó hẳn không có cơ sở thành Phật; cũng
đâu giống như đem lời nguyền rủa để nghi sao?
Tóm lại, điển tích cáo hương quan hệ ở tòng
lâm không nhỏ vậy. Hành cáo hương là người biết sợ. Giả sử người có lời hoa mỹ
cũng bỏ bớt được. Cáo hương phế bỏ nên lỗi nhỏ cũng không chừa. Vì vậy, tòng lâm
được hưng thịnh do hành cáo hương; tòng lâm sắp suy, vì bỏ cáo hương vậy. Thẹn
hưng suy là ở điểm này.
Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: Từ Thoàn Phốc
thiền sư chủ trì Thiên Đồng 20 năm ăn không trái chúng, dù bịnh cũng không trái
chúng vâng theo rất là chặt chẻ, đãi chúng thật là tốt đẹp. Có một sư chú tri
khố (coi thủ kho ở chùa) biết trong kho đã cạn, đến xá sư bạch:
-
Con đã hết sức xoay xở thêm được một lần; kho
trống trơn không dám tự chuyên xin nạp vào Tam Bảo.
Sư Phốc giận nói:
-
Ông để kho trống rỗng ắt giữ theo cái xảo ngôn
vô nghĩa đối với vật; tiền bạc của Tam Bảo dung túng cho Ông làm việc bất nghĩa
ư?
Không nạp vào là tranh của người khác, đâu
phải của riêng tiểu sư? Nạp vào của thường trụ đã hiếm nghe thấy; còn giận không
nạp đều là tranh đoạt của người khác. Duy trì việc cáo hương đây rất là trong
sáng. Người xưa như thế kham nhẫn làm sư biểu (thầy người) mà cáo hương cần phải
biết đó.
Việc tụng Kinh hoặc chúng ở chùa tụng, hoặc
thí chủ phát tâm tụng cũng phải nên qui định trước. Nay dựa theo thí chủ nêu thí
dụ: quan chức tới chùa; Thầy Tri Khách và Thầy Trụ Trì tiếp đón ( như tiếp khách
tăng vậy). Nếu không phải nhân vật quan trọng, tiếp tại phòng khách như vị tăng
khách. Dự định ngày lập đàn tràng trang nghiêm (xem chương Chúc Diên), viết
thông báo như sau:
Tháng này ngày… quan chức… hộ pháp, vì
việc… xin tụng Kinh… hồi hướng công đức, đảnh lễ…sám hối, cùng chư sơn thiền
đức; ngày kế luân phiên mỗi ngày… vị như bên dưới:
1- Thầy A Thủ Tọa
2- Thầy B dãy nhà Tây
3- Thầy C dãy nhà Đông
Hoặc dành ngày khác, hoặc 3 ngày thay đổi
một lần, từ Chúng Trưởng đến đại chúng, trong ngoài đều tham gia.
Lúc vắng, Kinh sư trước hết lên phòng
Phương Trượng đảnh lễ Hòa Thượng. Thỉnh Ngài khai thị (cho tôn ý) trước khi vào
nghi. Tri Khách mời thí chủ niệm hương thành kính trang nghiêm, cắm hương lên
lư, lễ 3 lạy; Thầy xướng cho thí chủ đảnh lễ chư Tăng 3 lạy. Nếu nhân vật quan
trọng thì tùy nghi không cần đảnh lễ. Ngày kế khai Kinh. Mời thí chủ niệm hương,
cắm vào lư, lễ 3 lạy. Hôm nay chính lễ có đọc sớ, cúng ngọ. Thời tụng Kinh viên
mãn trở lui về phòng Phương Trượng để trai chủ hậu tạ Sư, không nên tạ bên ngoài
làm mất trang nghiêm.
Nguyên sách về tụng niệm sau, tiếp theo
phần cúng thủy lục qui định 9 môn. Nay để lại sau cuối quyển.
Tòng lâm cổ ẩn nơi non cao không liên hệ
với thế tục; ngoài nghi chúc Diên (Ly) ra, không theo thông thường đáp ứng. Đúng
là đại sự không rõ, việc nhỏ không bận tâm; cứ chạy theo thù ứng làm tán thất
đạo niệm. Ngoài ra, như chưa tự độ lấy gì độ người, nên kinh ghi rằng: chỉ một
việc Du Già cũng là việc lợi sanh của đăng địa Bồ Tát, không phải việc thích
nghi của phàm phu sơ tâm. Song sợ đời sống tòng lâm thanh đạm thiếu thốn làm cho
nhà tu giải đãi; lui sụt pháp tu không đạt được, nên cần phải tụng niệm để được
tinh tấn. Nhờ đạo tràng đối trước kinh tượng, tưởng như đối trước Phật vậy. Tụng
Kinh văn nghĩ tới nghĩa Kinh; làm việc gì cho đạt kết quả ắt làm cho thân,
miệng, tâm hợp nhau, không hôn trầm (ngủ gục), không tán loạn, không giải đãi,
không tham lợi; biết nhân quả, biết tàm quí, sợ nghiệp lực. Nếu như thế không
cần độ người mà tự độ người; không chờ lợi ích mà tự lợi ích. Cho nên nói rằng:
người lấy của cho ta, ta đem pháp cho người, so ra 2 việc bố thí không khác mà
do nơi ta có thể quyền phương tiện làm, như đánh trống. Không đọc ra tiếng hoặc
không biết chữ mà xem Kinh, lễ sám như chày giả gạo. Không quán tưởng nên tâm
không thành thật; thân đối trước tôn tượng mà mắt nhìn hướng khác, miệng tụng
kinh sám mà tâm dấy niệm riêng tư. Như thế cho thấy trước mắt đạo tràng tòng lâm
suy vi, tương lai chính ta chịu khổ. Lấy pháp tự lợi làm lợi người; trái lại lấy
cái sai lầm của mình gán cho người tội sai lầm, há không cẩn thận sao?
Những qui
định (11 điều) ghi rõ như dưới đây:
1- Người tụng
Kinh, ngày hôm trước thấy tên mình có nêu trên bảng lo tắm gội sạch sẽ, sáng hôm
sau tụng kinh sám hối. Nên để mắt, để miệng và để tâm đến lời Kinh, không nên
lúc tụng kinh sám mà nói bàn tạp nhạp; cũng không được ngưng tụng để nói chuyện.
Nếu bàn tạp đùa cười trong lúc tụng kinh sám sẽ bị phạt tiền là một tiền 8 phân
(khoảng US$10,- bây giờ). Người ở sau mình bàn tạp phạt 8.01 phân. Lúc tụng niệm
không được quay đầu liếc xem người, trông vật 2 bên.
2- Nhứt tâm
tụng Kinh chữ chữ rõ ràng, tụng không ra tiếng, sau khi khóa lễ xong, phạt rất
nặng. Nếu làm mất sự nghiêm tịnh không chí thành phạt 3 phân tiền; tụng lớn
tiếng một mình át chúng phạt 6 phân tiền. Kinh sám nên tụng hòa nhau với chúng.
3- Người chủ
lễ không được tán tâm vọng tưởng mà phải nhứt nhứt đúng kinh văn, chí thành niệm
quán.
4- Chỉ cho
Phật tử không nên gấp gáp giản lược mà nên nhứt nhứt theo văn, tụng có thứ tự.
Xử dụng chuông trống cũng phải nhẹ nhàng trang nhã không nên làm phiền người
khác.
5- Tụng kinh
và thí thực, khóa lễ chưa xong, không được thâu tượng Phật, dọn đồ đạc trước,
làm mất trang nghiêm.
6- Cúng thí
thực nhất nhất theo văn chí thành kết ấn, tụng chú, quán tưởng. Ba nghiệp hợp
nhau không nên sân si cải lẫy; đọc nhanh cho xong khóa lễ, văn bạch cũng vậy.
7- Người phụ
trách việc hương đăng trong ngoài đều phải thanh khiết, chú ý tới đèn nến. Giữa
đàn tràng thủy lục lại càng phải thận trọng hơn về đèn đuốc.
8- Hương đèn,
quả phẩm v.v... nếu có rớt dưới đất không dùng; đồ đã cúng cũng không dùng lại.
9- Rau dưa,
cơm nước v.v. phải nấu chín có vị, không được thêm các mùi, không nên cúng đồ
khô, vật sống.
10- Người phạm
tranh cải phạt tiền 8 phân. Nếu tranh cải làm mất oai nghi phạt 1 tiền 8. Người
không tuân hành cho ra khỏi chùa. Khoản tiền phạt đó cho ghi vô sổ tài chánh để
chùa tu sửa tượng Phật, kinh điển.
11- Kho lẫm
nên để tâm trông coi sắp đặt các đồ dùng ngăn nắp, không nên bỏ bừa bãi.
Những điều qui định trên nên chấp thuận
tuân hành; nếu không như vậy, tự chuốt lấy hoạn họa mà việc trước mắt là phạt
người phạm Thanh Quy, và về sau ắt chịu nhân quả, há không thận trọng hay sao!
Ngày…tháng…năm… Trụ Trì….sao lục.
Chứng nghĩa ghi rằng: phàm tụng niệm
là chuyển pháp luân. Xưa tăng chúng xưa nay phần nhiều hay cẩu thả, tội lỗi
không nhỏ. Vân Thê Pháp vựng ghi: Xưa tại Ô Trấn có vị tăng chùa Lợi Tế, hai
thầy trò đều nổi tiếng được khen rất nhiều, nhờ tụng kinh sám ngày càng lợi
nhiều. Nhân vì đầy đủ sung túc nhưng lại dè xẻn không hưởng cũng không bố thí.
Về sau, mắc bịnh người nhà đón về trị bịnh, chẳng bao lâu bèn qua đời. Khi sanh
tiền lo tích chứa, rốt cuộc để thân tộc hưởng. Mười năm sau ông hiện về báo mộng
cho người thân biết rằng, Kinh tụng chưa đủ, âm phủ hạch tra rất gấp, khổ không
thể tả hết! Người đời còn truyền tụng câu rằng: Điện chớp ánh sáng thấy chữ đọc
hết không lừa dối! Ghi câu chuyện ấy để nhắc nhở cho người hữu duyên. Ngoài ra,
cúng thủy lục trước sau có liên quan tới tụng kinh bái sám tiếp tục không gián
đoạn; kế làm gấp gáp như chọn quan chức, mời Kinh sư, bận rộn như báo tin mừng…
Tụng Kinh sám ngày càng thịnh; đạo đức ngày càng suy. Tòng lâm đến như thế,
không báo động hay sao! Quả là đáng buồn!
(đóng hộc đong lường đồ cúng)
Phàm tiết Thanh Minh, Trung Nguyên, rằm tháng
mười, đêm trừ tịch… lập hộc cúng. Trước tiên ngay hôm lễ buổi chiều dán thông
báo ở phòng khách. Thông báo rằng, tối nay… tại giảng đường thiết hộc (hoặc thí
chủ có việc tùy đó thay đổi). Chính giữa là Hòa Thượng hay Sám Chủ (tùy theo
thay đổi), tả bạch Thầy A, B; hữu bạch Thầy C, D, 4 vị. Tòa chính giữa do chức
sự mời vị chủ sám trình bày rõ tại trai đường. Mời các chức vụ Duy Na, Duyệt
Chúng, Tri Khách, công văn (viết sớ, giấy tờ), ẩm thực, hương đăng, hầu đàn, trà
nước, tiếp tân, thủ quỷ… đều chiếu theo các pháp cựu lập.
Chứng nghĩa ghi rằng: Việc thiết hộc đến
nay phần nhiều là ngụy tạo, nói tóm có 10 điểm. Chiếu theo Mật bộ nghi quy: sắp
sửa muốn cúng thí thực, trước hết phải kiết giới hạn để trở thành nơi thanh
tịnh. Phép kiết giới hạn: lấy cây cắm 4 góc làm móc, lấy dây giăng làm cho
người, vật không vào được phạm vi; sau đó lập đàn thí thực, đàn quỉ thần. Tục
thường gọi là đài Hàn Lâm cũng còn gọi là đài Cô Hồn; và lập 2 bên giới nội bàn
chư tiên linh. Đàn thí thực đến đàn cô hồn khoảng giữa lấy 3 mét vải trắng ngăn
ra 3 đường. Đợi cho tới đầu giờ Tuất, pháp sư cùng vào ngồi đàn. Trước hết tụng
chú đại bi, chủ sám sái tịnh bốn góc đàn tràng, quán tưởng giới nội dùng lực
thần chú và lực quán tưởng biến thành tịnh địa. Vì nền đàn tụng 3 biến chú đại
bi, vị pháp sư trước bàn thí thực đứng ngay chính giữa; tả bạch, hữu bạch xướng,
Kinh sư theo đó quán tưởng giới nội đất tịnh rộng lớn vô cùng. Trống phách khua
vang sáng tỏa 7 vì sao, như xướng A Di Đà Phật thân kim sắc, tất cả đồng xướng
kệ tịnh địa như sau:
Hết thảy cạnh vuông chỗ có đất
Ngói, sỏi, cát, sa mạc đều không
Lưu ly đất báu như bàn tay
Vi diệu uyển chuyển mong an trụ
Như cõi Cực Lạc thật trang nghiêm
Đất báu hoa phô trổ sắc hương
Vườn rừng, ao rạch không thiếu chi
Vì đại pháp âm mong đầy đủ
Vượt ngoài thế gian lại hay hiện
Vô số thất bảo đều thành tựu
Vô lượng ánh sáng chiếu khắp nơi
Mong chư Phật, Bồ Tát an trụ.
Xướng xong, hồi 1 hồi 3 tiếng
trống; pháp sư đọc kệ:
Trước kết đại luân minh vương ấn
Gia trì đàn tràng thảy thanh tịnh
Con nay y giáo tụng mật ngôn
Cho con đều đạt thành như nguyện.
Đọc rồi, liền thầm đọc Chú đại luân minh
vương 21 lần. Chú nêu rõ nghi cách cúng thí thực. Đọc chú xong, tiếp tán:
Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3
lần).
Đây là Mật bộ không ảnh hưởng, không theo
kết giới là một sự thất cách. Lại theo Kinh bổn Phật thuyết tại nước Ma Già Đà,
có chỗ dùng hộc, vì đồ ăn, đồ uống này lượng như pháp giới; thức ăn vô tận. Nay
y cứ theo nước ta (Tàu) một hộc tương đương với 5 đấu (thăng). Phàm thí thực
phải dùng 5 đấu gạo nấu cơm để thành núi cơm; 5 đấu bỏ thùng hấp chín có mùi
thơm, để thành núi rau. 5 đấu nước trong thanh khiết để thành biển sữa mới hợp
lời Phật dạy. Cúng xong, sáng sớm hôm sau đem cơm này chia thành 3 phần:
1- Cho loài sống dưới nước tức tại hồ
phóng sanh hoặc sông lớn, hay biển
2- Cho loài bay tức chỗ phóng sanh
hoặc nơi núi vắng
3- Cho phương khác, tức cho kẻ ăn xin
hay những người nghèo khổ.
Nếu không có chỗ phóng sanh, đem cho người
thiếu thốn nơi biên địa; thấy cơm không đầy một chén, rau không trải một đôi đũa
hoặc ăn ngấu nghiến quả một ít thì gọi là 7 hạt biến 10 phương; nhưng nước hoàn
toàn không có; còn hơn là chẳng biết 7 hạt biến 10 phương, đó là phép cúng thí
xuất sanh 2 bữa ăn mỗi ngày. Lúc chư tăng dùng bữa, nhưng luôn thực hành là dối
thứ nhứt.
Lực hành động, cúng xuất sanh không nhiều, thí thực chuyên làm vậy để duy trì.
Phải cần hình tướng hoàn bị nên y lời Phật dạy, dùng pháp Ma Già hộc nên gọi là
thiết hộc tu trai. Thêm pháp lực thần chú có thể làm cho một món ăn biến thành
vô số thức ăn cung cấp cho hết thảy mọi loài đều được no đủ. Lại sợ các loài lấy
sang khinh hèn, lấy mạnh hiếp yếu, lấn át kẻ cô thế yếu đuối khiến không được ăn
làm mất sự phân đều, vượt ngoài tâm từ của Phật nên thỉnh Tam Bảo và chư thần
linh gia tăng sắc lịnh duy trì của bố thí cho ta. Hết thảy vô ngại, không cao
không thấp, không chọn lựa oán thân mà cho đều bình đẳng. Xưa nay phần nhiều
không theo đúng pháp chỉ dùng đấu (hộc) bằng tay, không đong lường cơm. Đúng là
đồ ăn chưa phân đều, hoàn toàn thành hư thiệt, đó là điểm lấp lững thứ hai.
Lại việc thí thực hoàn toàn chú trọng vào
tự răn có quán Định, quán Huệ, có thủ ấn, có chân ngôn, cho đến ca xướng nhằm
trợ giúp đạo mà thôi. Đây không đắc giới định, không quán tưởng kỹ, tay ấn bắt
sai, chân ngôn mơ hồ, nhằm xướng không cốt để làm đúng việc ứng phó mà vị tăng
không cần làm như thế. Đạo đức tòng lâm cũng bắt chước mà không tế nhận, thậm
chí lấy rượu làm đồ trọng kính, đào lựu cung hiến mà không biết lỗi. Đó là ngụy
tạo gian dối thứ ba.
Lại tế cô hồn nguyên là để gọi việc thí
thực mà chú trọng tới cơm rau nhiều. Nước nhiều, có thể biến khắp nơi làm cho đỡ
khát tới cõi âm; vật cúng loại như áo giấy mà cũng đem bố thí nhưng nay thì đã
chấm dứt. Nay ngược lại, cơm rau, thức uống không hợp nghi cúng Phật dạy; nhưng
gia chủ ham uống mua sắm tốn phí thật nhiều mà không thành tâm tạo niệm cảm
thông; không cứu khổ được cô hồn đói khát. Mãi theo tục cố nhiên đều điên đảo,
là điều ngụy dối thứ tư.
Lại lập đàn tế cô triệu mời các hồn đến,
quan trọng nơi 3 đàn thí: đàn thí ăn uống, những vật tư sanh, thí các thứ đó phá
ngục trừ dứt các tội; vô úy thí là cho 3 pháp quy y 7 đức Phật; và pháp thí là
ban cho giáo pháp giải thoát. Song 3 môn thí này có đủ trước đàn pháp để chúng
được lợi ích, có chiếc đỉnh u minh cũng nên đặt trước đàn; đợi tụng xong chú Tôn
Thắng sau mới đem đốt. Sắp đầy đủ các thức ăn, đúng pháp, đủ đồ vật là đã cứu
đói khát rồi. Lại chuyển sang con đường thiện mới là điều hữu ích. Nhưng trước
cúng Diệm Khẩu chưa triệu quỉ xong mà đã tới trước che lối đốt đĩnh u minh khiến
bọn quỉ không được đầy đủ 3 pháp. Vì chúng quỉ thọ đồ minh khí nên không nghe
được pháp; thọ thức ăn, yêu pháp là quỉ mất đồ minh khí. Ngoài ra, không đốt đồ
minh khí trước đàn thì không linh kỳ, giám quan tin bọn quỉ kia ỷ mạnh khi yếu
giành lấn không trừ, thí không bình đẳng. Hoặc cây đào lựu ở bên, liền hóa giấy
tan đồ ăn là quỉ sợ khiếp không dám tới nhận, hoặc đốt lửa chưa cháy hết mà quét
tro, làm tan bột không dùng. Ngay việc đời chẳng biết đó là trái, là dối thứ
năm.
Lại nữa, thí đàn pháp thực toàn phát xuất
từ Mật bộ (Mật giáo) nay chỉ nói sơ lược. Dùng 2 chiếc bàn vuông lớn, một cái
phía trước thiết bàn Phật cao hơn, rồi tới lư hương, chân đèn, bình hoa, dĩa
quả. Ở bàn thứ nhì, hoa, hương đèn, đồ quả, nhạc. Tượng Mẫu lục thiên hoặc lấy
gỗ chạm, hoặc dùng đồng nhuyễn đúc với nhan sắc y trang đẹp. Sáu vị mỗi vị một
màu, một mặt, 4 tay đồng kiết ấn; 2 chân, chân trái múa, chân phải quỳ. Hai tay,
mỗi tay cầm sách dâng lên, mặt hướng về Phật. Hoa Mẫu cầm hoa, áo màu hồng nhạt,
tiêu biểu ban thí. Hương Mẫu cầm hương, áo màu vàng, áo giới. Đăng Mẫu cầm đèn,
áo màu hồng, tiêu biểu nhẫn. Đồ Mẫu bưng nước, áo màu trắng,tiêu biểu tấn. Quả
Mẫu cầm quả, áo vàng hồng, tiêu biểu định. Nhạc Mẫu cầm nhạc khí, áo màu xanh
lục tiêu biểu huệ. Duới chân tượng đạp lên hoa sen, dưới hoa đều có chữ Án hồng.
Chữ đứng ở mặt đài. Đại chúng xướng chữ Hồng phát ra dõng xuất. Lúc tán, pháp sư
tay không cần bắt ấn, chỉ lắng lòng nhắm mắt tưởng sắc tướng 6 mẫu thiên theo
mỗi hướng một chữ Hồng. Chữ Án dõng xuất, đã hiện rồi mặt tay phóng quang. Mỗi
mẫu cầm hương, hoa v.v... cúng dường Tam Bảo, đây gọi là vận tưởng cúng dường.
Hàng thứ ba kiệu Phật ở giữa vẽ giống như hình bảo tháp, bên trong đặt hình Phật
Tỳ Lô Giá Na. Sau kiệu Phật đặt một cành tre trên có móc nhỏ treo một lá phan,
viết chính giữa Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Ngoài ra, ở 4 hướng đặt 4 tượng Phật mặt
hướng vào Phật chính giữa. Sau ngọn lửa liên tòa đang cháy cũng có một cành tre
trên đầu có móc nhỏ, 4 phía đều treo mỗi bên một lá phan trên đó viết: Đông
phương A Súc Như Lai, Nam phương Bảo Sanh Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như
Lai, Bắc phương Bát Không Thành Tựu Như Lai. Hai bên Phật giữa lại đốt một cây
đuốc lớn. Sau Phật trung ương tức là sau bàn bát tiên, hàng thứ nhất dùng giá để
một kiếng lớn lên tượng trưng cảnh đàn, chỗ Chuẩn Đề thuyết pháp. Trước tấm
kiếng là bàn Mạn Đát, sở dĩ nói Mạn Đát vì gọi theo tiếng Phạn, Trung Hoa gọi là
Đàn. Đàn này dựa theo một thế giới mà luận chung, không phải chỉ nói có một châu
Nam Thiệm Bộ; đàn như núi Tu Di của trung thế giới. Chỗ tòa pháp sư ngồi như
châu phía Nam, 4 châu đều chầu núi Tu Di. Châu Nam ngồi phía Nam hướng về phía
Bắc; sau đây dựa theo phương Nam mà luận. Núi Tu Di ở phía Bắc, vị trí của Nam
Bắc đã định thì châu phía Đông hợp bên phải, châu phía Tây hợp bên trái. Nương
theo đây bày gạo nhập quán. Trước Kinh sư là bàn đặt hoa, gạo, chày, linh; 2 bên
theo nghi thức có 4 bản khác nhau, đây là bản quy định chính. Trước kia phía
trước đàn, ngụy dùng 5 phương đồng tử, giữa đàn bày cúng nước, trái cây, chẳng
biết Phật quá ngọ không dùng; sao còn dùng quả, thức ăn đặt bày ra trước đàn?
Lầm lấy hướng Nam trên hướng Bắc dưới; Tây bên phải, Đông bên trái, là ngụy tạo
thứ sáu.
Lại, văn thí thực một cuốn dày, phần sau
nửa cuốn trong đó có cả kệ văn, ấn chú đều nên tụng chậm rãi. Nửa quyển trước từ
phần mở đầu đến triệu thỉnh Địa Tạng đều là cầu Phật Pháp Tăng Tam Bảo chứng
minh, xin tế độ bạt trừ khổ mà thôi. Chỗ có kệ có thể cao giọng xướng tụng khoan
thai trầm bổng. Ngày nay trái lại trước tiên ở dưới đàn tất cả thiết trí phía
trước, mọi phần tụng niệm, thậm chí thượng đàn và nhẫn đến thỉnh riêng biệt than
kể mỗi mỗi cao xướng, hòa hưởn lúc yên vắng; ngay đến phá ngục triệu thỉnh ngạ
quỉ, cũng như đọc chú Tôn Thắng, nên phải vận tâm quán tưởng tụng hòa hưởn đi
đến gấp rút như gió thổi. Thậm chí tụng Kinh chưa xong mà thu dọn đàn, trên là
khinh mạn Phật thánh, dưới dối trá quỉ thần. Cả việc đời không biết đó là điều
dối thứ bảy.
Lại việc thí thực, kiết giới thượng đàn hợp
tại cuối Dậu, đầu Tuất trong khoảng 2 giờ Tuất, Hợi hoàn toàn thuộc ban đêm (âm)
là thời gian quỉ thần không sợ. Thí thực cho họ lúc đó hẳn thọ được nhiều lợi
lạc hơn. Giờ giao nhau là đầu giờ Tý dương khí chuyển thạnh nhưng khí âm suy,
quỉ sợ hãi, cúng thí pháp thực, bọn quỉ không dám tới thọ. Sát tới gần giờ Mậu,
Mùi còn chưa đăng đàn đến canh 5 mới xong, hoặc một đêm đăng đàn 2, đăng đàn 3
là hao tốn đồ vật, lừa đảo quỉ thần. Chỉ biết rõ tâm nguyện không nghĩ tới âm
linh, đó là điều dối thứ tám.
Lại thí thực là kết duyên rộng cùng chúng
quỉ, trước hết nên ban cho họ pháp vô úy. Vì thế trước kết giới hạn không cho
người vật nhập vào giới nội để làm cho đàn tràng được thanh tịnh; lợi ích người
còn sống và loài quỉ cõi âm. Âm thường sợ dương nên trước đàn thí thực không
người nào được chạy qua lại. Giá như bất đắc dĩ nên đứng phía sau đàn. Gần đây
hoặc vì ngày Vu Lan Thắng Hội tiêu biểu, hoặc vì cầu được bình an là chính mà
kết đầy đèn giấy treo khắp chỉ thần, mời gọi nam nữ tụ tập như xem trò vui chơi,
quán sát những màn lạ mắt, đôi khi cả đại nhạc hội làm náo nhiệt; thuần lấy khí
dương của người lấn át đó, xua đuổi quỉ thần tránh xa, không dám tới theo lời
mời thỉnh; còn tổ tiên của bản địa cũng sợ mà lánh sang một nơi khác. Như thế dù
cho có bày đồ vật cúng cũng khó mà kết nạp quỉ tới thọ hưởng; trái lại còn làm
quỉ giận nữa. Việc đời chẳng biết, đó là điều dối thứ chín.
Lại khảo cứu nơi kinh tạng, duyên khởi ban
sơ của việc thí thực, chỉ Phật thuyết Kinh cứu bạt diệm khẩu ngạ quỉ Đà La Ni,
do Ngài Bất Không dịch. Ngoài ra, Ngài Thật Xoa Nan Đà dịch là Kinh Phật thuyết
cứu diện nhiên ngạ quỉ Đà La Ni thần chú, tức dịch trùng Kinh trên, mà đầy đủ
chỉ có biến thực chân ngôn mà thôi. Ngài Bất Không lại dịch: Du Già Tập Yếu,
Kinh cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu nghi quỉ. Nối tiếp A Xà Lê lại cũng dựa Kinh
này đưa vào chi tiết là Du Già Tập Yếu, Diệm Khẩu thí thực nghi quỉ. Quyển này
hiện còn thấy trong Đại Tạng, đơn giản quan trọng chỉ một điều là triệu thỉnh
chung pháp giới 6 loài, và nghi triệu thỉnh ngạ quỉ ấn chú v.v.. Không nại người
đời, thích trau chuốt miệng lưỡi thêm triệu thỉnh riêng, thán kể v.v.. những
việc đời, thường gọi là Hải Thượng Diệm Khẩu là đây vậy. Thậm chí như tìm lục
trong Đại Tạng nguyên bổn tra xét nhưng không gặp. Nối pháp có Thiên Cơ đại sư
mắt thấy đi trên biển là trái lời Phật dạy. Lược bớt, bỏ chỗ phức tạp rườm rà
không hợp ý người sau. Nhưng thêm vào phức tạp là sách lưu thông tới ngày nay.
Ngoài ra, y cứ sách Vân Thê, khảo cứu bản chánh đều không thấy có kết giới ngũ
phương. Xưa nay việc tốt hơn hết nên mời 5 vị pháp sư thiết 5 đàn đông, tây,
nam, bắc, trung ương 5 đàn pháp. Đương nhiên gọi là 5 phương kết giới; nên như
phần trên nói về kết giới để kiết giới; tức 4 phương 4 vị pháp sư, mỗi vị nên
trì một bài chú: Đông Bắc chú Lăng Nghiêm, Đông Nam chú Đại Bi, Tây Bắc chú Tôn
Thắng, Tây Nam chú Tùy Cầu. Ngày nay 4 phương bỏ trống mà chẳng trì chú, dối
xưng niệm quán, đó là điều ngụy thứ mười vậy.
Trên đây là 10 điều dối, thiếu nghĩ suy
không lợi ích mà còn e có tổn hại nữa. Tục ngữ có câu: đoản thọ miệng lửa, đúng
là đây vậy. Người cúng thí thực há không thận trọng ư? Vì thế, muốn học cúng thí
thực, ngoài phải đổi 10 điều dối này thành 10 điều chân thật, trong phát tâm vô
thượng Bồ Đề, trước tập quán chiếu và các ấn chú đều làm cho thuần thục không
được sai lầm. Nếu như lỗi lầm không thành khế ấn, hiền thánh không hoan hỷ. Phàm
việc cầu nguyện mà không đạt thành tựu, người chủ trì phải biết đó. Sách chư gia
thí thực sớ có giải thích điểm này.
Xông hương tháp, trai chủ và quý Thầy, mỗi
vị cầm hương mà đi nhiễu tháp, nên gọi là xông hương tháp. Nay chỉ tụng kinh mà
không cầm hương làm mất chỗ cung kính.
Trai chủ đến phòng khách nên tiếp mời cơm
nước giống chư tăng; lập tức thông báo như sau: hôm nay… giờ, có đạo hữu… tới
xông hương tháp, xin mời …vị như danh sách dưới đây…A, B, C, D…liền báo cho tháp
chủ, trên dưới trong ngoài tháp quét dọn sạch sẽ. Cử 2 người vô kho lấy đèn dầu,
đèn bảo, đèn bàn, chén nhỏ các thứ. Mỗi chén để dầu đầy, đèn bảo 7 ngọn. Tới giờ
tập họp chúng để xông hương tháp, Thầy Tri Khách mời trai chủ niệm hương, Thầy
Duy Na cử tán bài: Lư hương… Thí chủ lễ 3 lạy xong, Duy Na bắt tán bài kệ nhiễu
tháp sau:
Cung kính quán tháp
Nguyện cho chúng sanh
Người và chư thiên
Cùng được chiêm ngưỡng.
Đi nhiễu bên hữu tháp
Cầu nguyện cho chúng sanh
Bước đi không trái nghịch
Thành tựu nhứt thiết trí.
Nhiễu tháp 3 vòng
Nguyện cầu chúng sanh
Đạt thành Phật đạo
Tâm không giải đãi.
Tán kệ xong, Duy Na cử nhịp, đại chúng tụng
hòa như:
Nam Mô Đa
Bảo Như Lai,
Nam Mô Bảo
Thắng Như Lai,
Nam Mô
Diệu sắc thân Như Lai.
Nam Mô
Quảng Bác thân Như Lai,
Nam Mô Ly
Bố Úy Như Lai,
Nam Mô Cam
Lồ Vương Như Lai ,
Nam Mô A
Di Đà Như Lai.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Vừa tụng vừa đi nhiễu, bắt đầu từ hàng đầu
đi phía tay phải, tiếp theo hàng thứ hai cho tới hàng sau cùng, đều đi nhiễu 3
vòng. Rồi từ trên xuống dưới cũng đi nhiễu 3 vòng như vậy. Xong Duy Na dứt niệm
Phật, liền bắt sang bài kệ tán thán tháp:
Đảnh lễ tôn tháp
Nguyện cho chúng sanh
Hết thảy nhân thiên
Không thể thấy đảnh.
Tán xong Duy Na xướng lễ:
Nhứt tâm đảnh lễ Đa Bảo Như Lai, (7 Phật
như trên) Thích Ca Mâu Ni Như Lai, chúng đều lạy 48 lạy, ít nhất là 12 lạy.
Trước giờ ngọ phải cúng ngọ, nếu sau ngọ, không phải cúng. Mỗi ngày 3 lần hoặc 2
lần tụng Kinh tùy ý, tối lại đốt đèn để cho tới sáng hôm sau, lại đi nhiễu xông
hương tháp như trên một lần nữa.
Duy Na đọc sớ như sau:
Lại vì, thấy ánh sáng của xá lợi lung linh
trải cùng khắp pháp giới, cao rộng như cõi Diêm Phù Đề phảng phất biến chiếu cõi
nhân thiên. Rưới nước thơm xin quét bụi bặm, đốt đèn sáng mà giao bái, hết lòng
thành khẩn thiết, ngưỡng mong chiếu soi.
Kế đến vào hương quán (đền miếu làng),
ngày… tháng… năm… vì việc…
Thành tâm niệm (tên)…trải qua bao kiếp trôi
lăn không ngộ nhập cảnh giới thay đổi của Pháp Hoa, nhiều đời đắp đổi gặp được
ánh sáng tàn nơi hai cây song thọ, may nhờ ở đó có bảo tháp nguy nga, tin pháp
thân Như Lai thường trụ; vui mừng tu tập hạnh nguyện bày tỏ để
chí thành cung kính. Hôm nay ngày…tháng…năm… chuẩn bị đầy đủ hương hoa, đèn nến
cung tựu (tên) chùa, đảnh lễ bảo tháp, xưng dương Phật hiệu…lần, đốt đèn…đêm;
kết nạp nhân lành này mong đáp đền ân đức sâu dày.
Lại nguyện, lọng báu che không, nhạc trời
tấu khúc, phạm âm vi diệu. Sen vàng vọt khỏi đất, hoa chiên đàn tung rải đó đây,
Phật hiện thân tướng đẹp ở Ta Bà, khiến chúng sanh đều biết quy ngưỡng. Phật
phóng hào quang ở cõi trần sát, đưa muôn loài vượt khỏi biển khổ. Nhân lễ xưng
tán hôm nay, mong kết thành quả vị Bồ Đề.
*Như có việc nguyện cầu gì nên cho vào đây.
Chỉ một điều là không được gần việc thế tục mà xa rời Phật pháp; phải chí thành
suy nghĩ cho kỹ.
Sớ như trên là cung thỉnh Tam Bảo chứng
minh, văn sớ xông hương tháp, ngày…tháng…năm.. (tên) cẩn sớ.
Đọc xong, đốt sớ như thường lệ. Tiếp đọc
hồi hướng:
Xông hương tháp công đức hạnh nhiệm
màu….
Phục nguyện và cuối cùng là 3 tự quy y.
Chứng nghĩa ghi: trong nghi nhiễu
tháp này có 4 bài kệ, trích từ Kinh Hoa Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh. Lại trong Đại
Tạng có Kinh Công Đức nhiễu tháp 1 quyển. Phật dạy việc nhiễu tháp thù thắng cao
quý không thể nghĩ bàn. Người xưa nói rằng, không có việc gì đừng lên điện Phật,
đợi lúc rãnh mới đi quanh tháp, nếu không quét dọn rưới nước thơm, dù phước như
vua chuyển luân cũng tiêu sạch. Bởi bảo tháp là nơi gìn giữ pháp thân chư Phật
nên phải tin và ngưỡng mộ. Lúc hiện đời tăng thiện giảm ác, mà lại lễ lạy được
phước không thể đùa cợt, giởn chơi được. Viết ra đây để cảnh cáo những ai ngày
nay vui đùa trước điện Phật cũng nên cận thận vậy.
Đốt đèn tháp Dược Sư như Kinh ghi rằng, nếu
có người bịnh muốn thoát khỏi bịnh nên vì người ấy mà thọ 8 pháp trai giới 7
ngày 7 đêm. Phải sắm đồ ăn thức uống và các thứ tùy sức mình đem cúng dường tỳ
kheo tăng; ngày đêm 6 thời lễ lạy tu tập, cúng dường Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai, do tụng Kinh Dược Sư 49 biến, đốt 49 ngọn đèn, tạo 7 hình tượng Dược Sư Như
Lai, trước mỗi tượng để 7 ngọn đèn cho đến 49 ngày ánh sáng cháy mãi. Làm tràng
phan 5 sắc, phải phóng sanh các loài chúng sanh, đến ngày thứ 49 thoát khỏi mọi
hoạn nạn khổ ách, không bị các hoạnh họa, ác quỉ làm hại.
Y cứ theo Kinh này, đàn tràng cúng rất là
đơn giản dễ thực hiện. Nay đổi lại đốt đèn tháp Dược Sư. Đó là y cứ theo Đại
Quán đảnh bộ hình thành. Nếu không có đèn tháp, nhưng theo Kinh vẫn đốt đèn cúng
được. Lại nếu không có tượng 7 đức Phật bên trên phải treo hình 12 đại tướng
Dược Xoa, phan 5 sắc và các thứ trang nghiêm khác. Hoặc tụng Kinh hay lễ sám,
một ngày, 3 ngày, 7 ngày cho đến 49 ngày, tùy ý trai chủ. Sau đó đọc sớ hồi
hướng như sau:
Mong vì, mặt trời trí tuệ tròn sáng soi
khắp 10 phương thế giới; đèn trí sáng ngời phá tan u tối của địa ngục theo 12
lời nguyện, vượt biển khổ ba kỳ (ba đời).
Tiếp theo: đình làng…ngày…tháng…năm.. cầu
việc gì…
Cung kính: Mười hai nguyện thệ độ hết trầm
luân, 49 ngọn đèn soi rọi ánh sáng tới khắp chốn u minh, 7 từng thấu tận tới
thiên cung, ba đức gội nhuần khắp mọi cõi. Mạng sống lâu đến vô cùng, đức rộng
sâu khó so lường.
Nay ngày… tháng… năm… cung tựu tới (tên)
chùa…
Lại nguyền: vô minh phá sạch, tánh giác
hiển bày, thường chiêm ngưỡng Kim dung (Phật) như trăng rằm, luôn thấy xe ngọc
cõi trời rợp bóng từ khắp chốn, tai nạn hoàn toàn tiêu dứt. Nguyện giáo pháp lưu
truyền mãi mãi bền lâu. Cung thỉnh Tam Bảo chứng minh xét soi chứng sớ.
Ngày…tháng…năm… đệ tử…chí thành dâng sớ.
Đọc xong, đốt sớ. Tiếp theo tụng: Đốt đèn
công đức hạnh nhiệm màu…
Ngoài ra, cũng có thể đốt đèn cúng vong
linh người quá cố, có ghi đầy đủ như trong Kinh Bổn.
Chứng nghĩa ghi rằng: có thể cúng đọc
danh hiệu 7 đức
Phật, y cứ theo Kinh Dược Sư 7 đức Phật đó là:
1- Thiện Minh Xưng Kiết Tường Vương
Phật,
2- Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quan Âm Tự
Tại Vương Phật,
3- Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành
Tựu Phật,
4- Vô Ưu Tối Thắng Kiết Tường Phật,
5- Pháp Hải Lôi Âm Phật,
6- Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần
Thông Phật,
7- Dược Sư Lưu Ly Quang Phật.
12 tràng phan tên 12 vị thần Dược Xoa
như sau:
1- Đại tướng Cung Tỳ La – Kim Long
Thân Thủ Oai Quang Đồng Vương
2- Phạt Chiết La Đại tướng - Chấp Kim
Cang xử đồng nhan trường thọ
3- Mê Sý La Đại tướng – Yêu Thúc Kim
đới đa chủng phước thiện
4- An Để La Đại tướng – Trú Trì 10 đại
danh sơn
5- Át Nể La Đại tướng – Thân như cõi
tịnh châu hương quang nghiêm
6- San Để La Đại tướng - Thủ quang hoa
mấn hiện hình thạch nữ
7- Nhơn Đạt La Đại tướng – Hay vì
thiên chủ hộ trì điền địa
8- Ba Di La Đại tướng – danh hiệu Kình
ngư đủ các huyễn thuật
9- Ma Hổ La Đại tướng – hành đồng long
mãng chấp nhựt hý nhạc
10- Chân Đạt La Đại tướng - đầu có một
sừng, người thấy liền khởi nghi
11- Chiêu Đỗ La Đại tướng – Oai nghiêm
như sát thân sáng như nguyệt
12- Tỳ Yết La Đại tướng - rộng tìm
thiện nghệ giáo hóa tự bổn.
Lại Kinh bổn ghi rằng, đem thiện căn này
nguyện sanh về cõi Tây phương Cực Lạc, của Phật Vô Lượng Thọ, được nghe chánh
pháp mà chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
thời lúc lâm chung có 8 vị đại Bồ Tát theo hư không hiện đến dẫn đường người đó
liền sanh về Cực Lạc quốc; tự nhiên hóa sanh hoặc nhân đây được sanh lên cõi
trời, nhẫn đến sanh trở lại làm người nhân gian. Y cứ theo đó, niệm danh hiệu
Phật có thể độ thoát vong linh mà tiến bạt vãng sanh.
Đốt đèn cũng có thể độ thoát hương linh mà
tiến bạt vãng sanh; không những hiện đời tai họa tiêu, mạng sống kéo dài thôi
đâu. Nghi cúng bên trên, xem chương báo bổn ở trước, như nghi thức lễ Khánh Đản
Phật Dược Sư.
Tiếp đón trai chủ như đã ghi rõ giống tiếp
mời chư tăng, liền ra thông cáo là Phổ Phật, đến giờ thỉnh đại hồng chung 3 hồi
3 tiếng hoặc hiệu lệnh thường nhật như mộc bảng, vân bảng hoặc khánh (bảo
chúng). Đại chúng vân tập chánh điện, Tri Khách chỉ trai chủ niệm hương, lễ Tam
Bảo.
Duy Na cử tán: Lư hương sạ nhiệt… tụng Kinh
Di Đà, đại sám hối hồng danh chư Phật, nhiễu Phật kinh hành niệm Phật 1000 lần,
lạy 12 lạy Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng, hải chúng mỗi vị 3 lần; đọc
sớ, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, 3 tự quy y. Phần đọc sớ có thể đưa ra
trước, sau bài tán lư hương…
Nếu siêu độ hương linh, sau phần niệm Phật,
tới trước bàn linh cúng tiến hương linh. Đốt sớ, hồi hướng xong, Thầy Tri Khách
hướng dẫn trai chủ lễ tạ chư tăng.
Phàm tòng lâm có việc công, tại phòng khách
gõ 3 hồi 3 tiếng bảng, 2 dãy liêu chúng tề tựu nơi phòng khách, tuân theo quyết
định trình vị Trụ Trì rõ, Trụ Trì chấp thuận mới làm; nếu không chấp thuận nên
bàn thảo lại. Nếu có người tranh cải, thủ chúng đứng lên dàn xếp. Tri Khách đem
xử tội v.v.. Mỗi trường hợp chiếu theo sự tình mà xử phạt nặng hoặc nhẹ. Nếu
phạm giới căn bản tội trọng hoặc gây sự, gây họa trầm trọng, bạch Hòa Thượng
Phương Trượng đưa ra xử trước chúng hoặc báo với tư pháp, hay tự tuyên bố đuổi
khỏi chùa. Sắp đuổi chúng phải dán niêm yết rõ trước cửa sơn môn. Lúc dán giấy
tẩn xuất phải thúc trống lớn 3 hồi 3 tiếng họp chúng để đưa ra khỏi chùa. Người
bị đuổi, phải theo lối đi nhỏ bên cửa mà ra. Nếu có bọn đảng xấu tới ủng hộ,
đồng lúc tống ra khỏi viện. Nếu vung tay chửi thề, xỉ vả không luận hữu lý vô lý
đều mời ra khỏi viện. Nếu lớn tiếng xăn tay hung hăng, tốt nhứt nên làm thinh
không phản ứng. Cứ theo lý luận lý đuối, chỉ còn biện pháp cho ra khỏi viện là
hợp lý nhất; hay lặng thinh không phạt. Nếu đuối lý làm thinh đối lại kẻ lớn lối
đều là cách phạt công khai giữa chúng. Kẻ ương ngạnh đuổi ra khỏi chùa hoặc phạt
sám hối, lạy trước đại chúng, quỳ gối ở trai đường, trị nhựt phục vụ cơm nước
chư tăng, tác bạch như:
-
Hôm nay, con.. phạm lỗi gì? Ở trước chư tăng
cầu xin sám hối.
Đại chúng cùng đáp:
-
A Di Đà Phật.
Thầy Trụ Trì khai thị với người phạm nội
quy.
-
(Tên)… Thầy đã ở tòng lâm phải giữ gìn Thanh
Quy (nội quy) cẩn thận, rộng tu thiện pháp. Tại sao trái lại làm việc không biết
hổ thẹn như thế này! Nay Thầy (huynh) đã cầu xin chúng sám hối, phải thành thật
sửa đổi lỗi lầm để làm mới lại. Nếu tái phạm căn cứ theo Nội Quy sẽ phạt cho
Thầy ra khỏi viện. Ngoài đời luật pháp xử phạt, chết đi thọ báo nơi 3 đường dữ
há không đáng sợ sao? Thầy có thật sự sám hối sửa đổi lỗi lầm không?
Đương sự đáp:
-
Mong Hòa Thượng từ bi thương xót, con… con xin
thật lòng sám hối.
Đáp xong, đứng dậy lạy Hòa Thượng Phương
Trượng 3 lạy (hoặc Trụ Trì) và xá đại chúng 3 xá. Xong kết trai hồi hướng và chư
tăng đồng đứng lên lui ra khỏi trai đường.
Nếu người phạm tội nhẹ, phạt quỳ một cây
nhang hay phạt làm việc nặng trong chúng. Ngoài ra, phạm xâm vào sự yên tịnh đều
theo qui định phạt quỳ hương, hoặc để sửa lại lỗi lầm, bắt gióng chuông, đắp y
quỳ trước trai đường hầu chúng thọ trai, hoặc tại phòng Phương Trượng, trước các
liêu chúng, tại chánh điện cầu xin sám hối chừa lỗi. Phàm quỳ hương là phạm qui
củ thiền môn; quỳ tại chánh điện là phạm ngoài tòng lâm. Quỳ hoặc nơi điện Phật,
hoặc trai đường phải là nơi chúng cùng thấy rõ. Quỳ ắt chấp tay quỳ gối cảm nghe
như người buông lung dùng roi gậy phạt đòn vậy. Phần này có trình bày đầy đủ ở
mục nói về qui ước các đường ở sau. Lại nếu phạm việc ngoài do Tri Khách phạt,
nếu phạm bên trong nội tự do Duy Na phạt, phổ biến ra ngoài không thể được. Lánh
nặng tìm nhẹ không nghe lời Tri Chúng, Giám Viện phạt căn cứ theo tuổi tác. Như
ở non cao không tuân Nội Quy, trước hết do Tri Khách cử tội và trình Hòa Thượng
Phương Trượng dạy dỗ.
Chứng nghĩa ghi rằng: Tăng chúng nên
tôn trọng gìới luật Phật dạy, đâu thể vi phạm Thanh Quy. Nếu như có phạm, trừ
tội danh nặng hình sự ngoài cơ quan tư pháp xử ra, nếu ông tăng tự mình can phạm
nên đem Thanh Quy xử phạt. Nếu phạm việc tranh cải, hoặc phạm hạnh ô uế buông
lung, hay nhũng lạm của thường trụ, hoặc dối đoạt tiền vật tư nên nhờ gia đình
khuyên không cho tiếng xấu ra ngoài. Bởi lẽ, được gọi là con giòng họ Thích làm
mẫu mực đâu giống người thế tục, nên giữ gìn phép Tổ, tùy theo phạm giới trọng
họp chúng để tẩn xuất; nếu nhẹ phạt công tác, phạt quỳ, nhưng chỉ rõ để người ấy
thấy. Tội liên quan tới tiền, đồ vật như nợ, tìm cách bồi thường, song thẳn thắn
mà thành thực khiến đương sự tự cải hối. Cổ Thanh Quy có bài tụng:
Trộm của và đánh nhau
Tửu sắc nhiễm tăng hạnh
Mau lìa chúng tịnh thanh
Dung dưỡng bại hoại sanh.
Lại cũng nói:
Phạm trọng đốt y bát
Phải họp chúng xem xét
Dây núi hờ lay trốc
Cửa chùa mời ra gấp.
Ngày xưa Đại Huệ thiền sư ở chùa A Dục
Vương đưa tới công đường xử, vì tăng chúng cải chỗ vô minh. Hẳn đó không phải
tăng hữu lý hay vô lý đều cho ra khỏi viện. Nếu xét thấy hữu lý mới nên đuổi,
hoặc còn nghi chưa quyết chắc chẳng biết tăng đó như thế nào nên nhẫn nhục. Nếu
chấp lý mà tranh cải tức là vô minh, cho nên cũng cho ra khỏi chùa, nhẳm để tôn
trọng qui cách tăng đoàn vậy. Sách Ngu Am Chích cổ ghi rằng, xưa đệ tử Ngài Viên
Thông Pháp Vân thiền sư là Minh Thủy Tốn làm thị giả (hầu cận), gặp Lâm Thiền Sư
quảy chiếc áo; Tốn mời khách tới dùng trà. Thiền sư Lâm bảo y đi ra, Tốn lấy tay
nâng giường ông tăng kế bên lên di động một lúc bỏ đó luôn, tới gặp Ngài Phương
Trượng. Chỗ ngồi không thấy Lâm, sư Viên Thông đi mời đến bèn khiến chỗ ngồi mất
đi. Đứng trước đại chúng Ngài trách rằng:
-
“Sơn môn lễ kính để bày tỏ sự tôn trọng, lại
khinh nhờn, tại sao?”
Thiền sư Lâm nói:
-
“Cái trống lịnh rỗng bên trong…”
Cho nên về sau không dám khinh thường nữa.
Ngài Viên Thông ban lời khuyên nhưng có ý
trách rằng:
-
Cái trống của Ta chẳng phải ba đậu đánh trúng
nước tiểu Ngài chăng?
Tốn ra trước thỉnh thị rằng:
-
Con thất lễ, nên phải phạt.
Ông tăng giường bên đứng lên nói:
-
Việc này không phải lỗi của thị giả, tội mới
xảy ra cũng chẳng biết, tôi nhận đỡ giúp nhưng sơ ý, nên phạt cho ra khỏi chùa.
Ba người bàn tính không dứt, Viên Thông
nghĩa cử cao đẹp rộng dung tha thứ đó. Ôi! tiêu biểu chúng như thế đó, nhận lỗi
như thế đó! Cao vòi vọi đáng ngưỡng phục, xứng đáng gọi là sư biểu. Hoặc cũng
nói, có ác tăng phải can ngăn thời không theo phép tẩn xuất nên không thể thí dụ
được. Việc cương thường – luân lý - ở đời theo pháp quốc gia không thể lấy pháp
tăng xử được, phải ứng xử ra làm sao?
Trả lời: Việc này nên tùng quyền tùy nghi,
không nên chấp nhất. Chấp nơi hộ trì pháp mà ngược lại làm pháp diệt vậy. Vì cầu
toàn nơi một người mà làm thiệt đến Tam Bảo; thà giữ Tam Bảo toàn vẹn mà chỉ làm
hại đến một người. Nếu ít không có phương hại nên dựa Thanh Quy lượng xét từng
việc, nếu có phương hại ương ngạnh gian xảo không thể cải hóa được nên đưa ra
pháp luật, chiếu theo vương pháp xử trị, không được tha thứ.
Như cho rằng, tâm Phật là nhân từ, nay áp
dụng Thanh Quy quá nghiêm khắc, há chẳng không theo ý Phật sao?
Đáp: Người không biết nghiêm khắc của Thanh
Quy, không nghiêm nhưng khích lệ đó là nghiêm, là nghiêm của nghiêm chính. Lấy
nghiêm chính khiển tăng, tăng chúng trang nghiêm; lấy nghiêm chính duy trì pháp,
pháp đứng vững. Lấy nghiêm chính nhiếp tâm tâm địa chánh, cho nên khiển trách
đó, tẩn xuất đó đều là từ bi vậy. Lấy nghiêm làm từ là đại từ vậy. Nếu như dùng
bất cứ một mưu toan nào có tính hung bạo để thị uy; lấy nghiêm chính của Thanh
Quy xử phạt thật là cốt lõi vậy. Không thể chẳng bàn câu hỏi này trích từ sách
Vân Thê Pháp vựng.
Cổ Thanh Quy biết phỏng theo tâm lý khách
quan người đời nên gọi là hành đồng. Ngày nay ở tòng lâm dùng chữ tăng nên không
cần phải gọi là hành đồng, cần phải biết. Hành
đồng mà ở tòng lâm tùy theo hạng tăng, cũng gọi là tùy chúng. Xưa, người ở ngoài
phát tâm xuất gia hay người muốn xin cầu học; sợ họ gian, thật - giả khó lường
cho nên trước phải cho 3 pháp quy y gọi là hành đồng. Cũng còn gọi là Tịnh nhơn.
Chứng tỏ người đó có hạnh thanh tịnh vào Tam Bảo mà không bị 5 món dục ràng
buộc. Từ đó được giao công việc phục dịch công quả thừa hành phận sự. Lạm gọi là
đạo nhơn (tịnh hạnh nhơn) nói theo thuyết vô vi; Tam Quy là vui khoái vậy. Phật
Ân thiền sư dạy rằng: từ lúc nhỏ lìa cha mẹ trước hết quy y Phật Tổ, sáng sớm
kinh kệ chuyên cần, ban đêm mặc niệm tham thiền; được giao công việc nên chu
toàn; vật của thường trụ phải yêu quí giữ gìn, một hạt gạo nặng ngàn cân. Có
người hỏi nên đáp ra tiếng; nếu phải tiếp xúc không nên càn rỡ suồng sã. Phát
ngôn nhỏ nhẹ ôn tồn; ra vào nên thúc liễm thân tâm; bước đi oai nghi nghiêm túc.
Ra khỏi chùa gặp chư tăng nên hỏi thăm, vẫy tay chào tiễn. Đã xả tục tất nhiên
phải tôn trọng quy tắc tòng lâm, lúc vị thầy lớn dạy khuyên, không được lớn
tiếng cải lại. Ban ngày rảnh việc nên đọc sách học hỏi những điều kinh điển dạy,
ghi lại cho dễ nhớ. Cẩn thận cùng thay nhau làm việc đừng coi thường Tam Bảo. Áo
ngắn đen, áo dài chớ khoe mới tốt, phải tế nhị bó buộc thân tâm, chớ để nhiễm
sâu tình đời. Nghĩ kỹ 6 đường luân hồi đáng khiếp mà lo tự răn nhắc. Người xuất
gia cần phải vâng lời Phật dạy, không tin là thọ khổ trong 3 đường ác. Để tâm
phụng sự chư tăng, kính tôn Tam Bảo ban ân phước; tuổi nhỏ phải kính trên hòa
dưới, tửu nhục, đỏ đen chớ nên rình mò la cà; rãnh nhàn không nên bàn nhiều mà
luôn luôn nghĩ tới lời Phật dạy. Đâu thể để luống qua tấc bóng, sau khi chết
trông cậy vào đâu. Không khéo chỉ cô phụ bốn ân, lại cũng phiền lụy đến tiên tổ.
Từ bỏ gia đình cắt đứt yêu thương, tìm thầy học đạo là ý muốn xuất trần cứu độ;
khẳng khái quyết chí tu hành, luôn luôn tỉnh giác luân hồi nơi tâm niệm. Muôn
kiếp mới làm được thân người nên biết hổ thẹn kiếp sau mà trừ bớt ham mê ngủ
nghỉ. Điều phục thân tâm nhẹ nhàng từng giới một áp dụng thật cẩn mật. Trưởng
thành là bậc thầy vững vàng lo tham thiền để báo đáp ân đức Phật mà quyết cần tu
pháp môn đốn ngộ. Đời này may mắn được xuất gia, khó gặp mà gặp được, trong mỗi
niệm không lui sụt thiện căn, tâm luôn trưởng dưỡng giác đạo. Nếu tu hành được
như thế ắt chứng đạo Bồ Đề không lâu.
Lời dạy trên đây nên chép dán nơi liêu
phòng để mắt nhìn thấy mà cảnh tỉnh tâm thân trong mỗi niệm.
Chứng nghĩa ghi rằng: Kẻ đồng chơn
học đạo tu hành cố chấp ủng hộ tăng nên cũng gọi là đạo nhơn hoặc người thanh
tịnh. Do vậy ngay lúc niên thiếu cần phải khép mình nghiêm chỉnh, hầu như không
làm ác. Sơn Am tạp lục ghi rằng: Vu Lại ở Gia Hưng thuộc phủ Thiên Ninh, có vị
tăng trộm chó của người trong khu phố giết hầm cho thịt ăn. Vu Lại được thịt chó
hầm. Ngoài ra, Hình Thạch ở Cô Tô, Thừa Thiên chèo thuyền tới nhà tín chủ giảng
Kinh ở một biệt thự sang trọng. Có Ông Tăng trộm dê của người lối xóm giết hầm
cho ăn. Hình Thạch được ăn thịt dê ấy. Ôi! trộm chó, trộm dê chỉ có hạng người
thấp kém mới làm thế, cớ sao Trụ Trì phải mang danh xấu ác kia? Bởi vì việc tầm
thường làm mất hết nghĩa giáo huấn. Vả chăng phải lưu tâm xem xét kỹ, là trụ trì
luôn luôn phải nên thận trọng đó!
Hành giả có chung có riêng; chung là không
chỉ có bên ngoài biết riêng rẻ, nhưng hể tất cả người tu hành đều gọi là hành
giả, cho nên phải nói Phật sự chung cho tất cả biết; còn riêng là chỉ giữ riêng
biệt nơi phương trượng, những người làm công quả ở chùa. Nhưng trước hết dạy các
chú tiểu, rồi tới số chúng nhỏ tại gia. Hành giả nói đây là cho chúng xuất gia
cần phát tâm cầu giải thoát đích thật. Trước đây gọi là lời phổ thuyết nhưng
không có văn phổ thuyết. Đại khái, do vị Trụ Trì tùy cơ dạy khuyên hành giả đều
chấp tác hay làm công việc chùa.
Phụ thêm: sáng sớm có
lệnh 4 tiếng bảng, đốt đèn nơi chánh điện, đốt nhang, lấy nước tịnh (trong) cúng
Phật. Trụ Trì lễ Phật, cầm đèn rọi sáng sớm, cho quét dọn trong ngoài, lau bàn,
gánh (bơm) nước, nấu ăn, trông coi phòng khách trong ngoài, giường nệm, bàn ghế
v.v... nên cho gọn gàng sạch sẽ; đến các việc bưng trà, lấy cơm v.v... sau khi
dùng xong, dọn dẹp, rửa chén bát… Hể có gọi là đến ngay; làm sai bị phạt, nên
cần kiệm ngăn nắp, đừng tránh việc nặng, để tâm thực hiện cho hoàn tất.
Chứng nghĩa ghi rằng: Ba đời chư
Phật, chư đại Bồ Tát đều từ thực hành mà thành tựu. Phàm người có tâm đạo chưa
ai từng không lao tâm dụng lực làm việc cả. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: câu chuyện
Tuyết Độc là khách lúc sáng. Ban ngày cùng bàn chuyện với khách ban đêm về đủ
chuyện cổ kim và chuyện Ngài Triệu Châu, 2 bên bàn mãi không dứt. Người đứng
bên, là kẻ tu hành che miệng cười. Khách lui đi. Tuyết Độc gọi hành giả tới
trách rằng:
-
Đối với tân khách dám làm như vậy sao?
Đáp rằng:
-
Tôi nghe khách bàn chuyện đông tây kim cổ: nam
mô định cổ kim ngân nên mới dám cười chứ.
Tuyết nói:
-
Ý Triệu Châu, ông hiểu không?
Hành giả dùng bài kệ trả lời rằng:
Chú thỏ ngang thân đường cổ lộ
Ưng xanh vừa thấy vồ đớp ngay
Rượt theo chó chậm khôn linh tính
Hướng không nghe rụng một cành khô.
Tuyết Bảo rất lấy làm kinh ngạc, liền cùng
người nói chuyện văn chương. Hoặc cho rằng, hành giả là kẻ vâng ý trời, hay còn
gọi là Hàn đại bá. Ôi! cổ nhân có đủ tri kiến như thế, tiềm ẩn nơi cốt cách của
hành giả. Phải thấy nơi các hành giả, không nên lấy việc chấp lao phục dịch mà
khinh thường đó. Thân tuy là hành giả nhưng chí cũng cầu xuất thế; mượn việc để
giúp đạo không thể yên chỗ phục vụ lao tác mà không có chí lớn cao xa đâu.
Phàm có người sứ đem pháp y đến trước hết
mời vào phòng khách, chào khách rồi mời uống trà, xin phép khách cho Thầy Trụ
Trì hay. Trụ Trì hoặc ngay lúc đó đích thân tới phòng khách tiếp hoặc hẹn giờ
mời tới phòng khách riêng. Sớm tới hỏi han khách trước hết lấy mâm để pháp y, là
vật đáng giá đặt lên chỗ cao, xong rồi tiếp mời khách. Gặp Trụ Trì xin làm lễ,
cho người sứ trình bày….
Tôi… (tên) đem pháp y này dâng lên Hòa
Thượng thượng A hạ B xin được dâng cúng Ngài.
Thầy Trụ Trì hướng dẫn người sứ tới gặp Hòa
Thượng, Hòa Thượng mời dùng trà, nói chuyện xong đưa tiễn khách.
Hôm sau, thời công phu xong, Hòa Thượng
khai thị phép nhận y hoặc ngồi trên tòa hoặc đứng tại chánh điện. Nếu nhận vật
riêng không cần nói pháp. Nếu thờ thầy bổn sư đã viên tịch nên ở bên phải chánh
điện có thiết bàn linh đầy đủ. Khi thuyết pháp xuống là cúng tiến giác linh và
tụng Kinh Chú, như đọc lời di thư… xem phần sau có nói rõ.
Chứng nghĩa ghi rằng: đây là lễ cúng
tôn sư, không phải chỉ có pháp y là đủ, ngay cả thầy ban cho lời dạy nào cũng
phải thành kính mà nhận mới tỏ ra lễ của người đệ tử cầu pháp. Vân Thê Sùng Hành
Lục ghi rằng: đời Tấn có Thầy Pháp Ngộ tôn Ngài Đạo An làm thầy, sau tới ở chùa
Trường Sa tại Giang Lăng giảng thuyết các Kinh. Người tới học có hơn 400 trong
số có một ông tăng phạm giới uống rượu, Sư Ngộ bắt phạt nhưng không nghe. Ngài
Đạo An nghe chuyện lấy ống tre đựng một cây gậy dán lại gởi cho Sư Ngộ. Sư Ngộ
nhận được mở ra xem thấy cây gậy liền nói: đây do ông Tăng uống rượu tôi dạy bảo
không nghe, ở từ xa Ngài nghĩ ban ân cho. Bèn đánh kiểng họp chúng, đem ống tre
đặt ở phía trước, đốt hương thành tâm quỳ xuống, sai Duy Na đánh 3 gậy, rồi rơi
lệ tự trách thầm. Trong chúng tăng tục không ai là chẳng tức tối cho vị tăng
kia. Nhân đấy mà khuyên chúng, nên người tới học rất đông. Ngài Liên Trì ca ngợi
rằng: ôi, khiến người đời nay mở phong bì của lão Đạo An, người không gởi cây
gậy xếp mà là lời trách. Độc đáo thay! Bậc thầy là đệ tử thánh hiền mấy thưở ra
đời, tôi do 2 vị mà công bố cho số đông trong đại chúng biết.
Cách thức việc đóng cửa khóa tu khởi đầu từ
Kinh Viên Giác, Phật vì hành giả tu thiền quán mà qui định thời gian tu tập.
Nhưng thường kỳ (dài nhất) phải ngưng ở 120 ngày (4 tháng ) đến nay ở Đông độ
việc đóng cửa tịnh tu phần nhiều lấy 3 tháng làm một kỳ để tăng hành cước nghỉ
ngơi trong vấn đề tu tập. Đến giờ nhóm chúng tại chánh điện hay điện Vi Đà, phần
chính cúng ngọ. Duy Na cử bài tán: Lư hương… Quan chủ niệm hương, đảnh lễ. Đại
chúng cúng ngọ, đọc sớ, quan chủ quỳ phía sau Duy Na; văn sớ nội dung như sau:
Từng nghe rằng (lại vì): nghiền chân bỏ
vọng, ngôi cao ở tận non sâu. Quán chiếu minh tâm giữ chí lánh mình nơi thanh
tĩnh, cần tu không bao giờ thối chuyển, được điều thiện nhập môn, phóng túng
buông lung là gốc của khổ đau hoạn nạn. Đọc tên người cúng, tuổi và cầu việc gì…
Nhiếp niệm, đã lìa tục nhiễm phải xa lánh
nơi phố thị phồn hoa, mới tăng thêm tuổi thọ; đang trong cảnh thanh nhàn bày một
cửa thí, chuyên vì việc gì…
Ba tháng là thời kỳ nhiếp niệm tu trì, lễ
bái, tụng kinh. Nay là ngày …tháng…năm.. bắt đầu cho đến ngày...tháng…năm… chấm
dứt, tại chùa… bế quan như pháp tu hành.
Lại nguyện, nghĩ suy do tịnh mà đạt, nhất
chân bản tánh hiển nhiên, tuệ từ đó mà sanh; vạn hạnh tô bồi thêm tăng trưởng.
Một mảy trần chẳng nhiễm, đóng cửa cũng như ở trong núi sâu; 10 trí toàn chân,
lìa niệm liền lên bờ giác. Nay chí thành dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh
gia hộ cho đạo tràng chúng con.
Ngày…tháng… năm…
Đến phần chính cúng ngọ xong, Quan chủ đắp
y tới phòng ngài Phương Trượng, thầy Trụ Trì mời Hòa Thượng khai thị đóng cửa
tịnh tu. Trụ Trì cùng Quan chủ lễ 3 lạy rồi lui ra. Mời thầy Trụ Trì ra cổng
ngoài, đứng chính giữa, tung phất trần lên rảy một cái; chúng đứng 2 bên, Quan
chủ đứng sau Trụ Trì. Duy Na cử bài tán: Dương chi tịnh thủy… Tán xong gõ khánh
mời thầy Trụ Trì thuyết pháp, thuyết pháp xong, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục
nguyện… Trụ Trì dẫn Quan chủ ra đóng cửa. Sau khi khóa chặt cửa xong, trở vào
tụng 3 tự quy y.
Khi tới thời mở cửa (mãn hạ) bèn nhóm chúng
ra trước cổng, trước hết nói ý nghĩa mãn hạ xong mới mở tung cửa ra, đại chúng
tiến vào chánh điện cúng ngọ. Duy Na đọc sớ viên thành tâm nguyện như sau:
Từng nghe rằng, an cư thâm diệu, ắt đạo
hoằng truyền rực rỡ qui mô. Nhập định Na Già thể hiện oai nghi tấn chỉ thường
hằng bất biến. Đâu cần phòng cơ duyên ứng dụng, cực tịnh mà thông đâu ngại đi
vòng khắp pháp giới.
Ghi tên người cúng vào đây và cúng cầu việc
gì…
Nhiếp niệm (tên): hình vóc thô phù, trí như
lửa phừng, hướng nhứt thừa mà cầu đạo, như đứa cùng tử xa xe trâu. Đóng 3 tháng
cửa không như thỏ châu mà mê tượng kính, tốn hao của tín thí, vùi lấp tháng ngày
thân tạm yên nơi nhà bé nhỏ, toàn thọ ơn Phật để hộ trì. Hạ kỳ kết thúc được mở
cửa, đặc biệt gia tâm lễ sám mà đáp tạ thâm ân.
Lại nguyện: đem công đức kết thúc kỳ hạ
viên mãn này, trên chúc quốc gia bền vững, đạo lý xương minh, dân an vật thịnh,
mưa hòa gió thuận; 6 đường đều nương nhờ 6 độ, ba cõi dứt hết 3 tai. Tiên vong
chứng quả vãng sanh, đàn na gội nhuần quả phước. Thứ cầu cho Trụ Trì (tên) đạo
phong ổn cố, Phật pháp uyên thâm, tòng lâm hưng thạnh, chúng lý an hòa, đức
nghiệp tu đồng, phước huệ viên dung.
Chí thành dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng
minh viên mãn đáp tạ sớ cầu an.
Ngày…tháng…năm…
Tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, tự
quy y… như nghi thông thường.
Chứng nghĩa ghi cổ nhân nói rằng:
Triệu Châu 80 tuổi còn đi hành cước, chỉ vì tâm đầu chưa đốt cháy; cứ theo đó
với nửa bài kệ; tin việc đóng cửa, nên sau khi ngộ đạo chọn việc tu dưỡng. Vân
Thê Sùng Hành Lục v.v... đều đăng tải: Cao Phong Diệu thiền sư sau khi đốn ngộ
ẩn tại Long Tu 9 năm, kết gỗ làm nhà dưới núi, mùa hạ một áo. Về sau tạo thiên
mục Thạch động Tây Nham, mở rộng căn nhà nhỏ như chiếc thuyền, ngoài đề bảng
“Cửa Tử”. Trên nước chảy xiết, dưới bùn lầy, gió mưa xiêu vẹo, không người hầu
hạ, căng quần áo che chắn; ngày ăn một bữa, an nhiên như vậy. Hang động không có
thang để lên, vứt thang là dứt duyên; dù đệ tử muốn được lễ Thầy. Ôi! bế cửa
quan như thế này là cái đạo thánh hiền, đâu chẳng thành tựu chứ? Hiệu quả việc
bế quan ngày nay trăm màu sắc tạo thành thật là vô vàn quái dị, tổn hại đạo làm
sao!
Nghinh tiếp bậc tôn túc phải đủ lễ nghi,
phép tắc. Có 6 phép như sau:
Phàm bậc tôn túc chùa khác đến, người trông
cửa liền báo cho Tri Khách, Tri Khách bạch cho Hòa Thượng Phương Trượng. Cử 3
hồi chuông trống bát nhã nghinh tiếp. Tăng chúng y hậu chỉnh tề tiếp mời; Trụ
Trì rước Hòa Thượng lên phòng Phương Trượng. Mời khách ra hậu Tổ cho đại chúng
đảnh lễ.
Bạch trên Hòa Thượng thượng… hạ… hôm nay
tăng chúng bổn tự chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch:
Kính bạch Hòa Thượng:
Chúng
con từng nghe rằng, nhứt tăng đáo, nhứt Phật lai, được nhân duyên hiếm có Hòa
Thượng tới thăm thầy chúng con, chúng con xin thành tâm đảnh lễ cúng dường tam
bái, ngưỡng mong Hòa Thượng dũ lòng từ bi nạp thọ và ban bố cho chúng con những
lời giáo huấn thực tế để chúng con lấy đó làm tư lương tu hành. A Di Đà Phật.
Chờ Hòa Thượng ban pháp ngữ xong, bạch
tiếp:
Trên Hòa Thượng đã hoan hỷ hứa khả cho rồi,
chúng con xin y giáo phụng hành (3 lần).
Tất cả đồng lễ 3 lạy rồi hướng lễ Hòa
Thượng Phương Trượng 3 lạy. Đại chúng giải y. Thị giả trị nhựt pha trà bưng tới
phòng khách để hai Hòa Thượng dùng trà. Rồi lui ra lo cụ bị phòng ngủ tươm tất
mọi thứ mùng mền, gối nệm, và tọa cụ xong, trở lại phòng khách: “Bạch Hòa
Thượng, con xin thỉnh Hòa Thượng về liêu an nghỉ”. Buổi tối, sau thời kinh,
thỉnh Hòa Thượng tôn túc thuyết pháp. Đại chúng nghe chuông đến trước tòa Hòa
Thượng tôn túc, chờ Hòa Thượng niệm hương, lễ Phật xong, thỉnh Hòa Thượng đăng
pháp tòa. Giới thiệu Hòa Thượng tới đại chúng. Trong lúc Hòa Thượng khai thị nên
lắng lòng nghe ghi nhớ những điều cần yếu quan trọng để học hỏi noi gương.
Chứng nghĩa ghi nhận: Từ khi tiếp mời
đến lúc tiễn chân khách ra về đều tỏ lòng tôn kính như thầy mình. Trọng lễ nghi
đạo đức. Sở dĩ xưng tôn túc vì người đạo đức đáng tôn vậy. Đạo đức tuy không thể
biết được nhưng đã thuộc khách quí, phải phân biệt chủ-khách, nên giữ lễ nghi
phép tắc. Vã để làm cho chúng tăng học thói quen quí kính đạo đức của bậc tôn
trưởng; mà bỏ tánh cao ngạo. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: Ngài Tuyết Nham Mãn thiền
sư cùng Thắng Mặc là bạn tham thiền, thường quỳ nhận khăn ban hay hỏi những việc
lạ.
Sư nói: “Nay các vị hoặc tư cách ông thầy
thuộc về pháp, rồi tranh cải đôi co như vi trùng trong thân sư tử. Chỉ sư tử mới
tự ăn thịt nó được, đáng buồn thay!”
Tôi suy nghĩ để khuyên quý vị đó. Ôi! Người
xưa đối với bạn như thế tiếng tốt lưu lại thiên cổ, đối bậc tôn túc ờ xa tới lại
coi thường ư? Không những thế mà còn luôn gần gũi để học hỏi nơi bậc tôn túc,
không khá cẩn trọng lắm hay sao?
Sau khi xem xét giường nằm đâu đó xong, Tri
Khách tới trước bậc tôn túc lễ một lạy rồi chấp tay bạch rằng: “Phương Trượng
Hòa Thượng thượng A hạ B cùng đại chúng sáng sớm ngày mai thỉnh Hòa Thượng từ bi
thăng tòa thuyết pháp. Bậc tôn túc hứa khả bèn lạy một lạy. Hoặc Trụ Trì đích
thân thỉnh không luận cao hay thấp. Sáng hôm sau, thời Kinh vừa xong, thị giả
cầm y đỏ tới liêu Hòa Thượng tôn túc, rồi báo hiệu cho chúng sẵn sàng đón bậc
tôn túc. Lúc Hòa Thượng tới đại chúng xá một xá. Trụ Trì thỉnh Hòa Thượng thăng
tòa, giới thiệu với chúng:
Thưa đại chúng, hôm nay có Hòa Thượng
thượng A hạ B, là bậc kỳ lão đạo cao đức trọng, Ngài trú tại…là hàng tôn túc
trong hàng chúng trung tôn, Hòa Thượng vì Phật sự đến đây, nhờ đại chúng có túc
duyên mới gặp Ngài, chúng con xin có đôi lời giới thiệu và kiền thỉnh Hòa Thượng
khai đạo. Đại chúng đồng lễ một lạy rồi ngồi xuống nghe Hòa Thượng ban lời pháp
ngữ.
Chứng nghĩa ghi: đây là việc kính trên
trọng dưới, là nghi cách hổ tương cho việc khích lệ. Chích Cổ có câu chuyện
rằng: Xưa có Duyệt thiền sư đến thăm sư Tuyết Bảo, cung cách nghiêm trang, luận
bàn kỳ đặc. Thiền sư Tuyết Bảo bước xuống tiếp mời trà, sẵn dọn giường tôn kính
khác thường. Việc đó tiếng đồn rất xa, ngăn cản được Sư Duyệt ra đời. Có Thượng
Tọa Lan từ thiền sư Tuyết Bảo đến bàn Sư Duyệt xét lại việc của mình rồi từ bỏ ý
định, do cảm mến đức độ người pháp lữ. Ngu Am tán thán rằng: Sư Duyệt móng vút
dường sư tử
Tuyết Bảo trước nghiêm khiến phản tỉnh
Thấy hiền bất kính là phi lễ
Cánh nhạn khai diên tấn dịch hương
Trống ta khua hề Ngài gảy đờn
Gió lành vọng đạo hóa Mán Mường
Lan Công Lan Hương tới Vân Phong
Tuyết Bảo tiếp trà nay còn vương…
Quả như có bậc đại tôn túc tới phải mời tới
phòng hội. Buổi chiều, sau khi dùng cháo xong, Trụ Trì chính thức mời Ngài tôn
túc khai thị; nếu hứa khả liền cho thị giả trị nhựt thông báo nơi phòng khách
rằng: “Có Hòa Thượng…tối nay khai thị tại phòng hội, mời đại chúng đến dự nghe
đông đủ.” Tới giờ Hòa Thượng đến, đại chúng đứng chắp tay xá chào. Duy Na mời
Ngài lễ Phật. Lễ Phật xong, mời Hòa Thượng sang thiền đường tới phòng hội, mời
nhị vị Hòa Thượng đăng pháp tòa. Chủ khách nhường nhau ngồi. Duy Na xướng: “Đại
chúng đảnh lễ nhị vị Hòa Thượng tam bài”. Lạy xong, đứng sang 2 bên quay mặt vào
nhau. Trụ Trì thưa bạch rằng: “Nhơn vật đặc biệt đến đây chúng ta một lòng khiêm
cung đón rước, ta không ngại đó là người trí thiển lực mỏng, không thể vì quý
Thầy có tư kiến mà phụ lòng người đến. Nay có Hòa Thượng… quang lâm tới đây,
thật là đầy đủ túc duyên vinh hạnh cho chúng ta đón tiếp. Trong đạo Ngài là bậc
thâm niên tu hành nghiêm mật, đầy đủ pháp lực. Chúng ta phải suy nghĩ trong tư
tưởng khó gặp Ngài. Giờ này đại diện chúng, đạo tràng… chúng con xin kiền thành
cung thỉnh Hòa Thượng ban lời khai thị, ngưỡng mong Hòa Thượng dũ lòng từ bi mà
hoan hỷ cho chúng con.”
Hòa Thượng dõng dạc
khai đạo ngắn gọn, súc tích trong vòng 10-15 phút. Xong Duy Na hướng dẫn đại
chúng đảnh lễ Hòa Thượng và tụng hồi hướng. Tiễn Hòa Thượng và Phương Trượng về
hậu liêu. Thị giả lo trà trước để Hòa Thượng Phương Trượng tiếp ở phòng Ngài,
dùng trà xong, thỉnh về liêu nghỉ.
Chứng nghĩa ghi rằng: Ngày xưa Trụ
Trì tiếp các vị học giả, duy đưa thêm việc này vào để chủ khách hợp nhau. Lúc
mới nhập môn (vào đạo) nên coi việc tiếp khách là quan trọng, thay vì huấn
luyện, sao chùa vẫn chấp hành vậy. Ngày nay pháp tu không đạt, chủ khách bàn
lung đủ mọi vấn đề mà đại để nói toàn việc thế gian. Khai thị là cách thuyết đạo
hy hữu cô đọng, có hiệu quả đối với người nghe. Giả như có kẻ học thức từ xa tới
thăm dự nghe, cũng không uổng phí việc tham vấn. Đẹp thay qui cách người xưa!
Ôi, biết ngày nào mới phục hồi được cung cách như thế?
Phàm thỉnh bậc tôn túc thọ trai, trước nhất
thị giả tới phòng Phương Trượng sắp đặt bàn ghế, ly chén, đũa muỗng, cơm nước,
bánh trái… thứ tự ngăn nắp. Trụ Trì cho thị giả mời 2 Hòa Thượng đến, rồi cung
kính thưa: “Chúng con xin cung thỉnh nhị vị Hòa Thượng thọ trai”. Hai Hòa
Thượng xá chào nhau, rồi ngồi vào chỗ ngồi. Thị giả đảnh lễ Hòa Thượng, nếu Ngài
cho miễn thì khỏi lạy mà chỉ xá một xá. Rồi trông coi quan sát mâm cơm chu đáo,
mỗi bàn 2 thị giả, lo như đơm cơm, sớt thức ăn, dâng trái cây, trà nước, bồi
thêm nước tương, giấy lau mặt … Tất cả đều làm nhẹ nhàng oai nghi để hết tâm hầu
hạ, không được đi giày lớn tiếng, không khua chén đũa, không khạc nhổ v.v…
Dùng cơm xong, chủ khách uống nước, mật
niệm hồi hướng, rửa tay, xỉa răng, súc miệng xong, đưa các Ngài ra phòng khách.
Thị giả dâng trà và đứng hầu khi các Ngài nói chuyện.
Chứng nghĩa ghi rằng: Xưa Cao Am nói
rằng, giáo hóa quan trọng nhất không chi bằng trước hết là lễ nghi đạo đức. Trụ
Trì tôn trọng đạo đức thời người học mới cung kính; thi hành lễ nghi để chúng
ganh đua cho kỳ được. Trụ Trì không có oai nghi thiếu tư cách nên tăng chúng mắc
phải cái tệ hung bạo; Trụ Trì xách động tranh biện thời học chúng mắc họa kình
chống nhau. Các bậc tiên thánh biết chúng chưa được thuần bèn chọn bậc minh
triết mô phạm tòng lâm, khiến cho người chiêm nghiệm chẳng phải thí dụ mà để
giáo hóa. Lễ nghi kính trọng khách chính là cách tiếp đãi nhỏ nhẹ, lời nói ôn
nhu, đều đáng làm mô phạm cho hậu thế, là chỗ dụng ý sâu xa vậy. Thời buổi gần
đây lại quá giản tiện, chủ khách xem thường lễ nghi đạo đức nên dần dần bỏ mất
hết. Đáng tiếc thay!
Phàm bậc tôn túc đi thăm thiền đường, tuần
các liêu, trước tiên phải thông báo tại phòng khách rằng chiều nay sau 2 giờ có
Hòa Thượng…A, B …tới thăm thiền đường, tuần các liêu. Kế cho Duy Na biết, Duy Na
thưa trong chúng: “hôm nay có Hòa Thượng A… tới thăm thiền đường, quý thầy nên
giữ oai nghi.” Nơi thiền đường chuẩn bị sẵn 1 chiếc ghế ngồi, Tri Khách đưa bậc
tôn túc tới đứng đợi ngoài thiền đường. Chúng đứng 2 hàng đón Hòa Thượng vào bên
trong. Hòa Thượng lễ Phật, đại chúng tác lễ Hòa Thượng. Duyệt Chúng đem chiếc
ghế đặt ngay chính giữa, thỉnh Ngài an tọa. Duy Na giới thiệu Hòa Thượng, nếu
như Ngài cho miễn nên thôi không phải giới thiệu. Sau khi thăm hỏi chúng, Hòa
Thượng khuyến tấn, an ủi xong, Hòa Thượng rời thiền đường. Tri Khách dẫn khánh
thỉnh bậc Tôn túc đến các liêu hỏi thăm chúng; Tri Khách cho biết: “Thưa quý
huynh đệ, hôm nay có Hòa Thượng…chùa…đến tuần liêu, thăm hỏi quý huynh đệ. Thăm
hỏi xong, mời tôn túc về phòng Phương Trượng dùng trà, luận đạo.
Chứng nghĩa ghi rằng: tiếp đãi bậc
tôn túc hoặc đưa vào lễ Tổ, lễ Phật. Nhưng trong khi đáp lễ phải có sự linh động
uyển chuyển thăm phòng khách, trai đường, thiền đường, nhà kho; hoặc chỉ thăm
các liêu mà không đưa tới nơi chúng thọ trai. Đây là nghi cổ, nay không theo như
vậy. Ôi, quá đơn giản khiến chúng không còn cẩn trọng lễ nghi phép tắc như trước
nữa!
Bậc tôn túc sắp hồi sơn, Tri Khách thông
báo như sau: ngày mai… Hòa Thượng A, B…hồi sơn lúc… giờ, đại chúng y hậu chỉnh
tề tới đảnh lễ tiễn chân Hòa Thượng. Tới giờ, nghe hiệu lệnh đại chúng vân tập
đảnh lễ Hòa Thượng một lạy, Trụ Trì bạch: “thưa đại chúng, sơn môn… chúng ta hôm
nay kính tiễn Hòa Thượng… hồi sơn, cầu chúc Hòa Thượng thọ mạng lâu dài để cho
chúng con được gội nhuần ân đức. Hòa Thượng chúc chư tăng tinh tấn tu hành rồi
Ngài xá chào từ giả. Trụ Trì, đại chúng đưa Ngài ra tới cửa sơn môn, đứng thành
hàng chắp tay xá tiễn. Chờ một lát cho tới khi khách khuất dạng chúng trở vô
chùa. Sau đó tuần tự giải tán về lại liêu mỗi người.
Chứng nghĩa ghi rằng: lễ bậc tôn túc
lúc đến, khi đi là tôn trọng đạo đức, không phải trọng danh vị. Quả thật bậc tôn
túc tuy không danh vị cũng nên trọng pháp mà lễ kính phải đạo để khuyến khích
người học đạo. Sách Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: xưa có vị La Hán là Nam thiền sư
thọ pháp Ngài Vân Cư chưa được nhiều người biết đến. Sau tới thăm chùa Đông Lâm,
Sư Chiếu Giác gióng chuông tập chúng ra nghinh đón tới bờ Thanh Khê. Chúng vô
cùng kinh ngạc mới phát hiện ra là Sư Nam. Ngoài ra, Ngài Phật Ấn có lúc cũng ở
chỗ Vân Cư, Linh Nguyên Tầu thiền sư từ chùa Long Sơn tới thăm, dấu tung tích,
chỗ ở. Phật Ấn biết thăng tòa mời Linh Nguyên ngồi vào giữa, kính lễ rất mực,
chúng thấy vậy đều cảm kích. Đạo học ngày mới, lại đời Tống giữa niên hiệu Thiệu
Hưng, Trúc Am Khuê thiền sư vâng chiếu khai sơn Chùa Năng Nhơn tại Nhạn Thang.
Lúc đó có Chân Hiết Liễu thiền sư ở bên sông nghe Sư Trúc đến sợ sắc xanh chưa
chín (đạo hạnh chưa nhuần), bèn qua sông đón Sư Trúc về phương trượng trải tọa
cụ lạy 9 lạy, để nhắc nhở nhiều người và đương nhiên được mọi người kính mộ. Ôi!
Như 3 vị Trụ Trì trên đây đáng gọi là người trọng đạo đức mà hết lòng nghinh
tiếp lễ lạy các hàng tôn túc. Người sau nên lấy đó mà bắt chước vậy.
Phàm quan chức tới chùa, người trực phải
báo cho Tri Khách biết, Tri Khách bạch cho Ngài Phương Trượng. Trụ Trì lãnh
chúng và Giám Viện ra trước cửa tiếp đón. Chúng đắp y đứng sắp hàng trước chánh
điện. Mời quan niệm hương, dâng hương và đảnh lễ xong, mời xuống dùng trà cùng
Hòa Thượng Phương Trượng. Trụ Trì tiếp mời trà thân mật. Khi khách ra về, chức
sự tiễn ra tới cổng sơn môn. Ngoài ra, tất cả những đàn na hộ pháp tới chùa đều
phải đầy đủ lễ nghi phép tắc, không thể xem thường mà làm cho việc ngoại hộ lơ
là thiếu sót.
Nếu có cư sĩ nổi danh ở xa đến cũng ân cần
tiếp đãi như đàn tín hộ pháp vậy. Sau khi chỉ phòng nghỉ, đơn (giường) xong cho
đi tham quan một vòng và viếng các liêu chư tăng, có bàn về đạo pháp cũng đừng
để lỗi quấy; tất cả đều nên lấy phép chủ khách mà tiếp đãi.
Chứng nghĩa ghi rằng: Tòng lâm ở gần
phố xá đa phần đều có việc tiếp rước này. Nói chung nên giữ oai nghi đàng hoàng
làm cho người sanh tâm kính nể; thậm chí như việc khách đến thình lình thời cũng
phải giữ lễ với người. Sơn Am tạp lục ghi rằng: pháp sư Phụng Sơn Nghi tại Hàng
Châu có sang Ấn Độ trong khoảng năm Diên Hựu nguyên niên; sau có Cao Lệ phò mã
Phan Vương được chỉ đến tham lễ Quan Âm tại Phổ Đà Sơn. Qua khỏi Hàng Châu Phan
xuất tiền tới chùa Minh Khánh thiết lễ trai tăng, mời chư sơn trụ trì các nơi;
Phan Vương ngồi tòa cao, các quan ngồi dưới thấp. Chư sơn sắp thành 2 dãy để
Phụng Sơn ngồi ở đầu, Sơn hỏi vương rằng:
- Hôm nay trai tăng vì việc gì?
Vương đáp:
- Cúng dường chư
sơn
Phụng Sơn nói:
- Đại Vương đã
biết cúng dường chư sơn, trai chủ không sắp chỗ mà Vua tự choán ngồi chỗ cao,
còn chư sơn ngồi 2 bên; đến đổi có người trải chiếu ngồi dưới đất, có khác gì Bà
La Môn! Đối với lễ nghi e không đúng phép như thế được!
Vua nghe thế
hoảng hồn xin lỗi và bước xuống khỏi tòa ngay, nhường trước cho các bậc tôn túc
để phân biệt ngôi chủ khách; các quan lui ngồi sang 2 bên. Thọ trai xong, vua
nắm tay Phụng Sơn nói:
- Không nhờ
thầy, Ta đã không giữ đúng lễ.
Đây gọi là cơ
hội thi thiết mà có thể mở rộng được nhơn tâm, đó là Phụng Sơn vậy. Người đời
nay ưa mắc lỗi quấy, phép tắc đây không thể khinh suất được. Song phong cách cổ
nhân sáng ngời lan xa cũng không thể không biết như thế.
Phần tiếp bậc tôn túc bên trên có 6 cách,
là lúc họ tới thăm. Còn đây là việc đến thăm các chùa chư tôn túc, là ta tới họ.
Họ và ta tuy khác nhưng lễ giống nhau. Xem thêm phần tiếp bậc tôn túc ở trên để
biết rõ. Có sự dị đồng. Xem Chương Trụ Trì tiết xuất nhập ở dưới có nói rõ, ở
đây không ghi hết.
Mỗi khi gặp ngày sinh nhựt Hòa Thượng
Phương Trượng, chuẩn bị trước một ngày đâu đó dọn dẹp, quét tước, sắp đặt hương
đèn, hoa quả các bàn thờ chu đáo. Tri Khách tới phòng Phương Trượng hỏi Trụ Trì:
“ngày mai tụng Kinh gì?”. Nếu có tụng kinh phải thông báo cho chúng biết để
chuẩn bị sắp xếp kinh tụng. Hôm sau đúng giờ nghe hiệu lệnh, chúng y hậu chỉnh
tề vân tập chánh điện, đốt nhang đèn, Trụ Trì niệm hương, cắm nhang lên lư, đảnh
lễ Tam Bảo. Xong Duy Na cử tán bài: bảo đảnh nhiệt danh hương… Không chúc tán,
tụng Kinh Lăng Nghiêm, đi nhiễu Phật như thường lệ. Trở lại chỗ xướng lễ chư
Phật, Bồ Tát, Thích Ca, Dược Sư, Văn Thù, Phổ Hiền, Nhựt Quang, Nguyệt Quang,
Hải Hội mỗi vị 3 lạy. Khóa lễ xong, 3 hồi chuông và 3 tiếng, đại chúng theo sự
hướng dẫn của Duy Na. Thầy Duy Na bạch: “Thưa Đại chúng, giờ này đại chúng chúng
ta đến khánh chúc Hòa Thượng Phương Trượng sinh nhựt.” Tại phòng Phương Trượng,
chúng đứng sắp hàng 2 bên, Duy Na mời Hòa Thượng vào chỗ ngồi. Hòa Thượng ngồi
xong, Duy Na xướng:
“Đại chúng kính chúc Hòa Thượng thọ mạng
lâu dài”.
Chí thành đảnh lễ 3 lạy. Lạy xong, hoặc
khai thị hoặc không; tối hôm trước phải hỏi để quyết định. Nếu thuyết thì theo
nghi thức tiểu tham thường lệ; còn không, lạy xong đại chúng lui ra, chuẩn bị
dùng điểm tâm. Trưa có cúng ngọ, đặc biệt tại trai đường có thiết bàn đặt lễ
phẩm chúc mừng sinh nhựt. Nếu có tụng kinh, theo nghi thức ở trước, chỉ khác tờ
sớ như:
Từng nghe rằng, đèn ngọc vừa sáng, ánh vàng
chiếu soi, thọ như âm nhạc, ngọc báu hiện lên, mênh mông pháp thủy sóng lung
linh nhồi. Nương Phật Pháp thường trụ, mừng nay gặp được minh sư đời này. Ngài
sanh quán… năm nay … tuổi. Lại niệm: Hòa Thượng A-B là hoa sen sáng rỡ của Phật
Tổ, y bát có ẩn nơi bảo sát do bản chất phàm phu phân đoạn. Thiện duyên phát
khởi nơi tâm từ. Nay nhân ngày sinh nhựt của tôn sư, công lao khổ cực dìu dắt
hậu lai. Nay chúng đến trước Phật đảnh lễ Tam Bảo, hiến tụng kinh…
Lại nguyện: Phật Pháp vững trường tồn, tòng
lâm mãi hưng thạnh, sư trưởng, cha mẹ quá cố, hiện đời được ân triêm công đức.
Lại nguyện: Tổ đức tôn thân thêm phần phước lợi. Đồng cầu nguyện… đạo hạnh tinh
chuyên, trí bi nhuần đượm, thân tâm khương thái, tuổi hạc tươi vui. Đời đời vun
vạn điều thiện để trang nghiêm, phẩm phẩm chứng 6 thông ung dung tự tại. Kính
nguyện đem công đức này mong tình thức đều siêu hàm chứa trong một thiện niệm
thành tựu phước đức vô biên.
Chí thành dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng
minh. Bảy tám chin mươi tuổi chúc thọ văn sớ.
Ngày.. tháng… năm… Tỳ kheo… cẩn sớ.
Sau khi hồi hướng, thầy Trụ Trì thay Phương
Trượng cảm tạ các thầy đại chúng tăng.
Chứng nghĩa ghi rằng: đây là lễ chúc
theo đời, tôn kính Hòa Thượng đức báo ơn hoằng pháp. Xưa Đường Văn Hoàng chủ
chùa Vạn Thừa, ngày sinh nhựt chẳng lấy làm vui, huống gì chư tăng lại chúc thọ
ư? Cho nên có câu nói rằng: ở chúng nên làm, ở chủ nên ngưng; làm thì tụng kinh
cũng được, ngưng nên chấm dứt mọi duyên ồn náo là chánh, vì không cần thiết đối
với người tu từ bỏ các pháp ngoài Phật Pháp.
Có thí chủ cúng trai phạn chư tăng đến
chùa, nên tiếp ở phòng khách và báo cho Phương Trượng ngay, kế mời vào phòng
khách rồi hướng dẫn đến gặp Trụ Trì. Gặp Phương Trượng Trụ Trì liền làm lễ; Thầy
Trụ Trì lấy lễ tiếp đãi qua mấy lời thăm hỏi ân cần, rồi mời dùng trà. Xong, Tri
Khách đưa tới phòng nghỉ hoặc trong ngày trở về thời không cần phòng ngủ. Nếu
người cúng dường là quan chức, phải cần gióng chuông nhóm chúng ra cửa đón (Xem
nghi hộ pháp ở trước có đề cập). Phương Trượng cắt Giám Viện chỉ vẽ thí chủ
chuẩn bị bửa cơm cho đại chúng thọ trai. Không được làm tốn hao của Tam Bảo,
không nên buộc đại chúng quá khắc khổ. Căn cứ phần cúng thí có niêm yết trên
thông báo như sau:
“Đại chúng khi nghe chuông vân tập chánh
điện để cúng ngọ. Cúng xong thông báo lễ cúng trai phạn hôm nay. Có gia đình
Ông, Bà… từ …. đến xin phát tâm cúng dường cầu … Mời quý Thầy tới trai đường thọ
trai”. Tới giờ, Tri Khách hướng dẫn trai chủ tác bạch cúng dường (bài tự viết
hay nhờ Thầy Tri Khách chỉ dẫn trước). Trai chủ tác bạch, Phương Trượng đáp từ,
khuyến tấn tu hành, tán dương công đức cúng dường v.v.. Xong, đại chúng cử bát
cúng dường (Đọc bài cúng dường thanh tịnh..) Chư tăng thọ trai xong, Tri Khách
hướng dẫn trai chủ đến nhà trù cám ơn sự lao nhọc của ban trai soạn lo chu tất
bửa trai phạn rồi cùng đi thọ trai. Nếu cúng tiền tùy hỷ phát tâm, cúng đều mỗi
vị; Tri Khách giúp cung cấp bao thơ, nếu chưa chuẩn bị, cúng công khai hoặc cúng
đưa riêng từng người tùy ý trai chủ. Nếu số tiền nhỏ, không cần cúng vào quỹ
chung mà đưa riêng mỗi vị; số tiền từ $30 - $50 trở lên phải để lại 20% cúng quỹ
chung để điều hành Phật sự.
Chỉ nói sơ như vậy, tùy trường hợp mà định
liệu.
Chứng nghĩa ghi: theo như Kê Cổ lược
ghi: vào đời Tống, cư sĩ Hồng Khánh Thiện làm tiết độ sứ Giang Đông, đêm tá túc
ở chùa Ngu Khâu tại Trì Châu được Tông thiền sư tiếp đón. Ban đêm đàm đạo, Hồng
cư sĩ hỏi:
- Cúng dường trai phạn tăng nói ở
Kinh nào?
Tông thiền sư đáp:
- Trong Kinh 42 Chương dạy rằng: cúng
dường trai phạn cho 100 người phàm không bằng cúng cho một người làm thiện; cúng
1000 người thiện không bằng cúng cho một người vô trụ, vô tu, vô chứng. Qui định
đó là người chân chánh giải thoát, có thể người ấy là phạn tăng, công đức bằng
chư Phật. Tiền bối biết đó là người nhiều công đức vậy.
Hồng cư sĩ hỏi:
- Ai làm được như thế?
Sư Tông đáp:
- Vả như gần đây nói Tần Thiếu Du
châm biếm Đằng Châu làm văn đi điếu, có câu ai là nhà tu phạn tăng áo vàng? Tô
Đông Pha nghe Tần cáo phó cũng gởi 5 lạng đi đám, nghĩ Phạm Nguyên Trường là Tần
phạn tăng. Tới khi Tô Đông Pha lui về phương Bắc đến ở Lư Lăng, do bịnh không ra
làm quan Thái học sinh, túng thiếu ở Đông Kinh. Huệ Lâm cúng trai phạn tăng
hoàng phái chọn ra ngôi vị Tô Đông Pha để hàng đầu.
Hồng cư sĩ hỏi:
- Cúng trai tăng có căn cứ tiền
không?
Sư Tông đáp:
- Chỗ công đâu chẳng thấy biết của tơ
tóc, thí chẳng thanh tao; giết dê bày yến đãi khách quần thần cho ăn uống phủ
phê. Lại còn lụa trắng, thúng mũng là do hậu ý. Bởi ăn uống chưa đủ kính trọng
hết lòng mà còn tặng thêm nữa mới tỏ dạ ân cần.
Hồng nói:
- Nay nghe Thầy nói mới biết rõ nghĩa
cúng dường phạn tăng, tôi mỗi năm tới chùa cúng phạn tăng một lần vậy;
Và còn hỏi thêm rằng:
- Cúng phạn tăng không cúng tiền là
một việc khác, nghĩa như thế nào?
Đáp:
- Nhân quả chẳng hợp.
Xưa tại Hồ Nam thuộc Vân Cái sơn có Trí
thiền sư, ban đêm ngồi thiền nơi thiền thất bổng nghe tiếng lốp bốp lửa bốc cháy
sáng lòa, nên đích thân tới xem mới hay lửa phát cháy (giá) tòa sen, chuôi giá
vắt ngang cửa, bèn thất kinh hỏi:
-
Ngươi là ai?
Đáp rằng:
-
Tôi là… trước kia ở núi này; không thích hợp,
lấy tiền cúng chư tăng tạo nhà tăng, sái với tín tâm người cúng khiến không hợp
nhân quả nên phải chịu khổ báo này; mong vì tôi đánh, trị tội khi tăng, lấy tiền
đó thiết lễ cúng tăng mới có thể khỏi được khổ này!
Trí thiền sư lấy đó ghi tâm nói là sẽ lo
liệu. Một đêm kia mộng thấy có người tới cảm tạ rằng: “Nhờ vào lực Thầy, tôi đã
ra khỏi địa ngục sanh vào cõi nhân thiên. Ba đời nữa tôi lại được làm tăng, nay
cửa chùa vẫn còn lưu vết cháy.”
Nhân vì lấy tiền cúng tăng làm tăng xá mà
tiền đó đúng ra để cho chư tăng dùng; còn chịu quả báo khổ như thế. Ngày nay
phần nhiều người lấy của thường trụ làm của riêng, họ thọ báo thích đáng phải
như thế nào? Song đây dựa vào việc thọ nhận vật thí mà nói, đến như tín thí phát
tâm cúng cũng phải cho bình đẳng. Căn cứ theo Trí Độ Luận, xưa có thí chủ cúng
dường trai phạn tăng chỉ cúng chư vị trưởng lão mà không cúng chư tăng trẻ. Lúc
đó các vị La Hán vì lòng thương xót dùng lực thần thông, liền hiện toàn lão tăng
cho thí chủ cung kính cúng dường tất cả chư Tăng. Sau khi chú nguyện xong, sắp
sửa thọ trai họ hiện nguyên hình là những tỳ kheo trẻ tuổi. Thọ trai xong theo
căn cơ mà thuyết pháp khiến tâm của người thí chủ kia liền nghĩ tới pháp bình
đẳng trong sự bố thí cúng dường.
Ngoài ra, tại Ấn Độ, có trưởng giả Thọ Đề
thường thiết đại trai như ý cúng dường 7 ngày, vì muốn cúng dường tôn giả Tân
Đầu Lư nên đem hoa tươi đặt dưới chỗ ngồi của vị Thánh tăng này. Lại căn cứ việc
cúng dường chỉ một bình hoa tươi như trên cũng đủ, nên lấy đó mà chiêm nghiệm.
Nếu Thánh tăng ứng cúng trải qua 7 ngày một tuần mà hoa vẫn còn tươi không héo.
Đằng này không phải như vậy, sau 7 ngày cúng hoa đều héo tàn cũng như hoa đã khô
rụng. Trưởng giả bất mãn vì nguyện không thành, lại càng lo lắng càng hối tiếc,
lại xin cúng dường tiếp để cầu được như ý nguyện. Nhưng kết quả cũng không mãn
nguyện, trong lòng lấy làm hổ thẹn, không còn cách nào có thể khả thi được nữa.
Ông bèn phát đại thệ nguyện quyết cầu được Ngài giáng lâm, nếu như việc không
thành, ông hẹn lấy cái chết làm chứng. Đến ngày thứ 7, ông kêu khóc cầu khẩn để
mong được sự cảm ứng; lúc ấy có một hành giả khất thực tới nhà, chỉ tay gọi ông
trưởng giả nói rằng: “Đây không phải tôn giả Tân Đầu Lư ư?” Trưởng giả vui mừng
đảnh lễ, Tân Đầu Lư nói rằng:
-
Ngày đầu Ta muốn phó hội, nhưng người giữ cửa làm
cho Ta vô cùng lạnh lẽo, thân không che y, sức không cự lại nổi, đập đầu xuống
đá, thịt rơi thành vết thương. Ngày thứ nhì Ta lại phó hội người canh cửa thấy
Ta áo quần rách rưới phơi da, lại ngăn không cho Ta vào. Nay vì thương cảm đến
lòng thành của Ngươi coi Ta như thân hữu, Ta mượn được một cái áo che thân mới
tới dự hội đây. Từ nay về sau, Ngươi muốn chọn chân tăng cúng dường nên khởi tâm
bình đẳng, không phân quí tiện, bố thí rộng rãi không ngăn ngại, phước không
cùng tận vậy. Ngoài ra, Hàn Sơn có bài thơ rằng:
Chọn Phật cúng đốt hương
Lựa Tăng để cúng dường
La Hán xin trước cửa
Xua đi lầm Hòa Thượng.
Không hiểu người vô vi
Bản lai vô tướng trạng
Dâng sớ thỉnh danh tăng
Tiền cúng 3 lạng chẳn.
Pháp sư tốt Vân Quang
Đặt sừng ngay trên đảnh
Tâm Ngươi không bình đẳng
Thánh hiền nhanh xa lánh.
Phàm Thánh đều lẫn lộn
Khuyên ngươi đừng chấp tướng.
Ngoài ra, Kinh Địa Tạng chỉ bày trai tăng
độ hương linh cũng phải tinh thành, càng thanh tịnh cúng dường Phật Tăng, ngõ
hầu kẻ còn người mất đều được lợi ích.
Cúng ruộng (núi), cúng đất, cúng thuốc,
cúng nhà…nghi thức đều giống nhau, chỉ thay vật muốn cúng thôi.
Tiếp đãi thí chủ như trên, nghi cách giống
nhau, Trụ Trì sai thị giả mời người đứng chủ chốt điều hành biết trông coi trong
ngoài, cắt đặt người phụ trách phòng khách, nhà kho, thư ký, tri sản. Đây nói
tổng quát, nếu nêu riêng phải gọi người trông coi sơn môn là tri sơn, lo việc
đất đai là tri điền, cùng tới Ngài Phương Trượng tạ ơn thí chủ bằng cách lập
thành bản văn để dễ dàng sau này làm bằng. Thí chủ, Trụ Trì và luật sư đều ký tờ
cam kết (giao kèo), giao bằng khoán bản chính, thân nhân thuận cúng, lúa thu,
thuế khóa… đều giao đầy đủ. Phương Trượng vào chánh điện thuyết pháp để đáp tạ
ân thí chủ. Sau thời thuyết pháp, mời chúng cùng thí chủ đi xem đất; cũng đem
theo 10 cành tre để làm móc ranh giới, cho rõ ràng đất cúng chùa. Không được lẫn
lộn phạm vi đất người khác để tránh sự tranh tụng. Mỗi năm, tiết mùa xuân 2 bên
cùng tới xem lại hạn giới đất một lần. Trong năm, Giám Viện phải khai báo chủ
mới và nộp thuế, tức là đất đã thuộc chùa quản trị, khắc đá làm dấu, lập sổ bộ
lâu dài. Ngày viết giấy giao kèo có cúng Phật và đãi cơm chay khách dự. Đọc sớ
như sau:
Cung kính vì: Cây Bồ Đề cao lớn tỏa rợp
bóng che mát khắp 10 phương; hoa Ưu Đàm ngát hương khôn sánh, biến quốc độ này
trải rộng mùa xuân, vui ngắm già lam đại giác, dũ lòng chiếu giám cho đàn na…
tên thí chủ..sanh năm… tuổi… làng, xã, huyện… đem sở đất số… cúng cho chùa… Trụ
Trì tên… Thành tâm niệm tưởng thí chủ… gia duyên ràng buộc, theo nghiệp luân
hồi. Tuy tỏ đường giác 1 trương nhưng chưa ra khỏi trần lao nghiệp hệ. May nhờ
vạn đức đấng tôn mở bày thiện pháp, nay vì muốn trồng căn lành nên dâng cúng đất
làm tài sản tăng chúng. Vì chọn hôm nay nên cung kính trước điện, kính dâng tấc
lòng thành hiến cúng, nguyện đem công đức này hồi hướng nhân duyên, cúi xin Tam
Bảo chứng minh.
Lại nguyện: trai chủ… túc nghiệp tiêu trừ,
phước thọ càng tăng; cúng Phật và tăng nhờ công đức này không bao giờ cùng tận.
Bỏ tham tạo phước, quả báo 3 đời thường tan, toàn gia sum họp vui vầy, cháu con
gội nhuần ân đức. Nương nhờ phước điền này cho đến trọn thành Chánh giác. Kính
thành dâng sớ thỉnh Vi Đà tôn thiên Bồ Tát chứng minh, chúng con nguyện xin hồi
hướng.
Ngày… tháng... năm… Trụ Trì… dâng sớ.
Sớ này đọc trước bàn Phật xong, đem trình
trước bàn hộ pháp Vi Đà rồi mới đem đốt. Nếu thí chủ muốn cúng cho tiên linh ông
bà, nên ghi tên tuổi vào lòng sớ, hoặc cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà còn sanh
tiền được sống thọ, phước lộc dồi dào. Cũng chính dịp này tới nơi thờ linh lạy
tạ hay thiết trai cúng đầy đủ, như nghi tiến linh.
Chứng nghĩa ghi rằng: cúng ruộng như
trên là cách cúng dường cao thượng để hộ trì Tam Bảo, giúp việc hoằng pháp lợi
sanh nhờ đó mà đầy đủ thiện duyên, đây là chân chánh phước điền. Bởi vì thiết
trai phạn cúng dường tăng chỉ trong nhất thời hay hiện thời. Còn cúng đất ruộng
kéo dài nhiều đời, công đức thật hết sức to lớn. Cúng đất, cúng thuốc, cúng nhà…
các thứ như thế mà suy ra. Cho nên phải cúng ngọ, tuyên đọc sớ để đáp tạ ân đức
thí chủ.
Xưa thiền sư Sơ Sơn Tánh vì thí chủ cúng
ruộng nên vào Phật điện nói rằng:
-
Mỗi người ngồi một tọa cụ vuông, tròn trang
nghiêm, xưa nay hành tọa chưa từng dời đổi, ngày tiết lạnh mòn kiếp thạch, đêm
chẳng thuộc âm dương. Lại cũng không lương dịch, 4 tiết đến phân minh, bằng
khoán thấy rõ ràng đủ chứng minh lô đất thật. Mọi việc đều tự tại, nếu vấn đề
(giấy tờ) không đầy đủ, xử dụng thật khó khăn. Như vậy nên người bố thí làm sao
không cảm kích, trưởng dưỡng Phật tánh 10 phương, thường sanh lòng đại trí, thí
thực sang bố thí các bậc phàm thánh công đức không thể nghĩ bàn. Nếu không tâm
cầu cũng không tâm đạt được, nên hiểu rõ ý xuân phong chớ nhận lầm ngọc xuân
sơn. Đại nhân duyên vô thượng biết nguồn gốc tâm niệm; nhân quả đã hiển nhiên
nên mới tồn đạo lực. Phỏng công người đem đến canh cơm, đồng thiếc, nước nôi…
mặc nhiên 3 luân vắng lặng (kẻ thí, người nhận, vật thí). Hư không ảnh vô tung
tích, đèn lồng mờ tỏ sáng thâu canh, nương cựu sơn chất đá cao; liễu uốn theo
chiều gió, hoa hướng dương hướng mặt trời.
Thuyết pháp như thế có thể nói là không phụ
ân thí chủ vậy.
Tiếp đãi trai chủ giống như cúng trai phạn
tăng, dự định ngày viết thông báo dán tại thiền đường phòng khách. Thông báo
rằng, “ngày mai sau khi điểm tâm sáng, đại chúng chuẩn bị cúng La Hán, ban hương
đăng coi sóc trên chánh điện, 10 thầy cúng ngọ liệt danh sách như sau: Đại Đức
A, B, C, …Chuẩn bị nhang đèn, chân đèn, lư hương, chén bát, đũa muổng, tách trà,
cơm nước, bánh trái… lo cho hơn 500 người dự. Người phụ trách trai soạn sắp xếp
các Ban nấu nướng, để cung cấp 500 phần ăn. Ngày hôm sau 5 vị phụ trách hương
đăng tới nhà kho lấy nước, lấy chén, đèn nhỏ 500 cây, chân đèn 250 đôi, lư
hương. Mỗi người coi sóc 100 vị La Hán, trước mỗi vị đặt một tách trà, một đôi
đũa, một dĩa quả, một cây đèn. Lư hương 2 vị chung một lư. Nước trà, cơm, bông
trái, đèn đặt cúng quanh tượng, rồi mới lên nhang đèn; kế pha trà, hiến thức ăn.
Lại mặt tiền chính giữa thiền đường, đặt một bàn vuông lớn, 2 chiếc bàn nhỏ có
thể để 16 vị La Hán. Chưng bông trái, nhang đèn, thức ăn đầy đủ. Mỗi vị có một
bài vị, một tách trà, một đôi đũa, một chén cơm. Ở phía mặt tiền để chừa ra 3
mét, đặt 3 chiếc bàn dài trên để bì sớ 13 vị nhìn trên dưới, chính giữa; cũng
đặt hương đèn và cúng 10 bộ La Hán, mỗi bộ dùng kinh che kín, 10 cái thủ lư đều
chuẩn bị sẵn. Tới giờ cúng, vị Tri khách mời 10 Thầy cúng ngọ đắp y hậu tới chỗ
thờ A La Hán, kế mời trai chủ niệm hương. Các Thầy đảnh lễ Tam Bảo. Trai chủ lần
lượt đến bàn giữa niệm hương, rồi các bàn khác cũng vậy. Duy Na cử tán:
Lư hương vừa ngún, cõi pháp được xông
Khói trầm ngào ngạt một lòng kính dâng
Khắp hòa vũ trụ xa gần
Hoa sen rực rỡ đơm bông cúng dường
Chư Phật, Bồ Tát giáng phàm
Hiện hình La Hán trên vòm Thiên Thai
Vào đời thọ cúng hôm mai…
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha
Tát.
Duy Na xướng: tất cả cung kính, Chúng cầm
hương xướng hoà: “Chí
tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo”.
Duy Na nhập khánh đọc:
Lại nguyện, người chia thành phương tiện từ
Gia Hạnh đến vị Đình Tâm, vị như 4 sa môn, do vô học cầu nơi kiến đạo, đó đều
biết khổ, đoạn tập, thọ đạo tạo nhân là gốc quyền của tích pháp, hội ngộ lý
KHÔNG của con người. Đến như chứng bực Biện địa, vào Đại Thừa môn, chỗ học họ
đồng Bát Nhã. Vì thế cùng với Bồ Tát trong giữ kỹ hạnh mật, ngoài nghe âm thanh
Phật đạo, đều được gọi là thánh hiền tăng, nên đáng thọ của nhân thiên cúng.
Chỉ mong sao kham thọ Phật phó chúc, ở
phương này đủ duyên làm hưng long giáo pháp, đáng cho phàm tình nhận đàn na cúng
dường hôm nay. Tuệ chiếu hồi tinh mật, bao bọc bởi lòng thương, cứu khắp chốn mê
tình đưa lên miền Cực Lạc.
Đại chúng đọc hòa theo: “Cho
nên con nhất tâm kiền thành phụng thỉnh”. Tất cả đồng lạy 1 lạy.
-
Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp
giới thập phương thường trú chư Phật, Pháp, Tăng
-
Nhất tâm phụng thỉnh Ta Bà giáo chủ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật
-
Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp
giới thập phương thường trụ chư Thanh Văn Tăng cùng chư quyến thuộc
Từ đây trở xuống 9 lạy mỗi lạy đều xướng
“Nhất tâm phụng thỉnh” và phần cuối thêm “cùng chư quyến thuộc”
…Thường tùy tùng theo Phật, 1250 đại A La
Hán, Lộc Uyển trước độ 5 vị tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các vị A La Hán…
Đại đệ tử Thế Tôn Ca Diếp, A Nan Đà cùng 10 đại đệ tử… nghe pháp tại Linh Sơn
chúng đại tỳ kheo một vạn 2 nghìn đại A La Hán… tại hội Linh Sơn được thọ ký
học, vô học chư đại Thanh Văn chúng… Năm thời nghe pháp học, vô học các vị chúng
đại Thanh Văn… sau khi Thế Tôn tịch diệt kết tập 3 tạng A Nan Đà và chư vị A La
Hán… Hiện thế 16 vị đại A La Hán, 16,900 chúng đệ tử cùng các quyến thuộc. Trú
xã…huyện… tỉnh… tên chùa… hiện tại 500 vị A La Hán cùng các quyến thuộc.
Lại nguyện: không trái bổn thệ, thương xót
hữu tình, giờ này hôm nay quang lâm đạo tràng, chứng minh công đức.
Thỉnh xong, xá một xá. Trong lúc thỉnh, Duy
Na nghĩ tất cả A La Hán đều dùng thiên nhãn soi sáng, thiên nhỉ thấy nghe, tha
tâm biết được, oai nghi nghiêm túc từ hư không mà đến đây.
Ngoài ra, bốn mặt thêm huệ đầy đủ thông
giáo hai vị, như trên biệt xuất 10 vị nhưng không cần thêm nữa. Thỉnh xong xướng
kệ tán thán:
Lần đầu độ 5 người thành Tăng Bảo
Cao đệ đức Thế Tôn đạo ẩm quang
Linh Sơn một hội thật huy hoàng
Chúng vô học một vạn 2 nghìn
Tu Bạt Đà La độ sau cùng
Năm thời nghe pháp số chúng đông
Hàng Thanh Văn Niết Bàn chứng thông
Ba tạng lưu truyền nhờ công kết tập
16 vị chân nhân được phó chúc
Đời vị lai làm bực phước điền sư
Là thường trụ thánh hiền tăng 10 phương
Đều được tôn phụng cúng dường nơi đây.
Tán xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ đại chúng
cùng đọc: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chư tăng, thí chủ đều hướng về Phật điện từ
từ bước tới tiến về phía bàn thờ La Hán đi kinh hành một vòng. Xong, đứng tại
chỗ ngưng niệm Phật. Đại chúng quỳ và cùng đọc:
Nam Mô thường trụ Phật, Pháp,
Tăng,
Nam Mô bồn sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam Mô khắp hư không biến pháp
giới, 10 phương thường trú chư Thanh Văn tăng.
Nam Mô thường tùy theo Phật 1250
vị đại A La Hán
Kính lễ Lộc Uyển trước Phật độ 5
tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các bậc A La Hán.
Kính lễ hàng cao đệ đức Thế Tôn
Đại Ca Diếp, A Nan v.v.. đại A La Hán
Kính lễ chúng đại tỳ kheo nghe
pháp tại hội Linh Sơn một vạn 2 nghìn đại A La Hán
Kính lễ các đại Thanh Văn được
thọ ký học, vô học tại hội Linh Sơn
Kính lễ chúng đại Thanh Văn đạt
học, vô học nghe 5 thời thuyết giáo
Kính lễ A Nan tôn giả, chư vị A
La Hán kết tập 3 tạng sau Phật diệt độ
Kính lễ lịch đại Tổ sư, chư vị A
La Hán trong thời chánh pháp, tượng pháp sau Phật diệt độ
Kính lễ 16 vị đại A La Hán cùng
16,900 đệ tử A La Hán
Kính lễ hiện trụ 500 vị đại A La
Hán đang thờ tại bổn tự.
Lạy xong, tiếp theo đọc chú: biến thực 21
lần, cam lồ 7 lần, phổ cúng dường 7 lần, rồi tiếp:
Nam Mô thập phương thường trú Tam
Bảo (3 lần).
Duy Na quỳ đọc sớ như sau:
Lại nghe rằng: Tại rừng chiên đàn mùi thơm
phảng phất, nơi hang sư tử đều nghe tiếng gầm vang dội. Dám mong thành khẩn
ngưỡng đức từ bi.
Nay tại Úc Đại Lợi, Sydney thành phố, chùa…
phụng Phật thiết lễ cúng dường La Hán, mong ân gia hộ đệ tử… pháp danh… tuổi,
đầu thành đảnh lễ nhất tâm thượng kính; trung thiên chí thánh Mâu Ni Thế Tôn
thường tùy Thánh chúng các vị đại A La Hán trên đài Kim Liên chứng giám cho lòng
thành tỏ bày của chúng con.
Lại nghĩ: trí siêu vô lậu, đạo hợp chân
không, thần thông thông tỏ trong thoáng chốc ở thiên thượng nhân gian. Bí hiện u
thâm, quên hết nổi ưu lo Thanh Văn, Đại thừa; phấn khởi gặp được thắng duyên
thấy thánh tướng nơi điện tiền, dâng khiết hương bày tỏ, nghinh phan báu mà cúng
phó, mong dũ soi huệ nhãn, doãn nạp tấc lòng thành. Do vậy, nhân nay ngày…
tháng… năm… đệ tử cung kính đến chùa… thực tỏ lòng thanh tịnh, nương nhờ đức
chúng trai giới nghiêm minh thật tu thiền tịnh. Trên cúng Phật, Pháp, Tăng
thường trụ Tam Bảo tại bảo điện bổn tự cúng 500 La Hán hóa thân đại sĩ, các bậc
tôn giả Thánh hiền, với chút hương hoa này cúng dường cùng khắp tất cả.
Lại nguyện: pháp môn nổi bật đèn Tổ thêm
rạng soi; đàn na tịnh lạc, hải chúng an hòa, mong thương phàm tình toàn nương
nhờ từ lực.
Chí thành dâng sớ, cung kính thỉnh Tam Bảo
chứng minh, cúng dường La Hán.
Ngày… tháng… năm… Đọc sớ xong, tán rằng:
Phước đức cúng dường,
hạnh cả mênh mông;
trong mật ngoài hiển
mãi mãi lưu phương.
Thay Phật rộng tuyên dương,
thọ lịnh khó quên;
vào đời làm chiếc thuyền nang.
Nam Mô chư đại A La Hán tôn giả.
Đại chúng về chỗ của mình. Tri Khách mời
trai chủ đến phòng khách dùng trà. Chúng hương đăng thu dọn ngay đồ cúng đem
xuống nhà trù để sửa soạn cúng dường đại chúng. Những đồ vật khác cất vô kho chờ
dịp cúng khác. Hiến cúng đại chúng, ngoài nghi cúng xem thêm nghi thức cúng trai
phạn như trên. Sau khi điểm tâm sáng, 10 Thầy đã được phân phiên lên chánh điện
cúng ngọ; tới bàn thờ La Hán lễ A La Hán. Lễ lạy La Hán chia nhiều thời, mỗi
thời 100 lạy từ số 1 tới số 12 như trên. Xem phần trước có đầy đủ, kế lạy 16 vị
La Hán hiện thế.
Chí thành đảnh lễ Tân Đầu Lô Bạt
La Đọa Xà tôn giả.
Sau đây mỗi vị đều đọc “Chí thành đảnh lễ”:
-
Ca Nặc Ca Phạ tha tôn giả
-
Ca Nặc Ca Bạt triền đọa xà tôn giả
-
Tô Tần Tha tôn giả
-
Nặc Cự La tôn giả
-
Bạt Đà La tôn giả
-
Ca Lý Ca tôn giả
-
Phạt Xà La Phất Đa La tôn giả
-
Mậu Bác Ca tôn giả
-
Bán Thác Ca tôn giả
-
La Hổ La tôn giả
-
Na Già Bỉnh Na tôn giả
-
Nhân Kiệt Đà tôn giả
-
Phạt Na Bà Tư tôn giả
-
A Thị Đa tôn giả
-
Chú Trà Bán thác ca tôn giả.
1.
Chí tâm đảnh lễ A Nhã Kiều Trần Như
tôn giả.
Sau đây mỗi vị mở đầu đều có “Chí
tâm đảnh lễ” và “tôn
giả” ở cuối:
2. A Nê Lâu, 3. Hữu Hiền Vô Cấu, 4. Tu Bạt
Đà La, 5. Ca Lưu Đà Di, 6. Văn Thanh Đắc quả, 7. Chiên Đàn Tạng Vương, 8. Thí
Tràng vô cấu, 9. Kiều Phạm bàn Đề, 10. Nhân Xà Đắc Huệ, 11. Ca Na Hành Na, 12.
Bà Tô Bàn Đậu, 13. Pháp giới tứ lạc, 14. Ưu Lầu Tần Loa, 15. Phật Đà Mật Đa, 16.
Na Đề Ca Diếp, 17. Na La Diên Mục, 18. Phật Đà Nan Đề, 19. Mạt Điền Để Ca, 20.
Nan Đà Đa Hóa, 21. Ưu Bà Cúc Đa, 22. Tăng Ca Na Xá, 23. Giáo thuyết thường trụ,
24. Thương Na Hòa Tu, 25. Đạt Ma Ba La, 26. Ca Na Ca Diếp, 27. Định Quả Đắc
Nghiệp, 28. Trang Nghiêm Vô Ưu, 29. Ức Thị Nhân Duyên, 30. Ca Na Đề Bà, 31. Phá
Tà Thần Thông, 32. Kiên Trì Tam Tự, 33. A Niểu Lâu Đà, 34. Cưu Ma La Đa, 35. Độc
Long quy y, 36. Đồng Thanh Khể Thủ, 37. Tì La Thị Tử, 38. Phật Tô Mật Đa, 39. Xà
Đề Thư Na, 40. Tăng Như Da Xá, 41. Từ Mẫn thế gian, 42. Hiến Hoa Đề Ký, 43. Nhãn
Quang Định Lực, 44. Dà Da Xá Na, 45. Sa Để Bí Sô, 46. Bà Xà Đề Bà, 47. Giải
Không vô cấu, 48. Phục Đà Mật Đa, 49. Phú Na Dạ Xa, 50. Ca Da Thiên Nhãn, 51.
Bất Trước thế gian, 52. Giải Không đệ nhứt, 53. La Độ vô tận, 54. Kim Cang Phá
Ma, 55. Nguyện Hộ thế gian, 56. Vô Ưu Thiền Định, 57. Vô Tác Huệ Thiện, 58. Thập
Kiếp Huệ Thiện, 59. Chiên Đàn Đắc Hương, 60. Kim Sơn giác ý, 61. Vô Nghiệp Tố
Tịnh. 62. Ma Ha Sát Lợi, 63. Vô lượng Bổn hạnh, 64. Nhứt Niệm Giải Không, 65.
Quán Thân Vô thường, 66. Thiên Kiếp Bi nguyện, 67. Cù La Na Xá, 68. Giải Không
định không, 69. Thành Tựu Nhân Duyên, 70. Kiên Thông Tinh Tấn, 71. Tát Đà Ba
Luân, 72. Càng Đà Ha Lợi, 73. Giải Không tự tại, 74. Ma Ha Chú Na, 75. Kiến Nhơn
phi đằng, 76. Bất Không bất hữu, 77. Châu Lợi Bàn Đặc, 78. Cù Sa Tỳ kheo, 79. Sư
Tử tỳ kheo, 80. Tu Hành Bất Trước, 81. Tất Lăng Già Sai, 82. Ma Lợi Bất Động,
83. Tam Muội Cam Lộ, 84. Giải Không vô danh, 85. Thất Phật Nan Đề, 86. Kim Cang
Tinh Tấn, 87. Phương Tiện Pháp Tạng, 88. Quán Hành Luân Nguyệt, 89. A Na Phần
Đề. 90. Phất Trần Tam Muội, 91. Ma Ha Cụ Di, 92. Bích Chi Chuyển Trí, 93. Sơn
đảnh long chúng, 94. La Võng tư duy, 95. Kiếp Tân phú tạng, 96. Thần thông ức
đán, 97. Cụ Thọ Câu Đề, 98. Pháp Vương Bồ Đề, 99. Pháp Tạng Vĩnh Kiếp, 100.
Thiện Vãng
100 vị A La Hán trong số 500 xong.
101.
Chí tâm đảnh lễ Trừ Ưu tôn giả,
102. Đại Nhẫn, 103. Vô Biên Tự Tại, 104.
Diệu Cù Nghiêm Độ, 105. Kim Cát, 106. Lôi Đức, 107. Lôi Âm, 108. Hương Tượng,
109. Mã Đầu, 110. Minh Thủ, 111. Kim Thủ, 112. Kính Thủ, 113. Chúng Thủ, 114.
Biện Đức, 115. Bình Đề, 116. Ngộ Đạt, 117. Pháp Tăng. 118. Ly Cấu, 119. Cảnh
giớI, 120. Mã Thắng, 121. Thiên Vương, 122. Vô Thắng, 123. Nguyệt Tịnh, 124. Bất
Động, 125. Hưu Tức, 126. Điều Đạt, 127. Phổ Quang, 128. Trí Tích, 129. Bảo
Tràng, 130. Thiện Huệ, 131. Thiện Nhãn, 132. Bảo Dũng, 133. Bảo Kiến, 134. Huệ
Tích, 135. Huệ Trì, 136. Bảo Thắng, 137. Đạo Tiên, 138. Đế Võng, 139. Minh Võng,
140. Bảo Quang, 141. Thiện Điều, 142. Phấn Tấn, 143.Tu Đạo, 144. Đại Tướng, 145.
Tôn Vãng, 146. Trì Thế, 147. Quang Âm, 148. Quyền Giáo, 149. Thiện Tư, 150. Pháp
Nhãn, 151. Phạm Thắng, 152. Quang Diệu, 153. Trực Ý, 154. Ma Đế, 155. Huệ Khoan,
156. Vô Thắng, 157. Đàm Ma, 158. Hoan Hỷ, 159. Du Hý, 160. Đạo Thế, 161. Minh
Chiếu, 162. Phổ Đẳng, 163. Huệ Tác, 164. Trợ Hoan, 165. Nan Thắng, 166. Thiện
Đức, 167. Bảo Nhai, 168. Quán Thân, 169. Hoa Vương, 170. Đức Thủ, 171. Hỷ Kiến,
172. Thiện Túc, 173. Thiện Ý, 174. Ái Quang, 175. Hoa Quang, 176. Thiện Kiến,
177. Thiện Căn, 178. Đức Đảnh, 179. Diệu Tý, 180. Long Mãnh, 181. Phất Sa, 182.
Đức Quang, 183. Tán Kết, 184. Tịnh Chánh, 185. Thiện Quán, 186. Đại Lực, 187.
Lôi Quang, 188. Bảo Phục, 189. Thiện Tinh, 190. La Tuần, 191. Từ Địa, 192. Khánh
Hữu, 193. Thế Hữu, 194. Mãn Túc, 195. Xiển Đà, 196. Nguyệt Tịnh, 197. Đại Thiên,
198. Tịnh Tạng, 199. Tịnh Nhãn. 200. Phục Long Vương.
201.
Chí tâm đảnh lễ Ba La Mật tôn giả,
202. Câu Na Xá, 203. Muội Thanh, 204. Bồ
Tát Thanh, 205. Kiết Tường Chú, 206. Bát Đa La, 207. Vô Biên Thân, 208. Hiền
Kiếp Thủ, 209. Kim Cang Vị, 210. Thừa Vị, 211. Bà Tư
Tra, 212. Tâm Bình Đẳng, 213. Bất Khả Tỉ, 214. Nhạo Phú Tạng, 215. Hỏa Diệm
Thân, 216. Phả La Đọa, 217. Đoạn Phiền Não, 218. Bạc Cù La, 219. Lợi Bà Đa, 220.
Hộ Diệu Pháp, 221. Tối Thắng Ý, 222. Tu Di Đăng, 223. Một Đặc Già, 224. Di Sa
Cơ, 225. Thiện Viên Mãn, 226. Ba Đầu Ma, 227. Trí Huệ Đăng, 228. Chiên Đàn Tạng,
229. Ca Nan Lưu, 230.Hương Diệm Tràng, 231. A Thấp Tì, 232. Ma Ni Bảo, 233.
Phước Thủ, 234. Lợi Bà Di, 235. Xá Già Độc, 236. Đoạn Nghiệp, 237. Hoan Hỷ Trí,
238. Càng Đà La, 239. Sa Già Đà, 240. Tu Di Vọng, 241. Tri Thiện Pháp, 242. Đề
Đa Ca, 243. Thủy Triều Thanh, 244. Trí Huệ HảI, 245. Chúng Cụ Đức, 246. Bất Tư
Nghì, 247. Di Già Sơn, 248. Ni Đà Già, 249. Thủ Chánh Niệm, 250. Tịnh Cư Đề,
251. Phạm Âm Thiên, 252. Nhân Địa Quả, 253. Giác Tánh GiảI, 254. Tính Tấn Sơn,
255. Vô Lượng Quang, 256. Bất Động Ý, 257. Tu Thiện Nghiệp, 258. A Dật Đa, 259.
Tôn Đà La, 260. Thánh Phong Huệ, 261. Mạn Thù Hạnh, 262. A Lợi Đa, 263. Pháp
Luân Sơn, 264. Chúng Hòa Hợp, 265. Pháp Vô Trụ, 266. Thiên Cổ Thanh, 267. Như Ý
Luân, 268. Thủ Quang Diệm, 269. Vô Tỉ Hiệu, 270. Đa Gia Lâu, 271. Lợi Lợi Bà Đa,
272. Phổ Hiền Hạnh, 273. Trì Tam MuộI, 274. Oai Đức Thanh, 275. Lợi Bà, 276.
Danh Vô Tận, 277. A Na Tất, 278. Phổ Giải Sơn, 279. Biện Tài Độ, 280. Hành Hóa
Quốc, 281. Thanh Long Chủng, 282. Thệ
Nam Sơn, 283. Phú Già Da, 284. Hành
Truyền Pháp, 285. Hương Kim Thủ, 286. Ma Nỗ La, 287. Quang Phổ Hiện, 288. Huệ Y
Chánh, 289. Hàng Ma Quân, 290. Thủ Diệm Quang, 291. Trì Đại Y, 292. Tạng Luật
Hạnh, 293. Phục Long Vương, 294. Đức Tự Lại, 295. Xà Dạ Đa, 296. Tần Ma LợI,
297. Nghĩa Pháp Thắng, 298. Thí Bà La, 299. Xiển Đề Ma, 300. Vương Trụ Đạo.
301.
Chí tâm đảnh lễ Vô Cấu Hạnh tôn giả,
302. Khả Ba La, 303. Thanh Quy Y, 304.
Thiền Định Quả, 305. Bát Thoái Pháp, 306. Tăng Già Da, 307. Đạt Ma Chân, 308.
Trì Thiện Pháp, 309. Thọ Thắng Quả, 310. Tâm Thắng Tu, 311. Hội Pháp Tạng, 312.
Thường Hoan Hỷ, 313. Oai Nghi Đa, 314. Đầu Đà Tăng, 315. Nghị Tẩy Trường, 316.
Đức Tịnh Ngộ, 317. Vô Cấu Tạng, 318. Hàng Phục Ma, 319. A Tăng Già, 320. Kim Phú
Lạc, 321. Đốn Ngộ, 322. Châu Đà Bà, 323. Trụ Thế Gian, 324. Đăng Đạo Thủ, 325.
Cam Lộ Pháp, 326. Tự Tại Vương, 327. Tu Đạt Ma, 328. Siêu Pháp Vũ, 329. Đức Diệu
Pháp, 330. Sĩ Ứng Chân, 331. Kiên Cố Tâm, 332. Thanh Hưởng Ứng, 333. Ứng Phó
Cúng, 334. Trần Kiếp Không, 335. Quang Minh Đăng, 336. Chấp Bảo Cự, 337. Công
Đức Tướng, 338. Nhẫn Sanh Tâm, 339. A Thị Đa, 340. Bạch Hương Tượng, 341. Thức
Mục Sanh, 342. Tán Thán Nguyện, 343. Định Phất La, 344. Thanh Dẫn Chúng, 345. Ly
Tránh Ngữ, 346. Cưu Xá tôn, 347. Uất Đa La, 348. Phước Nghiệp Trừ, 349. La Dư
Tập, 350. Đại Dược Tôn, 351.Thắng Giải Không, 352. Tu Vô Đức, 353. Hỷ Vô Trước,
354. Khốt Cái Tôn, 355. Chiên Đàn La, 356. Tâm Định Luận, 357. Am La Mãn, 358.
Đảnh Sanh tôn, 359. Tát Hòa Đàn, 360. Chân Phước Đức, 361. Tu Na Lợi, 362. Hỷ
Kiến Tôn, 363. Vi Lam Vương, 364. Đề Bà Trường, 365. Thành Đại Lợi, 366. Pháp
Thủ, 367. Tô Đốn Xà, 368. Chúng Đức Thủ, 369. Kim Cang Tạng, 370. Cù Già LợI,
371. Nhựt Chiếu Minh, 372. Vô Cấu Tạng, 373. Trừ Nghi Võng, 374. Vô Lượng Minh,
375. Trừ Chúng Ưu, 376. Vô Cấu Đức, 377. Quang Minh Võng, 378. Thiện Tu Hành,
379. Tọa Thanh Lương, 380. Vô Ưu Nhãn, 381. Khử Cái Chướng, 382. Tự Minh Tôn,
383. Hòa Luân Điều, 384. Tịnh Trừ Cấu, 385. Khử Chư Nghiệp, 386. Từ Nhân Tôn,
387. Vô Tận Từ, 388. Phiêu Xà Nộ, 389. Na La Đạt, 390. Hạnh Nguyện Trì, 391.
Thiên Nhãn Tôn, 392. Vô Tận Trí, 393. Biến Cụ Túc, 394. Bảo Cái Tôn, 395. Thần
Thông Hóa, 396. Tư Thiện Thức, 397. Hỷ Tín Tịnh, 398. Ma Ha Nam, 399. Vô Lượng
Quang, 400. Kim Cang Huệ.
401.
Chí tâm đảnh lễ Phục Hổ Đà Tôn Giả,
402. Huyễn Hóa Không, 403. Kim Cang Minh,
404. Liên Hoa Tịnh, 405. Câu Na Ý, 406. Hiền Thủ Tôn, 407. Điều Định Tạng, 408.
Lợi Ích La, 409. Vô Lượng Quang, 410. Vô Cấu Xưng, 411. Đại Âm Thanh, 412. Đại
Oai Quang, 413. Tự Tại Vương, 414. Minh Thế Quả, 415. Tối Thượng Tôn, 416. Kim
Cang Tôn, 417. Quyên Mạn Ý, 418. Tối Vô Tỉ, 419. Siêu Tuyệt Luân, 420. Nguyệt Bồ
Đề, 421. Trì Thế Giới, 422. Định Hoa Trí, 423. Vô Biên Thắng, 424. Tối Thắng
Tràng, 425. Khí Ác Pháp, 426. Vô Ngại Hành, 427. Phổ Trang Nghiêm, 428. Vô Tận
Từ, 429. Thường Bi Mẫn, 430. Đại Trần Chướng, 431. Quang Diệm Minh, 432. Trí
Nhãn Minh, 433. Kiên Cố Hạnh, 434. Chú Vân Vũ, 435. Bất Động La, 436. Phổ Quang
Minh, 437. Tâm Quán Tịnh, 438. Na La Đức, 439. Pháp Thượng Tôn, 440. Sư Tử tôn,
441. Tinh Tấn Biện, 442. Nhạo Thuyết Quả, 443. Quán Vô Biên, 444. Phá Tà Kiến,
445. Sư Tử Phan, 446. Vô Ưu Đức, 447. Hạnh Vô Biên, 448. Huệ Kim Cang, 449.
Nghĩa Thành Tựu, 450. Thiện Trụ Nghĩa, 451. Tín Chứng Tôn, 452. Hạnh Kính Đoan,
453. Đức Phổ Hiệp, 454. Sư Tử Tác, 455. Hành Nhẫn Từ, 456. Vô Tướng Không, 457.
Dũng Tinh Tấn, 458. Thắng Thanh Tịnh, 459. Hữu Tánh Không, 460. Tịnh Na La, 461.
Pháp Tự TạI, 462. Sư Tử Giáp, 463. Đại Hiền Quang, 464. Ma Ha La, 465. Âm Điều
Mẫn, 466. Sư Tử Ức, 467. Hoài Ma Quân, 468. Phân Biệt Thân, 469. Tịnh Giải
Thoát, 470. Chất Trực Hạnh, 471. Trí Nhân Từ, 472. Cụ Túc Nghi, 473. Như Ý Tạp,
474. Đại Thức Diệu, 475. Kiếp Tân Na, 476. Phổ Diệm Quang, 477. Cao Viễn Hạnh,
478. Đắc Phật Trí, 479. Tịch Tịnh Hạnh, 480. Ngộ Chân Thường, 481. Phá Ma Tặc,
482. Diệt Ác Thú, 483. Tánh Hải Thông, 484. Diệu Pháp Thông, 485. Mẫn Bất Tức,
486. Nhiếp Chúng Tâm, 487. Đạo Đại Chúng, 488. Thường Tùy Hành, 489. Bồ Tát Từ,
490. Bạt Chúng Khổ, 491. Tầm Thanh Ứng, 492. Số Kiếp Không, 493. Chú Pháp Thủy,
494. Đắc Pháp Không, 495. Huệ Quảng Tăng, 496. Lục Căn Tận, 497. Bạt Đà La, 498.
Tư Tát Đỏa, 499. Chú Trà Ca, 500. Bát Lợi La.
Lạy xong, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục
nguyện, ba tự quy y. Hương Đăng đốt nhang cầm sẵn nơi tay; Tri Khách hướng dẫn
thí chủ lễ tạ chư Tăng. Tiếp theo Duy Na cử tán:
Trên trời dưới thế không ai như Phật
Mười phương các cõi không ai bằng
Những gì chính mắt thấy ở thế gian
Tất cả không ai giống như Phật.
Tiếp niệm Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, vừa
đi nhiễu Phật 3 vòng rồi đứng vào chỗ cũ. Tuyên đọc sớ xong, đốt sớ. Duy Na cử
tán hồi hướng: Phúng Kinh công đức…, phục nguyện, ba tự quy y.
Chứng nghĩa ghi theo Tam Tạng Pháp số
rằng: tiếng Phạn A La Hán, Trung Hoa dịch là vô học, nghĩa là vị đã dứt sạch
sanh tử không còn pháp để học nữa; lại cũng gọi là vô sanh, tức là đã đoạn sạch
kiến hoặc và tư hoặc
không còn thọ sanh trở lại trong 3 cõi; hay còn gọi là ứng cúng có nghĩa bậc
thích hợp thọ của nhân thiên cúng dường; lại còn gọi là sát tặc tức là vị có khả
năng giết giặc phiền não. Vì A La Hán đầy đủ ba minh, sáu thông và vô lượng công
đức, nên gọi là Đại. Vị A La Hán vâng lời Phật dạy dùng lực thần thông diên trì
thọ mạng lâu ở thế gian để duy trì ủng hộ Chánh Pháp đến nay vẫn chưa nhập diệt.
Nếu gặp trong đời thiết vô giá hội cúng thí liền cùng với các quyến thuộc ẩn
hình Thánh chung sống cõi phàm phu ẩn mật tới thọ của cúng, làm cho thí chủ được
lợi ích thù thắng.
Kinh Pháp Hoa ghi rằng: nay chúng ta đây
chính là Thanh Văn, vì nghe tiếng Phật Pháp hợp với tánh nghe. Nay chúng ta đây
chính là Thanh Văn ở trong các cõi trời, người, ma, phạm cùng khắp trong đó ứng
hợp thọ của cúng dường. Y cứ cúng dường La Hán đây được phước đức vô lượng không
thể nghĩ bàn. Xưa có vị vô tướng chân thiền sư cúng dường La Hán bài tụng rằng:
Chân nhân ứng cúng mắt nhìn cao
Nước non qua lại chẳng nề lao
Cũng biết điềm lành tốt nơi nao
Nhận được thiên hoa trên áo bào
Đá mát vuông tròn đường chẳng ngại
Trước nhà níu chặt tay hái vào
Năm trăm tôn giả ai là chủ
Trời nước mây xanh vầng trăng cao.
Sanh mạng con gì bắt được cũng phải thả đi
không nên giam nhốt, sợ bị hại đến mạng sống chúng. Nên đặt bàn ngoài trời để
làm lễ phóng sanh, có nước tịnh, cành dương, thủ xích… Pháp sư, thí chủ làm lễ,
đại chúng đem mắt từ nhìn chúng khác loại, nghĩ thương xót cho kiếp sống trầm
luân trải qua nhiều lần đọa lạc. Lại nghĩ Tam Bảo có đại oai lực hay bạt sạch
sanh tử. Quán tưởng như thế xong, pháp sư cầm thủ lư lên đọc:
-
Chí tâm phụng thỉnh trên hội quang minh Chư
Phật, Bồ Tát, 10 phương từ phụ, Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại linh cảm, thiên
long thần kỳ tại đạo tràng này gia trì cho nước tịnh thủy này đủ công đức dày
rưới khô muôn loại, khiến thân tâm họ thanh tịnh, nhẫn nghe diệu pháp.
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Chúng hòa theo. Tiếp tụng chú Đại Bi (3
biến), pháp sư cầm thủ lư niệm hương:
Ngưỡng bạch 10 phương Tam Bảo, Thích Ca bổn
sư, Từ phụ Di Đà, Bảo Thắng Như Lai, Quan Âm Bồ Tát, cha con trưởng giả Lưu
Thủy, Thiên Thai, Vĩnh Minh, các bậc đại sĩ v.v..
Ngưỡng nguyện: đức từ bi chứng tri hộ
niệm, nay có các chúng sanh bị người bắt nhốt sắp đưa vào cửa tử, may gặp
được…(tên người phóng sanh) tu hạnh Bồ Tát phát tâm từ bi, gieo nhân trường thọ
tạo việc phóng sanh, cứu thân mạng của những con… này thả chúng ung dung tự tại.
Tỳ kheo… bèn theo Kinh Đại Thừa Phương Đẳng
truyền Tam Quy, niệm 10 hiệu Phật. Lại cũng vì các chúng sanh này mà nói pháp 12
nhân duyên chỉ vì các chúng sanh này tội chướng sâu dày thần thức hôn mê. Ngưỡng
cầu Tam Bảo oai đức gia bị thương xót chở che. Pháp sư đập thủ xích một cái, rồi
cất tiếng thuyết 3 quy y:
Hiện giờ các chúng sanh quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng.
Nói xong 3 lần, đại chúng cùng hòa theo:
Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng
rồi; từ nay trở đi tôn Phật làm thầy, không quy y tà ma ngoại đạo, tôn Pháp là
thầy không quy y kinh điển của ngoại đạo, tôn Tăng là thầy bèn không quy y bọn
đảng xấu ác. Này các Phật tử, đã quy y Tam Bảo rồi, nay tôi vì các ngươi mà
niệm: Nam Mô Bảo Thắng Như Lai, 10 hiệu công đức khiến các ngươi được nghe như
những con cá (bơi) chim (bay) tự do liền được sanh lên cõi trời không khác.
Nam Mô quá khứ Bảo Thắng Như Lai, ứng cúng,
chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự
trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Pháp sư đập thủ xích một cái rồi nói:
Các Phật tử, nay tôi vì các ngươi mà nói 12
nhân duyên tướng sanh tướng diệt cho các ngươi hiểu pháp sanh diệt; ngộ bất sanh
diệt đồng như chư Phật chứng ngộ Niết Bàn. Bởi vì do vô minh duyên hành, hành
duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc,
xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh
duyên lão tử, buồn thương, khổ não v.v.. vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt
thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt,
lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái
diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt
là lão tử, buồn thương, khổ não diệt. Nói xong, pháp sư vỗ thủ xích một cái rồi
nói:
Này chư Phật tử, nay tôi dựa Kinh Đại Thừa
truyền cho các ngươi 3 quy y, 10 hiệu Phật, 12 nhân duyên đã xong. Nay vì các
ngươi đối trước Tam Bảo, phát lồ sám hối tội khiên cầu xin sám hối. Mong cho
nghiệp tội các ngươi hết thảy đều được tiêu trừ được sanh vào xứ lành, gần Phật
nghe pháp. Các ngươi phải chí tâm theo tôi mà sám hối:
Con xưa lỡ tạo các ác nghiệp,
đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà
sanh ra,
hết thảy con nay
xin sám hối
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha
Tát (3 lần).
Bưng chén nước chú nguyện rảy lên những con
vật sắp được thả, rồi mở cửa lồng cho chim (thú) bay ra. Pháp sư trở lại đọc:
Ngưỡng mong từ ngày được thả hôm nay trở về
sau, hoàn toàn các ngươi không gặp ác ma nhai nuốt, lưới sập bẩy giăng, mà thong
dong tự tại mãi mãi lâu dài. Nương lực Tam Bảo, Bảo Thắng Như Lai, từ lực bổn
nguyện mà sau khi chết được sanh cõi trời Đao Lợi, hoặc sanh làm người, giữ giới
tu hành, không tạo ác trở lại nữa. Tin tưởng niệm Phật, tùy nguyện vãng sanh.
Lại cầu nguyện thí chủ… hiện đời được như ý, qua đời khác báo ứng tùy tâm Bồ Đề
hạnh nguyện, niệm niệm càng sáng cứu khổ chúng sanh được như tâm nguyện. Do nhân
duyên đó được sanh cõi Cực Lạc thấy Phật A Di Đà và chư Thánh chúng, chứng được
vô sanh nhẫn. Phân thân vô số độ khắp hữu tình đều thành chánh giác; Nay đại
chúng đồng thanh niệm Kinh Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng, thần chú vãng sanh Tịnh
Độ.
Đọc xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ, đại chúng
đồng tụng:
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm phẩm 10
hồi hướng tùy thuận thiện căn thật kiên cố, xin hồi hướng chư Phật tử… đại Bồ
Tát làm đại quốc vương, đối với pháp được tự tại, thực hành sâu rộng lời giáo
huấn làm dứt trừ nghiệp sát. Trong cõi
Diêm Phù Đề
thành ấp, xóm làng hết thảy kẻ sát sanh đều bị cấm ngăn. Chúng sanh không chân,
2 chân, 4 chân, nhiều chân, những loại sanh thân đều ban cho điều không sợ sệt;
không dục xâm chiếm tâm, rộng tu các hạnh Bồ Tát, nhân từ lợi vật, không làm xâm
tổn. Phát tâm trân quí để làm an ổn chúng sanh ở các cõi Phật. Lập chí sâu bền
thường tu 3 môn tịnh giới và cũng làm cho chúng sanh an trụ như vậy. Các đại Bồ
Tát khiến chúng sanh tu giữ 5 giới trừ dứt hẳn nghiệp sát. Đem thiện căn này hồi
hướng cho hết thảy nghĩa là nguyện cho khắp mọi loài chúng sanh phát tâm Bồ Đề
đầy đủ trí huệ, bảo vệ thọ mạng lâu dài không chấm dứt. Nguyện hết thảy chúng
sanh trong vô lượng kiếp cùng với chư Phật cùng khuyên nhau tu học, làm tăng
thêm thọ mạng. Nguyện khắp chúng sanh tu hành nghiêm túc xa lìa sanh tử, hết
thảy hiểm nạn, không làm hại đến thân mạng kẻ khác. Nguyện tất cả chúng sanh
được thành tựu mọi điều không bịnh, tổn hại thọ mạng tự tại đều được tùy tâm...
Nguyện hết thảy chúng sanh được thọ mạng không cùng tận tới kiếp vị lai, nương
hạnh Bồ Tát điều phục giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh vì việc thọ
mạng, đầy đủ thiện căn trong 10 lực tăng trưởng. Nguyện cho chúng sanh căn lành
đầy đủ được thọ mạng vô tận thành tựu đại nguyện. Nguyện hết thảy chúng sanh
được thấy chư Phật vâng phụng cúng dường tu tập thiện căn thọ mạng vô lượng.
Nguyện cho khắp hết chúng sanh ở cõi Phật khéo học những pháp cần học, đạt được
pháp an lạc thọ mạng vô cùng. Nguyện tất cả chúng sanh được không bịnh, không
già, thường trong mạng căn tinh tấn dũng mãnh, nhập Phật trí tuệ. Đó là Bồ Tát
ma ha tát trong 3 tụ tịnh giới dứt hẳn nghiệp sát hồi hướng thiện căn để làm cho
chúng sanh đạt được 10 lực của Phật, trí tuệ viên mãn.
Tiếp tụng chú Vãng Sanh (3 lần) và Duy Na
đọc:
Trở lên công đức phóng sanh để đền đáp 4
ân, 3 cõi đều nhờ. Pháp giới chúng sanh đều trọn thành chủng trí. 10 phương 3
đời chư Phật, hết thảy chư đại Bồ Tát, đạt đại bát nhã ba la mật.
Tụng hồi hướng, 3 tự quy y. Bên trên là
lược nghi thức phóng sanh xong. Nếu lễ phóng sanh mà có thêm tụng kinh hoặc cúng
dường trai phạn v.v.. đều xem nghi thức trước, chỉ có phần hồi hướng và sớ văn
thay đổi theo việc cầu nguyện của thí chủ.
Chứng nghĩa ghi rằng, nghi phóng sanh
đời Lương dịch từ Kinh Kim Cang Minh như thế. Nếu căn cứ 2 bản dịch đời
Tùy-Đường đều có lời chú Kinh Phạm Võng cũng có nói việc phóng sanh. Ngoài ra,
khảo cứu luật tạng, kẻ nữ sĩ trước thọ tam quy, sau truyền 5 giới không cho vượt
bực. Cho nên nay phóng sanh nhưng chỉ nói Tam Quy mà không cần nói thêm 5 giới.
Có người hỏi Ngài Vân Thê Liên Trì rằng:
- Thuyết pháp đối với người do người
chưa tin nên khuyến khích phát tâm, súc vật làm sao hiểu được?
Sư đáp rằng:
- Tánh nơi hàm linh không thể nghĩ
bàn, đặt kỳ vọng nơi loại súc vật hoàn toàn không biết được. Con linh (giống như
chuồn chuồn mà không bay xa được) sống trong bầu trời, chim đại bàng biết luật,
con cọp vểnh tai nấp đất nghe ngóng, con lân đổ nước mắt cảm tâm. Những loại như
thế so sánh ở đây đủ biết… Giá như nghiệp nó nặng không biết cũng là một loài
thiện ở vị lai. Ví như mùa đông trời lạnh xuống thấp, mùa xuân ấm áp tự nhiên
cây cối nẩy mầm. Chỉ lấy tâm từ hướng đến để nói, hành giả tự có được phước, nên
phải giáo hóa không phân người, súc vật, cho chí phóng sanh cảm ứng đời sống bên
trong rất nhiều.
Nay lược nêu ra một số điều rất cổ như Kinh
Kim Quang Minh quyển 4 nói về cha con trưởng giả Lưu Thủy trên đường đi thấy một
ao nước cạn có 10,000 con cá sắp chết, 4 bề vùng vẫy. Lúc đó trưởng giả cho nước
và thức ăn cho cá mà cứu được chúng rồi cá lội xuống ao. Ông trưởng giả giảng
cho cá pháp 12 nhân duyên và niệm “Nam Mô Bảo Thắng Như Lai”. Về sau, 10,000 con
cá ấy đều sanh lên trời Đao Lợi, chúng biết đời trước mình là cá và được cha con
ông trưởng giả cho nước uống và thức ăn. Lại vì bọn chúng, ông giảng pháp 12
nhân duyên và niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng Như Lai. Vì nhân duyên đó khiến đời
sau chúng được sanh cõi trời. Đây là cách báo ân, mỗi con cá cầm một chuỗi trân
châu anh lạc tới nhà ông trưởng giả Lưu Thủy dâng ngọc báu, tán hoa. Ông trưởng
giả Lưu Thủy lúc đó, nay chính là Phật Thích Ca Mâu Ni; 10,000 con cá lúc đó nay
là 10,000 thiên tử đều mong Phật truyền đạo Bồ Đề.
Đời Tùy Ngài Thiên Thai trí giả đại sư ở
chùa Tu Thiền tại Đài Châu, lấy y mặc khuyên người bán một sở đất làm ao phóng
sanh: Ngài thường ở đó giảng Kinh Kim Quang Minh, bổng một hôm thấy vô số chim
hoàng tước tới trước giảng đường tụ tập về đây trong nửa ngày, rồi kêu lên tiếng
buồn rồi bay đi. Đại sư thấy chim nói rằng: “đây là cá sông hóa làm chim hoàng
tước tới tạ ân Ta đó, nay là chùa Đại Từ vậy.”
Lại đời Tùy, có Kế Vũ nhậm chức ở Đài Châu
làm quận trưởng, thường mời Thiên Thai trí giả giảng Kinh Kim Quang Minh phẩm
Lưu Thủy trên sông, ngư dân nghe pháp đều tôn trọng sanh mạng bỏ nghiệp sát hại.
Vũ sau trở lại kinh đô ngồi thiền thấy mình mắc tội bị hạ ngục. Đương gặp lúc
lâm nguy ấy bèn trực nhớ tới cầu đại sư, thân tới cứu hộ. Đêm đó mộng thấy đàn
cá thổi bọt tung nước. Sáng sớm hôm sau, Vua ra lịnh bắt Kế Vũ hài tội. Căn cứ
chuyện này lấy từ Kinh Kim Quang Minh một đoạn chỗ trưởng giả Lưu Thủy mà phóng
sanh là việc điển hình sớm nhất. Cho nên Kinh Kim Quang Minh phẩm phóng sanh là
pháp quan trọng đáng tin mà về sau các bậc hiền phải biết đó.
Phật dạy: tình nhiều tưởng ít sanh vào
hoạnh sanh, nên biết chúng nó khác loài. Trước vì ngu si ám độn không tu chánh
niệm nên đời này mang lông cánh, vảy vi trong thân hình thấp kém, ở nước, trên
cạn, bay trên không, nhiều loài không phải một. Chúng ta phải tuân theo lời Phật
dạy nên tùy lực phóng sanh và cho đồ ăn uống mong những loài khác hết báo thân
này được sanh về cõi Tịnh Độ. Có quyền chăm sóc các loại sanh linh, phát tâm
thương tưởng mong chúng dứt hết kiến chấp. Tùy nghi phóng thích phải có qui định
rõ như liệt nêu sau đây:
1- Phàm đem con vật phóng sanh có cần
nói 3 quy y không? Nếu chưa nói, cần đưa tới trước Phật, đốt nhang thuyết 3 pháp
quy y, kệ phóng sanh: loài chim bay thú chạy, loài dưới nước liền niệm Phật thả
chúng bay đi;
2- Trâu dê, gà vịt đặc biệt là gà
trống, mái không nhốt chung một chỗ.
3- Những loại sanh đầu như gà trống là
kê đầu, toàn quyền coi sóc chúng cẩn thận, mỗi con phải đăng ký, sáng chiều kiểm
điểm số lượng để giả sử có chết phải cho tri khố, tri khách biết tới khám
nghiệm, sau mới đem chôn.
4- Chỗ ở thường phải khô ráo sạch sẽ,
không được để hôi hám xông mùi khó chịu, làm cho loài vật thân, miệng dơ dáy.
5- Những con vật mới để phóng sanh hẳn
phải nhốt riêng một chỗ, đợi ban đêm mới cho nhập bầy (đàn)
6- Thức ăn mỗi ngày cho 2 lần sáng,
chiều. Ăn xong nên thu dọn đồ đựng cất, không được vung vãi bùn phân vấy vào bồn
đựng đồ ăn.
7- Sanh đầu: đánh loài súc vật bị
thương, chiếu theo lớn nhỏ phạt tiền, đánh chết bị phạt đuổi khỏi chùa. Chăm sóc
thiếu cẩn thận bị các giống ác thú làm hại hay bị kẻ xấu bắt trộm đem đi cũng
căn cứ theo lớn nhỏ mà phạt tiền. Thả trâu bò làm hại lúa mạ người chiếu số
thiệt hại đền tiền.
8- Lúa thóc, hạt lúa mạch v.v… phàm ẩm
ướt liền hong phơi hoặc sấy khô, không được để sâu mọt đục khoét cắn phá.
9- Phàm tặng thức ăn sống, tiền bạc
không được dùng riêng.
10- Trong ao không thả cá đen, câu cá,
đâm vây, lươn vây cá v.v… sợ làm hại những con cá khác; cũng như không thả ốc
sên, cá xanh ăn bắt ốc sên, nên lập ao riêng để thà.
11- Không được dùng thuốc tẩy, dầu mỡ
và các thứ võ đậu, trấu… bỏ vào trong ao.
12- Cá ăn rêu xanh nên chẳng cần cho
ăn.
13- Trong ao không được ngâm tre trúc,
cật tre vàng v.v… hay tất cả những vật tương tự.
14- Nước ao không được khuấy động, nếu
xử dụng nên lấy bình đựng cho êm nhẹ.
15- Phàm loài thủy lục mỗi loại sanh
đầu đáng giá thường sinh sống theo quy củ; không được riêng nói với thí chủ đòi
lấy tiền bạc, người nào trái được một, thường 2 để mua thức ăn sống cho loài
vật.
Ngày… tháng…năm… Trụ Trì… sao lục.
Chứng nghĩa ghi rằng: Chỗ ở có qui
định mà bảo hộ sanh mạng là tu hạnh từ vậy. Kinh Phạm Võng dạy rằng: nếu Phật tử
đem tâm từ bi làm việc phóng sanh, xem hết thảy người nam là cha ta, hết thảy
người nữ là mẹ ta. Ta đời đời sanh ra hẳn từ đó mà sanh nên 6 đường chúng sanh
đều là cha mẹ ta, giết ăn thịt họ tức là giết cha mẹ ta vậy. Lại phóng sanh là
làm thiện thể hiện tâm từ không giết hại. Đầy đủ các giới hạnh là chỉ thiện, chỉ
tác 2 việc hành trì đúng nghĩa hộ sanh. Có người hỏi Sư Liên Trì rằng:
- Mặc Tử với thuyết Kiêm Ái bác cho
là dị đoan; còn Phật giáo làm sao chúng sanh đều lấy đó quán làm cha mẹ ta được?
Sư đáp:
- Đạo Nho chỉ luận đời này, đạo Phật
bàn tới tiền thân (nhiều đời trước). Con người thọ thân này đã trải qua nhiều
đời, thác thai ắt sanh nơi các loài. sáu đường chúng sanh đều là cha mẹ ta há
chẳng hiển nhiên hay sao?
Chỉ theo dõi tích gần không cần luận xét
duyên xa, so sánh với việc dị đoan cũng đã vượt xa rất nhiều rồi vậy.
Phép vai choàng (kiệu) lọng báu, tràng phan
v.v... những loại pháp khí
đều giống như nghi thức này.
Nghi thức cúng pháp y không giống như nghi
trên. Việc thọ pháp y nói đây là hàng đệ tử nhận y ban từ vị pháp sư hoặc bậc
trưởng thượng, đã gia ân nơi chiếc y. Vì thế vị Trụ Trì tới phòng khách đích
thân nhận và đến đảnh lễ Phương Trượng. Đây là việc cúng pháp y tức thí chủ cúng
cho vị Trụ Trì.
Nghi thức đãi khách
như mục cúng trai phạn chư tăng trên có nêu rõ. Song Trụ Trì là chủ của một ngôi
chùa, phàm thí chủ cúng pháp y, đồ pháp khí đều phải đem bạch chúng để ghi sổ
vạn niên của chùa. giao y bát trang trọng, việc thâu nhận vật dụng về trù phòng
cũng phải ghi rõ ngày tháng năm…, tên thí chủ, không được lấy vật cúng nhận làm
của riêng, hẳn sai luật Phật dạy.
Chứng nghĩa ghi rằng: Thí chủ cúng
pháp y, nếu Trụ Trì biết trước phải hỏi thí chủ chi tiết không được thêu Phật
trên y. Sách Vân Thê Chánh Ngoa tập ghi rằng: gần đây trên Ca Sa thêu đủ loại
hình Phật gọi là y nghìn Phật. Đây là ngụy dối vậy. Hình Phật chỉ nên đội trên
đầu, mang vác trên vai, đeo quảy bên hông đã là quá lắm rồi, huống gì còn khâu
dính mặc nơi thân. Từ lưng, đầu gối trở xuống đều có Phật, quả thật là lỗi quấy
lắm lắm! Vua Luân Vương có phước đức, nên tin chắc đó chẳng phải lời hư mà đã
thành sự thật lâu đời không tự hay biết. Mong minh phủ quán xét cẩn thận đừng
chấp chặc vào lời, như nói: “y thiên Phật, quả có đúng hay không?”
Đáp: Có, ngày nay là y 25 điều, là y
tương truyền của Phật. Phật dạy các thầy tỳ kheo rằng: Ta có y Tăng Già lê này
của chư Phật quá khứ, vị lai đều mặc mà được giải thoát và lấy đó chứng minh.
Hoặc thêu chữ Thọ gọi là vạn thọ y cũng thuộc loại sai trái, hoặc thêu hoa hòe
gọi là thiên hoa y cũng không hợp. Lại, thiên hoa là phạm lỗi với ý nghĩa Thiên
Hoa đài thượng của đức Phật Lô Xá Na. Cũng sợ làm tổn mất phước vậy.
Thông tuệ là đốt sáng, nhen nhúm ý chí,
thông tuệ là nói bửa tiểu thực. Lễ thọ thông tuệ sáng hoặc Trụ Trì trở lại chùa
Tổ; nhưng về lại Tổ đình phải có người hầu cận. Vì phải lấy lễ xử Thầy như bậc
tôn túc, Thầy cũng phải lấy lễ đáp lại; kính chúng Tổ đình đã lập pháp thọ thông
tuệ này, có nghĩa là thiết trai mừng Thầy vậy. Thầy đến địa điểm thọ trai, nhưng
sai thị giả lễ thay, không dám làm động chúng. Như hoặc lấy vai trên tiếp vai
dưới hoặc dưới kính trên, hoặc tôn trọng ngang vai hay kính trọng đặc biệt như
tạ pháp, báo ân, đáp lễ, phát tâm hoặc bị hành phạt mà đặt ra nghi này.
Ở đây lớn nhỏ tùy theo sức mình hoặc thiết
cúng trai, cúng bánh, đãi trà… đều gọi là nghi thọ thông tuệ sáng giống như nghi
cúng trai phạn ở trước.
Đầu tiên làm Trụ Trì ắt hẳn thông báo thư
từ để không vong bản. Nếu thư truyền pháp đến Trụ Trì phải thăng tòa thuyết
pháp, tùy cơ mà nói, bởi vì lập đàn pháp giáo hóa phải tương tục làm cho giáo
pháp tồn tại mãi. Nếu pháp sư nối dòng pháp (hoặc thầy thế độ hay y chỉ sư có di
thư đến lập tức đưa vào giảng đường đặt lên bàn, treo hình Thầy lên để cúng giác
linh. Trụ Trì xuất tiền sai thị giả mời vị đại diện tới cúng, phải cho trang
nghiêm thanh tịnh; cho 2 dãy (liêu) đại chúng biết hoặc trong ngày hoặc cách đêm
trước lên chánh điện cho chúng hay (nghi thức thượng đường xem ở trước), nói
pháp thương cảm rồi xuống tòa đến bàn giác linh niệm hương, đọc lời buồn kể.
Lập đàn tụng Kinh,
nhóm chúng để tụng niệm (tụng kinh gì, ngày nào tùy ý quyết định). Ngày đầu cúng
ngọ, phải quỳ dâng cúng sớ. Xem chương tôn Tổ ở trước về phần lễ kỵ. Song tiếp
di chúc thư đến, nghi tiết cũng giống nghi này. Chỉ có điều nên lập long vị (nên
đặt nơi thật yên tịnh) không treo hình. Cúng đất đai không cần phải quỳ, cũng
không phải đắp y, không lạy (chỉ xá) mà chỉ tiến lùi với tâm trạng lặng lẽ mà
giữ vẽ bình tĩnh mong đợi. Muốn rõ hơn xem chương khách đường có qui định.
Phụ: Lời Sớ Cúng Tiến Pháp Sư (Giác
Linh) như sau:
Từng nghe rằng, linh tánh vắng lặng, quán
bào ảnh biết cuộc phù sanh chìm nổi; sữa pháp lênh láng; tìm đạo phong mà suy
gốc ngọn; giọng cáo tang chợt đến; kính trải lòng thành, ngưỡng mong đức Thế Tôn
điều ngự chứng giám đức của tiên giác. Thiết nghĩ rằng: Tôn sư viên tịch thượng
A hạ B Hòa Thượng, tên đời… quê quán… tên chùa và ngày sanh, ngày tịch… Thêm:
hiện tướng sanh diệt như đài gương soi không đến đi, hợp cơ Phật Tổ, như thổi
lông đủ lung linh tác dụng, tiếp tục huệ mạng nơi thâm viễn. Chấn chỉnh tông
phong trong thời mạt pháp, làm cho đèn Tổ rạng ngời ánh sáng chiếu soi việc Phật
mới nên thành tựu. Thương tiếc pháp tràng bỗng gãy đổ… tên người được phó chúc.
May mắn được thấm nhuần ân giáo hóa, đau đớn thay giờ này cô quả; tưởng áo khăn
còn đó hình ảnh khó phai mờ. Những bữa cơm văn vẻ đượm tình, đặc biệt điển hình
tụng Kinh Phạm Võng (thay…). Ngưỡng trông từ lực để báo đáp ân sư. Lại nguyện:
giác linh thầy… Hòa Thượng đại vắng lặng trong ánh sáng sánh với tỳ lư thọ dụng.
Nhất chân pháp giới, lấy bảo tạng để trang nghiêm. Hồi hướng mưa pháp nhuận khắp
quần sanh khiến cho tòng lâm hưng thạnh, mong cho đạo mạch được lưu thông. Cung
thỉnh Tam Bảo chứng minh phúng kinh văn sớ cung tiến thầy.
Ngày …tháng… năm… môn đồ pháp quyến đệ tử…
chí thành dâng sớ.
Ghi chú: Trong sớ phải đọc thêm: bổn sư đức
hạnh ở đây sợ rườm rà nên không ghi ra hết. Cúng bổn sư thế độ, thầy giáo thọ, y
chỉ sư tùy đó thay đổi, theo như các nghi thường.
Chứng nghĩa trích Ngu Am Chích Cổ ghi
rằng: Hòa Thượng Chân Tịnh có lúc bảo thị giả: “Đi mời lão Hòa Thượng đến”. Thị
giả mời thiền sư Nam đến thật đúng lúc. Ngài Tịnh lấy tay sờ trán than rằng:
“Không phải lão Hòa Thượng đây đâu mà đến nổi như thế này!”. Hòa Thượng Tiềm Am
Nguyên mỗi lần thấy Nam thiền sư liền rơi lệ, than rằng: “2 người này có thể nói
nghĩ tới hiếu không rời”, nên ghi thêm vào đây.
Phàm các tự viện 10 phương thiếu Trụ Trì,
cần phải tinh tế tìm bậc cao tăng đạo đức mới có thể thỉnh cử. Cần phải họp
chúng luận bàn kỹ để quyết định. Giám viện cũng phải biết rõ việc chùa, đất đai,
tài sản và lễ nghi tiếp rước… Mọi việc phải hoàn bị tức là mời 2, 3 ban có
Trưởng Ban điều động và tín đồ vài 3 người chuyên môn giúp việc. Tới ngày dự
định họp đến các liêu chúng cho hay, phòng khách chuẩn bị sẵn sàng. Gióng đại
hồng chung 3 hồi 3 tiếng nhóm chúng vân tập lên chánh điện. Có khách đặc biệt
tới chùa tiếp nơi phòng khách, dùng lễ tiếp đãi, mời trà, chuyện vãn. Tri Khách
trước bạch Hòa Thượng Phương Trượng biết và cho nhà trù hay để lo liệu. Kế hỏi
thăm khách cho rõ, lễ phẩm dâng cúng đặt lên bàn, hướng dẫn khách lễ Phật. Tiếp
theo đưa khách đến gặp Phương Trượng Trụ Trì chào hỏi, ngồi lại dùng trà, đàm
đạo, trình bày lý do thỉnh tăng Trụ Trì. Nếu đường xa xôi khách cần nghỉ lại,
đưa khách tới phòng ngủ. Nếu nội trong ngày rồi về, khỏi đưa khách tới phòng
ngủ.
Nếu lời thỉnh không được đáp ứng thời viết
thư từ chối, nhưng việc mời Trụ Trì nên dò ý trước xem có được hay không. Chấp
thuận mới tiến hành thỉnh; không được thời ngưng; nếu thuận đích thân đến hoặc
chuyển qua Trưởng Ban lo. Như ta nhận sự cầu thỉnh, liền thông báo đến 2 dãy
liêu cho chúng biết. Kế, sáng hôm sau, sau thời công phu, họp chúng tại chánh
điện, nói rõ lý do, thăng tòa nói đã nhận lời mời thỉnh. Người có trách nhiệm
được chùa phái đến mời Trụ Trì là duyên may, liền thiết trai cúng dường. Người
được thỉnh có một chỗ ngồi đặc biệt, thết đãi như một chuyên viên.
Thầy Tân Trụ Trì liền chọn một số người
thân tín cùng đi tới chùa mới với người mời. Một buổi lễ bàn giao sổ sách, khế
ước, giao kèo, long trọng diễn ra. Tiền bạc, lúa thóc, vật dụng v.v.. nếu cam
kết trên giấy tờ không rõ ràng, không nhận, vì văn bản vĩnh viễn này rất là quan
trọng làm chứng từ pháp lý. Chọn ngày ấn định, tới ngày nhập tự, tân Trụ Trì
dùng điểm tâm xong, ra giữa chúng tác bạch từ giả, kế lên chánh điện lễ Phật,
lạy tạ Phương Trượng rồi chuẩn bị lên đường. Chuông trống bát nhã, đại chúng vân
tập trước chánh điện, đợi Trụ Trì lễ Tổ xong, vào chánh điện lễ Phật 3 lạy; đại
chúng đảnh lễ Trụ Trì 3 lạy, Trụ Trì xá đáp lễ. Đại chúng đi trước ra cửa đứng 2
bên đối diện trang nghiêm, chấp tay cung kính. Thầy Trụ Trì lễ Hộ Pháp Vi Đà,
Phật Di Lặc xong rồi chào từ giả đại chúng mà đi. Đại chúng tiễn một đổi xa cho
bóng người mất hút rồi mới trở lại.
Nếu ban thỉnh Sư ở lại chùa áp dụng giống
các nghi trước. Người được phái đến trước gặp Trụ Trì hành lễ xong, chấp tay
bạch rằng: “Vùng đó … (tên), chùa A… không có Trụ Trì, nay đủ lễ nghi xin cung
thỉnh Đại Đức… vì chúng con nhận chức Trụ Trì. Ngưỡng mong trên Hòa Thượng từ bi
doãn nạp và mong được cung thỉnh Đại Đức … về trụ trì chùa…”
Trụ Trì đáp: “Kính vâng lời dạy của Hòa
Thượng Phương Trượng, chúng tôi hoan hỷ đáp lời thỉnh cầu của quý vị.”
Nếu người được thỉnh là môn nhơn, Hòa
Thượng Phương Trượng trao pháp y, kèm theo lời pháp ngữ dặn dò mọi điều cần
thiết để hành giả thi hành nhiệm vụ mới. Tân Trụ Trì chí tâm chấp tay lắng nghe
Hòa Thượng nói xong: đáp “Con xin y giáo phụng hành” rồi lạy 3 lạy, bạch rằng:
“ngưỡng mong ân đức Tam Bảo và hồng ân Tổ đức gia hộ, sự thỉnh cầu quá ân cần
của Phật tử, thật cũng khó từ nan Phật sự chung, con chỉ e không đáp ứng được
nhu cầu trông đợi. Cúi xin, trên Tam Bảo và Hòa Thượng chứng minh cho tâm nguyện
của con.” Bạch xong, xá 3 xá.
Hòa Thượng đáp: “đạo đã qui định, rõ một tơ
hào không lầm người nhân đức, Thầy chỉ mong cho con chu toàn trách nhiệm”.
Trụ Trì: “Mô Phật, con xin vâng hành.” Rồi
đứng lên xá 3 xá.
Đại chúng ra trước đứng ngoài cửa sắp hàng
đối diện 2 bên đợi để tiễn chân tân Trụ Trì ra khỏi cửa.
Lời phụ: Bạch thỉnh tân Trụ Trì:
Phàm bạch thỉnh tân Trụ Trì nên tùy theo
mỗi hoàn cảnh mà làm, giá không có ai làm nên dựa theo đây cũng thành nghi, chỉ
sửa từ cho thích hợp mà thôi.
Từng nghe rằng: ngoái xem bảo vật, Tây
phương chư Thánh rộng mở mang. Vua mộng thấy người vàng pháp truyền qua Đông Độ
cho pháp luân thường chuyển. Trang nghiêm vi diệu, hào quang chiếu khắp 3000
cõi, Phạm Âm diễn pháp Đại Thừa, viên âm kết Mâu Ni 108 pháp. Nên biết, nguyên
xưa Thánh giáo do nhờ thiện duyên mà hưng thạnh. Riêng vì từ xưa tăng viên ắt do
người lập thành. Cung kính Hòa Thượng thượng A hạ B… tên vùng…tên tăng… tên
chùa… do phước đức đời trước, tham cầu diệu đế chân như, niêm hoa mỉm cười mà
ngộ đạo Bồ Đề vô thượng; dấu ấn còn in như tuyết, một y một bát không ngăn đến
nơi nào đều rủ ánh từ. Lục diệu, 6 thông để tùy thân mà ứng hóa. Nay làng của…
tên chùa… thay thế danh lam… gọi là cổ sát. Tàng kinh các còn đó, ảnh hưởng tới
cả nghìn sau, cơm Hương Tích thơm lừng, huệ mạng diên trường bao nhiêu năm
tháng. Từ ngày… bổn sư (tôn sư) quy tịch (hoặc lui về ẩn tu… thay đổi cho thích
hợp) do đó chùa không người trông coi. Tuy không bị thiên ma quấy nhiễu mà con
đường giác còn bị cách ngăn, nếu không nhờ tích trượng gõ đầu thế ai biết được
có bảo châu nơi trán. Do đó hết sức nỗ lực, xin chẳng từ khó nhọc, cho chúng con
phục hồi, làm chốn Tổ rạng ngời để an ủi niệm hoài mong của con cháu; vì… cổ đại
thọ ban phát ân từ che chở. Từ nay trải vàng trên đất, mở rộng cam lồ môn, trụ
hội Linh Sơn, nghiễm nhiên còn mãi cho tới hôm nay. Đạo tràng tuyển người làm
Phật được hứa khả; cảnh quan này ngày càng thêm sáng tỏ. Kính mấy lời tỏ bày
ngắn ngủi, với tấm lòng thành không phải dụng tâm, ngưỡng mong chứng giám.
Những lời bày tỏ nêu trên kính xin Hòa
Thượng thượng A hạ B chứng minh liên tọa. Hộ pháp (tên), thí chủ (tên);Trụ Trì
(tên)… xin cúi đầu tác lễ.
Chứng nghĩa ghi rằng: Việc hưng suy
của tòng lâm do nơi Trụ Trì cả. Trụ Trì không đủ tầm vóc (uy tín) làm sao thỉnh
cử đảm trách vai trò thường trụ. Biết mà vẫn nhất định đề cử làm suy hoại Tam
Bảo; cũng nhân đây mà người được cử gặp họa, phúc, thăng trầm v.v... hết thảy
đều do nhân duyên cả. Cho nên đôi bên đều phải thật cẩn thận chọn lựa cân nhắc
kỹ càng. Sơn Am tạp lục ghi rằng: Dịch Hưu Am người Dương Châu là khách thường
lui tới cửa chùa Thiên Đồng, mặc áo nạp, ngày ăn một bữa, đêm không ngủ; theo
phong cách của cổ đức. Lúc bấy giờ ở Phụng Hóa thượng chùa Tuyết Đậu thiếu Trụ
Trì, mọi người mời Dịch tới Trụ Trì; Dịch hân hoan cầm một chiếc nón lá ra đi.
Chưa đầy một năm thay đổi hết mọi việc trong chùa. Lại hủy bỏ áo nạp, nay bị
khinh miệt. Huống chi ăn ngày một bữa nay ví như cái đảnh chứa thóc kho trước
sau, sân giận nổi lên. Người phạm trai ngã lăn xuống đất dùng quyền cước công
kích, lòng ung dung tự nghĩ hết bị buộc ràng Trụ Trì. Y bèn ra vùng ngoại ô mua
nhà dân lập am mà ở, hằng ngày lấy của riêng sinh hoạt. Tranh chấp nhà với Tăng
chùa Trúc Lâm, việc kiện tụng đưa ra pháp luật xử, đuối lý thua kiện đương sự
buồn bực mà chết. Ôi, Trụ Trì tệ hại như thế! Nhưng Dịch không Trụ Trì nữa sao
lại như thế được? Việc này đều do người thỉnh cử không xét kỹ thật hư, chỉ tin
người bề ngoài mà đưa tới sự việc rối rắm ấy. Sốt sắng mời thỉnh Trụ Trì mà làm
hại đến như thế! Lại nói rằng Đông Nham năm 81 tuổi, người Giang Tây mà cả tăng
tục đều tự nhiên mời Trụ Trì chùa Thiên Đồng. Lúc đó chùa Thiên Đồng bỏ trống,
Nham nghĩ tuổi già nhận trọng trách này chẳng qua để được ở yên, bèn gọi tín đồ
Đông, Viên, Khánh, 3 người phân chia việc chùa. Chưa tới 5 năm mà ổn định được
trăm sự chùa bỏ hoang phế. Ngoài ra đáng kể, tài sản, tôn tượng, ruộng đất để
cung cấp cho Tam Bảo. Người Phật tử vui mừng, người xuất gia yên ổn. Xem 2 việc
trên để biết có sự khác biệt sâu xa, thành bại xem hiển nhiên thời việc đề cử
thỉnh mời rất quan trọng không thể không cẩn thận, sáng suốt.
Chọn ngày đã quyết định phải kể đến chùa
gần hay xa. Nếu gần, Thủ Tọa cho chúng rước đến; nếu xa, 2 vị quản chúng 2 liêu
sắp xếp đi sang chùa mới trước. Người đại diện phải thưa bạch với tân Trụ Trì,
nếu từ chối liền thôi. Phàm nhập tự nên chuẩn bị các thứ bông hoa, trà quả, đèn
nhang… sẵn sàng. Tới ngày dự định tổ chức lễ đón Trụ Trì về chùa. Thông báo ghi
rõ: “ngày… tháng… lúc… giờ… toàn viện chư tăng đại chúng nghe hiệu lệnh đắp y
hậu chỉnh tề ra trước cửa chùa đón vị Tân Trụ Trì nhập tự.”
Đúng ngày, thỉnh 3 hồi
chuông trống Bát Nhã, đốt hương đèn các bàn thờ tươm tất. Đại chúng ra cửa đón
từ xa tới gần, đứng 2 hàng đối diện nhau chắp tay cung kính. Tân Trụ Trì vái
chào, vào bàn thờ Tổ lạy Tổ rồi bước ra. Chánh điện trước đặt tích trượng, tràng
phan, thủ lư, bát nhang, phất trần, thủ xích Như Ý để sẵn theo thứ tự. Chúng
đứng đối diện 2 bên, Tân Trụ Trì đứng giữa niệm hương, lễ Tam Bảo. Tri Sự gìới
thiệu với đại chúng, mời tân Trụ Trì đăng tòa thuyết pháp. Trong lúc giới thiệu
Thầy đến lễ Phật Di Lặc, Quan Âm, Địa Tạng hay Phổ Hiền, Văn Thù Bồ Tát, bàn hộ
pháp Vi Đà. Duy Na cử tán:
Vân lai tập Bồ Tát ma ha tát (3 lần).
Đại chúng hành lễ xong, Duyệt Chúng dẫn 3
hồi Khánh và 3 tiếng xướng đảnh lễ Tam Bảo. Tụng nghi thức cầu an ngắn gọn xong.
Đại chúng làm lễ Tân Trụ Trì và mời Thầy ngồi vào pháp tòa ở trước đại điện
Phật, nói vài câu thăm hỏi, lý do tới Trụ Trì. Tân Trụ Trì chỉ ngồi mà thuyết
một vài câu sâu sắc ý nghĩa và chúc nguyện ngôi chùa bền vững, tứ chúng an hòa.
Kế quan chức (nếu có) niệm hương, thị giả tiếp hương cắm vào lư. Chỉ người nối
pháp kế thừa niệm hương, Trụ Trì đáp tạ thâm ân giáo dưỡng Thầy Tổ, đại chúng
chúc mừng, quan chức bày tỏ niềm hân hoan. Kế đến người trong viện chúc mừng
trước tăng sau tục; tiếp theo là mời Thầy thăm nhà kho, viếng phòng khách, lễ
đường, nhà trù, các nhà phụ, liêu chúng… Khi nghe hiệu trống, chúng trở lại
chánh điện làm lễ cúng ngọ. Nếu bận rộn, cúng ngọ có thể dời qua ngày hôm sau
cũng được. Tân Trụ Trì nhất nhất niệm hương đảnh lễ, và cúng ngọ xong tới trai
đường thọ trai. Thọ trai hoàn tất những vị cựu Trụ Trì, chuyên sứ, hộ pháp mời
Tân Trụ Trì duyệt xem lại kỹ tờ khế ước giao kèo, tất cả vật dụng và tiền bạc,
gạo thóc các mục xong, mọi người lui về. Tối chúng vào phòng Trụ Trì mời thầy
nói tiểu tham. Xem nghi tiểu tham có đề cập ở trước. Chừng 15, 20 phút xong, mời
xuống trai đường uống trà và xem qua Nội Quy chùa. Phàm đặc sứ và những người đi
thỉnh sư nhất loạt đều mời cùng uống trà chung, cho tới khi tiễn họ về phòng
nghỉ. Sáng hôm sau công phu xong, sau giờ điểm tâm, đại chúng công tác. Tới giờ
cúng ngọ , theo hiệu lệnh chúng vân tập làm lễ cúng ngọ trước chánh điện. Sau
khi thọ trai xong, Tri Khách hướng dẫn Tân Trụ Trì thăm lối xóm. Ngày thứ 3, sau
thời công phu sáng, vì tín chủ lập chùa nên hôm nay có thời thuyết pháp. Khi
điểm tâm xong, chúng công tác, chuẩn bị mọi việc tươm tất đàn na đặt bàn và
thiết đặt các đồ cúng. Tri Khách bạch Duy Na mời 10 thầy cúng ngọ. Tân Trụ Trì
châm trà cúng Phật, cúng Tổ. Tân Trụ Trì đãi cơm chay cảm tạ người sứ và đền đáp
công lao đại chúng. Nếu đông người, nên dọn sang phòng khách cũng được. Những
người công quả, chấp lao phục dịch ở chùa đều nên đền công lao bằng tiền. Mỗi
người trả đồng nhau xem hôm nay như là ngày khai sơn và cũng là ngày cúng Tháp
chư Tổ, như nghi tảo tháp ở trước. Ở cách xa nên chuẩn bị trước. Buổi lễ tối
hoặc thông báo ban chức sự, Tân Trụ Trì nên lưu lại dự, nếu không chấp thuận
muốn lui về, nghỉ nên để qua vài ngày sau, đợi cho Tân Trụ Trì hơi rãnh việc một
chút rồi hẳn tổ chức cúng lễ cũng không muộn.
Chứng nghĩa ghi: Có một giấc mộng
được kể rằng, trước đây chư sơn đường đầu (trụ trì) một lần nhập tự nhậm chức có
thu nhận của đàn na thí chủ cúng dường một án hương, tức là lễ nhập phương
trượng, nhưng phẩm vật lại đưa vào kho chùa. Việc đơn giản cúng hương bằng tiền
bạc, cúng dường đã chuẩn bị sẵn như của khách nhưng thuộc Tam Bảo. Nếu của để
dành lo việc riêng thời chẳng nên nghĩ của thuộc về thường trụ, cho vật của ta
là vật của Tam Bảo. Dù là cúng hương cũng phải thuộc của thường trụ. Nếu vạn bất
đắc dĩ phải nhận dùng vào việc riêng, cũng nên tình thật bạch chúng biết mà
không được một mình tự tiện. Đây là bổn phận của Trụ Trì theo đúng nghi cách.
Xưa Đông Sơn Không thiền sư trả lời tài
năng của mình bằng cách mượn dấu chân làm sách tóm lược như sau: Trong sách bàn
về dấu chân chẳng biết xuất xứ của thường trụ ư? Không Thượng Tọa hỏi: “nếu xuất
phát ở hư không, không cũng có gì?” Nếu xuất phát của thường trụ là lấy của Tam
Bảo làm của riêng. Một việc liên hệ tư là ăn trộm, đâu biết trộm dùng của Tam
Bảo chứ? v.v…
Lại như Sơn Am Tạp Lục
ghi rằng: Vân Ngoại Hòa Thượng về già trụ trì chùa Thiên Đồng, lấy Tam Bảo làm
việc mình, trăm việc hoang phế đều làm mới lại, không cao ngạo, chẳng tham tích
trử, không ăn riêng, được của cúng dường đem chia cho tăng thường trụ; tiếp xử
chúng rất cẩn trọng. Dù với kẻ hậu sanh cố chấp cũng bỏ qua không để ý tới. Hai
buổi cháo cơm vẫn mang bát tới trai đường dự bửa, thân tuy thiếu thốn mà tài đức
vẫn dồi dào. Cho tới khi viên tịch, tơ hào không chứa làm của riêng. Giới học
giả cảm mến đức độ hết lời ca ngợi. Ôi, Trụ Trì như vậy mới kham làm được những
việc lớn như thế!
Phàm Trụ Trì có việc đi xa nên cho ở chùa
biết trước một ngày và ra thông báo cho chúng biết như sau: “ngày mai… lúc.. giờ
Thầy Trụ Trì có công tác Phật sự tại… trong vòng… ngày. Đại chúng khi nghe hiệu
lệnh vân tập lại tiễn Thầy lên đường Phật sự.”
Sau giờ ngọ trai, Thầy
Trụ Trì bạch chúng tại trai đường; giao phó việc chùa lại cho Giám Viện trông
coi trong thời gian Thầy đi vắng. Tới ngày đi, đại chúng tập trung lại đưa tiễn,
Thầy vào lễ Tổ, lạy Phật xong; đại chúng lễ Thầy và đưa ra tới cửa rồi mới trở
vào. Phàm Trụ Trì đi vắng vào những ngày Mồng Một, Rằm ở nhà vẫn lễ bái như
thường cho tới khi Thầy về. Thị giả trước tiên báo Tri Khách biết ngày Thầy về,
và đại chúng cũng rước mừng Thầy trở về như lúc đi. Nếu vắng trong nửa tháng
hoặc một tháng; còn như sáng đi chiều về hoặc đi vài ba hôm chỉ cần cho Tri
Khách, nhà trù biết là đủ, đại chúng khỏi cần đưa đón. Lại nếu Thầy về mà đại
chúng không hay để chào hỏi liền sau thời Tịnh Độ xong, chúng lên phòng đảnh lễ,
thăm hỏi và xin lời pháp ngữ.
Chứng nghĩa ghi rằng: Việc ra đi trở
về của Thầy Trụ Trì, là theo qui định Phật sự xưa, có ngày đi cũng như ngày về.
Trụ Trì xưa lãnh chúng làm đạo, nếu không phải là việc chung của Tam Bảo chưa hề
dám ra khỏi chùa. Nay thì thân làm Trụ Trì mà chẳng biết lãnh chúng luận đạo,
suốt ngày kiếm cớ ra ngoài du hí để cầu danh, mong lợi, họ làm mất đạo đức nguy
thay! Song lại có nơi dung túng trưởng dưỡng, cho là thư giản sự khổ nhọc. Tuy
gặp việc chung phải đi nhưng cũng để lại người xử lý, trái lại là làm mất sự
quân bình, tức là động chúng.
Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: xưa ở Phụng Tân
viện Huệ An, có Lâm Hồng Châu đạo Khổng, ở quận có Sư Chân Tịnh chọn người làm
chủ vì một nhóm đạo không chịu làm việc. Lúc đó có Tuệ Uyên thủ tòa, ương ngạnh
tự chuyên, dù đối với ông Chân Tịnh đã có giấy giao kèo. Việc tranh chấp lâu
ngày làm tức tối, người ta không biết cho rằng, ỷ số đông không tuân mệnh lệnh,
bèn thưa Sư Chân Tịnh rằng:
-
Tuệ Uyên là người như thế nào?
Tịnh nói:
-
Y có đi cũng được, bèn đuổi luôn.
Uyên được công nhận bèn bỏ đi. Trạm Đường
hỏi:
-
Công Trụ Trì như thế nào?
Uyên đáp:
-
Tuệ Uyên này vô phúc vác cái giỏ tre gõ phố
cúng chúng.
Trạm Đường làm kệ tiễn chân. Đã ở Huệ An
như chỗ đền bù, như thế suốt 30 năm, gió mưa không thay đổi; trăm việc hư hỏng
đều sửa sang; chết ở Viện Huệ An, thiêu xác được xá lợi, 6 căn không rả; có mùi
hương lạ thoảng nhiều ngày. Ôi, từ cổ chí kim thường đem “gõ phố cúng chúng” làm
trụ trì, chỉ có Sư là một người duy nhất mà thôi. Cho nên, chép câu chuyện ra
đây làm niềm vui để khuyến khích kẻ khác.
Trụ Trì hoặc nhận lời của chùa khác thỉnh,
hoặc tuổi già hay do bịnh hoạn, hoặc duyên đời không thuận… tự xét thấy phước
mỏng liền biết điều nên thoái chức. Âm thầm cho 2 trưởng chúng hay thương lượng
để họ tìm cách nói trước đại chúng, cho biết rõ lý do thoái chức.
Phàm cử vị khác thế phải cân nhắc cẩn thận,
tìm người đạo đức hoặc biết tông tích rõ ràng, hoặc thành tích trong sạch, đáp
ứng được sự mong mỏi của số đông mới có thể rước về trụ trì. Nếu có nhiều người
kham nhận nhưng cùng một lúc khó quyết định nên đối trước tượng hộ pháp Vi Đà
cầu nguyện. Nếu được chấp thuận, Trụ Trì là người hợp đạo lý đáng tôn trọng,
chùa viện được mở mang. Nhất định không thoả thuận riêng với người làng, cùng
các bô lão và người thôn trưởng. Nên biết họ không lấy việc Tam Bảo làm trọng, e
có bè nhóm riêng hợp tác sẽ rơi vào tệ sang đoạt. Cần nhất phải thận trọng đó.
Nếu việc mời thỉnh Tăng đã hứa, liền đem của Tam Bảo như tiền bạc, lúa thóc, vật
dụng các thứ đăng ký lưu vào sổ, nhất nhất rõ ràng nên kê ra từng mục, mỗi thứ 3
bản. Trụ Trì giữ một bản, cựu Trụ Trì giữ một bản và người có trách nhiệm giữ
một bản; dùng con dấu Tam Bảo đóng vào đó để lưu chiếu về sau.
Trụ Trì trước một ngày tới giữa trai đường
nói lời từ giả chúng. Sau đó lên chánh điện nói lời thoái lui không nhận việc
nữa và sang dãy nhà đông chính thức mời một người có đức quán xuyến thay Trụ
Trì. Đợi sau khi Trụ Trì đến, cùng 2 lãnh chúng giao ước minh bạch. Tân Trụ Trì
nên rõ ràng tuần tự coi xét việc chùa vừa mới được giao phó. Nên đối với từng
việc rành mạch, giá như Trụ Trì trước có làm hư hỏng hẳn phải lo tu bổ lại các
thứ. Ban chức sự nếu có báo cáo điều gì nên chờ cho tân, cựu Trụ Trì bàn giao
việc rõ ràng, dứt khoát, nếu không đợi tân Trụ Trì đến mà đi trước, thì Thầy
Giám Tự chấp quyền thay. Và đến dãy nhà Đông ôn tồn hỏi tân Trụ Trì để bàn giao
việc.
Chứng nghĩa ghi: Việc tòng lâm hưng
suy do quan hệ việc nhận chức, thoái chức, giá như có một dự định của Tam Bảo bị
tổn thất, cho nên không thể không cẩn thận. Đến như việc thoái chức, nếu người
có đạo đức, biết sống lương thiện đạm bạc, hẳn không quá tham quyền. Sách Thiền
Hoàn Bí Yếu ghi rằng: có vị thủ tọa tới tham vấn Long Môn Phật Nhãn thiền sư là
Đổng Trăn Nguyên Áo. Phật Nhãn phái đến ở phân viện, Sư cố từ chối nói rằng:
“đây không phải là việc nhỏ, như kim châm vào mắt, nếu sai một tơ hào ắt làm
hỏng cả mắt. Nguyện đời đời ở học viện mà tôi luyện.” Phật Nhãn nhân đó dùng kệ
tán dương rằng:
Biết đạo chỉ nhân lần nhượng bộ
Khiêm hòa do tự ngộ bản tâm
Chẳng biết mình đưa lên mây xanh
Chỉ đem thân ở chúng thực hành.
Lại như Phước Châu ở viện Chương Sơn làm am
chủ, phạm hạnh không ai bằng, chí tham cầu Tổ đạo. Nhà Nguyên Sa ở châu Dự (nay
thuộc phía Nam tỉnh Hà Nam) biết rõ việc này. Nguyên Sa ghi lại rằng: thiền tôi
đã vượt ngoài quy tắc. Về sau, sự cần một người hầu cũng không có. Từ đó Sư
không cần qui tụ đồ chúng, không nuôi trẻ nhỏ hầu mà ở ẩn tại một dãy núi nhỏ;
chùa lớn bề thế mà giống như thảo am chỉ cốt dung thân mà thôi.
Tại vùng Nam Đảng thuộc Hàng Châu có thiền
sư Pháp Không hầu hạ Tử Tâm đã lâu, sau được trao pháp muốn từ khước bỏ đi. Tử
Tâm ấn ký rằng: Ông phước mỏng, nên lấy đạo tự tu dưỡng. Sau sống ở Nam Đảng,
chưa đầy một tháng chùa bị cháy. Biết là không người để di chúc Sư than rằng: “
Ta trái lời tiên sư nên gặp khổ nạn ngày nay.”
Ngoài ra Ngu Am Chích
Cổ ghi rằng: Cảm thiền sư ở Hoàng Long, thấy người kiểm lâm trong quận lấy việc
xâm hại rừng lấy làm trò cười, bèn làm kệ ném vào y, rồi bỏ đi. Kệ rằng;
Chùa viện thuộc trong nước đại Tống
Châu thuộc châu cũng của đại Tống
Trong châu có viện chẳng nương sống
Một bát du phương rộng Ngũ Hồ…
Khiến sứ giả đuổi theo thì đã sang bên kia
sông rồi. Xem 4 việc này hẳn thấy khí tiết đẹp của cổ nhân cũng có thể biết
trách nhiệm của Trụ Trì quan trọng ra sao. Không thể đề bạt người không phước
đức hành xử mà nên cử người xứng đáng đã lượng định cân nhắc kỹ càng trước.
Phàm Trụ Trì bịnh biết rằng bịnh nặng, Giám
Viện phải bàn thảo với Thủ chúng, người chấp việc đến phòng xem xét. Nếu có đông
người nên đưa vào phòng khác. Giám Viện thưa bạch:
Bạch Hòa Thượng hôm nay là ngày… tháng… năm
… Trụ Trì bổn tự bỗng gặp bịnh duyên, sợ gió máy không lường được phải dời sang
dãy nhà Đông. Nếu có vật tùy thân như y bát, mời thầy thư ký ghi chép để tiện
việc hậu sự. Mong đại chúng tri tường, kế mở các món đồ ra xem xét gồm những thứ
gì. Dưới đề ngày… tháng… năm… Thủ tọa ký; Giám Viện ký, Duy Na, Tri Khách ký
tên.
Cất giữ những món tùy
thân đó, đợi khi nào hết bịnh mới giao lại cho chủ nhân.
Chứng nghĩa ghi rằng: Từ xưa Thánh
hiền lâm chung, nếu có bị những bịnh hiểm nghèo đoanh vây bứt ngặt không thể
tránh khỏi được đó do nghiệp báo trước đã đến. Song chẳng làm tổn hại tới tư
cách của người bịnh. Nếu các thầy nhỏ trông nom bịnh phải cẩn thận với hiếu tâm,
chớ thấy bịnh nguy mà tỏ ra khinh thường. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: Tử Tâm Ký
con của Nam Công, nằm mộng thấy thần mách bảo: “Sư đang bị chứng bịnh đầu phong
(điên dại) hiểm nghèo, nghỉ việc chùa lui về nơi tiểu am để dưỡng bịnh.” Sư Kỳ
nhờ tiểu nhắc Từ được gọi là Dương Kỳ Am chăm sóc bịnh, đi khất thực trong làng,
giữ hiếu tâm không chán nản. Sư Kỳ gọi Từ bảo rằng: “ Ta nối pháp Hoàng Long, vì
việc hành đạo quá nặng không ngờ nửa đời cảm ác báo thế này. Ta không gây nhân
đó sao có ngày nay? Như bây giờ buông bỏ hết không tu hoàn toàn được tự do.”
Thét lên một tiếng rồi tịch. Lễ trà tỳ có mùi thơm lạ, lưu lại nhiều xá lợi. Ngu
Am có bài tụng rằng:
Đại Thánh hiện oan khiên
Cũng đau nhói triền miên
Nghiệp sư Ta đáng trả
Thần nhân báo mộng liền.
Tiểu sư nghe câu chuyện xong liền đi tham
vấn mới hiểu được, rồi trở về thấy tâm định tĩnh: cổng nâu lá xanh cỏ xanh, vắng
người, chim đậu. Đẩy cửa cầm bát ra xóm khất thực, bịnh tăng, người mất.
Giờ viên tịch sắp đến, phàm người săn sóc
bịnh nhân cần niệm Phật lớn tiếng để trợ giúp vãng sanh. Sau khi viên tịch chờ
tàn một cây nhang mới sắp xếp tang lễ, hoặc đưa ra một số việc cần làm, nên chia
đều để tránh tranh cải nhau. Nếu y pháp cận bên nên liệm theo, để lại tiểu sư
không thể đắp được; vải gai khóc thống thiết. Thỉnh thủ tọa chủ tang, những
người khác túc trực ở phòng khách, nhà kho, nhà bếp lo liệu công việc. Mọi Phật
sự tùy nghi mà làm, đừng quên thể ông tăng để không phí của Tam Bảo, không phiền
lòng đại chúng. Nếu Trụ Trì có công với Tam Bảo, tăng chúng nên niệm nghĩ ân
đức, như y bát chưa truyền đều nên tiến hậu thương tiếc.
Chứng nghĩa ghi rằng: Công tích người
lúc sanh tiền tới lúc lâm chung mới trắc nghiệm, không hẳn là người có bịnh hay
không bịnh, mà chỉ xem trước giờ ra đi có nhẹ nhàng, tự tại hay không mới biết
được mà thôi. Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi rằng: thiền sư Động Sơn Lương Giới lúc
thị tịch, hỏi chúng rằng:
-
Lìa bỏ cái xác nhơ này hướng về đâu để chúng ta
gặp nhau?
Chúng không trả lời. Theo lời Ngài
dạy bảo: cạo tóc, tắm rửa thân thể sạch sẽ, cho thỉnh đại hồng chung để Ngài từ
biệt chúng. Ngài an nhiên ngồi mà hóa, lúc đó đại chúng thương quá kêu lên, níu
lại không cho đi. Sư bỗng mở mắt bảo chúng rằng:
-
Người xuất gia tâm không tùy vật là tu hành
đúng; tham sanh úy tử, thương tiếc giá có ích gì!
Nhưng chủ sự khiến bày thiết trai kéo
dài 7 ngày, đồ ăn đầy đủ, Sư cũng tùy chúng thọ trai xong, bèn nói:
-
Nhà tăng vô sự, đại hạn lâm hành đừng nên náo
động.
Nói xong về lại phòng, ngồi ngay ngắn
mà tịch.
Lại như thiền sư Thúy Nham Khả Chân lúc sắp
lâm chung hiện bịnh rất ngặt nghèo, nằm vật vả dưới đất, nghiêng qua một bên
không cục cựa. Triết khai thị tỏ lòng thương cảm nói rằng:
-
Bình sanh chê Phật mắng Tổ, nay làm gì thế kia?
Sư thấm thía quát lên rằng:
-
Ông cũng làm vậy thấy giải không?
Liền ngồi dậy kêu thị giả đốt hương khói
xông lên rồi thị tịch. Hai bậc cổ đức này lúc lâm chung đều có bịnh khổ nhưng
đều tự do tự tại như thế, há không nhờ tích lũy công huân tu tập hay sao!
Lại trong kinh ghi
rằng, người lúc lâm chung muốn nghe tiếng chuông, tiếng khánh làm tăng thêm
chánh niệm cần thiết ngay trước lúc hơi thở chưa dứt hẳn. Ngày nay thời đi
thẳng, người mất tắt thở chưa bao lâu đã tới lúc nhập quan, tụng Kinh, gõ khánh
đã không kịp nữa rồi. Tuy nhiên, đây là việc của người còn lại; nếu người chết
lúc sống tu hành tịnh nghiệp đến lúc này thời hẳn được người khác trợ lực cũng
như gấm có thêu hoa. Nếu người chết lúc sanh tiền không tu tịnh nghiệp đến lúc
này đây hoàn toàn trông vào tha lực, chính là từ trước lúc tắt hơi thở trở đi
niệm Phật ngay cho tới khi nhập quan về sau. Tuy không mong được lợi ích, nhưng
lợi ích có thừa. Nhưng chắc chắn việc trợ niệm không thể thiếu được mà luận về
đạo có thể đem an lạc giúp đỡ chứ? Chỉ có lúc lâm chung mới qui tụ được người
đồng chí phân ban niệm Phật, giúp người mất được chánh niệm vãng sanh. Nên niệm
Phật là điều không thể thiếu được.
Ngoài ra, nên sắp xếp với nhân viên nhà
thương hay nhà quàng không được động tới thân xác trong vòng mấy tiếng đồng hồ.
Trong thời gian đó nên luân phiên niệm Phật không dứt. Sau đó mới tắm rửa, thay
quần áo và di chuyển thi hài đi nơi khác.
Quan mà có sách gọi là khám, là rất sai
lầm. Có bàn rõ ở phần chứng nghĩa. Phàm người bịnh nguy kịch, phải chuẩn bị cổ
quan tài trước như kiểu, vật liệu ra sao v.v… càng đơn giản bao nhiêu càng tiện
việc thiêu bấy nhiêu và cũng đỡ được một phần chi phí. Hơi thở người mất vừa dứt
là dẫn mõ theo tiếng niệm Phật cho tới lúc nhập quan. Mời các thầy nhiều chùa
tới làm lễ nhập quan. Vị chủ sám làm phép sái tịnh trên – trong quan tài, đậy
nắp xong, liền thuyết pháp ngữ. Nên quỳ thuyết nếu người mất lớn tuổi hơn (sám
chủ) đáng hàng hậu bối cần phải chắp tay nghiêm chỉnh. Ban lời pháp ngữ xong,
Duy Na bạch:
Trở lên công đức niệm tụng, phụng vì đại
Hòa Thượng tân viên tịch (thay đổi theo phẩm vị: Thượng Tọa, Đại Đức v.v…) của
lễ nhập quan trang nghiêm báo địa, 10 phương ba đời chư Phật, hết thảy chư đại
Bồ Tát, ma ha bát nhã ba la mật.
Tụng bát nhã, hồi
hướng. Kim Quan đặt tại phòng khách luân phiên tụng niệm 4 người một ban tụng
Kinh A Di Đà, niệm Phật, đêm ngày không gián đoạn cho tới khi di quan. Các khóa
lễ sáng, tối đại chúng đều đến trước Kim Quan tụng Kinh, tới giờ ngọ cử 2 người
cúng ngọ mỗi ngày và tiến giác linh:
Giác linh đã tạo các nghiệp ác
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sanh ra
Hết thảy gốc tội,
đều xin sám hối.
Ngưỡng mong giác linh bất loạn, chánh niệm
rõ ràng vãng sanh ngay về cõi an lạc, diện kiến Phật Di Đà và các Thánh chúng,
tu hạnh 10 địa chứng Niết Bàn lạc.
10 phương 3 đời hết thảy chư Phật, chư đại
Bồ Tát chứng minh tiếp độ.
Nếu giác linh có di chúc vật gì nên tụng
thêm Kinh Phạm Võng. Căn cứ qui tắc xưa nhập quan vị tăng, phải giặt giụa quần
áo cũ, ngoài mặc y 7 điều từ trên đảnh cho tới dưới chân, chuỗi hạt đeo tay, tọa
cụ đặt dưới chân, ếm trà 2 bên thân thể, đậy nắp quan dùng tro niêm kỹ. Dù người
thân đến thăm cũng không được mở nắp quan tài, không phô trương hiếu tâm, không
rộng nêu liên hệ đi điếu, không mặc đồ gai bố đội vải trắng, không bày từ cáo
phó, không chiêu nhóm thí chủ làm thân thuộc, không làm đám theo thế tục, chỉ
chú tâm tụng niệm mà thôi. Những vật dụng, y bát hết thảy đem cúng cho chúng.
Trụ Trì còn như thế, những vị khác phải biết noi theo.
Chứng nghĩa ghi rằng: gần đây có một
việc gọi là khám ngồi đã thành thói quen mà không biết là trái lời Phật dạy. Căn
cứ theo Kinh Niết Bàn quyển hạ, đức Thế Tôn ở thành Câu Thi Na giữa 2 cây song
thọ, Ngài nằm võng yên lặng thị tịch nhập quan mà hóa. Than ôi! Phật là bậc chí
tôn của 3 cõi mà còn nằm như ngủ nhập quan, người tăng sĩ học Phật cũng phải
dùng quan tài rõ ràng. Vì thế Lục Tổ Đàn Kinh ghi rằng: người chết nằm không
ngồi! Chỉ một câu này cũng cho thấy đương thời Lục Tổ mất cũng nằm trong quan
tài. Việc nói về tọa khám hoàn toàn do háo danh mà phát sanh, nếu quả thật bình
thường thiền định lực sâu có thể ngồi mà hóa thì tọa khám không có trở ngại. Nếu
lúc sanh tiền một đời lo việc ngoài không học tham thiền, lúc lâm chung gượng ép
ngồi khám, thật là phí khí lực. Vả lại thần thức chưa hoàn toàn thoát hẳn cũng
khó qua được nạn khổ.
Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: Hòa Thượng Phổ
Hóa ở Trấn Châu đời Đường Hàm Thông nguyên niên (năm đầu) sắp thị tịch hướng
sang mọi người xin một cái áo dài, có người cho một áo ngủ hoặc đưa cho miếng
vải tang. Ngài đều không nhận. Ngài Lâm Tế sai người đưa tới một áo quan liền
cười nhận ngay, rồi lên từ biệt chúng mà rằng: “ngày mai Phổ Hóa chết ở Đông
môn”. Người trong quận nghe đồn rủ nhau kéo ra xem, Sư bảo: “hôm nay chôn không
hợp quạ xanh, ngày mai đi ra Nam môn mà hóa”. Mọi người cũng đi theo xem. Lại
nói rằng: “ngày mai ra Tây môn tốt hơn”. Mọi người ra đợi ở đó càng lúc càng
đông, đi ra rồi lại đi về, khiến ai nấy mỏi chán cho tới ngày thứ tư, Ngài tự
bưng quan tài đi ra cửa Bắc rồi thúc mõ nhập vào quan mà hóa. Đây cũng là một
chứng minh việc dùng quan tài của cổ đức vậy.
Đã nhập quan xong đặt quan tài nơi trượng
thất chỉ cách ngăn treo màn trướng, bày các đồ cúng như lúc sống. Giữa pháp tòa
trên đặt chân dung và long vị. Nhân tuần thất trần thiết phẩm vật cúng, ngoài
ra, lư nhang, bình hoa phải chăm sóc gọn gàng sạch sẽ, đốt nhang liên tục, 2
buổi dâng trà, cơm, thức ăn cúng dường. Nếu chư sơn trưởng lão và quan chức hàng
tôn quí phúng viếng, môn đồ lạy đáp lễ cho phải phép. Ban đêm kéo màn che quan
tài lại, để quan tài tối đa 3 tuần rồi hỏa táng nhập tháp. Tháp cao 6 mét, không
nên phí quá nhiều công; gạch đá và vùi xác vô ích. Như có múa hát, âm nhạc v.v..
các loại thảy đều không nên dùng mà chỉ chư tăng niệm Phật dẫn đường mà thôi.
Đám tang Trụ Trì hết thảy phải thật qui mô và theo nghi cách xưa.
Tiếp đón các vị khách cho đủ lễ nghi không
nên thiếu sót, thì đám mới trang trọng; đồ đạc của họ không di dời chỗ khác.
Phàm pháp tử, giới tử, đệ tử thế độ (xuất gia) nhiếp tâm lo việc tang lễ mà
thôi. Lục Tổ Đàn Kinh ghi rằng: “Sau khi Ta diệt độ đừng theo thế tình thương
khóc rơi lệ. Nhận người điếu tang trên mình luôn mặc đồ tang.” Đó là lời Tổ dạy
nên tuân thủ, nếu không, chẳng phải là đệ tử Phật, cũng chẳng theo đúng chánh
pháp. Nếu 2 bên biết rõ bịnh nặng phải đưa tới phòng khách chờ viên tịch, đặt
quan tài trong 3 ngày. Phàm tịnh nhân lâm trọng bịnh sau khi chết, nhập liệm
hành lễ để chỉ một vài ngày liền đem hỏa thiêu, không để lâu hơn, cũng như không
thiết cúng đủ các nghi.
Chứng nghĩa ghi, ngài Vân Thê Liên
Trì nói rằng: người để tang chỉ buồn thương bên trong không nên để lộ bi thương
sầu khổ. Căn cứ theo Kinh Đại Niết Bàn, dù không dạy để tang song lúc Phật lâm
Niết Bàn, chúng vỗ về kêu khóc thống thiết đến đổi có người thổ huyết. Nay đệ tử
ta gặp tang há không buồn sao? Chỉ có điều không nên giống người đời gào khóc,
lăn lộn thôi. Lại như gần đây các vị Trụ Trì viên tịch, hàng đệ tử lấy lụa viết
chữ lên đó cầu chuyên gia khắc vào tháp. Hẳn lúc còn sinh tiền cha mẹ thấy điềm
lạ… sau khi chết hỏa thiêu, lưu lại vô số xá lợi v.v… đâu phải không có điềm lạ
này là không thành bậc tôn túc đâu? Vả lại, do tông môn chúng ta tôn trọng, chỉ
lo giới-định-huệ mới thật chân tu, mới là thật đức; dù thiền, giáo hay luật cũng
thế, những việc khác đều là phụ không đáng kể. Đến như việc hỏa thiêu mà hỏi có
phần nào còn nguyên vẹn (các căn bất hoại), lưu lại xá lợi… đều do bình nhựt
người ấy có tu hành nghiêm tịnh, cũng đâu phải dễ đạt lắm sao? Nói về áo quan có
bài thơ rằng:
Luận xét cổ quan
Quí giá tự phân
Như muốn trọng sang
Bị người khinh thay!
Học đồ làm một bài thơ chế giễu như trên,
đều ghi nhận như thế để lưu lại cho đời đám tang vị sư mà không được như trong
nhà đạo. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: thiền sư Vân Môn Yển thuyết pháp như mây mưa
hoàn toàn không còn ai ghi chép, thấy có người nghi liền mắng rằng: “Ông ngày
không tu, trái lại ghi lời tôi để dịp khác bán tôi chăng.” Nay trong phòng có
dịp bàn đều là rừng hương dùng giấy làm áo, theo chỗ nghe sách mà đạt. Ôi! lời
pháp ngữ còn chẳng vui ghi, huống gì là lời hoa mỹ dối gian khác ư?
Phàm việc tổ chức lễ hỏa táng phải dự định
ngày giờ trước. Cung thỉnh ban chức sự đâu đó xong rồi. Sáng hôm hành lễ tụng
Kinh Di Đà, thỉnh di ảnh đảnh lễ Tổ trước giờ di quan. Chủ sám tuyên pháp ngữ
trước Kim quan, sái tịnh, niệm Phật rước linh mô ra xe. Thủ chúng đi trước hướng
dẫn niệm Phật, chúng theo sau cùng niệm, mọi người đều tỏ lòng thương cảm. Hiếu
đồ đi theo xe Kim quan đi chậm tới lò thiêu. Tới nơi, đưa Kim quan vào địa điểm,
hành lễ theo thủ tục hành chánh: chủ sám hoặc một vị tôn túc thuyết pháp cho
người dự nghe và cũng nói pháp ngữ nhắc giác linh nữa. Phát biểu cảm tưởng của
quan khách, điếu văn, đọc điện tín phân ưu, hiếu đồ cảm tạ… Chủ sám hành lễ, mọi
người đứng chấp tay nghiêm chỉnh theo lời xướng của chủ sám:
Tân viên tịch đại Hòa Thượng thượng A hạ B…
đã thâu thần an nhiên thị tịch, theo như pháp thiết lễ trà tỳ, Ngài hóa thân
trăm năm hoằng hóa, nhập Niết Bàn vắng lặng từ nay. Mong đại chúng thành tâm
xưng dương Phật hiệu.
Ngưỡng mong đuốc tuệ rạng soi
Thân phàm hoại thể, tánh giác vẫn hoài
Hoa giác ý tuần tự mở khai
Biển pháp tánh trải đầy
Rưới sạch bụi dày trần tâm
Ba lượt trà châm
Hương xông một nén
Phụng tiễn Kim quan
Tôn linh chứng giám.
Ngưỡng mong đại chúng tề thanh xưng dương
Phật hiệu trợ niệm giác linh sớm vãng sanh Tây phương Cực Lạc quốc.
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần).
Đại chúng cùng niệm và màn vừa kéo lại. Mọi
người cúi đầu chào tiễn biệt rồi lên xe trở về chùa làm lễ an sàng.
Chứng nghĩa ghi rằng, Phật dạy: Tăng
viên tịch nên thiêu tán, làm cho lìa phần đoạn thân tạm thời đó mà chứng pháp
thân thường trụ. Người thế gian thấy việc này không theo kịp, cho rằng thiêu xác
là vô tình bất nhẫn. Ngày nay có một số vị tăng sợ thiêu nên dặn dò đừng thiêu,
thật là chí tệ thậm tệ. Lại có ngộ nhận cho rằng, người truyền một đời Trụ Trì
không cần thiêu, cũng lầm vậy. Đúng như Lục Tổ phái Tào Khê đã chứng được pháp
thân bất hoại, xác lưu lại không hư rả, nếu chưa được bất hoại thiêu đã cháy
trọn.
Xưa thiền sư Sở Thạch thị tịch đời Hồng Võ
năm thứ ba vào thời kỳ đó cấm hỏa thiêu. Ngài di chúc lại là muốn tuân lời Phật
dạy, vua Minh Thái Tổ đặc biệt mở biệt lệ. Ôi, bậc Thánh minh còn đạt được vậy;
huống hạng ngu tăng nên tàm quí không có đất chôn! Có người hỏi Ngài Liên Trì
rằng:
-
Ngài muốn lâm chung thiêu xác được không?
Sư đáp:
-
Phép thiêu xác Đại Thừa cho phép; Tiểu Thừa
cấm ngăn.
Đại Thừa lòng bi sâu rộng, nhẫn lực hoàn bị
nên nghe tối thiểu chấp nhận được. Tiểu Thừa chỉ biết tự lợi, bi nguyện mỏng
cạn, cộng thêm nhẫn lực chưa cao, giá gặp lâm nguy mà mất mạng thì sự phương hại
có thể thắng được sao? Huống gì hoặc tham thân do cái danh gắn liền sau, hoặc do
nhất thời khích động không còn giữ chánh niệm phải chuốt lấy quả khổ, nên Phật
cấm vậy. Lại các pháp hữu vi, bị ma trói buộc lúc sanh tiền ưa làm điều bất
chánh, si mê, tà kiến, gần gũi cùng ác ma, nhân đó bám riết theo. Tác động đầu
tiên về ý niệm thiêu thân, kế trở thành việc thiêu thân, lấy ma lực thêm vào.
Ngồi ngay ngắn giữa ngọn lửa dường như không thấy nóng, như không có gì cả? Ma
lui tan bị thảm hại đau khổ, không thể dùng lời gì dụ được. Trải qua trăm kiếp
ngàn đời, chết làm oan hồn thật là đáng thương xót. Cho nên biết rằng chết mà
không thiêu cũng như chưa chết mà thiêu đều chẳng đúng luật Phât. Thời mạt pháp
tăng đồ phải biết thích nghi mà làm cho đúng. Lại vì tăng viên tịch mà thuyết
pháp, chỗ hiểu đạo mình chưa thông làm cho thần thức có chỗ bị trở ngại; thật tế
là muốn khai thông người mất. Phàm sau khi vị Trụ Trì viên tịch, phải thỉnh một
vị danh đức thuyết pháp là việc trước tiên trong các Phật sự. Ngoài ra, những
việc khác như đậy nắp quan, mở nắp quan v.v.. do chư tăng. Duy Na và Thủ Tòa
thưa hỏi Trụ Trì hoặc tự thuyết, hoặc nhờ vị khác thay thuyết. Duy việc mồi lửa
tức thiêu xác phải là Trụ Trì (vị danh đức) đích thân đảm trách. Ngày nay cũng
có nơi đặt Ban Thủ lo, đã sai qui tắc xưa; thậm chí còn nhân danh này nọ để
thuyết pháp. Còn cổ đức một khi gặp đủ cơ duyên mới thuyết không câu nệ buộc
ràng.
Sơn Am Tạp Lục ghi
rằng: Vô Chuẩn trụ trì chùa Kính Sơn, vì xem Thượng Tọa hạ lửa nói: “Quán sát
biển cả khéo là nước, tận cùng của sóng chỉ là bọt nước, bây giờ biển tan, bọt
cũng mất; Quay đầu ngó lại nhà mình chìm đáy nước!” Đả danh thuyết pháp, từ đó
trở đi nhân đó bắt chước gọi theo, đến nay chốn tòng lâm dùng từ “đả danh” làm
định thức lôi kéo đâu có thích hợp, hoàn toàn không gốc gác mà cho là khai ngộ
người chết, kết quả là gì? Ngoài ra không vì tăng viên tịch thuyết pháp đả danh,
tức là kệ phú pháp; mà cũng có nhiều người nhân danh dựa cảnh để nói, đã không
hợp bản chất thật tế mà chỉ theo ngọn bàn thảo thật khôi hài. Giả sử nói được 10
sự thật cũng thuộc lời trau chuốt mà thôi chứ nào có ích gì đâu!
Thiêu xác xong tới ngày thứ nhì phải nhập
tháp. Chuẩn bị mọi việc, thông báo giờ giấc, cử hiệu lệnh… Đại chúng vân tập
trước tháp, đưa linh cốt nhập vào tháp. Nếu là đường xa, chỉ mời ban chấp sự
chừng 20 người đến trước tháp, đứng trang nghiêm, niệm hương, xướng lễ, tán. Duy
Na bạch: “Tân viên tịch đường thượng Hòa Thượng thượng A hạ B; y như pháp đã trà
tỳ, còn xương cốt đem nhập tháp, lưu trăm năm cho đời; nhập vào đường Niết Bàn.
Ngưỡng mong đức chúng thành tâm trì tụng kinh chú, niệm danh hiệu Phật trợ lực
giác linh.”
Bạch xong, tụng Kinh Di Đà, chú vãng sanh
(3 lần). Chờ cho một vị tôn túc thuyết pháp xong. Vị đại diện bổn tự cảm tạ, đại
chúng đồng niệm: Nam Mô A Di Đà Phật. Tri Khách mở tháp cho hộp tro cốt nhập vô
xong, đóng tháp lại. Duy Na chấm dứt câu niệm Phật. Xướng tán Di Đà, phục
nguyện. Duy Na bạch:
Trở lên việc tụng niệm để trợ lực giác linh
vãng sanh Cực Lạc quốc. Ngưỡng mong cỏ sạch trên chõm, hoa nở tốt tươi quanh
tháp. Sáng tỏ bên trong tướng vô kiến đảnh tròn đầy. Cõi Ta Bà ở thế gian, đầy
phiền não trần lao mong thoát khỏi. Chí thành 3 lạy, một nén tâm hương, phụng
tiễn đường mây, cúi xin chứng giám.
Chí tâm đảnh lễ Nam mô Từ Lâm Tế
Chánh Tông… thế…… Hòa Thượng Giác Linh (3 lạy).
Chứng nghĩa ghi: Cứ theo lệ cổ chỉ có
Tổ khai sơn và kế thừa có công lớn đối với Tam Bảo mới tôn tạo tháp, những vị
Trụ Trì bình thường khác nhập tháp phổ đồng, tháp chung các đời Trụ Trì mà thôi.
Chùa tạo tháp hoặc 3 tầng, 5 tầng hoặc 7 tầng hay 9 tầng khác nhau. Nếu xây 3
tháp, chính giữa tháp Trụ Trì, bên tả chùa và là tháp chung của các tỳ kheo thập
phương, bên hữu bổn tự là tháp chung của các Sa Di thập phương. Nếu tháp Ni đưa
về chùa am Ni, không lập trong chùa tăng. Như dùng tháp 5 tầng, giữa thờ Trụ
Trì, ở giữa bên trái phía trong chùa thờ các tỳ kheo, bên phải phía trong thờ
thập phương tỳ kheo, bên trái các Sa Di, thêm Ưu Bà Tắc, bên phải 10 phương Sa
Di cũng thêm Ưu Bà Tắc. Hay tháp 7 tầng, 5 tầng giống như trên. Chỉ phân riêng
Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đặt thành 2 tháp riêng. Gần đây bên tả chùa lại có thêm tháp
tỳ kheo ni, bên hữu chùa thêm tháp Sa Di Ni. Và tháp Ưu Bà Di thờ chung thành ra
tháp 9 tầng. Lại gần đây tháp Ni đại bộ phụ thuộc nơi chùa Tăng, không hợp cúng
tế, viếng thăm gây ra trăm điều phức tạp nên không thể không xét lại.
Sau lễ nhập tháp, tại nhà kho, phòng hội, 2
dãy liêu chúng ban chức sự, Giám Viện, Duy Na, Tri Khách, Trị Nhựt, Thủ Khố, đồ
tắm giặt, y bát v.v… đồ dùng của người mất. Trừ khi có dặn dò đem tặng cho người
nào. Mời Giám Viện, Duy Na đem mỗi món đấu giá, chiếu theo thời giá bớt 7%, Thư
Ký ghi vào sổ sách, Tri Khách biên số, Trị Nhựt kiểm lại; liệu để lại một vài
món tạ công khó người chăm sóc bịnh. Phàm y cụ, mùng mền v.v... có 4 góc nên để
vào của thường trụ. Ngoài ra, đem viết số hiệu, số mấy, món gì… giá bao nhiêu
chẳng hạn buộc vào trên món đồ chính, định giá đầy đủ chi tiết. Nếu là vị khác,
phải bạch Trụ Trì biết. Duy Na bạch rằng:
Mây bay tan mà ảnh không còn
Đèn tắt lịm nên sáng tự mất
Lưu y làm biểu tượng để tin
Qui cách khéo liệt Tổ phải gìn
Dùng pháp phá dứt sạch xan tham
Vâng mệnh trên làm gương quy phạm.
Hôm nay xướng đấu giá dùng theo giá bất
thường, ngưỡng mong đại chúng niệm Thanh Tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam
Mô Tỳ Lô Giá Na Phật (108 hiệu) xong, hồi khánh chấm dứt.
Lại bạch rằng:
Hôm nay bạch đại chúng, đấu pháp y theo giá
thường định; cũ mới, dài ngắn mời quý vị nên đấu theo món đồ giá biểu. Mỗi món
có số ghi rõ, sau khi nghe tiếng khánh dứt là ngã giá không kéo lui lại nữa.
Bạch xong, Giám Viện cầm món đồ giơ lên đấu
giá từng món một. Duy Na gõ dứt một hồi khánh, là món đó đấu xong. Thư Ký ghi
số, món gì, thâu tiền. Tri Khách, Trị Nhựt đối chiếu lại, hoặc cùng lúc tiền và
vật giao 2 món, phó Trụ Trì so lại đúng rồi nhận tiền. Tri Khách đưa đồ cho
khách. Hoặc hẹn ngày tới kho lấy đồ và giao tiền. Phàm quần áo nên ủi thẳng nếp,
định giá tiền; trường hợp Thầy viên tịch có để lại tiền bạc cũng ghi vào sổ lưu.
Nếu tài chánh dồi dào, chia thành 3 phần: 1 phần lo việc tang lễ các thứ, kể cả
hương đèn, hoa quả…, một phần cho vào quỹ Tam Bảo và một phần cúng dường công
đức chư tăng dự tang lễ. Nếu người mất thanh đạm, nghèo, phải lấy quỹ Tam Bảo lo
tang lễ. Các Thầy cũng phải thông cảm trường hợp này.
Đấu giá xong, niệm Phật, hồi hướng. Duy Na
bạch rằng:
Trở lên công đức tụng Kinh, đấu giá, phụng
vì kỳ nguyện Hòa Thượng tân viên tịch thượng A hạ B được thập phần viên mãn.
Ngưỡng mong thập phương thường trụ chư Phật, Thánh hiền chứng minh tiếp độ giác
linh cao đăng Phật quốc. Nam Mô A Di Đà Phật.
Chứng nghĩa ghi rằng: Việc đấu giá có
thể vì thấy rõ đạo tâm của người mất. Đạo tâm mới quan trọng, của cải tự xem
nhẹ; người xem của cải nặng, hẳn coi đạo tâm mỏng cạn, đó là điều hiển nhiên
vậy. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: xưa có một vị tôn túc mà hàng hậu bối trong tông
môn đều kính trọng. Vào cuối đời bị chỉ định trụ trì một ngôi tự viện; chính vì
được Vua ban ẩn thưởng trọng hậu. Lúc lâm chung nhà vua rất tiếc thương ban cấp
tiền lo lễ tang. Quần thần tâu, tiền của vị tăng quá giàu nên có sự tranh chấp
làm cho trên không vui, Ngài liền ngủ trước khi mất. Ngài Ngu Am có bài tụng
rằng:
Bạn không thấy trên núi Tuyết Sơn
Có đồng tử con vua Kim Luân (Phạm Vương)
Bỏ vương vị như bỏ giày rơm
Trong 6 năm sống giữa tuyết sương
Gần kiệt sức còn da bọc xương
Có gì là đời một đế vương!
Lại nữa, há không thấy Tổ Ca Diếp
tu
hạnh đầu đà
ngày ăn một bữa, áo quần gai bố thô sơ đó sao!
Trăm vạn tòng lâm đoạt gấm hoa
Hai độ tôn sư được thủ khoa
Tôn túc thân giáo sư
Thuyết pháp phải như hà (sông)
Tôn túc của các gia
Trên giận y bát quá đà…
Đến tuần thất 5 đem bài vị thờ chung vào Tổ
đường. Tới tuần thất thứ 7 cúng tuần chung thất. Mỗi tuần cúng thất hoặc vị kế
thừa hoặc đệ tử thọ giáo thiết lễ cúng hay chúng thường trụ cúng tiến. Lúc đặt
bài vị nên cúng ngọ tại Tổ đường.
Chứng nghĩa ghi rằng: Kinh Phạm Võng
quyển 39 phần giới khinh cho rằng: cha mẹ, anh em, Hòa Thượng, A Xà Lê gặp ngày
chết, tuần thất thứ 3, 5, 7 cho đến tuần 49 ngày cũng nên giảng Kinh luật Đại
Thừa, làm lễ truy tiến. Phật đã chỉ dạy đâu há quên sao? Chỉ nên làm sao thích
hợp không tiêu phí quá mức mà làm hao tốn của Tam Bảo.
Sách Tam Quy Chánh Phạm ghi: sau khi Phật
diệt độ, dùng khắc, họa, nặn hình tượng Phật để lại cho đời. Đó là tượng Phật
còn để lại, về sau vì trụ trì Phật bảo là chỗ dựa hợp lý với niệm tôn kính của
ta; tượng ánh vàng sáng chói có thần sắc như sống động. Nếu bị hư hại phải tự tu
bổ sửa lại, chỉ e chùa nghèo không thể quyên góp đủ tiền, hoặc có tín chủ phát
tâm thành tu sửa cũng không có gì trở ngại. Mong rằng không phải là mệnh lệnh
cưỡng bức khiến người không vui, làm cả đôi bên đều chẳng có lợi gì. Lại như
ngày nay nghe tăng đúc tượng Phật có hai tội:
Thứ nhất: Mượn cớ đúc tượng làm nhân duyên
quyên góp của tín thí cho vào túi riêng là chánh phạm. Kinh Lăng Nghiêm quyển 3
nêu rõ lời dạy: Có tâm trộm là phạm lỗi lầm.
Thứ nhì: Đàn tín bỏ tiền đúc tượng Phật mà
vẫn dùng của Tam Bảo cũng phạm tội. Kinh Niết Bàn có nêu rõ: ăn cắp vật của Phật
mắc tội thuộc tội thứ hai này. Vì thế phải răn dè cái tệ hại trộm của Tam Bảo
này vậy. Ngu tăng chỉ tham thấy lợi trước mắt chứ không sợ quả báo đau khổ về
sau; bèn nói tăng là Phật tử. Y thực đều nhờ ánh quang Phật nhưng phóng ý làm
dối tự cho là được, thật là đáng thương xót! Đến như tu tạo tuy không nhất nhất
cho đầy đủ tướng hảo, nhưng cũng phải giống một phần lớn chẳng để đến độ bị nhầm
lẫn. Nay tạo tượng Phật với tướng
nhục kế,
lông trắng giữa chặn mày, chữ vạn ba tướng ấy hoàn toàn mất gốc tướng Phật. Căn
cứ 32 tướng tốt của Phật, một tướng nhục kế phải ở ngay đảnh có màu hồng nổi cao
nên gọi là vô năng kiến đảnh. Nay đa phần cho ra trước, lại chẳng nổi cao thật
là sai lầm. Đến như 2 tướng bạch hào, tướng chữ vạn đều không thấy thợ tạo chi
cả. Việc đúc tượng của Tây Tạng, chỉ có nhục kế là đúng pháp, còn chữ vạn làm
cho có, đến như tướng bạch hào cũng lại không thấy. Ngoài ra, tượng Phật miền
Tây lưng nhỏ làm lệch hơn là đúng pháp; tượng các nước phía Đông lưng thô không
phải là tướng Phật. Đây chỉ là mới đề cập một vài nơi có liên quan tới đại thể
(việc chung). Vả lại, đề cập việc tu tạo như thế cho người sau có tạo tượng Phật
cần nên lưu ý. Nội chỉ một tướng bạch hào thôi mà thợ nặn không biết tô lên một
lớp nước châu xương (đỏ) nơi giữa 2 hàng lông mi cũng tạm được, vì xem đây là
ngoại lệ. Tướng hảo phải thấy mà sức thợ có thể làm được. Vì thế trích dẫn kinh
để hoàn bị điêu khắc đúng pháp gần giống như Phật thật. Phàm đúc tượng Phật quan
trọng là trong ngày khai công, trước nên cúng ngọ, đọc sớ đầy đủ để cầu mọi sự
tốt đẹp. Sớ rằng:
Từng chiêm ngắm thân sắc vàng tía của Phật
là làm mô phạm cho toàn pháp giới. Hiện tướng bạch hào sáng soi rọi khắp cõi
Diêm Phù Đề này cảm hóa lòng thành của sự ngưỡng phục, đặc biệt sắc vàng tử kim
dùng cho tượng gỗ, tượng đất; chừng biết có 14 trời hạ giới. Thành tâm niệm…
(xưng tên người niệm) không gặp đời tượng pháp, thương thân mắc tội báo sâu dày.
Tưởng nghĩ bóng từ dung, may nhờ thiện căn làm duyên khởi. Nay cung tựu tại
chùa… tạo lập tượng bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tượng tốt một pho, bên trái tôn
giả Ca Diếp, bên phải Ngài A Nan, khiến cho người người ngưỡng vọng để sanh tâm
kính lễ, chốn chốn theo gương tạo phước điền lương hảo. Đặc biệt chọn giờ… ngày…
tháng này, trước nghĩ tưởng hồng ân; mong xin gia bị. Kể từ hôm nay lập mô hình
bắt đầu cho tới ngày tượng hoàn thành viên mãn. Mọi việc rắc rối phức tạp không
bị ảnh hưởng; mọi duyên hổ trợ được thuận chiều; nhờ oai thần che chở, công tạo
tượng được suốt thông. Đẹp tốt lạ thay nhờ kiệt xuất công phu của tay người thợ
khéo không thể sánh ví. Sáng soi các biểu tướng uy nghi, y chánh báo viên thành;
trăm ức cõi hàm mông gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, tín thí gội nhuần ân,
tòng lâm hưng thạnh, long thần hộ vệ đời - đạo mong nhờ. Lời bày tỏ bên trên,
ngưỡng mong Tam Bảo chứng minh gia hộ. Công trình khởi công tạo tượng Phật văn
sớ.
Phật lịch 2550, ngày… tháng… năm…
Trụ Trì …. Chí thành dâng sớ.
Nếu sửa tượng Phật cũ, đợi giờ cúng ngọ
Phật xong, sau đó người thợ mới che tượng lại và sửa.
Chứng nghĩa ghi rằng: Hầu cạnh bên
Phật người đời cho là A Nan, Ca Diếp là theo cách nhìn của thiền tông như Kinh,
luật, luận đã đề cập. Người luôn theo hầu Phật thật ra là Xá Lợi Phất, Đại Mục
Kiền Liên chứ không phải Ngài Ca Diếp và A Nan. Căn cứ luận Tỳ Bà Sa quyển 135,
Ưu Ba Cúc Đa tôn giả tự vì chưa từng thấy dung nghi Phật khiến ma vương hiện
hình. Nhờ quán Phật tượng, ma phải phục; tức ma hóa hình làm Phật, bên phải là
Xá Lợi Phất, bên trái Đại Mục Kiền Liên. Con ma này bèn thân tới gặp Phật, điều
này đủ để trưng ra bằng chứng vậy. Nhưng theo thiền tông, người hầu Phật là Ca
Diếp và A Nan tôn giả. Giảng giải người hầu Phật là Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền
Liên tôn giả, nhưng Luật tông suy luận phải là Ưu Bà Ly và Đại Ca Diếp tôn giả.
Tùy theo các nhà lập phái chủ trương mà tạo tượng thích hợp. Theo lý cũng đúng
thôi, vì pháp không nhất định vậy. Công đức tôn tạo Phật tượng như Kinh Pháp Hoa
ghi rõ: nếu người nào vì Phật, tạo lập các hình tượng, điêu khắc các biểu tướng
Phật đều sẽ thành Phật. Hoặc dùng 7 món báu tạo (hoặc), sắt gỗ và bùn đất, hoặc
dùng vải sơn dầu vẽ tranh hình Phật v.v... những người như thế đều sẽ thành Phật
đạo.
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng:
Phật lại phóng quang gọi là Hoan hỷ, ánh sáng làm cho hết thảy chúng sanh giác
ngộ, khiến cho họ yêu quí Phật, Bồ Tát mà phát tâm Bồ Đề nguyện chứng đạo vô
thượng. Tạo lập tượng Như Lai đại bi, các tướng tốt trang nghiêm ngồi trên tòa
sen, luôn hoan hỷ đủ công đức cao đẹp, vì thế nên đạt được ánh quang minh này.
Đầy đủ như các Kinh Lâu Các chánh pháp, Kinh Cam Lồ cổ và Kinh Công Đức tạo
tượng v.v… đều có nói thân Phật đủ 32 tướng tốt.
Kinh Phật thuyết bá phước Đại Thừa ghi
rõ 32 tướng như:
1. Bàn chân bên dưới bằng phẳng,
2. Tay chân có màng thiên bức luân
(như chân ngỗng),
3. Các ngón tay, ngón chân thon dài,
4. Tay chân đều mềm mại,
5. Gót chân đầy đặn,
6. Bàn tay, bàn chân ngón bao lớp màng
mỏng,
7. Mu bàn chân cao bằng phẳng,
8. Bước dài như nai chúa,
9. Đứng thẳng cân đối, tay thả xuống
quá gối,
10. Âm tàng ẩn kín,
11. Thân cao lớn như cây Ni Câu Đà,
12. Mỗi lỗ chân lông chỉ một lông mọc,
13. Trên lông ngã theo một chiều sắc
xanh mềm mại rợp về bên phải,
14. Thân sắc vi diệu hơn cả vàng cõi
Diêm Phù,
15. Thân sáng tỏ một trượng ,
16. Da láng mịn trơn không dính bụi,
17. Hai vai tròn trịa,
18. Thân to lớn nghiêm oai,
19. Ngực như sư tử chúa,
20. Hai nách dưới đầy đặn,
21. Răng trắng lớn 2
2. Có 42 răng
23. Răng trắng khít đều mà chân sâu,
24. Bảy chỗ đầy đủ (thất khiếu),
25. Trán vuông như sư tử chúa,
26. Trong cổ được chất thượng vị (nước
miếng thơm),
27. Lưỡi mềm nhuyễn có thể che tới mặt
đến mí tóc,
28. Giọng trầm sâu như chim Ca Lăng
Già,
29. Mắt như hoa Ưu Bát La,
30. Tròng mắt như trâu chúa,
31. Giữa 2 hàng lông mày có sợi lông
trắng màu như tuyết bạch,
32. Trên đầu có nhục kế (cục thịt mô
lên như búi tóc).
Và lại có 80 vẻ đẹp tùy hình: bắt đầu từ
nhục kế cao lộ lên tướng vô kiến đảnh cho đến tóc dài không rối, bên phải trở
lại xanh cam. Ngoài ra 80 vẻ đẹp như Kinh tả rõ, ở đây không ghi ra hết, cộng
lại gồm có 192 tướng. Nếu tạo hình tượng Phật do mục đích thủ lợi thì phạm tội
như Kinh Lăng Nghiêm phần 3 quyết định khuyến giáo giới rõ ràng. Kinh ghi rằng:
6 đường chúng sanh mà có tâm không trộm cắp thì không theo dòng sanh tử. Tâm
tham không trừ đọa trong sanh tử không có kỳ ra khỏi. Ta dạy các Thầy Tỳ Kheo đi
tới các miền để khất thực làm cho mình bỏ tâm tham chứng đạo Bồ Đề. Này các Tỳ
Kheo: không nên ăn đồ chín mà tàn sát sanh mạng, qua lại 3 cõi chỉ một lần, đi
rồi không trở lại nữa. Nếu bọn tặc mượn y phục ta giả dạng thì sao? Buôn thần
bán Phật, tạo vô số nghiệp mà nói Phật pháp; phỉ báng xuất gia có đủ trong Tỳ
Kheo, là hạng Tiểu Thừa. Do vậy vô số chúng sanh nghi ngờ đọa vào địa ngục vô
gián (tra tấn liên tục không hề gián đoạn).
Tạo hình Phật để thủ lợi cũng phạm tội như
Kinh Niết Bàn quyển sau phần trên ghi rằng: nếu sau Phật tịch diệt, kẻ thật tín
tâm làm việc bố thí nên tạo hình tượng Phật và y Phật, dùng 7 báu, phan lọng,
nhang dầu, hoa quí để cúng dường Phật. Trừ cúng dường Phật, không được dùng việc
khác, dùng vào việc khác ắt phạm tội trộm cắp đồ của Phật. Ôi, cúng dường Phật
mà còn chẳng xử dụng vào việc khác, huống gì tiền bạc đúc tượng Phật, đâu có thể
đem dùng vào việc khác sao? Nhân quả rõ ràng việc thăng trầm đọa lạc đều do đây
mà chuốt lấy.
Tạo hình tượng Phật hoàn thành viên mãn nên
chọn ngày khai quang. Đúng ngày khai quang, đốt hương đèn và các đồ cúng trang
nghiêm, với 6 món đồ diệu cúng đều bày biện đầy đủ. Trước mời những người đúc
tượng, điểm đèn quang minh. Chư tăng và trai chủ đảnh lễ Tam Bảo, trai chủ quỳ
dâng hương, đại chúng tán lư hương xong, Duy Na xướng lớn: Nam Mô Thích Ca Như
Lai (đại chúng hòa theo) liên tọa giáng lâm. Các danh hiệu Phật, Bồ Tát khác
cũng xướng như vậy. Đại Ca Diếp tôn giả, A Nan Đà tôn giả (đại chúng hòa theo),
Bồ bặt liên tọa chứng minh, xong chúng cùng tụng bài kệ:
Diện Phật sáng ngời như trăng sáng
Như mặt trời chiếu diệu thế gian
Sáng chiếu soi tỏ khắp mười phương
Hỷ xả từ bi đều sẵn sàng
Như ở hội này tạo Phật tòa
Hết thảy như thế trong trần gian
Phật thân không khứ cũng không lai
Bao nhiêu quốc độ thảy hiện ra.
Điểm chuông trống 1 hồi 3 tiếng, Duy Na đọc
văn khai quang như sau:
Từng nghe rằng, mắt sáng rỡ thân vàng tía
hiện thân 48 diệu tướng, lông trắng giữa chặn mày, tướng chữ vạn phóng ra trăm
ức tia sáng, tin điềm lành ứng hiện ở ngay lúc này thật là mở đường vận thông.
Lại nguyện: … và chúng con, mong khát khao được giáo pháp Thế Tôn diệu dụng
thanh tịnh. Ngưỡng mong đức đại từ khai ngộ nơi tượng báo ở kim thân quang tụ,
đã trộn hòa đất vàng để hoàn thành bảo tướng. Hôm nay chọn được ngày tốt khai
quang điểm nhãn. Lại nguyện Phật hiện tướng chân thật, phóng vô lượng ánh quang
uy nghi đài sen, làm nhân cho quần sanh đê đầu kính lễ . Rực rỡ ánh sáng kim
thân chỉ cho đệ tử chúng con cung chiêm lời dạy. Quy y Phật dứt sạch 3 đường ác,
vâng theo lời dạy mà siêu lên 9 phẩm sen vàng.
Nhất tâm chí thành phụng thỉnh; chúng hòa:
hương hoa đăng phụng thỉnh. Đệ tử … (tên Trụ Trì) chúng con nhất tâm phụng
thỉnh.
Nam Mô Ta Bà giáo chủ bổn sư Thích Ca Mâu
Ni Phật, trăm ngàn ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật (những vị Phật, Bồ Tát khác
tùy thay đổi). Mong nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót hữu tình phân thân
hiện hình ở trên đài sen. Thỉnh 3 lần xá 3 xá. Duy Na và sám chủ đều vận tâm
thành thỉnh Phật Thích Ca theo lời thỉnh mà đến, nghiễm nhiên đã ngồi trên đài
bảo liên. Trai chủ niệm hương, đại chúng đọc cúng bài kệ như sau:
Tròn đầy cõi pháp giới Phật thân
Hiện ra trước mắt mỗi chúng sanh
Tùy duyên ứng hiện khắp tướng không đồng
Nhưng luôn ngồi tòa Bồ Đề này.
Án chiên mộ già, Bát đầu ma, tốn
nã
lệ, đà la đà la nể, mạn nỗ lệ hồng (3 lần).
Xong hồi trống 1 hồi 3 tiếng. Duy Na lại
tuyên dương Đại Ca Diếp tôn giả, văn khai quang như sau:
Từng nghe rằng, tánh linh trôi nổi nương
gá, thiên thu nghĩ khó tròn huệ mạng. Một phái diễn nối dõi mạch người của Long
Hoa, phụng vì Tây Thiên Sơ Tổ Ca Diếp tôn giả; tại hội Linh Sơn ngộ tâm ấn niêm
hoa trước tháp đa tử; đón gió mát linh reo, làm tiêu biểu cho cổ kim truyền
đăng, mở suối nguồn truyền pháp khắp Đông Tây; y bát lưu lại đượm nhuần chốn
nhơn thiên ngưỡng phục. Lại nghĩ: chúng con (thay đổi) chìm đắm mê mờ nhiều đời
nhiều kiếp, chớ nên thấy từ nhan mà mĩm cười; vội yêu kính dung thánh. Đặc biệt
giống tôn tượng của Đại Ẩm Quang (Ca Diếp) kính chọn ngày lành khai quang điểm
nhãn. Lại nguyện: ánh sáng vàng kim rải khắp pháp giới làm cho rực rỡ, tâm từ mở
rộng ân che chở muôn loại quần sanh, khiến Tổ đạo được quang huy làm cho chánh
pháp trụ lâu dài. Duy Na thỉnh: một lòng phụng thỉnh, đốt nhang thỉnh, đệ tử…
(tên Trụ Trì), chúng hòa theo: một lòng phụng thỉnh…
Nam Mô đầu đà đệ nhất, niêm hoa ngộ chỉ
thiền tông Sơ Tổ Đại Ca Diếp tôn giả. Xin nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót
hữu tình, phân thân hiện tướng vào ngồi liên tọa nơi đây.
Nam Mô thiền tông Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp đại
tôn giả, mong nguyện Ngài theo Phật quang lâm đến đây thọ bổ tòa cúng dường này.
Án chiên mộ già, Bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng.
Tiếp tục Duy Na đọc
văn khai quang tượng Ngài A Nan.
Chứng nghĩa ghi rằng: tiếng Phạn là
Đại Ca Diếp, Trung Hoa dịch là Đại Ẩm Quang. Trong số đệ tử Phật có thập lực Ca
Diếp, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp cùng họ nên phải thêm chữ Đại để phân biệt với các
vị khác. Gọi Tất Bát La ,Tàu dịch là cây Bồ Đề, cha mẹ cầu thọ thần mà sanh Ngài
nên theo cây đặt tên; người nước La Duyệt Kỳ thuộc thành Vương Xá. Cha là Ca Tỳ
La mà đương thời xưng là đại phú trưởng giả. Ca Diếp nhân trong khi cùng với một
người đàn bà nghèo khổ đồng tạo tượng Phật Tỳ Bà Thi cúng dường và họ thề cùng
nhau thường làm vợ chồng. Thân sắc vàng thật lấy thật, thân Ca Diếp có sắc vàng
đủ 30 tướng. Người phụ nữ kia cũng được kết quả thân sắc vàng như vầy. Tuy là
chồng vợ nhưng tỏ rõ không có oan trái, sau xuất gia được gặp Phật, nghe pháp
liền đạt vô lậu (dứt hết phiền não), Ngài sống lâu đến 130 tuổi. Người phụ nữ
kia cũng chứng 4 thánh quả. Ca Diếp tu hạnh khất thực, thực hành đầu đà cho tới
lúc tuổi già không thôi bỏ. Phật dạy:
-
Ông lúc về già các căn suy nhược có thể bỏ
khất thực và nhận y cúng dường.
Ca Diếp đáp:
-
Con phải suốt đời tu hạnh đầu đà
Phật bảo:
-
Lành thay! Nếu Ca Diếp hành đầu đà mà thực hành
suốt đời, pháp Ta hẳn trụ lâu dài. Nơi hội Pháp Hoa Phật thọ ký cho trong đời vị
lai được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai.
Đến hội thuyết Kinh Niết Bàn, Phật
bảo các Tỳ Kheo rằng:
-
Ta nay có chánh pháp vô thượng đem phú chúc cho
Ca Diếp, vì các ngươi làm đại y chỉ.
Sau khi Phật diệt độ, có cuộc kết tập tam
tạng Kinh điển tại thành Vương Xá để hoằng dương chánh pháp, và đến 20 năm sau
mới đem giáo pháp phó chúc cho A Nan. Ca Diếp nhận phó chúc tới núi Kê Túc
(Trung Hoa) nhập định an trú, đợi Phật Di Lặc xuất thế; giao phó pháp y xong mới
nhập diệt bằng nổi hỏa thiêu thân.
Văn khai quang tượng A Nan như sau:
Từng nghe rằng: Ngài là Khánh Hỷ, xưa được
di huấn Của Ẩm Kỳ Đồ, thân nghe pháp tạng, đón nhận phó chúc tại hội Linh Sơn,
cung kính A Nan Đà tôn giả qua công lao kết tập, quán diệu nghĩa nơi thiên hoa.
Ngài trí huệ đa văn, truyền một giọt nước khác đồ chứa, cảm túc duyên cân bình.
Nhận tâm ấn nơi sư huynh Ca Diếp, lần theo giáo pháp, thích ngắm vóc thanh như
bạc, khát ngưỡng dung nghi. Đặc biệt tôn tượng thiếp vàng hoàn tất, chọn lựa
ngày lành khai quang điểm nhãn. Ngưỡng mong bậc Thánh sư dũ lòng cảm cách.
Lại nguyện: đèn huệ sáng soi bằng vô lượng
ánh sáng của mặt trời mặt trăng; sữa pháp mênh mông như mạch nguồn của sông ngòi
lưu chuyển. Cháu con không ngừng nghỉ, Tổ đạo vững trường tồn.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh. Đại chúng
hòa: nhứt tâm phụng thỉnh.
Nam Mô đa văn đệ nhất thị giả Phật, Tổ thứ
nhì của Thiền tông, A Nan Đà tôn giả. Ngưỡng mong không trái bổn thệ, thương xót
hữu tình phân thân hiện tướng đến ngự nơi liên tòa này. Ba lần thỉnh xong xá 3
xá. Duy Na niệm tưởng A Nan tôn giả theo lời thỉnh mà đến nghiễm nhiên ngồi trên
tòa bảo liên. Đại chúng tụng kệ dâng hiến tòa:
Nam Mô Thiền tông đệ
nhị Tổ, kết tập tam tạng A Nan tôn giả, mong Ngài theo Phật quang lâm thọ bửu
toà cúng dường này.
Án chiên mộ già, bát đầu ma, tôn
nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng (3 lần).
Chứng nghĩa ghi rằng: tiếng Phạn là A
Nan Đà, Trung Hoa phiên âm là Khánh Hỷ. Vì sanh nhằm ngày Phật thành đạo khiến
tâm Vua hoan hỷ, toàn quốc hân hoan nên đặt tên là Khánh Hỷ. Là em chú bác của
Phật. Con Bạch Phạn Vương, là em ruột Điều Đạt. A Nan mặt đầy đặn như trăng rằm,
mắt như sen xanh, năm 8 tuổi xuất gia, 13 tuổi thị giả Phật, là đa văn số một.
Nơi hội thuyết Kinh Pháp Hoa được Phật thọ ký cho A Nan trong đời vị lai thành
Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Phật lại bảo chư Bồ Tát
rằng: Ta cùng A Nan thời Phật Không Vương cùng lúc phát tâm Bồ Đề. A Nan thường
ưa thích đa văn, còn Ta luôn tinh tấn, do đó Ta được chứng quả Bồ Đề, còn A Nan
hộ trì pháp Ta, cũng hộ trì giáo pháp chư Phật trong tương lai nữa. Đến hội Niết
Bàn, Phật khen ngợi A Nan có 8 công đức khó thể nghĩ bàn và những việc thù thắng
khác. Lúc A Nan gặp nạn Ma Đăng Già, Phật sắc lịnh cho Văn Thù đem chú hàng ma
đưa A Nan về với Tăng đoàn. Theo như Kinh Đại Bát Niết Bàn, sau khi Phật diệt
độ, Ngài Đại Ca Diếp kết tập pháp tạng, đưa A Nan lên ngồi tòa sư tử trùng tuyên
lại các Kinh. Ca Diếp lúc sắp nhập diệt đem pháp giao phó cho A Nan gìn giữ. A
Nan đi khắp nơi giáo hóa 20 năm, thường đến ngoài thành Vương Xá nơi tinh xá
Trúc Lâm, nghe các Tỳ Kheo tụng kệ rằng:
Nếu người sống trăm tuổi
Chẳng thấy nước mưa cạn
Không bằng sống một ngày
Mà được thấy nước tràn…
A Nan thương cảm nói rằng, đây không phải
kệ của Phật nên nói, nên tiếp theo:
Nếu người sống trăm tuổi
Chẳng hiểu pháp sanh diệt
Không bằng sống một ngày
Mà hiểu được pháp này.
Có vị Tỳ Kheo hướng về các Sư thuyết, Sư
nói: A Nan cổ lổ, nói không ai tin được. A Nan sau khi nghe Tỳ Kheo kia nói thế,
do đọc bài kệ trước liền tự nghĩ: Nay các tỳ kheo không nhận lời dạy, tôi ở đời
vô ích nên nhập Niết Bàn là hơn. A Nan liền đến cung Vua cáo biệt nhà Vua, từ
giả Vua ra đi. Vua cho người đuổi theo tới sông Hằng, A Nan lên thuyền ra giữa
dòng, họ cúi đầu bạch rằng: “Ba cõi cần đèn sáng mong Sư đừng nhập Niết Bàn”.
Lúc bấy giờ tại Tuyết Sơn có 500 tiên nhơn quán xem thấy A Nan muốn nhập Niết
Bàn, liền phi không mà đến cầu xin xuất gia. A Nan dùng thần lực biến sông Hằng
thành đất vàng, vì nhóm Mạt Điền Địa và các tiên nhơn mà thuyết pháp được chứng
đạt quả A La Hán. Lúc ấy Mạt Điền Địa muốn nhập Niết Bàn trước, A Nan phó chúc
rằng: “Phật thọ ký cho ông phải tới nước Kế Tân kiến lập Phật Pháp; nên xua tan
ý định nhập diệt, chờ đủ thời gian hẳn nhập diệt.” A Nan phi thân lên hư không
biến hóa 18 pháp thông đi như gió với Phấn Tấn tam muội phân thân làm 4 phần:
một phần cùng với
Thích Đề Hoàn Nhân,
một phần cùng với Bà Già Long Vương, một phần với Tỳ Xá Ly tử và một phần cùng
Vua A Xà Thế. Bốn nơi tại mỗi nơi đều khởi sự xây tháp cúng dường xá lợi.
Duy Na bạch rằng:
Trở lên phụng thỉnh bổn sư Thích Ca Mâu Ni
Phật, nhị vị đại tôn giả Ca Diếp, A Nan. (Ngoài chư Phật, Bồ Tát khác tùy nghi
thay đổi), dùng thiên nhãn xa thấy, thiên nhỉ nghe rõ, tha tâm ắt biết, thân
thông suốt tự tại. Nhất niệm hay cảm hiển nhiên Thánh ứng, thay tụng mật ngôn
bao dung thấm rộng. Phật Như Lai có chân ngôn phụng thỉnh ân cần nên trì tụng
như sau:
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm. Án
ô tá bát la đế, hạ đa đế, tát phược đác đa nghiệt đa, cu xá mạo địa. Án sa lý
giả một lý, bố la ca dã tát ha.
Duy Na lắc linh tụng chậm rải 3 lần, nghĩ
tưởng một vị tôn giả, hai vị tôn giả ngồi trên liên tòa có ánh sáng giao thoa và
bạch rằng: mong nhân bí mật sáng soi hào quang, trai chủ cùng đại chúng lạy 3
lạy. Tụng chú Kiết Tường an vị Thánh tượng.
Đảnh lễ Thế Tôn không ai trên, Ca Diếp, A
Nan dũ lòng từ, con nay y giáo an Thánh vị. Nguyện đức Từ Bi xót thương nạp thọ,
Ca Diếp Như Lai đủ đại bi, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, xin
Phật hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
Câu Na Mâu Ni thấy rõ ràng, trong các điềm
lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây
rất an lành.
Ca La Cưu Đà như núi vàng, trong các điềm
lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây
rất an lành.
Tỳ Xá Phù Phật sạch ba cấu, trong các điềm
lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây
rất an lành.
Thi Khí Như Lai lìa phân biệt, trong các
điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế
nơi đây rất an lành.
Tỳ Bà Thi Phật như trăng rằm, trong các
điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế
nơi đây rất an lành.
Phất Sa Minh đạt đệ nhứt nghĩa, trong các
điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế
nơi đây rất an lành.
Đề Xá Như Lai luận vô ngại, trong các điềm
lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây
rất an lành.
Ba Đầu Ma Phật sạch vô cấu, trong các điềm
lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây
rất an lành.
Nhiên Đăng Như Lai quang minh rực rỡ, trong
các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì
thế nơi đây rất an lành.
Tụng kệ xưng tán 10 vị Phật xong, tiếp cúng
ngọ. Xem nghi cúng Phật đầy đủ có nơi Thiền môn nhựt tụng nên ở đây không ghi
hết.
Phần phụ: Đọc văn sớ như sau:
Từng nghe rằng: Phật ứng hiện thân tùy
chúng sanh mà kết duyên hoan hỷ; diệu tướng đoan nghiêm hằng bất động mà thăng
điện quang minh, lúc ấy có 14 trời hạ giới v.v…
Nhiếp niệm: tên… vào ngày… phát tâm thành
tạo tượng Thích Ca Như Lai, Ca Diếp, A Nan, 3 bức Thánh tượng. (các tượng Phật,
Bồ Tát khác tùy đó thay đổi). Nay vào ngày … đã thành tựu, tuân thừa quy tắc của
chư Thánh, không như lăng tẩm đời thường phi ánh sáng bị che bởi cây đạo thọ,
nghiễm nhiên thiền tọa tại Kỳ Viên cho người duyên phước quy y; hăm hở thắng
lướt mong lựa chọn giờ… ngày … tháng này an vị tòa sen viên thành pháp tướng.
(Nếu tụng kinh bái sám nên tiếp vào đây). Nguyện đem công đức này, cẩn xin hồi
hướng.
Lại nguyện: bảo tọa phân thân, ứng cơ độ
khắp quần sanh hiện tướng bạch hào rộng mở nhân duyên cõi pháp giới. Xin cúi đầu
chắp tay cung kính gieo căn lành. Như tâm niệm miệng xưng đều gội nhuần ân phước
huệ, cầu chúc nước nhà ổn cố, đạo pháp hưng long, tòng lâm yên tịnh; lớp lớp đệ
tử hiền thánh tới lui, chúng tăng hòa hợp, luôn luôn xứng đáng là con của bậc
long tượng. Bên trên văn sớ cung thỉnh Tam Bảo chứng minh, tạo tượng viên mãn,
sớ văn khai quang.
Đọc sớ xong, tụng Tiêu
Tai Kiết Tường chú, đốt sớ, trai chủ châm trà, đảnh lễ, tiếp đại chúng cùng đọc
kệ chú này:
Án Sa ma la, sa ma la, di ma
nẳng, tư cáp la ma, tư cáp la hồng (3 lần).
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Ngày đêm 6 thời thường an lành,
Hết thảy các thời đều an lành,
Nguyện các thượng sư thương nhiếp thọ,
Nguyện ngày
an lành, đêm an lành,
ngày đêm 6
thời thường an lành,
hết thảy các
thời đều an lành,
nguyện chư
Tam Bảo thường nhiếp thọ.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày đêm 6 thời thường an
lành, hết thảy các thời đều an lành, nguyện chư Hộ pháp thường ủng hộ.
Tiếp theo tụng Bát Nhã, sám văn, hồi hướng,
phục nguyện, 3 tự quy y.
Ngoài ra, như tạo tượng Dược Sư, Di Đà, Văn
Thù, Phổ Hiền v.v.. các thánh tượng khác lúc khởi công tạc tượng, khai quang,
các nghi đều giống nhau, chỉ khéo đổi văn kệ mà thôi. Kinh Hoa Nghiêm 10 Phật
kiết tường kệ, chỉ liên quan tới Phật mới dùng; lập điện Phật, lễ gác đòn dông,
lễ khánh thành cũng có thể dùng được. Tới ngày lễ, niệm Phật Thích Ca hoặc Phật
khác hay Bồ Tát tùy theo tượng tạo mà đổi xưng cho thích hợp.
Chứng nghĩa ghi rằng: kệ kiết tường
trích Kinh Hoa Nghiêm quyển thứ 16, liên hệ đức Thế Tôn lần đầu tiên thăng lên
đỉnh núi Tu Di, Vua trời Đế Thích trải tòa ngồi cho Phật và thỉnh Phật an tọa;
xong liền tụng bài kệ 10 Phật Kiết Tường này. Nay lễ khai quang cũng tụng bài kệ
đó để an vị tôn tượng Phật, vì tiêu biểu biểu tướng tượng Phật mới hoàn thành.
Đức Phật lúc giáng sanh cũng như thiên chủ thỉnh Phật an tọa, là biểu tượng việc
an lành này, để dứt trừ những việc bất tường.
Lại căn cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, Phật lên
các cõi trời Dạ Ma, Đâu Suất, những vị thiên chủ ở đó thỉnh Phật vào tòa ngồi,
trước cũng tụng kệ thập Phật Kiết Tường này, huống gì người đời đâu há lơ là ư?
Theo ý tôi (người chứng nghĩa), phàm tạo tượng Phật mới hoặc xây chánh điện nên
in bài kệ 10 Phật Kiết Tường này nhiều bản để tại điện Phật, nhờ Kinh này nói để
ngăn ngừa được người tin tà, do người đời tạo với ý như tin tử vi, giờ hoàng
đạo…
Sách Tam Quy chánh phạm ghi rằng: Kinh Lá
Bối quyển vàng – ba tạng Thánh giáo – là Pháp bảo. Kinh điển đã là trụ trì pháp
bảo, là chỗ nương tựa, chân lý nên phải kính tôn, khiến sửa sang tu bổ hoàn
chỉnh theo thứ tự rõ ràng. Giả hoặc để lâu ngày đóng bít trong phòng kinh bị sâu
mọt, trùng đục khoét hư hao hoặc trang chỉ sổ rớt, bộ pho hư hỏng mất mát v.v..
nên gấp lo tu bổ lại. Hoặc quyên góp của thí chủ sửa lại cũng được; nhưng không
được dùng làm việc khác. Luận, Phật lấy pháp làm thầy, mà Tăng lại không trọng
pháp hay sao?
Kinh Phạm Võng giới thứ 24 nói về việc
không cúng dường kinh điển có ghi rằng: “Là Phật tử thường nên nhứt tâm thọ trì
đọc tụng Kinh luật Đại Thừa”; thậm chí ghi rằng, “nếu không như pháp cúng dường,
người ấy phạm khinh cấu tội.”
Vì thế ở tòng lâm đặt tri tạng hai người
chuyên trách lo việc này. Phàm hàm pho để ngay ngắn, sửa sang chỗ thiếu khuyết
và những việc lấy sách ra nhập vào v.v.. đều là nhiệm vụ của Tri Tạng trông coi,
nhưng tạng chủ phân chia 2 người chấp sự lo chăm sóc chu đáo. Phàm Kinh sách
không được đem ra khỏi chùa là quy tắc ấn định chung. Mùa hạ, ít gió trời nắng
ấm đem Kinh hong phơi, kiểm tra bộ số để trời mát dịu lại đem bỏ vào hàm cất.
Tăng chúng trong chùa có mượn xem phải ghi sổ sách ngày… tháng.. năm…. Tên người
mượn, tên cuốn kinh… hàm số… lúc hoàn lại mới xóa sổ. Nếu có ai báo cáo lếu bằng
nhiều cách muốn lấy sách đi, trước phải kiểm tra lấy lại. Người để mất sách bị
phạt chép lại đền bồi xong, tẩn xuất ra khỏi viện. Nếu mất lúc kiểm tra, Tri
Tạng, Tạng chủ 2 người đều bị phạt chiếu theo số sách bồi thường. Nếu mượn riêng
hay người ngoài vô cớ làm mất cũng phạt. Nếu trả sách nên gặp tại phòng khách,
nhà kho hay phòng tri tạng, nhất nhất nên kiểm tra lại rõ ràng. Giao công việc
cho người mới đảm nhận nên phải trước chúng rõ ràng. Nếu có kinh mới đặt vào chỗ
phải cho thích hợp nơi có ánh sáng. Nếu để gần nắng gió thì dễ bị rách, còn đóng
bít tối quá lại dễ bị hư mục… Giấy in mực đen, cho đến bìa sách, đóng gáy v.v...
đều lấy sạch sẽ, bền chắc làm đẹp; tuyệt đối không nên tiếc của, uổng công làm
lếu giống như khinh pháp vậy.
Chứng nghĩa ghi rằng: tu sửa bồi bổ
kinh điển nên thể hiện với tâm tôn kính pháp bảo. Việc này hệ trọng liên quan
tới huệ mạng Phật pháp, nên đây cũng là trọng trách của một ngôi chùa mà cần
nhất là Trụ trì không tiếc chi tiền thời việc tu chỉnh mới dễ dàng. Người trực
tiếp điều hành cũng là nhân tố quan trọng nên cần phải thận trọng. Ngay như ở
tòng lâm việc khắc in kinh lưu hành mà làm hưng long Phật pháp là quan trọng số
một. Theo ngu ý kinh điển khắc họa, biến chế in ấn càng nhiều càng được nhiều
lợi ích; không giống sách vàng trục đỏ nguyên gốc, chẳng phải là kiệt tác lợi
lạc nhiều người sau. Đây là việc chẳng mới mẻ gì như ngày nay người xuất gia,
tại gia đều có đầy đủ kinh điển để đọc tụng.
Năm Gia Hưng chùa Lăng Nghiêm khắc in lại
Đại Tạng Kinh mới lưu lại được bộ sách quí xưa. Nếu không có việc khắc in này
Kinh sách hẳn thiếu sót rất nhiều. Sách tiếng Phạn vốn đã khó mua, lại bất tiện
ngôn ngữ, đó há không phải là một khuyết điểm lớn của tăng tục hay sao? Cho nên
Trụ Trì tòng lâm phải có tâm hoằng pháp, nếu được vậy tôn giáo nói chung và Phật
giáo nói riêng mới sáng lạn. Từ đó có thể tùy cơ làm lợi cho người; giả như Trụ
Trì nhiều việc không có thì giờ, nhưng tùy sức biết Kinh điển quan trọng mà in
số nhiều, ấn tống rộng rãi, công đức vô lượng.
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng:
lại phóng quang gọi là pháp tự tại. Ánh quang này có thể làm tỉnh thức hết thảy
chúng sanh khiến đạt vô tận Đà La Ni (Ấn chú); hẳn nên giữ gìn tất cả Phật pháp.
Cung kính cúng dường người duy trì pháp, là cung cấp, hầu hạ, giữ gìn chư Thánh
hiền, đem pháp ban cho chúng sanh, vì thế mà đạt được quang minh này. Ngoài ra,
mỗi khi thấy tòng lâm nơi nào Kinh tạng mà Trụ Trì bỏ bê chẳng quan tâm như
không có phận sự xem xét để mưa dột, ẩm ướt, côn trùng, sâu mọt, chuột đục, dán
nhấm v.v… phá hư không tu bổ, Trụ Trì như thế thời người chấp sự phải biết định
liệu. Người lơ là với Kinh điển như thế phạm lỗi lầm có thể nói rất là nặng.
Theo ngu ý, phàm nơi nào có Kinh tạng nên cung thỉnh một hội đồng tăng dịch
thuật làm cho Kinh điển được phiên dịch, ngày càng được nhiều người đọc tụng,
tức là thường chuyển pháp luân, thật là một điều thiện lành của tòng lâm vậy.
Lại còn làm lợi ích cho người học đạo nữa. Giá như một ngày nào ra công làm mới
kinh điển là có thể kéo dài huệ mạng Phật pháp, đâu không đẹp thay! Đệ sợ người
đọc hữu danh vô thực, hoặc tư riêng mượn cớ để buôn bán đó; việc này Trụ Trì
phải tức thì điều tra là hay nhất.
Ngu Am Chích Cổ ghi rằng, thiền sư Thê Hiền
Thị, họ Cao, giữ giới luật nghiêm minh động thân không trái pháp. Vào lúc cuối
đời Ngài xem Đại Tạng 3 lần, cho rằng ngồi đọc không cung kính nên đứng tụng,
lúc đi mang theo. Việc này Cổ Am có bài tụng rằng:
Pho bảo tạng chân xá lợi
Trải kiếp định huệ pháp thí sâu
Chập chờn xuôi ngược thuyền con
Ra khơi chẳng còn sợ gian nguy.
Không chỉ đứng tụng, đi tụng mà báo đền ân
Phật được, nên biết hổ thẹn.
Nói theo xưa của tự viện nên dùng từ “tăng
phường”. Sách Tam Quy chánh phạm ghi rằng: “cạo đầu, nhuộm áo nghiêm gìn luật
nghi; hoằng dương Phật đạo hành trì tăng bảo”. Nên công cuộc hoằng hóa phải
nương chỗ nơi mà thành tựu; tăng phường chính là nơi đó vậy. Tiếng Phạn Tăng
già, Trung Hoa dịch là hòa hợp chúng, chỉ 5 chúng xuất gia. Tiếng Phạn Già Lam,
Trung Hoa dịch là chúng viên tức nơi tăng chúng cư trú. Nay nói tăng phường là
gồm chung cả tiếng Hoa - Phạn để gọi vậy. Nhưng trong đó hàm ý là nơi phụng sự
Phật pháp mà lấy tăng phường làm tên gọi. Điện Phật, nhà giảng không đứng riêng
biệt xa cách với tự viện.
Kinh Phạm Võng, giới không tu phước huệ ghi
rằng:
Nếu Phật tử thường phải giáo hóa hết thảy
chúng sanh, tạo lập tăng phường, núi rừng, ruộng vườn, xây tháp Phật, an cư kiết
hạ, kiết đông, nơi chốn tọa thiền, hết thảy những nơi hành đạo đều phải kiến tạo
v.v...
Luận về việc tạo dựng đạo tràng, là đề cập
tới phí tổn xây cất không thể thiếu được. Ở tòng lâm có vị tri ốc (nhà cửa)
chuyên lo việc xây dựng. Phàm các nơi xây nhà cửa vốn không có mà tạo dựng nên
mới gọi là kiến tạo; đã có nhà mà hoặc bị nghiêng đổ, hư hoại nên trùng tu lại
gọi là sửa sang. Phàm có sửa sang nên quyết định không thể do dự được, nếu có
tính dứt khoát mới làm xong được việc. Vì lợi ích của đạo mà xuất gia chứ không
phải vì tu chùa mà xuất gia. Việc tu tạo hoặc tín chủ tại gia phát tâm làm cũng
được, hoặc người xuất gia đã dứt hết không còn oan trái đứng làm, nên biết hạ
mình là việc cần thiết. Đây là thành phần thượng thặng lập chí xuất gia; nếu như
chí không theo kịp, nhưng lập chùa là tạo được công đức. Tuy công đức về phần
tánh chẳng có, nhưng phần tướng trang nghiêm cũng không thể thiếu. Phải biết
không mê lầm nhân quả mà tin sâu tội phước, không làm hao tổn của Tam Bảo, như
ếm nhẹm của tín thí hoặc không tranh đoạt lợi mà lại ham danh. Vì kiến tạo tòng
lâm là làm quang huy đạo pháp đưa lại mọi điều tốt đẹp. Sang đoạt, cưỡng lấy làm
cho người mất tín tâm mà vẫn dung nạp, tòng lâm chưa chắc đã hưng thịnh mà rốt
cục rồi bị vô vàn sự oán trách đưa lại. Lòng người như thế nên rõ tâm Phật, giữ
phận tăng khổ hạnh làm thiện mà vẫn chưa am tường luật học! Phải biết giới không
riêng tư ai, nhưng cứ giương đông kích tây, nâng Giáp giúp Ất, hoặc chuộng Tý bỏ
Sửu v.v… ưa thích người này ghét bỏ người kia, là chiêu lấy ác báo. Nên có câu
rằng: “thiên đường chưa đạt tới, địa ngục trước đã thành”. Đâu không sợ sao?
Lại có Trụ Trì tuy không quyên góp bên
ngoài, nhưng trong tăng mượn danh kêu gọi riêng, nên ngoài chùa thông báo trên
thư kêu gọi đề: bổn tự… tu tạo… công trình. Nội tự tận lực tạo dựng, mong đón
nhận sự phát tâm cúng dường tùy hỷ của đàn việt, không có người nào ra ngoài
quyên góp v.v...
Có 2 việc cần nên lưu ý:
-
Một là miễn mượn danh nghĩa quyên góp mà tạo
nghiệp phải tội đọa
-
Hai là chưa ai phát hiện ra việc này càng thêm
mánh mung để liên lụy đến Tam Bảo không ít.
Chứng nghĩa
ghi: Vân Thê Pháp vựng có nêu rằng, kiến tạo tòng lâm vì chúng vốn là việc tốt.
Nhưng phải biết sự biết lý rồi sau mới làm. Nếu không vậy, như gặp việc phiền
toái liền bực chí, hoặc đắm trước các duyên, thậm chí có người như suốt đời chưa
đạt được ước vọng, có ngưòi đạt sở đắc nhưng tới giữa đường bỏ phế. Tuy lao tâm
tận lực tạo dựng mọi việc vẫn canh cánh lo toan lại càng lao tâm nhọc trí, chính
mình làm tổn hại không ít, huống chi còn ra sức quyên góp của người ư? Như lời
tôi đúng thời tượng Phật hư hoại ai lo xây dựng lại? Tăng chết đói dọc đường
không được thức ăn, ai giúp đỡ họ?
Mọi người chỉ bàn sự mà để Tam Bảo hoang
phế; đâu chẳng nghe ai tu huệ, tu phước chi; La Hán ứng cúng mỏng cạn vậy hay
sao?
-
Đáp rằng: không phải thế đâu. Chỉ nghĩ nhất thể
Tam Bảo hoang phế thôi, còn thế gian Tam Bảo nữa chứ!
Từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đến
nay, việc đúc tượng, xây chùa, trai tăng v.v.. thời nào chấm dứt đâu; nơi nơi
đều mong muốn, cớ sao lại lo lắng rồi đi kể lỗi vậy? Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
thiền sư Diên Ân Pháp An đến viện Như Ý ở Quảng Sơn, nhà hư nền hỏng mà vẫn an
trú được 10 năm; nhà lớn đổ nát hư hại, tâm ý chẳng hề chán nản, chỉ lo lợi vật,
giúp người. Về già, Ngài ở nhà tranh, nằm chiếu đất, tại Diên Ân, dột nát ánh
sáng dọi vào mà vẫn lấy đó làm vui, làm cho Duẫn phú hào động lòng cho làm chùa
mới lại. Ngài Pháp An mỉm cười rằng: pháp đàn vốn để độ người, nay không người
phát tâm mà cưỡng ép làm gọi là tạo nghiệp chứ không phải là làm Phật sự. Mỗi
lần gọi người tới Ngài nói rằng: vạn sự tùy duyên là pháp an lạc.
Ngu Am ca tụng rằng:
Uy đó là huệ hành
Chẳng đến từ tâm thành
Lập đàn độ thúc nhanh
Khác nào vàng tô phết
Viện Như Ý tu hành
Vô tư tòng lâm thạnh.
Lúc về già Ngài ở Diên Ân, chắn gió che mưa
lấy cỏ lau làm vách, chỗ ở người quân tử đâu có hạn hẹp. Cửa làm bằng cỏ, then
bằng dâu, vui an nhiên tự tại. Nhà đỗ sụp, tối ở núp dưới gốc cây. Sư già luôn ở
nhà tranh, trông nhìn lại xem ta như thế nào?
Y cứ theo Pháp Vựng Chích Cổ có 2 điều
người sau nên khéo lãnh hội ý này:
1- Pháp Vựng gọi người lập chí là
người cầu học, việc học chưa xong, không thể vì đó mà tự bỏ học; chẳng phải là
hoang phí của Tam Bảo thế gian, mà đặc biệt huệ mạng là trọng yếu.
2- Chích Cổ gọi người đại tu hành tự
không chịu an ở nhà rộng lớn, chẳng cần Phật điện to mới nhận lãnh; cưỡng cầu
quyên góp trái điều Phật dạy, nên không làm vậy.
Trụ Trì ngày nay không được như vậy, cũng
chưa từng lập chí tham học, trọn ngày vì lợi dưỡng, chỉ lo cho mình no đủ an
nhàn, không đoái hoài đến Phật điện có hư hao đổ nát cũng mặc; cố ngoảnh mặt làm
ngơ, lại còn cậy thế giả oai cưỡng cầu quyên góp; cũng có kẻ thật đáng thương
xót !
Luận rằng, tự mình đã chẳng trang nghiêm
nhất thể Tam Bảo,
quả có trang nghiêm thế gian Tam Bảo cũng chỉ vớt vát được phân nửa; lời pháp
đơn sơ này chưa diễn được trọn hết ý. Dù mình ở lều tranh, nhưng Tam Bảo đương
nhiên phải là nơi trang trọng, ý này Chích Cổ chưa nêu ra hết vậy.
Hết quyển năm.
Đầu đà: hạnh tu ép xác của
các vị khổ luyện công phu mà người thường cũng khó theo đuổi kịp. Chọn nơi
rừng sâu núi thẳm, nghĩa địa, gốc cây… làm chốn tu luyện định tâm, là cả một
sự phấn đấu phi thường. Hành giả còn chịu nhịn đói, nhịn khát, nằm tuyết
phơi sương, hành xác thân thể v.v…
--- o0o ---
Mục Lục >>
01 >>
02 >>
03 >>
04 >> 05 >>
06 >>
07 >>
08 >>
09
--- o0o ---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật 07-2008