|
. |
Ðại Tạng No. 1451
CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THIẾT HỮU BỘ
- Mùla-Sarvàstivàda -
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
-
Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)
Hán dịch:
Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Ðường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998
--- o0o ---
Thành kính đảnh lễ đức Thế
Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng, Ðấng Chánh Biến Tri.
Quyển thứ chín
--- ooOoo ---
(Tiếp theo nhiếp tụng bốn trong
biệt môn thứ hai).
Bấy giờ, Ác Sinh bảo Khổ Mẫu:
- Thật khó chống lại các Thích
chủng dũng mãnh ở thành Kiếp Tỳ La, họ đóng cửa thành và phòng thủ ở trên, vậy
chúng ta làm sao sát hại họ được, thôi hãy lui binh.
Khổ Mẫu đáp:
- Ðối với các thành lớn, dùng
phương pháp tấn công thì phá tan được. Thần từng nghe các vị tiên xưa nói: Có
năm việc quyết định thắng họ. Năm việc ấy là:
Giao hảo, ngầm hối lộ
Lừa gạt, dùng kế độc
Sau đó, dùng binh lực
Là hành động người trí.
Theo mưu lược này, đầu tiên dùng
những phương pháp để lừa gạt, sai sứ mang lệnh vua đến nói với họ:
- Ðối với ngài, ta rất thương mến,
không có ác ý, nhưng có việc nhỏ cần phải vào thành, mong ngài mở cửa cho phép
vào chốc lát rồi lui ra ngay không dám ở lâu.
Theo kế này, sau khi sứ giả thi
hành, những người trong thành cùng nhau thương nghị:
- Nên cho họ vào hay không? Có
người nói cho vào, có người không cho, có người nói nên tập trung lại rút thẻ,
bên nào nhiều thẻ nghe theo bên ấy. Theo ý kiến ấy,mọi người cùng nhau rút thẻ.
Khi ấy, sau khi suy nghĩ: "Ta
thường theo dõi Sa-môn Kiều Ðáp Ma tìm sự sơ suất của ông ấy nhưng không được,
nay chính là lúc ta nên hại quyến thuộc của ông ta". Ma vương liền biến thành
một Thích tử già ngồi trên ghế cao bắt thẻ trước. Thấy ông ta bắt thẻ, đến lượt
những người khác, họ đều nói:
- Bậc kỳ túc đã nhận, tại sao ta
không lấy?
Bấy giờ, trong hội có nhiều người
nhận thẻ. Thấy bên nhận thẻ nhiều, nên họï mở cửa thành cho quân lính vào. Vua
Ác Sinh ra lệnh:
- Ta đã vứt bỏ những tên họ Thích,
hãy tùy ý chém giết.
Nghe như vậy, tướng sĩ xua bốn loại
binh, cờ trống vang trời, tiếng reo dậy đất, chém giết khắp nơi, không chút
thương xót. Thấy sự việc này, rất thương xót cho thân quyến, mang đầu tóc rối
tung, Thích tử Ðại Danh vội vàng chạy đến gặp Ác Sinh thưa:
- Xin đại vương ban cho tôi ước nguyện.
Vua hỏi:
- Cần việc gì?
Thưa:
- Xin ngài cho các Thích chủng được
bình an!
Vua nói:
- Ta không tha các Thích chủng khác
được, nhưng gia quyến của ngươi được tùy ý ra đi.
Ðáp:
- Tôi sẽ lặn xuống đáy hồ, trong
lúc tôi chưa nổi lên xin cho quyến thuộc tôi được chạy đi.
Nghe như vậy, vua nhìn quần thần.
Họ tâu vua:
- Ðại Danh này là bạn thân của tiên
vương, nên cho hắn được toại nguyện.
Vua phán:
- Nếu vậy, thả họ trong một lúc.
Ðược nhà vua cho phép, với tâm ý
đau buồn thương xót thân quyến, Ðại Danh vội vàng nhảy vào hồ, lặn xuống đáy
nước, rồi lấy tóc mình cột vào rễ cây nên chết ở đó. Khi ấy, những Thích chủng
không cộng nghiệp trong thời quá khứ, chạy ra khỏi thành, hoặc đến nước Mạt La,
hoặc đến nư?c Nê Ba La, hoặc đến các tụ lạc thành phố khác. Những người cộng
nghiệp trong thời quá khứ, chạy ra cửa Ðông lại vào cửa Nam, chạy ra cửa Nam
chạy vào cửa Tây, chạy ra cửa Tây chạy vào cửa Bắc, chạy ra cửa Bắc chạy vào cửa
Ðông.
Thấy vậy, quần thần tâu vua:
- Các Thích chủng đang tự đốt mình.
Vì sao biết như vậy? Những người ra khỏi thành đều chạy vào lại. Sau khi hỏi:
- Hãy xem vì sao Ðại Danh lặn lâu
vậy, nhà vua sai người xem xét. Thấy Ðại Danh đã chết, họ tâu vua. Biết ông ta
đã chết, càng thêm phẫn nộ, vua ra lệnh đại thần:
- Hãy làm tòa cao, ta sẽ lên tòa,
để chính mắt thấy, nếu không thấy máu người tuôn chảy tràn ngập khắp các nẻo
đường, thì không bao giờ rời khỏi tòa này.
Sau đó, nhà vua lên tòa. Khi những
người mạnh mẽ bị giết, máu cũng không chảy nhiều. Quần thần bàn nhau:
- Quý vị nên biết, nay vua Ác Sinh
gây tội lỗi lớn, tự muốn thấy máu chảy lan tràn, làm sao có được như vậy, hãy
lấy khoáng chất đỏ tía nấu ra màu đỏ, rót đầy cả ngàn bình, đổ khắp các nẻo
đường, xem nó chảy không khác gì máu cả.
Sau khi làm theo kế này, họ tâu
lên:
- Máu chảy đến!
Trông thấy nước này cho là máu, Ác
Sinh suy nghĩ: "Ta đã nhìn thỏa mãn, vậy hãy trở về".
Trong trận này, kẻ ngu Ác Sinh giết
oan bảy vạn bảy ngàn Thích chủng. Trong số, có nhiều vị đã kiến đế. Sau khi giết
hại các vị hiền thiện như thế xong, phe Ác Sinh dẫn năm trăm đồng nam và năm
trăm đồng nữ Thích chủng đến một khu vườn là trú xứ của ngoại đạo.
Khổ Mẫu tâu:
- 1000 tên này đều là oán gia, tại
sao không giết hết đi?
Vua nói:
- Nên giết thế nào?
Tâu:
- Sai bầy voi giày họ.
Khi ấy, trong năm trăm Thích chủng
có người rất khỏe mạnh, đánh voi ngã và dùng tay xô ra. Thấy vậy, Khổ Mẫu tâu
vua:
- Ðại vương thấy những người mạnh
khỏe này không?
Vua đáp:
- Ta thấy!
Tâu:
- Nếu thả ra, bọn này sẽ gây bất
lợi cho ngài.
Vua nói:
- Có cách gì giết họ được?
Ðáp:
- Ðào hố chôn sống cho ló đầu lên,
dùng sắt đóng cho tan nát.
Khi ấy, có hai đồng tử chạy đến chỗ
Phật. Thế Tôn muốn làm cho mọi người biết nghiệp báo thật có, nên dùng thần lực
hóa bát lớn lên và để họ núp vào, nhưng vẫn bị chín rục trong bát.
Khi hai Thích chủng bị chết, Phật rất đau đầu, bảo A Nan:
- Hãy múc bát nước đầy, đem đến cho
ta.
Khi A Nan dâng bát nước, có hai ba
giọt mồ hôi trên cổ Ðức Thế Tôn nhỏ vào bát nước, làm cho bốc khói phát tiếng
kêu như lấy miếng sắt nóng bỏ vào nước.
Bấy giờ, sau khi sai một người:
- Ngươi hãy ở lại đây, nếu Phật có
nói gì về ta, hãy mau đến báo lại, vua Ác Sinh đem năm trăm đồng nữ về nước.
Thấy sự việc như vậy, các Bí-sô đều
có thắc mắc nên bạch Phật:
- Ðại đức! vì nghiệp gì mà Ngài đau
đầu? Các Thích chủng ở thành Kiếp Tỷ La đã tạo nghiệp gì, nay tuy không phạm tội
mà bị kẻ ngu Ác Sinh tiêu diệt?
Thế Tôn bảo A Nan Ðà:
- Thầy hãy đi gọi các Bí-sô tập
trung tại vườn ngoại đạo, ta sẽ nói về nhân duyên túc nghiệp về việc kẻ ngu si
chúng sinh Ác Sinh tàn sát các Thích chủng.
Vâng lệnh Phật, Tôn giả đi thưa với chúng tăng.
Bấy giờ, Thế Tôn cùng các Bí-sô đi
đến vườn ấy. Giữa đường, có Bà-la-môn trông thấy Thế Tôn, nói:
- Này Kiều Ðáp Ma, kẻ ngu si Ác
Sinh tạo rất nhiều nghiệp ác, đang giết oan nhiều Thích chủng vô tội.
Phật bảo Bà-la-môn:
- Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ngu si Ác
Sinh tạo ra vô lượng nghiệp ác nặng nề, Thích chủng vô tội bị tàn sát oan uổng.
Ðến vườn kia, Phật thấy những đồng
nam đồng nữ bị sắt đóng còn đang sống thoi thóp. Khi thấy Phật, họ đều gào khóc.
Sau khi đứng lại một bên, trải tọa
cụ, ngồi xuống, Thế Tôn bảo các Bí-sô:
- Các Thích chủng ở thành Kiếp Tỷ
La đã ba lần bị người khác sát hại, kêu khóc vang trời. Quá khứ, là những người
đánh cá giết hại thủy tộc, lại giết hại nhiều người trong làng xóm, hiện nay họ
đang bị Ác Sinh giết hại, còn chút hơi tàn kêu khóc vang dậy không khác ngày
xưa. Này các Bí-sô! Có từng nghe các thợ săn đồ tể, nuôi sống bằng nghiệp này mà
có voi ngựa xa bộ uy nghiêm mạnh mẽ không?
- Bạch Thế Tôn! Chưa từng thấy sự
việc như vậy.
Phật dạy:
- Lành thay Bí-sô! Ta cũng chưa
từng nghe thấy sự việc, bọn thợ săn mà có binh lính hùng mạnh như vậy. Vì sao?
Do bọn đồ tể có tội ác vì tâm luôn tìm cầu sinh mạng thú vật. Ai gây nghiệp ác
này, không thể có được quân đội tượng mã xa bộ hùng mạnh, tài sản phong phú. Vì
sao? Khi các loại cầm thú như dê v.v ... bị giết, dùng tâm ác độc nhìn người
giết, do đó họ không có được tượng mã xa bộ hùng mạnh và nhiều tài sản. Này các
Bí-sô! Khi những kẻ bị súc sinh nhìn bằng mắt ác độc còn làm cho họ không có bốn
loại binh và nhiều tài sản, huống chi Ác Sinh quá ngu si giết hại các vị hữu học
đầy đủ uy đức trì giới thanh tịnh, mà phát triển được tượng mã xa bộ tài sản, và
được an ổn không bị tiêu diệt, thì không có việc này. Các thầy nên biết! Như
rồng độc nhìn đến đâu thì nơi ấy bị tiêu diệt, thành Kiều Tát La này cũng vậy,
kẻ ngu Ác Sinh cùng với Khổ Mẫu bị lửa đốt cháy kêu khóc vang trời, bị đọa vào
ngục Vô gián khổ não vô cùng. Thế nên, các thầy nên biết! Ðối với cây khô còn
không nên có tâm ác, huống chi với các loại chúng sinh khác.
Thấy sự việc này, các Bí-sô đều
nghi ngờ, bạch Thế Tôn:
- Năm trăm Thích chủng không phạm
lỗi đã từng làm nghiệp gì và do nghiệp lực ấy nên bị kẻ ngu Ác Sinh giết oan?
Lại do nghiệp gì, khi họ bị sát hại, Phật bị đau đầu?
Phật bảo các Bí-sô:
- Các thầy lắng nghe về nghiệp của
các Thích chủng và Ta đã làm. Nghiệp đã tạo kia khi hội đủ nhân duyên làm cho
chín mùi, như nước cuồng lưu không thể ngăn cho cạn, không ai chịu thay được,
v.v... cho đến quả báo tự mình phải chịu.
Này các Bí-sô, thời quá khứ, bên bờ
sông kia có năm trăm ngư dân sống ở đó. Có hai con cá lớn từ biển lội vào sông,
ngoi lên mặt nước. Thấy hai cá này, ngư dân rất vui mừng, thả lưới lớn và bắt
được chúng. Thấy chúng quá lớn, họ bàn nhau:
- Giờ phải làm sao, cá to quá, nếu
giết hết thì thịt chúng sẽ bị ương rã vì dùng không hết.
Có người bàn:
- Giết một con và cột một con dưới
nước. Hoặc bàn:
- Cả hai đều lớn, nếu giết một con
thì thịt nó cũng bị ương rã vậy nên cột vào trụ dưới nước, đừng cho chết, khi
cần cắt lấy thịt sống để ăn.
Tất cả đều đồng ý rồi cùng nhau
chia cắt thịt. Bị đau đớn khổ sở, cá kêu rống vang trời.
Bấy giờ, có một đồng tử trong đám
ngư dân, thấy vậy nên thích thú. Hai con cá lớn suy nghĩ: "Ta thật bất hạnh tự
dưng bị đau khổ, trong đời tương lai họ sinh đến đâu ta sinh đến đấy. Tuy họ vô
tội, ta cũng sát hại làm cho đau khổ ".
Này các Bí-sô! Ðừng suy nghĩ khác,
hai con cá ấy nay là Ác Sinh và Khổ Mẫu, năm trăm ngư dân nay là năm trăm Thích
tử. Vì năm trăm ngư dân làm cho hai con cá bị đau khổ kịch liệt nên nay bị Ác
Sinh và Khổ Mẫu chôn sống dùng sắt đóng lên làm cho Thích chủng đau khổ vô cùng.
Các Thích chủng khác chính là những người trong lúc ấy vui vẻ theo. Ðồng tử
trong số ngư dân ấy, nay chính là Ta, vì thấy giết cá, sinh tâm hoan hỷ nên tạo
thành nghiệp. Do nghiệp ấy, tuy đã chứng đắc Vô thượng Bồ đề nhưng Ta vẫn còn bị
đau đầu. Nếu Ta không có được phước tụ như vầy, với vô biên công đức, thì cũng
bị tàn sát như những người kia.
Lại nữa, này các Bí-sô! Hãy lắng
nghe về nghiệp của các Thích chủng thành Kiếp Tỷ La đã gây trong thời quá khứ.
Có năm trăm tên giặc đến thôn nọ cướp đoạt tài vật. Có hai trưởng giả đang ở
trên lầu bị giặc gọi xuống nhưng không tuân lệnh. Bọn giặc lại bảo:
- Nếu không xuống, làm cho ngươi
chết hết.
Trưởng giả đáp:
- Ta thà chết chứ không xuống.
Bọn giặc liền chất củi phóng hỏa
thiêu lầu. Lửa cháy bùng lên, thiêu đốt rất đau khổ, Trưởng giả suy nghĩ: "Ta
không có tội gì mà bị khổ thế này, trong đời tương lai ngươi sinh về đâu, ta
cũng sinh đến đó, làm cho ngươi bị khổ này ".
Này các Bí-sô! Chớ nghĩ gì khác,
hai Trưởng giả kia nay là Ác Sinh và Khổ Mẫu, năm trăm tên giặc nay là năm trăm
Thích chủng. Vì bọn giặc giết hai Trưởng giả, nên nay hai người này giết lại bọn
họ. Thế nên, này các Bí-sô! Gây nghiệp đen bị quả báo đen, làm nghiệp trắng được
quả báo trắng, tạo nghiệp tạp bị quả báo tạp. Vì vậy, các thầy nên từ bỏ hai
nghiệp đen và tạp, cần tu tập nghiệp trắng, nên học như vậy.
Giết Thích chủng xong, về đến thành
Thất La Phiệt, vua Ác Sinh sắp đi vào. Trên lầu cao, thái tử Thệ Ða đang cùng
các thể nữ ca tấu âm nhạc, hưởng thụ năm dục. Nghe như vậy, Ác Sinh hỏi là ai,
quần thần đáp:
- Thái tử Thệ Ða.
Vua phán:
- Hãy gọi đến đây.
Thái tử vâng lệnh đi đến.
Vua trách:
- Ta đi dẹp kẻ thù vô cùng mệt
nhọc, tại sao ở nhà ngươi hưởng dục lạc?
Thái tử đáp:
- Ðại vương! Thần không rõ, vậy kẻ
thù là ai?
Vua nói:
- Các Thích tử ở thành Kiếp Tỷ La
là kẻ thù của ta.
Thái tử nói:
- Nếu Thích tử là kẻ thù vậy ai là
bạn thân?
Nghe nói, vua rất giận dữ, bảûo các
đại thần: - Ðây cũng là phe đảng của Thích tử, hãy mau tru diệt.
Các quan liền giết thái tử. Sau khi
qua đời, thái tử sinh vào cõi trời 33. Vì chưa hết quả báo thù thắng ở cõi
người, nên thái tử vẫn hưởng thụ diệu lạc ở cõi trời.
Bấy giờ, Thế Tôn muốn nói lại ý
nghĩa này, nên nói tụng:
Ðời này hoan hỷ, đời sau hỷ
Vì làm việc phước, hai đời vui
Tự biết vui này do nghiệp trước
Lại được chuyển sinh vào thiện xứ.
Ðời này an lạc, đời sau lạc
Vì làm việc phước, hai đời lạc
Tự biết lạc này do nghiệp trước
Sinh đến nơi khác cũng an lạc.
Nghe Phật thuyết kệ xong, Cụ thọ A
Nan Ðà bạch Phật:
- Ðại đức, con không hiểu ý nghĩa
của bài kệ này.
Phật dạy:
- Này A Nan Ðà, thái tử Thệ Ða
không có lỗi lầm, bị kẻ ngu Ác Sinh giết oan, nhưng quả báo thù thắng ở nhân
gian chưa hết, nên vẫn hưởng thọ diệu lạc ở cõi trời. Vì vậy, Ta thuyết bài kệ
ấy.
A Nan Ðà im lặng hoan hỷ tín thọ.
Sau đó, cùng các thể nữ đang ở
trong cung điện, vua Ác Sinh tự khoe khoang:
- Ta là bậc có sức dũng mãnh hiếm
có, vô song, trong thế gian có ai bằng không?
Nghe nói xong, năm trăm thể nữ do Ác Sinh mang về đồng nói kệ:
Họ là con nhà Phật
Vì giữ gìn giới luật
Nay ngài giết hết rồi
Tự khoe để làm gì?
Nghe Thích ca nữ nói kệ xong, vua
rất phẫn nộ, nói kệ bảo đại thần:
Giết rồng, giữ long nữ
Sinh sân độc với ta
Hãy mau chặt tay chân
Ðể mau theo thân tộc.
Các đại thần dẫn năm trăm Thích-nữ
đến bên bờ hồ Ba Thát La, chặt tay chân của họ. Vì vậy, hồ này tên là hồ Chặt
Tay Chân. Câu ở đầu các kinh: "Phật ở bên bờ hồ Chặt Tay Chân, chính do việc này
" . Bị chặt tay chân, quá đau khổ không thể chịu nổi, năm trăm Thích nữ suy
nghĩ: "Chúng ta đang bị đau đớn thống khổ không chịu nổi, Thế Tôn đại từ lẽ nào
không thương xót ".
Thường pháp của chư Phật là không
việc gì không biết. Khi ấy, Thế Tôn với tâm đại bi đi đến chỗ ấy, thấy các Thích
nữ đang ngồi lỏa hình.
Thấy vậy, Thế Tôn khởi lên trí Thế
gian. Theo thường pháp của chư Phật là khi khởi Tâm thế tục, cho đến côn trùng
cũng biết ý Phật. Nếu khởi tâm xuất thế, cho đến Duyên giác Thanh văn cũng không
biết ý Phật, huống chi chúng sinh khác mà có thể biết được. Phật suy nghĩ: "Lành
thay! Nếu được thiên nữ Xá Chi đem y phục và nước đến đây thì thật thích hợp ".
Phật vừa suy nghĩ, thiên nữ Xá Chi liền biết ý Phật, nên suy nghĩ: "Vì sao Thế
Tôn khởi thế gian niệm, theo ta biết Thế Tôn muốn tuyên thuyết diêäu pháp cho
năm trăm Thích nữ nên cần y phục và nước ".
Sau khi suy nghĩ, thiên nữ cầm năm
trăm thiên y, đến ao Vô Nhiệt dùng bình múc đầy nước đem đến chỗ Ph?t, lạy sát
chân Ngài, bạch:
- Ðại đức! Chúng con đem đến năm
trăm thiên y và nước thơm vi diệu.
Phật dạy:
- Ngươi hãy đến an ủi các Thích ca
nữ, cho họ tắm rửa và mặc y phục.
Xá Chi lần lượt làm theo lời Phật
dạy. Khi ấy, đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho năm trăm Thích nữ không còn
đau khổ nữa và dạy:
- Này các thiện nữ nhân! Tự mình
gây nghiệp nay đã thành thục, phải tự chịu lấy, không ai thay thế được.
Dạy xong, đức Phật đi đến nơi khác.
Sau khi phát tâm tịnh tín với Thế Tôn, các Thích nữ qua đời, sinh lên trời Tứ
thiên vương. Khi nam hay nữ vừa sinh đến thiên giới đều có ba ý nghĩ: "Ta chết
từ chỗ nào, nay sinh đến nơi nào, do đã làm nghiệp gì? " Họ nhớ lại mình đã chết
từ cõi người, nay sinh lên cung trời Tứ thiên vương, vì nhờ sinh tâm rất thanh
tịnh kính trọng Thế Tôn.
Năm trăm thiên nữ suy nghĩ nếu
chúng ta không đến lễ bái Thế Tôn thì bất kính và không đúng, nên trang sức anh
lạc xinh đẹp sáng chói, dùng thiên y đựng các loại hoa Ôn bát la, Bát đầu ma,
Câu vật đầu, Phân đà lợi, Mạn đàn la. Vào lúc nữa đêm, với hào quang rực rỡ
chiếu sáng cả rừng Thệ Ða, năm trăm thiên nữ đến gặp đức Phật, cúng dường thiên
hoa, lạy sát chân Ngài rồi ngồi qua một bên lắng nghe diệu pháp. Thế Tôn tùy
theo căn cơ sở thích của các thiên nữ mà thuyết diệu pháp, làm cho họ được ngộ
lý Bốn thánh đế.
Bấy giờ, các thiên nữ dùng chày trí
Kim cương phá tan 25 núi ngã kiến, chứng quả Dự Lưu. Sau khi kiến đế, ba lần
bạch Thế Tôn:
- Ðại đức! Nhờ Phật Thế Tôn làm cho
con chứng đắc được quả giải thoát, không phải do cha mẹ, quốc vương, chư thiên,
Sa-môn, Bà-la-môn, bạn bè, thân quyến làm cho. Con được gặp Thế Tôn là bậc thiện
tri thức giúp đỡ làm cho thoát khỏi địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, ở yên nơi cõi
trời thắng diệu, sẽ hết sinh tử đến đường Niết bàn, khô cạn biển máu vượt qua
núi xương, dùng chày trí Kim cương đập nát ngã kiến đã tích tụ từ vô thủy, chứng
quả Dự Lưu. Từ nay cho đến trọn đời, con xin quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, thọ trì
năm học xứ không sát sinh cho đến không uống rượu. Cầu xin Thế Tôn chứng tri cho
con là Ô Ba Tư Ca.
Ngay trước Ðức Phật, họ chắp tay
cung kính nói kệ:
Chúng con nhờ Phật lực
Ðóng hẳn ba đường ác.
Sinh cõi trời thắng diệu
Hướng mãi đường Niết bàn
Con nhờ vào Thế Tôn
Ðược con mắt thanh tịnh
Kiến đạo thấy chân lý
Sẽ thoát khỏi biển khổ
Vượt qua cõi trời người
Viễn ly khổ sinh tử
Biển hữu khó gặp Phật
Con gặp nên được thoát
Con trang nghiêm thân
Tịnh tâm lạy chân Phật thể
Nhiễu phải trừ thù oán
Xin trở lại thiên cung.
Sau khi trình bày ý nguyện của
mình, như người đi buôn được nhi?u tài lợi, như nông phu thu hoạch nhiều nông
sản, như người dũng mãnh chiến thắng kẻ giặc thù, như người bệnh nặng được khỏe
mạnh hẳn, năm trăm thiên nữ hoan hỷ từ giã đức Phật trở về thiên cung.
Nghe nói như vậy, các Bí-sô đều
nghi ngờ, thưa với Thế Tôn:
- Năm trăm Thích nữ này từng tạo
nghiệp gì và do sức nghiệp ấy làm cho đời này tuy không phạm tội lỗi mà bị kẻ
ngu Ác Sinh chặt oan tay chân, lại nhân nghiệp gì được sinh lên trời, nghe chánh
pháp của Phật chứng chân đế lý?
Phật bảo các Bí-sô:
- Nghiệp của các Thích nữ kia đã
làm, khi thành thục, nhân duyên gặp nhau ... như nói ở trên, đều tự chịu lấy quả
báo của mình. Này các Bí-sô! Thời quá khứ trong Hiền kiếp này, khi loài người
thọ hai vạn tuổi, có đức Phật ra đời hiệu là Ca Nhiếp Ba Như Lai Ứng Cúng Chánh
Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Năm trăm Thích nữ này xuất gia trong
giáo pháp đức Phật ấy, làm Bí-sô ni thường đến mắng chưởi đòi chặt tay chặt chân
các vị Bí-sô ni hữu học, vô học. Do nghiệp lực này, họ bị đọa trong địa ngục
chịu thiêu đốt khổ não trong vô lượng năm, vì dư nghiệp này nên thường bị chặt
tay chân trong năm trăm đời, cho đến đời này bị khổ sở như vậy. Nhờ phát tâm
thanh tịnh đối với Ta, nên họ được sinh lên trời. Lại do ngày xưa làm Bí-sô ni
có thọ trì đọc tụng chánh pháp, nên được gặp Ta, nghe pháp chứng đắc kiến đế.
Này các Bí-sô! Việc này đều do nghiệp ... như nói ở trên.
Bấy giờ, nghe Phật dự báo, người mà
vua Ác Sinh để lại, trở về gặp vua. Hỏi:
- Thế Tôn nói gì về ta?
Ðáp:
- Ðại vương, Như Lai nói như vầy:
"Qua bảy ngày, nước Kiều Tát La sẽ bị phá diệt, Ác Sinh và Khổ Mẫu bị lửa thiêu
đốt, đọa vào đại địa ngục Vô gián ".
Nghe nói như vậy, Ác Sinh rất phiền
não, tay ôm trán. Thấy vậy, Khổ Mẫu hỏi:
- Vì sao đại vương ưu sầu?
Ðáp:
- Này Khổ Mẫu! Làm sao ta không ưu
sầu. Thế Tôn có dự báo vào bảy ngày sau ta cùng khanh bị lửa dữ thiêu đốt và đọa
vào đại địa ngục Vô-gián.
Khổ Mẫu tâu:
- Ðại vương! Như Bà-la-môn, khất sĩ
vào nhà cầu xin. Khi không được cho vật gì, họ muốn làm cho nhà ấy bị trăm ngàn
việc chẳng lành. Huống chi Sa-môn Kiều Ðáp Ma có thân tộc bị đại vương giết hết,
làm sao không nói lời oán hận nặng nề, tuỳ theo tâm ác mà trù rủa. Nếu vua sợ
thì trong hồ nước ở vườn sau, làm một lầu đ?p và đến ở đó trong bảy ngày, qua
thời gian đó mới trở vào thành.
Vua đồng ý và sai làm lầu rồi đưa
các cung nhân cùng Khổ Mẫu lên ở trên lầu. Sau một đêm, Khổ Mẫu tâu:
- Ðại vương! Ðã qua một đêm chỉ còn
sáu đêm, sẽ cùng nhau vào thành.
Như vậy hai, ba cho đến ngày thứ
bảy, Khổ Mẫu tâu:
- Hôm nay an ổn, hãy cùng vào
thành.
Khi ấy, bỗng nhiên mây nổi che bốn
phía. Thông thường người nữ ưa ngắm nữ trang, nên sau khi bảo nhau:
- Hãy trang sức cho xong để vào
trong thành.
Bọn cung nhân lo sửa soạn y phục.
Có một cung nữ lấy ngọc Nhật quang để trên cái gối, rồi lo trang điểm. Bấy giờ,
mây tan trời sáng, ánh sáng mặt trời hiện ra chiếu vào viên ngọc, hội tụ phát ra
lửa đốt cái gối, lửa ngọn phụt lên đốt cháy ngôi lầu. Bọn cung nhân bỏ chạy tứ
tản. Bị lửa đốt, Ác Sinh và Khổ Mẫu muốn bỏ chạy, nhưng có phi nhân đóng kín cửa
nên họ không thoát ra được. Bấy giờ, bị lửa thiêu đốt đau đớn thấu tâm can, Ác
Sinh bảo Khổ Mẫu:
- Tai hại thay! Ta đang bị đau khổ
vì lửa đốt!
Khổ mẫu nói:
- Ðại vương! Thần cũng vậy.
Thân thể cả hai bị lửa hừng hực đốt
cháy chín rã nên kêu gào dữ dội, liền đọa vào địa ngục đại Vô gián, chịu các khổ
não.
Thế Tôn nói kệ:
Ðời này bị đốt, đời sau đốt
Tạo tội, hai đời đều bị đốt
Tự biết bị đốt do nghiệp ác
Sau đó bị đọa vào đường ác
Ðời này chịu khổ, đời sau khổ
Người gây ra tội hai đời khổ
Tự biết khổ này do nghiệp ác
Lại còn chịu khổ nơi cõi khác.
Nghe Phật nói kệ xong, Cụ thọ A Nan
Ðà bạch Phật:
- Ðại đức! Con không hiểu ý nghĩa
bài kệ này.
Phật dạy:
- Này A Nan Ðà! Kẻ ngu Ác Sinh cùng
với Khổ Mẫu bị lửa thiêu đốt đọa vào đại địa ngục A tỳ. Nhân sự việc đó, Ta
thuyết kệ này với ý ấy ... rộng như nói trên.
Sau khi Ác Sinh tru diệt họ Thích,
trong thành ấy còn để lại những vật trang sức như anh lạc, vòng nhẫn ... Thấy
những vật ấy, các Thích nữ khóc lóc, sầu não. Sau khi suy nghĩ: "Khi những người
chủ vật này còn sống rất kính trọng chúng Tăng, vậy nên đem chúng làm phước bằng
cách dâng lên chư Tăng ". Họ dâng các vật ấy đến chư Tăng. Ðược cúng các vật ấy,
Lục chúng đem ra trang sức thân thể, đi vào thành Kiếp Tỷ La thứ lớp khất thực.
Trông thấy những vật trang sức này, các Thích nữ lại khóc lóc như trước, thưa:
- Thánh giả! Chúng con không muốn
nhìn lại những vật này nên dâng đến các vị để không còn ưu phiền. Nay, các vị
lại làm cho chúng con nhớ lại chuyện cũ.
Lục chúng im lặng. Các Bí-sô đem sự
việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô trang sức anh lạc, vòng xuyến, mang
dây bằng vàng nên có lỗi như vậy ". Ngài chế định:
- Từ nay về sau, các Bí-sô không
được trang sức bằng những vật nhiều màu. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.
Nhiếp tụng năm trong biệt môn thứ hai:
Xuất gia hữu ngũ lợi
Bất tróc tiền thọ học
Ðại chúng thuyết già đà
Yên đồng thấu thính hứa.
* Duyên khởi tại thành Thất La
Phiệt. Trong tụ lạc kia, có trưởng giả lấy vợ sống hạnh phúc. Sau đó chẳng bao
lâu, gia tộc ly tan, tài sản không còn, nên ông ta suy nghĩ: "Ta đã lớn tuổi,
không thể làm ra tiền tài để sử dụng, thân tộc của ta cũng không còn. Vậy ta hãy
bỏ tục xuất gia ". Sau khi suy nghĩ, ông ta bảo vợ:
- Hiền thủ! Tôi đã già, không thể
làm ra tiền tài, mà sản nghiệp cùng thân tộc không còn, nên muốn xuất gia.
Người vợ đáp:
- Tốt! Nhưng phải trở về thăm tôi.
-Ðược! Người chồng đáp.
Sau khi đến rừng Thệ Ða, gặp các
Bí-sô, làm lễ sát hai chân, người chồng thưa:
- Thánh giả! Con cầu xin xuất gia.
Ðáp:
- Hiền thủ! Ðấy là việc tốt, ông sẽ
được toại ý. Như Thế Tôn dạy: "Những người có trí thấy năm điều lợi nên ưa thích
xuất gia. Năm điều ấy là:
- Một, ta được tự lợi người khác
không có; Vậy người trí nên cầu xuất gia.
- Hai, tự biết ta là kẻ ti tiện bị người khác sai khiến, sau khi xuất gia được
họ cung kính khen ngợi lễ bái ; Vậy người trí nên cầu xuất gia.
- Ba, sẽ chứng đắc Niết bàn an ổn vô thượng ; Vậy người trí nên cầu xuất gia.
- Bốn, qua đời ở đây sẽ sinh cõi trời ; Vậy người trí nên cầu xuất gia.
- Năm, thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc thắng nhân khen ngợi ;
Vậy người trí nên cầu xuất gia trong pháp luật toàn thiện ".
Ông phát tâm này, thật là tốt đẹp.
Các Bí-sô cho vị này xuất gia và
thọ cận viên. Qua hai ba ngày, sau khi dạy bảo các pháp thức, họ bảo vị này:
- Hiền thủ! Nai không nuôi nai,
thành Thất La Phạt rộng lớn là cảnh giới của Phật, nên đi khất thực để nuôi mạng
sống.
Vào sáng sớm, mặc y ôm bát vào
thành Thất La Phạt khất thực, gặp một phụ nữ giống vợ mình, nên vị ấy suy nghĩ:
"Trước đây ta có hứa với vợ, sau khi được xuất gia sẽ về thăm viếng. Ta đã xuất
gia, vậy hãy giữ lời hứa, chớ làm cho bà ấy buồn rầu ". Khất thực xong, về lại
rừng Thệ Ða, sau đó vị ấy thưa với Ô Ba Ðà Da:
- Trước đây con có hứa với vợ cũ là
sau khi được xuất gia sẽ về thăm viếng. Xin thầy cho phép.
Vị thầy đáp:
- Ông đi tùy ý nhưng khéo hộ trì
tâm mình.
Thưa:
- Xin vâng.
Sau khi từ giã, vị ấy đi dần về
làng cũ. Vừa trông thấy, người vợ vội chạy ra trước đón rước, kêu to:
- Kính chào! Thánh tử mới về! Và
muốn nắm y giữ bát.
Bí-sô nói:
- Hiền thủ muốn làm gì?
Ðáp:
- Muốn đón lấy y bát.
Bí-sô nói:
- Ðừng đụng vào y bát.
Hỏi:
- Vì sao vậy?
Ðáp:
- Tôi phụng hành lời dạy của Ô Ba
Ðà Da là khéo hộ trì tâm ý.
Ðáp:
- Thánh tử! Người hãy tự giữ tâm,
tôi nào gây trở ngại gì! Bà ấy vẫn thu xếp y bát, trải tòa mời ngồi và lấy nước
rửa chân.
Hỏi:
- Muốn làm gì?
Vợ đáp:
- Muốn rửa chân.
Nói:
- Ðừng chạm vào chân tôi.
Hỏi:
- Vì sao?
Ðáp:
- Tôi vâng lệnh của thầy bảo phải
hộ trì tâm ý.
Vợ nói như trước và cứ rửa chân
cho, rồi đem dầu đến muốn thoa. Bí-sô thấy vậy hỏi và vợ đáp muốn thoa chân.
Bí-sô nói:
- Chớ thoa cho tôi.
Hỏi đáp như trước ... thầy tôi
dạy phải hộ trì tâm.
Vợ nói:
- Thánh tử! Người hãy tự hộ trì
tâm.
Bà ta lại dọn ăn và muốn ăn chung.
Hỏi:
- Làm gì vậy?
Ðáp:
- Xa cách đã lâu, không ăn chung
mâm, ý muốn ăn chung.
Bí-sô không đồng ý, hỏi đáp như
trước. Bà ta lại trải tấm nệm, thưa:
- Thánh tử! Ði xa mệt nhọc, xin
nghỉ ngơi một lúc.
Sau khi rửa chân, Bí-sô nằm nghỉ.
Người vợ đến, muốn cùng nằm chung.
Bí-sô hỏi:
- Người muốn làm gì?
Ðáp:
- Thánh tử! Ðã lâu không nằm chung,
nay muốn nằm chung.
Hỏi đáp như trước
... Bí-sô không cho, nhưng bà ấy vẫn đến ôm đại. Người nữ tiếp xúc thật độc hại.
Khi tiếp xúc, tâm Bí-sô bị loạn động phát ra ý niệm xấu liền giao hợp. Sau khi
sống chung nhiều ngày, Bí-sô bảo vợ:
- Tôi muốn trở về chùa.
Sau khi suy nghĩ, ông ấy tư thông
với ta, người ngoài không thấy, ta nên làm cho mọi người biết việc ấy, chắc chắn
các Bí-sô trục xuất và trở về lại với ta, người vợ thưa:
- Thánh tử chẳng nên đi không, hãy
mang theo ít lương thực và bối xĩ (tiền thời đó).
Bí-sô nói:
- Tôi không được cầm các vật như
vàng, bối xỉ ... làm sao mang đi.
Người vợ nói:
- Tôi sẽ tìm cách làm để không bị
xúc chạm.
Sau khi đem các vật ấy treo trên
tích trượng, bà ta nói:
- Hãy đem đi.
Bí-sô cầm tích trượng đi đến thành
Thất La Phiệt. Thông thường, Lục chúng Bí-sô giữ cửa chứ chẳng chịu ở không.
Ðang kinh hành trước cửa, trông thấy Bí-sô ấy đến với đầu như chim cú, lông mi
dài rũ xuống, sau khi suy nghĩ: "Ðấy là Tôn giả nào đến đây, ta hãy đón tiếp ".
Ô Ba Nan Ðà đi ngược lại, kêu lên:
- Xin chào! Xin chào Tôn giả!
Bí-sô kia đáp:
- Xin kính lễ! Kính lễ A Dá Lợi Da.
Sau khi suy nghĩ: "Bí-sô này chắc
là Bí-sô già cả ngu độn nên không biết Ô Ba Nan Ðà, không rõ A Dá Lợi Da, ta hãy
hỏi hắn từ đâu đến ". Ô Ba Nan Ðà đến hỏi:
- Lão già từ đâu đến?
Ðáp:
- A Dá Lợi Da! Con đi thăm vợ cũ về.
Ô Ba Nan Ðà nói:
- Ông là người tốt nên còn giữ ân
cũ, ai cũng khen ngợi người nhớ ân cũ. Thế Tôn cũng có nói: "Này các Bí-sô! Nên
thường học cách báo ân, ân nhỏ còn báo huống chi ân lớn!" Ông còn nhớ ân cũ, vậy
gặp vợ không?
Ðáp:
- Con có gặp.
Hỏi:
- Bình an không?
Ðáp:
- May mắn được che chở nên vẫn bình
an.
Hỏi:
- Vật gì treo trên tích trượng của
ông vậy?
Ðáp:
- Ðó là bối-xỉ của vợ cho để đổi
lương thực đi đường.
Sau khi khen: - Lão già, ông thật
có phúc đức, đi thăm vợ lại được lợi này nữa, Ô Ba Nan Ðà suy nghĩ: "Xem hình
dáng cử chỉ của hắn chắc có việc riêng, ta hãy ôn hòa tra hỏi hắn. Với bẩm tính
chất phác, Ma Ha La kể hết ra những sự việc đã làm.
Ô Ba Nan Ðà nói:
- Hãy đem những việc ông đã làm đến
thưa cho Ô Ba Ðà Da nghe, vị ấy tất vui mừng.
Ðến gặp thầy, ông này kể lại tất
cả. Nghe như vậy, vị thầy nói lại các Bí-sô về chuyện này. Bí-sô đem sự việc
bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô:
- Bí-sô già cả ngu độn này không
biết khinh trọng, không cố ý phạm. Nếu ai chưa từng được nghe bốn pháp Ba La Thị
Ca, cũng không phạm.
- Này các Bí-sô! Vì lý do này, sau
khi truyền cận viên, phải thuyết giảng bốn pháp Ba La Thị Ca (cho người thọ).
Nếu ai không thuyết bị tội vượt pháp.
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
Quyển thứ chín hết.
--- o0o ---
Mục
Lục | 1 | 2 |
3 | 4 |
5 | 6 |
7 | 8 |
9 | 10 | 11 |
12 |13 |14 | 15
16 |17 |18 |19 |20
| 21 | 22 |
23 | 24 |
25 | 26 |27
| 28 | 29 |
30
31 |
32| 33 |
34 | 35 |
36 | 37 |
38 | 39 |
40
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002
|
|