|
. |
Ðại Tạng No. 1451
CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THIẾT HỮU BỘ
- Mùla-Sarvàstivàda -
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
-
Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)
Hán dịch:
Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Ðường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998
--- o0o ---
Thành kính đảnh lễ đức Thế
Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng, Ðấng Chánh Biến Tri.
Quyển thứ năm
--- ooOoo ---
(Tiếp theo nhiếp tụng thứ sáu trong
biệt môn một}.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có
Bí-sô được nhiều vải nỉ dày, nên suy nghĩ: "Như Thế Tôn dạy nên thọ trì y cắt
rọc" nên mang tấm nỉ và dao đến dưới một gốc cây để cắt rọc.
Nhân Thế Tôn đến nơi ấy, hỏi:
- Thầy làm gì vậy?
- Bạch Thế Tôn! Như Ngài dạy Bí-sô
nên mặc ba y cắt rọc. Con có nhiều nỉ dày nên muốn cắt làm ba y.
Bấy giờ, Thế Tôn tán thán người trì
giới và chê bai kẻ phá giới, bảo các Bí-sô:
- Có vật không nên cắt rọc là tất
cả loại khăn choàng, thảm lông dài, thảm lông ngắn, các vải nỉ dày và vật đã cắt
nhỏ. Nếu ai cắt rọc chúng bị tội vượt pháp.
* Duyên xứ như trước. Bí-sô khách
nọ có việc phải đi gấp nên không mang theo tọa cụ, đến chùa thì trời sắp tối. Vị
tri sự bảo:
- Cụ thọ hãy nhận lấy ngọa cụ.
Vị kia đáp:
- Tôi không có tọa cụ thì lấy gì để
lót trên nệm.
- Nếu vậy, thì nên nhận giường
không nệm.
Nhận lấy giường ấy, gặp phải trời
rét, vị này bị lạnh suốt đêm đến sáng, nên phát bệnh. Bí-sô đem sự việc bạch
Phật. Phật dạy:
- Bí-sô không mang theo tọa cụ,
không được đi ra ngoài. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.
Như Phật có dạy: "Bí-sô không được
đi ra ngoài nếu không có tọa cụ. Các Bí-sô muốn đi tạm thời đến thôn khác cùng
một thành, hoặc đến chùa khác, hoặc đi kinh hành, trở về trong ngày ấy cũng mang
theo tọa cụ.
Có các Bí-sô già bệnh yếu ớt, khi
đi không đủ sức mang theo phu cụ, nên mệt nhọc phiền não. Họ bảo với các Bí-sô:
- Tôi có việc ra đi và về ngay, Ðại
sư lại không cho đi mà không mang theo phu cụ, việc này phải làm sao?
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật
dạy:
- Nếu Bí-sô, đi đến nơi nào đó
trong ngày, tạm thời đến chùa khác, đi kinh hành trong chùa, đến thôn xóm gần
bên rồi trở về ngay, thì không cần phải mang theo tọa cụ.
Lại có Bí-sô gặp việc tạm ra ngoài
dự định trở về ngay nên không đem tọa cụ theo. Ðến nơi gặp phải duyên sự kéo dài
đến chiều tối, vì không mang theo tọa cụ, vị này phải đi về trong đêm nên bị độc
trùng, sói, giặc làm hại. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Nếu có ý muốn trở lại ngay, nhưng
gặp phải việc khác nên không kịp về, phải ở lại đên chỗ ấy, không được đi đêm,
nên mượn của vị đồng phạm hạnh khác để lót dùng, được thì tốt, nếu không được
thì lấy y bảy điều xếp làm bốn dùng lót trên tấm nệm, thức nhiều ngủ ít cho đến
khi trời sáng.
Có Bí-sô lấy vật của người khác gửi
bọc ngọa cụ, bị bất tịnh làm bẩn, rồi đem vật này trả lại, Bí-sô kia không chịu
nhận. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Phải giặt sạch rồi mới trả.
Bí-sô giặt sạch đem trả nhưng vị kia vẫn không nhận, bạch Phật.
Phật dạy:
- Trả lại theo giá trị, hoặc xin
lỗi đừng cho hiềm hận.
(Nên biết trong văn nói ngọa cụ tức
loại có chiều dài theo thân, nguyên là vật bọc nệm nằm, không cho dùng trải trên
đất để lễ bái. Nếu dùng trải trên đất để lễ bái thật sai với phép tắc ban đầu).
Phật dạy:
- Bí-sô không được rời ba y đi ra
ngoài (cương giới) .
Có các Bí-sô muốn đi đến thôn xóm
trong thành một lúc ngắn, hoặc đến chùa khác, hoặc ra ngoài kinh hành,dự định
xong việc trở về trong ngày nhưng đều phải mang theo ba y.
Lại có những Bí-sô già bệnh ốm yếu,
khi đi không đủ sức mang theo ba y, nên thân tâm mệt nhọc, nói:
- Có việc đi tạm thời dự định trở
lại, không mang theo ba y thì Ðại-sư không cho phép.
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Bí-sô nào đi đâu trong ngày, hoặc
tạm thời đến chùa khác, hoặc đi kinh hành trong chùa, hoặc đến thôn xóm gần bên
và tính trở về thì được phép không mang theo ba y.
Có Bí-sô ra ngoài tạm thời nên
không mang theo ba y, đến nơi kia thì chiều tối, vì sợ phạm ngủ lìa y nên đi về
trong đêm ấy, bị trùng, giặc làm hại. Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:
- Nếu đã có ý muốn trở về ngay,
nhưng bận việc không về kịp, thì nghỉ lại nơi ấy không nên đi đêm, có thể mượn
tạm ba y khác nơi bạn đồng phạm hạnh, thủ trì sử dụng.
Bí-sô không hiểu phải thủ trì như
thế nào. Phật dạy:
- Trước hết cầm lấy y mới, tâm niệm
xả y cũ và thủ trì y mới. Bí-sô nên biết có sáu pháp tâm niệm:
Một là trưởng tịnh,
Hai là tùy-ý,
Ba là thủ trì y,
Bốn là xả ba y,
Năm là phân biệt y dư,
Sáu là xả biệt thỉnh.
Bí-sô được y không rảnh để cắt giặt
nhuộm. Phật dạy:
- Nếu không đủ điều kiện để may
giặt nhuộm, xét giá trị của bạch điệp hay vải chưa nhuộm, quy ra đủ chi phí đem
sắm ba y, cho đến có thể thủ trì y vật mượn của người thế tục để dùng, cũng
không phạm, chớ nghi ngại.
Có các Bí-sô đi ngủ nơi khác không
mang theo tọa cụ, cho rằng phạm lìa y. Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:
- Ta chế định Bí-sô không được ngủ
lìa ba y chứ không phải tọa cụ, nhưng các Bí-sô không nên cố ý không mang theo;
người bị quên không phạm.
Nhiếp tụng thứ bảy trong biệt môn
thứ nhất:
Thủy la hữu ngũ chủng
Khí cộng nhất xứ thực
Lộ hình hám ẩm thực
Tẩy dục sự ưng tri.
* Duyên ở thành Thất La Phiệt.
Phương Nam có hai Bí-sô muốn đến thành Thất La Phiệt lễ bái Thế Tôn nhưng đều
không có lưới lược nước. Trên đường đi, không có nước uống, đang quá nóng khát,
họ đến một ao nước. Một người nói:
- Cụ thọ, hãy mau xem xét nước, tôi
muốn uống cho hết khát.
Họ xem thấy nước có trùng, xem đến
ba nơi đều có trùng, nên bàn nhau:
- Nước có trùng, uống thì hại mạng
chúng sinh, nay quá khát nước vậy phải làm sao?
Vị Bí-sô nhỏ nói kệ:
Trăm ngàn Cu-đê kiếp
Khó được gặp Thế Tôn
Nay ta nên uống nước
Mong lễ bậc Ðại-sư.
Vị Bí-sô lớn nói kệ:
Như Lai đại từ thương chúng sinh
Diệt hết ái nhiễm với ba cõi
Thọ trì giới cấm trong pháp này
Ta thà chịu chết không sát sinh.
Bấy giờ, Bí-sô nhỏ không nhịn khát
được, nên uống nước có trùng và lên đường. Vị lớn vì hộ trì trùng nên cương
quyết không uống, cố gắng đến ngồi thẳng dưới bóng cây, trong lúc chưa kiệt quệ
hết sức, tâm vẫn niệm đến việc thiện, cho đến khi hết sức mà qua đời. Do sức
phước này, vị này sinh đến nơi tốt nhất ở cõi trời Ba mươi ba. Thường khi người
vừa sinh thiên, dù nam hay nữ đều phát sinh ba ý nghĩ: - Ta chết từ nơi nào,
đang sinh đến nơi nào, do làm nghiệp gì.
Vị ấy nhớ lại tiền thân là loài
người, nay sinh đến cõi trời Ba-mươi-ba, nhờ hết sức tôn trọng lời Phật dạy.Vị
thiên tử kia nghĩ: "Nếu ta không đến lễ bái Thế Tôn là điều không đúng, vì bất
kính". Sau khi suy nghĩ, vị Thiên này trang nghiêm thân thể bằng anh lạc cõi
thiên với ánh sáng đặc biệt, rồi dùng vạt y đựng đầy các hoa đẹp, hoa Ôn Bát La,
hoa Bát Ðầu Ma, hoa Câu Vật Ðầu, hoa Phân Ðà Lợi Ca, hoa Mạn Ðà La, qua khỏi đầu
đêm đến gặp đức Phật, tự thân tung hoa trời cúng dường, lạy sát hai chân Phật
rồi ngồi lui về một bên, lắng nghe diệu pháp. Hào quang của vị trời này rất rực
rỡ, chiếu sáng cả vườn Thệ-đa. Thế Tôn tùy theo sở thích và căn tính của vị trời
này mà thuyết pháp, làm cho hiểu rõ lý bốn Thánh-đế.
Bấy giờ, vị trời này dùng trí tuệ
như chày kim cương phá tan núi hai mươi ngã kiến, chứng quả Dự-lưu. Sau khi được
kiến-đế, vị này ba lần bạch Phật:
- Ðại đức, nhờ Phật Thế Tôn làm cho
con chứng đắc quả giải thoát, đây không phải do cha mẹ, vua người, thiên chúng,
Sa môn, Bà-la-môn thân hữu, quyến thuộc có thể làm được. Con gặp được Thế Tôn là
bậc thiện tri thức cứu giúp con thoát khỏi địa ngục, bàng-sinh, ngạ-quỷ, đem đến
nơi cõi trời Thắng diệu, sẽ hết sinh tử chứng đắc Niết bàn, vượt khỏi núi xương,
làm cạn biển máu, dùng trí tuệ như chày Kim cương phá nát ngã kiến tích tụ từ vô
thủy, chứng quả Dự lưu. Nay con xin quy y Tam bảo thọ trì năm học xứ, kể từ hôm
nay cho đến trọn đời không sát sinh cho đến không uống rượu, cầu xin Thế Tôn
chứng tri cho con làm người cận sự nam.
Ngay trước Thế Tôn, vị trời chắp
tay cung kính nói kệ:
Con nhờ vào sức Phật
Ðóng hẳn ba đường ác
Sinh cõi trời thắng diệu
Hướng về cõi Niết bàn.
Con nhờ vào Thế Tôn
Nên được mắt thanh tịnh
Thấy rõ lý chân-đế
Sẽ vượt qua biển khổ.
Phật vượt trên trời người
Thoát sinh già bệnh chết
Khó gặp trong biển hữu
Con gặp, được chứng quả.
Con với thân trang nghiêm
Tâm tịnh lễ chân Phật
Nhiễu bên phải trừ oán
Xin trở về thiên cung.
Sau khi nói lên ý nguyện của mình,
như người chủ buôn được nhiều tài lợi, cũng như nông phu được mùa thu nhiều
lương thực, như người hùng mạnh chiến thắng kẻ oán thù, như người thoát khỏi cơn
bệnh nặng, vị trời ấy từ giã đức Phật xong, trở về thiên đường. Vị Bí-sô nhỏ kia
đi dần đến thành Thất La Phiệt vào rừng Thệ Ða, an trí y bát, rửa chân xong, đến
gặp Thế Tôn, lạy sát chân Ngài rồi đứng qua một bên.
Như thường pháp, Thế Tôn thấy Bí-sô
khách đến thì an ủi thăm hỏi:
- Lành thay chào Bí-sô, từ đâu đến
đây, hạ này an cư ở thành, nước nào?
Khi ấy, Thế Tôn cũng hỏi Bí-sô này:
- Thầy từ đâu đến đây?
- Bạch Thế Tôn! Con từ phương Nam đến đây.
Hỏi:
- Hạ này an cư ở đâu?
Ðáp:
- Cũng tại phương Nam.
Phật hỏi:
- Thầy đi đường xa vậy có bạn không?
Thưa:
- Dạ có.
Phật hỏi:
- Người ấy đi đâu?
Vị này liền kể lại sự việc.
Thế Tôn nói kệ:
Ai xem thường giới Ta
Gắng gặp Ta làm gì?
Giả sử có gặp Ta
Như chẳng thấy, chẳng cúng.
Bí-sô kia thấy Ta
Vì giữ gìn tịnh giới
Ngươi ngu si không trí
Không phải thật thấy Ta.
Khi ấy, Thế Tôn liền vẹt thượng y
ra cho vị kia thấy ngực, lại nói kệ:
Ngươi hãy xem thân Ta
Thể xác cha mẹ sinh
Màu cũng như vàng ròng
Ðều do nghiệp đã làm.
Ai không kính pháp-thân
Họ không thấy chư Phật
Ai thành tựu pháp thân
Ðược thấy Ðại Mâu-ny
Pháp thân Ta thứ nhất
Sắc thân đứng thứ hai
Bậc trí thấy biết rõ
Nên giữ gìn giới luật.
Thời Phật Ca-nhiếp-ba
Có Bí-sô phạm giới
Vì phá lá y-la
Ðang đọa vào loài rồng.
Sau khi suy nghĩ: "Vì các Bí-sô
không mang lưới lược nước nên có lỗi như vậy", Thế Tôn bảo các Bí-sô:
- Nên có lưới lược nước.
Như Thế Tôn dạy: "Phải sắm lưới
lược nước", Bí-sô không biết có bao nhiêu loại lưới lược nước. Phật dạy:
- Có năm loại lưới lược nước:
Một là lưới vuông (Loại xử dụng
thông thường thì dùng chừng ba, hai hay một thước lụa sống. Tăng sĩ nên dùng
hai lớp, lớn nhỏ tùy lúc. Lụa dùng làm lưới phải mịn và dày, trùng không lọt
qua mới được; nếu thưa mỏng thì không được dùng. Có người dùng vải nhớp hay
the thưa, vải gai vì không cố ý bảo vệ trùng).
Hai là pháp bình (bình âm dương).
Ba là quân trì (dùng lụa bịt
miệng bình, cột vào cổ bằng dây nhỏ, nhúng vào trong nước cho nổi lên nữa
miệng, nếu chúc chìm miệng thì nước không vào, chờ đầy mới lấy ra nhưng phải
xem kỹ trùng. Nếu không phải quân trì mà gặp loại bình ống rộng miệng, dù lớn
hay nhỏ đều lấy lụa bịt miệng, dùng dây nhỏ cột chặt tùy lúc lấy nước. Việc
này rất đơn giản lại không cần chậu để phóng sinh, rất là cần thiế)t.
Bốn là chước thủy la (Loại này ở
Ðông-hạ không thấy nói đến, nơi khác có chỉ là túi lưới nhỏ, tuy nội dung
giống nhau nhưng hình thức không đúng hẳn như chính nó).
Năm là y giác la (dùng lụa dày
vuông chừng một khuỷu tay, hoặc cột vào miệng bình lấy nước xử dụng, hoặc để
trên miệng chén dùng lược nước khi cần, chẳng phải góc ca-sa. Loại này dày
nhưng thông nước nên dùng để lược; chỉ vì từ lâu đã không hiểu biết phương
pháp, ai sẽ hướng dẫn. Các loại lưới lược này đều thấy sử dụng ở phương Tây .
Ðại sư vì thương xót muốn cứu giúp chúng sinh, ăn thịt còn tổn lòng đại bi
huống chi sát sinh thì làm sao thành Phật. Giả như có việc tạm thời ra khỏi
chùa nên mang theo lưới lược và dây nhỏ cùng vật dụng để phóng sinh. Người
không mang theo chẳng phải chính là biểu hiện thái độ khinh lời Phật dạy và
lấy gì để dạy bảo môn đồ. Hành giả hãy suy nghĩ việc này, cần phải bảo tồn vì
lợi ích cho mình và người vậy).
* Duyên xứ tại thành Thất La Phiệt.
Hai Bí-sô đã có hiềm khích, cùng làm bạn đi du hành trong nhân gian. Một người
có lưới lược nước, người kia thì không. Người có lưới, dùng lược nước uống.
Người không có lưới, bảo:
- Cụ thọ hãy cho tôi mượn lưới
lược.
Người kia không cho mượn nên bị lỡ
việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Ðã có hiềm khích, không được cùng
nhau đi du hành nhân gian. Giả như gặp việc phải đi chung, nên tạ lỗi nhau, rồi
mới đi chung.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có
hai Bí-sô cùng du hành nhân gian. Một người có lưới lược nước, một người không
có. Người không có hỏi vị kia:
- Cụ thọ! Thầy có lưới lược nước
không?
Ðáp:
- Có.
Nhưng vị kia không hỏi có thể mượn
dùng được không. Sau đó, vị có lưới, lược nước để uống. Vị không có lưới, theo
mượn, vị kia không cho mượn nên sinh hiềm hận. Vị có lưới bảo:
- Thầy chỉ hỏi có hay không chứ nào
nói mượn dùng, nay lại hỏi mượn, thật là bất kính nên ta chẳng cho mượn.
Vị kia bị lỡ việc. Bí-sô bạch Phật.
Phật dạy:
- Khi các Bí-sô muốn đi đâu, nếu
không có lưới lược phải hỏi đồng bạn:- Thầy có lưới lược không. Nếu họ nói có,
nên hỏi thêm:- Tôi dùng chung được không?. Họ đồng ý mới được đi chung, không
cho thì không nên đi.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có
hai Bí-sô cùng du hành nhân gian, một người có lưới lược nước, người kia không
có. Người không có lưới hỏi:
- Thầy có lưới lược nước không?
Ðáp:
- Tôi có.
Hỏi:
- Cho tôi dùng chung được không?
Ðáp:
- Ðược.
Họ cùng đi với nhau, trên đường gặp
đoàn buôn. Người có lưới lược có việc cần phải trở về. Người không lưới bảo:
- Trước đây, thầy hứa cho dùng
chung lưới lược, vậy hãy đưa cho tôi.
Ðáp:
- Tôi hứa dùng lưới lược nước
chung, chứ không phải để lại cho thầy dùng.
Người ở lại không có lưới lược nên
bị lỡ việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Bí-sô không có lưới hỏi người có:
- Thầy có lưới không. Nếu họ nói có, nên hỏi lại: - Nếu thầy trở lại có thể cho
tôi mượn lưới được không? Họ đồng ý thì tốt, nếu không đồng ý thì không nên đi.
Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:
- Ðại đức! Nếu không có lưới lược
nước, được phép đi đến làng khác hay chùa khác không?
Phật dạy:
- Không được, nếu biết nơi ấy có
thể tìm được lưới lược, không làm cho lỡ công việc, không phạm.
- Bạch Ðại đức! Hai người có một
lưới lược, được phép du hành không?
Ðáp:
- Nếu không làm cho lỡ công việc
thì được.
- Bạch Ðại đức! Nhiều người cho đến
cả chúng chỉ có một lưới lược, được phép du hành không?
- Ðược, nếu có thể sử dụng đầy đủ.
- Bạch Ðại đức! Nếu không có lưới
lược, được phép đi lại trên bờ sông không?
- Này Ô Ba Ly! Nếu nước chảy mạnh,
không có sông khác chảy vào thì cách năm dặm xem một lần. Nếu có dòng nước khác
chảy vào, khi dùng phải xem kỹ. Nếu sông không chảy mạnh cũng tuỳ chỗ xem kỹ.
- Ðại đức! Khi xem xét nước, được
trong phạm vi rộng bao nhiêu?
Phật dạy:
- Chu vi chừng một tầm.
- Bạch Ðại đức! Nếu nước không xem
xét, không lược, có thể dùng không?
Phật dạy:
- Không được, dùng bị tội.
- Bạch Ðại-đức! Nước đã lược xong,
không xem xét được phép dùng không?
Phật dạy:
- Không được.
- Bạch Ðại đức! Nước không lược, có
xem xét được phép dùng không?
Phật dạy:
- Quán sát thấy không có trùng,
được tùy ý dùng.
- Bạch Ðại-đức! Nước có lược và xem
xét, được phép dùng không?
Phật dạy:
- Không trùng được dùng.
Phật bảo Ô Ba Ly có năm loại nước sạch (tịnh thủy):
Một là Tăng-già tịnh,
Hai là Biệt nhân tịnh,
Ba là Lự la tịnh,
Bốn là Dũng tuyền tịnh,
Năm là Tỉnh thủy tịnh.
- Tăng già tịnh là đại chúng sai
một Bí-sô làm việc xem xét lược nước. Vị ấy xem xét đúng pháp. Có Bí-sô khác đến
cho rằng Tăng đã làm sạch, nên uống dùng, không phạm.
- Biệt nhân tịnh là biết Bí-sô kia
đều thanh tịnh về giới, kiến, uy nghi, chánh mạng, nên dùng nước của vị ấy không
phạm.
- Lự la tịnh là từng dùng lưới lược
này, chưa bị trùng lọt qua, nên không xem xét không phạm.
- Dũng tuyền tịnh là ngay mạch nước
không có trùng.
- Tỉnh thủy tịnh là vào sáng sớm
lấy nước thấy trong sạch không có trùng, trong buổi sáng đến lấy tùy ý dùng.
Bí-sô dùng mắt chăm chú xem nước
liên tục, nên bị loạn thị. Phật dạy:
- Không nên xem lâu, nên bằng
khoảng thời gian xe sáu bò chở tre quay lại,lại xem xét trong thời gian tâm vừa
yên tịnh thì không phạm.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có
những tịnh tín cư sĩ Bà-la-môn, mang các dụng cụ đựng thức ăn dâng lên Bí-sô.
Khi ấy các Bí-sô không nhận. Họ đều thưa:
- Thánh giả! Khi Thế Tôn chưa ra
đời, chúng con lấy ngoại đạo làm ruộng phước tốt nhất. Nay đức Phật xuất hiện
trong thế gian, chúng con cho các ngài là hơn hết. Các ngài không nhận những vật
chúng con dâng, chẳng lẽ làm cho chúng con không mang được tư lương sang đời sau
hay sao?
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Vì đại chúng nên nhận vật đựng.
Theo lời Phật dạy nên nhận vật dụng
ấy cho Tăng, Bí-sô nhận vật cất vào kho, khi ăn vẫn dùng bát để ăn. Thí chủ ấy
thấy vậy hỏi:
- Chúng con dâng vật ấy đến quý
ngài, vì sao không thấy dùng?
Ðáp:
- Hiền thủ! Cất chúng trong kho.
Hỏi:
- Thánh giả! Chẳng lẽ trong nhà con
không có kho hay sao? Khi dâng cúng với ý muốn quý ngài sử dụng để chúng con
được hưởng phước thọ dụng. Các ngài nhận rồi lại cất vào kho, làm cho chúng con
chỉ hưởng phước bố thí chứ không có phước thọ dụng.
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Vật của họ dâng cúng nên đem ra
dùng.
Bí-sô theo lời Phật dạy nên đem ra
sử dụng. Sau đó, có thí chủ khác, tâm thích to rộng nên dâng mâm đồng lớn. Có
Bí-sô già được phân mâm này, cố lau chùi nên sinh lao khổ.
Phật dạy:
- Nên sai người quản lý mâm vật
đựng, xem xét việc lau chùi.
Bí-sô không biết chọn lựa người để
sai việc xem xét vật dụng nên làm cho bị hư hoại. Phật dạy:
- Người có đủ năm pháp, chưa sai
không nên sai, đã sai thì không cho làm. Năm pháp là gì? Ðó là có Ái, Nhuế, Bố,
Si, không ghi nhớ đã làm hay không làm. Ai có đủ năm pháp thì chưa sai nên sai,
đã sai thì bảo làm. Thế nào là năm?
- Nghĩa là không Ái, không Nhuế,
không Bố, không Si, ghi nhớ rõ đã làm hay không làm. Nên sai theo trình tự:-
Trải tòa, đánh kiền chùy, bạch với tất cả, đại chúng tập họp hết. Trước hết
hỏi:- Thầy tên ... có thể làm việc về mâm, vật dụng cho Tăng già không? Nếu biết
có thể thì đáp:- Tôi có thể.Thứ đến một Bí-sô tác bạch yết -ma:
- Ðại đức Tăng già lắng nghe. Bí-sô
... này vui vẻ làm việc về vật dụng cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng,
Tăng đồng ý, nay Tăng sai Bí-sô ... là người làm việc về vật dụng, sẽ làm việc
về vật dụng cho tăng. Ðây là lời tác bạch. (Yết Ma làm theo văn bạch).
Khi các Bí-sô nhận được vật dụng,
sau khi ăn đem vật dụng nhơ bẩn giao cho người làm về vật dụng. Phật dạy:
- Vật đã sử dụng nhơ bẩn nên sai đệ
tử môn nhân lau chùi.
Có Bí-sô không có đệ tử nên tự lau
chùi. Phật dạy:
- Vị này đem vật dụng giao cho
người làm về việc này để họ lau chùi. Nếu đệ tử môn nhân không biết cách lau
chùi, cũng nên giao vật dụng cho người làm về việc này.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt.
Lục chúng Bí-sô cùng ăn chung trong một bát. Cùng đưa tay vào trong bát rồi đồng
thời giở tay, bát bị kéo cao lên, họ nói với nhau:
- Hãy xem bát đen này đang hiện
thần thông.
Sáu người đều rút tay, bát bị rơi
vỡ, nên cùng nhau cười lớn. Bí-sô khác thấy vậy nói:
- Cụ thọ, cùng nhau làm việc xấu ác
như vậy, lẽ ra phải xấu hổ, ngược lại còn cười lớn.
Ðáp:
- Ta làm việc gì, đang uống rượu
hay ăn hành tỏi?
Bí-sô đáp:
- Chẳng bao lâu sẽ thấy các vị làm
việc ấy.
Lục chúng đáp:
- Tuy bát ta vỡ, chẳng lẽ thợ gốm
cũng chết, đất sét không còn, ta sẽ làm lại nào có lỗi gì?
Bấy giờ, các Bí-sô xấu hổ nên không
trả lời, đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô ăn chung một chỗ
nên có lỗi như vậy". Ngài chế định: "Ai làm như vậy bị tội vượt pháp".
Như Phật chế, Bí-sô không được ăn
chung trong một vật đựng. Có các Bí-sô đi theo đoàn buôn. Bấy giờ, đoàn buôn
cùng ăn chung một chỗ, Bí-sô cũng ăn nhưng ít vật đựng nên không dám ăn chung,
chờ xong mới ăn, bị trễ giờ không theo kịp bạn, phải đi sau nên bị giặc cướp
đoạt. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Ðang đi trên đường, không tìm
được vật đựng, tuy nhiều người nhưng có thể ăn chung một vật đựng, người này đưa
tay lên, người kia mới đưa tay xuống, không được đồng thời đưa lên hay xuống.
Phật cho phép ăn chung, có những
cầu-tịch không dám cùng ăn chung với Bí-sô nên sinh ra lỗi như trên. Phật dạy:
- Bí-sô trước phải nhận vật thực
bằng cách dùng tay cầm vật đựng, rồi cùng nhau ăn một chỗ.
Gặp lúc cùng đi với tịnh nhân, hay
cầu-tịch xảy ra việc như trước. Phật dạy:
- Vắt cơm thành từng nắm chuyền
nhau ăn.
Có Bí-sô trở về sinh quán, thân tộc
nói:
- Xa cách đã lâu, nay mới gặp nhau,
nên ngồi ăn chung mâm.
Ðáp:
- Ông là người tục, tôi là người
xuất gia, không nên ăn chung mâm.
Họ nghe vậy nên đứng buồn bã khóc
lóc. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:
- Biết họ ân cần mời, có thể ăn
chung nơi chỗ khuất để không gây hiềm nghị. Trước tiên thọ vật thực của họ bằng
cách lấy tay nhận lấy mâm, cùng ngồi ăn không lỗi.
* Duyên xứ tại thành Thất La Phạt.
Lục chúng Bí-sô chỉ mặc y nội ngồi ăn. Người tục thấy vậy nói với nhau:
- Ai đang ăn vậy?
Một người đáp:
- Ðấy là Sa-môn Thích tử.
Họ đều bất mãn xấu hổ nói:
- Giáo chủ của họ rất giữ sự tàm
quý, vì sao đệ tử làm việc không biết xấu hổ như vậy.
Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ:
"Ngồi ăn mà chỉ mặc y nội nên có lỗi như vậy". Ngài chế:
- Bí-sô không được chỉ mặc y nội mà
ngồi ăn, ai làm vậy bị tội vượt pháp.
Phật dạy: "Không nên chỉ mặc y nội
mà ngồi ăn".
Có Bí-sô già bệnh ốm yếu, khi ăn
không thể mang thêm y. Phật dạy:
- Khi ăn nên mặc y lót mồ hôi Tăng
Khước Kỳ, không phạm.
Lại có Bí-sô bệnh cũng không thể
mặc y Tăng Khước Kỳ. Phật dạy:
- Nếu người bệnh nặng, nên ở chỗ
khuất, chớ cho người ngoài thấy, thì được tùy ý chỉ mặc quần mà ăn.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt.
Lục chúng Bí-sô tắm trần truồng nơi sông A Thị La. Người thế tục thấy vậy hỏi
nhau:
- Ai vậy?
Có người nói:
- Ðó là ngoại đạo lõa hình đang tắm
dưới sông.
Có người nói:
- Ðấy là Thích-ca tử.
Họ đều chê bai nói:
- Giáo chủ của họ rất biết tàm quý,
tại sao đệ tử lại vô sỉ như vậy ... cho đến Phật suy nghĩ: "Các Bí-sô lõa hình
tắm có những lỗi như vậy". Ngài chế:
- Các Bí-sô không được tắm truồng,
ai vi phạm bị tội vượt pháp; nhưng các Bí-sô nên sắm quần tắm.
Khi Phật cho phép sắm y để tắm, Bí-sô may y tắm hai lớp. Phật
dạy:
- Sợ có trùng chui vào nên không
được dùng. Nếu ai chỉ có y tắm kép không có loại đơn thì xem kỹ nước không trùng
mới tắm.
Có người chỉ dùng ba y, sợ trái
pháp nên không dùng y tắm. Phật dạy:
- Nên thủ trì rồi giữ để dùng.
Lại có người nghèo nên không có y
này. Phật dạy:
- Nếu không thể nào có, dùng dây
buộc lá che trước và sau lại, tắm nơi khuất không để cho người khác thấy, thì
không phạm.
Bí-sô tắm xong sợ y có trùng nên
không vắt y cho ráo nước. Phật dạy:
- Y một lớp chắc trùng không bám,
nhưng khi vắt nước tìm cách giũ ra, đừng cho trùng bám.
Nhiếp tụng tám trong biệt môn thứ
nhất.
Ðậu sinh bất tịnh địa
Thổ địa chỉ thọ sách
Ðồng khí bất ưng vi
Thạnh diêm đẳng tùy xúc.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có
cụ thọ Bí-sô Hiệt Ly Bạt Ðểâ đối với việc gì cũng nghi ngờ, nên người đương thời
gọi là Hiệt Ly Bạt Ðể đa nghi. Vào lúc nọ trong nhà xí, vị này thấy hạt đậu mọc
lá nên tự nghĩ:
- Ta làm tổn hại hạt sống.
Vào lúc khác, trong Tăng làm nhiều
bánh ngọt bằng đậu xanh, vị ấy không dám ăn. Các đệ tử hỏi:
- Thưa Ô Ba Ðà Da, trong Tăng làm
nhiều bánh ngọt đậu xanh, vì sao thầy không ăn?
Ðáp:
- Chẳng lẽ ta làm tổn hại hạt sống
hay sao?
Ðệ tử hỏi:
- Việc này như thế nào?
Vị này kể lại sự việc đã thấy khi
trước. Bấy giờ, đệ tử cũng không dám ăn. Những người quen của họ hỏi:
- Vì sao thầy không ăn?
Họ kể lại lời thầy đã nói. Bấy giờ,
Hiệt Ly Bạt Ðể có nhiều môn đồ nên họ truyền rộng ra, cho đến cả chúng đều không
ăn. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Trong các loại đậu có hạt không
chín dù nấu đã lâu, sau khi ăn nó mọc lại. Loại này đã nấu qua, ăn không có lỗi.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Cụ
thọ Ô Ba Ly thưa với Thế Tôn:
- Nơi đất không sạch có mọc cây ăn trái, trái rơi nơi đất sạch,
được phép ăn không?
Phật dạy:
- Không nên ăn.
- Cây ăn trái mọc nơi đất không sạch, trái rụng nơi đất sạch,
được phép ăn không?
Phật dạy:
- Ðược ăn.
- Cây ăn trái mọc nơi đất sạch, trái rụng nơi đất không sạch
được phép ăn không?
Phật dạy:
- Nếu không để cách đêm thì được
ăn.
- Ðại đức! Cây mọc nơi đất sạch
rụng trái nơi đất sạch, được ăn không?
Phật dạy:
- Ðược ăn.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có
Bà-la-môn đứng đầu về dạy học, được một bò đực, sau được bò đực, sau đó lại có
thêm con đực, số bò cứ phát triễn như vậy và trở thành bầy. Người Bà-la-môn cho
rằng con bò đực đầu tiên là may mắn nên không giết nó và thả tự do. Lúc bò này
già yếu, một hôm khát nên xuống sông uống nước, bị lún xuống bùn không thể lên
được. Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất đi ngang qua, thấy bò bị lún trong bùn nên
quán sát có thiện căn không, thấy có nó duyên với mình nên kéo ra khỏi bùn lấy
nước rửa sạch và cho ăn cỏ uống nước. Tôn giả nói ba câu pháp với nó:
- Hiền thủ! Các hành vô thường, các
pháp vô ngã, tịch diệt là vui; hãy sinh lòng tin với ta và sinh lòng nhàm chán
thân súc sinh.
Sau khi nói xong, Tôn giả bỏ đi.
Ðêm ấy, khi bị chó sói ăn thịt, con bò này nghĩ: "Nếu có Thầy ta ở bên cạnh,
chắc chắn ta không bị những khổ này", nên chú tâm tôn trọng ngài Xá Lợi Phất.
Ngay lúc ấy nó qua đời và sinh vào nhà Bà-la-môn. Sau khi suy nghĩ: "Ta hãy xem
lại con bò già kia", Tôn giả Xá Lợi Phất tác ý quán sát biết nó đã qua đời, đang
thọ sinh ở đâu, Tôn giả thấy nó sinh vào nhà Bà-la-môn. Bấy giờ, Xá Lợi Phất vì
hóa duyên nên đến nhà Bà-la-môn, thường đến nhà kia, vợ chồng đều thọ tam quy
ngũ giới. Sau đó, một hôm Tôn giả đi một mình đến nhà kia. Trưởng giả hỏi:
- Vì sao Tôn giả đi một mình không
có thị giả? ... như nói rõ ở trên.
Sau đó tám, chín tháng, họ sinh một
bé trai mặt giống như bò. Vào ngày đầy tháng, bà con tụ họp, đứa bé được bồng ra
để xin mọi người đặt tên. Mọi người bàn nhau:
- Bé trai này diện mạo giống bò
chúa, nên đặt tên là Ngưu Chủ ... nói rộng như nhân duyên của Tôn giả Thiện Hòa
... xuất gia thọ Cận-viên, chứng A-la-hán. Do nghiệp lực đời trước nên trong cổ
Tôn giả có hai cuống họng, một mửa vật sống ra, một nuốt vật chín. Khi Phật chưa
chế giới ăn phi thời thì Tôn giả ở chỗ vắng ói ra rồi ăn lại. Sau khi Phật chế
giới thì vị này ói luôn ra ngoài.Ðã không ăn được nên thân hình vị ấy tiều tụy.
Thế Tôn thấy vậy, biết mà cố hỏi cụ thọ A Nan Ðà:
- Vì sao Bí-sô Ngưu Chủ thân hình
quá gầy ốm tiều tụy vậy?
A Nan Ðà đem sự việc bạch Phật.
Phật dạy:
- Ai do túc nghiệp nên có hai cuống
họng, khi thức ăn ói ra nên nhả ra ngoài ba lần, sau đó súc sạch miệng, rồi tùy
ý nuốt, thì không phạm.
Có những Bí-sô đã ăn no xong, trong
cổ họng lại trào thức ăn ra nên sinh ý nghi: "Ta có phạm giới ăn phi thời hay
không?". Phật dạy:
- Nếu gặp trường hợp như vậy nên
súc sạch miệng, thì không phạm.
Sau khi Bí-sô Ngưu Chủ xuất gia,
nhiều người thế tục cùng sinh chê bai, nói:
- Sa-môn Thích tử cùng nhau làm
việc phi pháp nên cho xuất gia những người hình dáng xấu xí như Ngưu Chủ.
Các Bí-sô đem việc này bạch Phật.
Phật suy nghĩ:
" Thánh đệ tử của Ta, đức độ như
núi Diệu cao, dễ làm cho mọi người sinh đố kỵ. Do việc này, Bí-sô Ngưu Chủ không
nên ở nơi thành phố đông người". Thế Tôn bảo Ngưu Chủ:
- Từ nay về sau, thầy không nên ở
nơi thành phố trung tâm, nên ra chỗ biên phương.
Nghe Phật dạy xong, Tôn giả bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ðúng vậy.
Sau đó vị này rời khỏi rừng Thệ Ða,
đến sống an ổn nơi cung Thế Lị Sa. Phật bảo các Bí-sô:
- Trong các đệ tử sống nơi biên
phương của Ta, Ngưu-Chủ là tối thượng.
Khi ấy, các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa với Thế Tôn:
- Cụ thọ Ngưu Chủ từng làm việc gì,
mà do nghiệp ấy tuy sinh làm người lại có hình dáng trâu, được xuất gia tu hành
trong Phật pháp, chứng quả A-la-hán?
Phật bảo các Bí-sô:
- Bí-sô Ngưu Chủ do nghiệp trước
đây đã làm tăng trưởng thuần thục, tự thọ trở lại rộng như đã nói ở trên. Các
thầy hãy lắng nghe, vào thời quá khứ, trong Hiền-kiếp này khi loài người thọ hai
vạn tuổi, có Phật Ca Nhiếp Ba xuất hiện trong đời, đầy đủ mười hiệu. Ngưu Chủ
từng xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật ấy. Thân giáo sư của vị ấy là bậc
A-la-hán làm thượng thủ trong chúng, tuồi tác già nua, thân hình ốm yếu không tự
ăn được. Bấy giờ Ngưu Chủ thường phục vụ thầy ăn, sau khi thu dọn bát, rửa sạch
rồi cùng các Bí-sô khác ở một nơi tụng tập.Sau đó, vì thầy ăn chậm nên rửa bát
hơi trễ, bạn đồng học hỏi:
- Vì sao đến muộn vậy?
Ðáp:
- Cụ thọ! Thầy tôi mới vừa ăn xong.
Vào hôm khác, đệ tử đã ăn xong, sau
khi rửa bát đến chổ vị thầy, thấy ăn chưa xong nên nổi sân:
- Vì sao ăn chậm như bò già vậy!
Vị thầy suy nghĩ: "Nó đang giận dữ,
nếu ta nói ra tất cơn giận nó bùng ra, chờ khi hết giận mới nói cho biết". Khi
đệ tử hết giận, vị thầy mới hỏi:
- Cụ thọ, ngươi nói gì vậy?
Ðáp:
- Con nói thầy ăn chậm chạp như con
bò già.
Thầy nói:
- Này cụ thọ, không biết ta là hạng
người nào hay sao?
Ðáp:
- Con biết thầy là người xuất gia
trong giáo pháp đức Phật Ca Nhiếp Ba, con cũng xuất gia trong pháp luật này.
Thầy bảo:
- Thánh tử! Việc này đúng như vậy.
Việc phải làm của người xuất gia ta đã làm xong, ta đã thoát các triền phược,
người còn đủ triền phược. Người nói với ta bằng lời thô ác, nên ân cần chí tâm
sám hối tội lỗi, như vậy mới trừ diệt được ác nghiệp. Ðệ tử nghe xong, chí tâm
sám hối. Các Bí-sô biết không, do thời quá khứ vị ấy tạo ra nghiệp xấu vì nói
thô ác với vị A-la-hán, bị thọ thân bò trong năm trăm đời, cho đến ngày nay vì
nghiệp dư tàn chưa hết nên còn mang hình dáng loài bò. Do vị ấy siêng năng làm
việc tụng tập nên được xuất gia trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ các nghiệp
phiền não chứng A-la-hán.
Các Bí-sô lại thưa với Phật:
- Do làm nghiệp gì mà Bí-sô Ngưu
Chủ được Thế Tôn cho ở biên phương và khen là đệ nhất.
Phật dạy:
- Do phát nguyện lực.
- Từng phát nguyện gì?
- Vào thời Phật kia vị ấy xuất gia
tu tập cho đến trọn đời nhưng đối với môn thắng diệu không chứng đắc gì cả.Trong
các đệ tử của Phật Ca Nhiếp Ba, thầy của vị ấy là người trú ở biên phương thọ
dụng y thực được tôn xung là số một. Thấy như vậy, vị ấy phát nguyện:
- Ta xuất tu tập với đức Phật kia,
đến trọn đời cũng chưa chứng được gì trong Thắng Diệu môn, ta nguyện đem công
đức siêng năng tu tập này, theo như đức Phật thọ ký cho Ma Nạp Bà, trong đời vị
lai khi loài người sống 100 tuổi có Phật Thích Ca Mâu Ny xuất hiện trong thế
gian, ta sẽ xuất gia trong giáo pháp của đức Phật ấy, đoạn trừ các phiền não
chứng quả A-la-hán. Trong những đệ tử của Phật, bổn sư của ta là vị trú ở biên
phương, thọ dụng y thực được khen là đ? nhất. Trong hàng đệ tử của Phật tương
lai, ta nguyện thọ dụng y thực ở biên phương cũng như vậy. Do nguyện lực kia,
nên vị ấy thọ kết quả này. Các thầy nên biết, do nghiệp thuần đen ... như nói
rộng ở trên.
* Duyên tại thành Thất La Phiệt.
Lục chúng Bí-sô chỉ thị đòi thức ăn, hãy đưa ta vật này, đưa ta vật kia ... làm
cho người phục vụ mất cả trật tự. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:
- Bí-sô không nên chỉ thị đòi thức
ăn, ai cố vi phạm bị tội vượt pháp. Nếu không có lửa, đòi vật chín không phạm;
nếu lửa quá mạnh, lấy vật sống không lỗi.
* Duyên xứ như trước. Cụ thọ Ô Ba
Nan Ðà đến nhà thợ đồng, hỏi:
- Hiền thủ! Có thể làm bát bằng
đồng không?
Ðáp:
- Ðây là nghề của con, có gì không
làm được; không biết ngài cần bát lớn hay nhỏ?
Ðáp:
- Làm lớn cở ...
Hỏi:
- Thánh giả! Bát lớn như vậy, ngài
dùng làm gì?
Ðáp:
- Này người ngu si! Chẳng lẽ ngươi
chẳng lấy tiền, làm không cho ta hay sao.
Sau khi suy nghĩ: "Làm lớn theo ý
họ, ta có hại gì". Người thợ làm bát lớn. Lục chúng thấy bát, nói:
- Hãy làm bát nhỏ hơn đặt vừa trong
bát này.
Cứ lần lượt như vậy cho đến bảy
cái. Sau khi làm xong, họ sai đệ tử lau chùi cho sạch bóng, dùng chỉ ngũ sắc đan
lưới đựng bát, đan chồng nhiều lớp đặt bát vào trong, sai cầu-tịch đội trên đầu
mà đi. Khi có nơi thỉnh thì họ đem đi trước, đến nhà thí chủ, sau khi an tọa bày
bát này ở trước. Cư sĩ Bà-la-môn thấy vậy hỏi:
- Chẳng lẽ các vị mở hàng bán đồ
đồng hay sao?
Ðáp:
- Này kẻ ngu! Ngươi không biết gì
cả, cái thứ nhất đựng cơm, thứ hai trữ mì, thứ ba để bánh, thứ tư đặt đồ kho,
thứ năm nhận canh rau, thứ sáu chứa sữa và lạc, thứ bảy thêm vật gia vị.
Người tục nói:
- Nếu vậy, phải cần thêm vật chứa
nữa, để đựng thức ăn uống nhiều hơn thế nầy. Họ nghe chê như vậy, im lặng không
biết nói gì.
Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật
suy nghĩ:
- Vì các Bí-sô chứa bát đồng nên có
lỗi như vậy, nên Ngài chế Bí-sô không được chứa bát bằng đồng, ai vi phạm bị tội
vượt pháp. Ai chứa muỗng đồng, mâm đựng muối, chén uống nước bằng đồng, không
phạm. Nếu là vật khác, sử dụng không phạm.
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
Quyển thứ năm hết.
--- o0o ---
Mục
Lục | 1 | 2 |
3 | 4 |
5 | 6 |
7 | 8 |
9 | 10 | 11 |
12 |13 |14 | 15
16 |17 |18 |19 |20
| 21 | 22 |
23 | 24 |
25 | 26 |27
| 28 | 29 |
30
31 |
32| 33 |
34 | 35 |
36 | 37 |
38 | 39 |
40
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002
|
|