- LỊCH
SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- Từ khởi nguyên
đến thời Lý Nam Đế
-
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
- Học
Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Huế thực hiện
- Nhà
Xuất Bản Thuận Hóa Huế 1999
--o0o--
- Chương
XI
- Những
Ngọn
đèn
Cuối
Cùng:
Huệ
Thắng
và
Đạo
Thiền
Về
Huệ
Thắng
Về
Đạo
Thiền
Về
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
Vào
năm
455
Tiên
Sơn
là
một
trung
tâm
giáo
dục
Phật
giáo
lớn,
nơi
đã
chứng
kiến
cái
chết
đầy
thần
dị
của
Hoằng,
nơi
ở
có
thể
của
những
pháp
sư
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh,
và
nơi
tạm
nghỉ
chân
có
thể
của
Huệ
Lâm.
Tiên
Sơn,
như
vậy,
là
nơi
tập
trung
những
nhân
tài
Phật
giáo
cũng
như
trí
thức
nước
ta
thuở
ấy.
Ta
sẽ
thấy,
chính
tại
Tiên
Sơn
mà
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
thần
tình
và
điêu
luyện
ra
đời,
thường
biết
dưới
tên
là
nền
nghệ
thuật
Vạn
Phúc.
Trung
tâm
Tiên
Sơn
vẫn
tiếp
tục
đóng
vai
trò
giáo
dục
và
tập
trung
nhân
tài
Phật
giáo
cho
đến
đầu
thượng
bán
thế
kỷ
thứ
VI
với
sự
xuất
hiện
của
những
người
kế
tục
không
hổ
thẹn
quan
điểm
và
lập
trường
của
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh
và
hơn
nữa,
của
Mâu
Tử
và
Khương
Tăng
Hội,
đó
là
Huệ
Thắng
và
Đạo
Thiền.
Về
Huệ
Thắng
[^]
Cuộc
đời
Huệ
Thắng,
Tục
cao
Tăng
truyện
16
tờ
550c8-17
chép
thế
này:
"Thích
Huệ
Thắng
người
Giao
Chỉ,
ở
chùa
núi
Tiên
Châu,
lánh
ngụ
rừng
đầm,
thong
dong
ngoại
vật,
tụng
kinh
Pháp
Hoa,
ngày
kể
một
biến,
mỗi
năm
càng
sâu.
Ăn
mặc
tiết
ước,
tuỳ
thân
vui
dùng,
theo
thiền
sư
nước
ngoài,
Đạt
Ma
Đề
Bà,
học
các
quán
hạnh.
Mỗi
lần
vào
định,
hết
ngày
mới
đứng
dậy.
Lưu
Hội
của
Bành
Thành
ra
giữ
Nam
Hải,
nghe
tiếng
khiến
người
đến
mời,
dắt
theo
cùng
về,
nhân
đó
đến
ở
chùa
U
Tê.
Thao
minh
che
kín,
thường
tỏ
như
ngu.
Người
ở
lâu
mới
trọng.
Kẻ
học
thiền
kính
mỹ.
Tại
chùa
U
Tê,
tuyệt
nhiên
không
đòi
phần
ăn,
chỉ
sống
nhờ
đồ
khất
thực,
hoàn
toàn
tuân
theo
sự
thanh
liêm.
Năm
Vĩnh
Minh
thứ
5
(487)
dời
đến
ở
tinh
xá
Diên
Hiền
núi
Chung.
Từ
nhỏ
tới
già,
lòng
Thắng
trinh
bạch
thẳng
ngay.
Trong
khoảng
Thiên
giám
(502-519)
Thắng
mất,
xuân
thu
70".
Trong
lời
tựa
Tục
Cao
Tăng
truyện
ĐTK
2060
tờ
425b21-24,
Đạo
Tuyên
nói
ông
viết
truyện
những
Cao
Tăng
sống
cho
tới
năm
646
gồm
có
340
vị
có
chính
truyện
và
160
vị
chép
phụ
vào.
Một
kiểm
soát
chính
nội
dung
Tục
Cao
Tăng
truyện,
thì
không
những
có
đến
485
vị
có
chính
truyện
và
219
vị
chép
phụ
vào,
mà
còn
có
những
vị
sống
tới
giữa
những
năm
664,
như
trường
hợp
truyện
Huyền
Tráng
ở
quyển
4
tờ
446c8-459c10.
Sự
tình
này
chứng
tỏ
về
đại
thể
Tuyên
đã
hoàn
thành
Tục
Cao
Tăng
truyện
vào
năm
646,
nhưng
rồi
ông
tiếp
tục
bổ
sung
và
chỉnh
lý
cho
tới
lúc
ông
mất
năm
667.
Truyện
Huệ
Thắng
cũng
như
truyện
Đạo
Thiền
sau
này
chắc
đã
được
Tuyên
khởi
thảo
ngay
trong
đợt
đầu,
dẫu
ta
không
có
một
điểm
chỉ
dứt
khoát
nào
cho
một
khẳng
định
như
vậy.
Bây
giờ,
theo
Tuyên
thì
Huệ
Thắng
là
người
Giao
Chỉ.
Theo
Cựu
Đường
thư
41
tờ
42b8-10
nói:
"Giao
Chỉ
là
đất
Luy
Lâu
của
quận
Giao
Chỉ
đời
Hán,
nhà
Tuỳ
lấy
tên
quận
đời
Hán
đặt
làm
Giao
Chỉ.
Năm
Vũ
Đức
thứ
tư
(621)
đặt
ba
huyện
là
Từ
Liêm,
Ô
Diên
và
Vũ
Lập.
Năm
thứ
6
(623)
đổi
làm
Nam
Từ
châu.
Năm
đầu
Trịnh
Quán
(627)
bỏ
châu
và
bỏ
ba
huyện,
sáp
nhập
làm
Giao
Chỉ"
Tân
Đường
Thư
43
thượng
tờ
9b11-12
không
nói
gì
mới,
chỉ
thêm
là,
huyện
Từ
Liêm
có
tên
ấy
vì
có
sông
Từ
Liêm
chảy
qua.
Nguyên
hòa
quận
huyện
đồ
chí
36
tờ
9a2-5
và
Thái
bình
hoàn
vũ
ký
170
tờ
8a3-b8
cũng
không
cung
cấp
những
dữ
kiện
gì
đáng
chú
ý
hơn.
Bằng
vào
những
tư
liệu
đây.
Giao
Chỉ
đời
Đường
là
một
huyện
của
Giao
Châu
và
gồm
đất
của
ba
huyện
Từ
Liêm,
Ô
Diên
và
Vũ
Lập.
Thiền
uyển
tập
anh
chép
tiểu
sử
của
các
thiền
sư
đời
Lý
đều
ghi
Từ
Liêm
và
Ô
Diên
thuộc
quận
Vĩnh
Khương.
Kiến
văn
tiểu
lục
6
tờ
2a6
nói:
"Thời
Lý
Trần,
đặt
trấn
Vĩnh
Khương
ở
Từ
Liêm".
Mục
Kiên
trí
diên
cách
của
tỉnh
Hà
Nội
trong
Đại
Nam
nhất
thống
chí
đã
đồng
nhất
Từ
Liêm
đời
Đường
với
huyện
Từ
Liêm
đời
Nguyễn,
tức
thuộc
huyện
Hoài
Đức
tỉnh
Hà
Đông
cũ.
Còn
Ô
Diên,
Khâm
định
Việt
sử
thông
giám
cương
mục
tiền
biên
4
tờ
12a4-6
nói:
"Ô
Diên
là
đất
Giao
Chỉ
xưa,
năm
Đường
Vũ
Đức
thứ
4
(621)
đặt
huyện
Ô
Diên
cùng
với
Từ
Liêm
và
Vũ
Lập
làm
ba
huyện
thuộc
Giao
Chỉ.
Sử
cũ
chua
Ô
Diên
là
xã
Hạ
Nổ
ở
Từ
Liêm".
Sử
cũ
nói
đến
đấy
tức
Đại
Việt
sử
ký
toàn
thư
ngoại
kỷ
4
tờ
20a1.
Kiến
văn
tiểu
lục
6
tờ
1b5-7
cũng
nhất
trí
với
Toàn
thư.
Vậy
thì,
các
tư
liệu
Việt
Nam
đồng
ý
là
Từ
Liêm
và
Ô
Diên
đều
thuộc
huyện
Từ
Liêm.
Mà
huyện
Từ
Liêm
là
thuộc
đất
huyện
Hoài
Đức
cũ,
nay
tức
huyện
Từ
Liêm
thuộc
ngoại
thành
Hà
Nội.
Huệ
Thắng
mà
Đạo
Tuyên
ghi
lại
là
người
Giao
Chỉ,
tất
phải
sinh
tại
huyện
Từ
Liêm
thuộc
ngoại
thành
Hà
Nội.
Tuyên
nói
ông
mất
khoảng
năm
502-519
và
thọ
70
tuổi.
Như
vậy,
ông
ra
đời
khoảng
những
năm
432-449,
tối
thiểu
cũng
phải
trước
lúc
Đàm
Hoằng
tự
thiêu
tới
chín
năm.
Ông
xuất
gia
lúc
nào
và
ở
chùa
nào,
Tuyên
không
nói
rõ,
nhưng
đã
ghi
là
ông
có
"ở
chùa
núi
Tiên
Châu".
Cho
nên,
ông
có
thể
đã
xuất
gia
và
tu
học
ngay
từ
đầu
tại
chùa
núi
Tiên
Châu
đó.
Cái
tên
Tiên
Châu
xuất
hiện
lần
đầu
tiên
vài
năm
623
và
hết
dùng
vào
năm
637.
Đây
là
một
điểm
chỉ
cho
biết
Đạo
Tuyên
phải
viết
truyện
của
Huệ
Thắng
cũng
như
Đạo
Thiền
phải
giữa
hai
năm
đó.
Theo
Cựu
Đường
thư
41
tờ
43a2-8,
lai
lịch
Tiên
Châu
thế
này:
"Bình
huyện
Xương
Quốc
(...)
Năm
Vũ
Đức
thứ
tư
(621)
đặt
Đạo
Châu
ở
huyện
lãnh
ba
huyện
Bình
Đạo,
Xương
Quốc
và
Vũ
Bình.
Năm
thứ
6
(623)
đổi
làm
Nam
Đạo
Châu
lại
đổi
làm
Tiên
Châu.
Năm
Trinh
Quán
thứ
10
(637)
bỏ
Tiên
Châu,
đem
Xương
Quốc
nhập
Bình
Đạo
thuộc
Giao
Châu".
Tân
Đường
thư
43
thượng
tờ
9b13-10
cũng
viết
tương
tự,
chỉ
xác
định
rõ
hơn
là,
chính
năm
Vũ
Đức
thứ
6
(623)
Nam
Đạo
châu
đổi
làm
Tiên
Châu.
Nguyên
hòa
quận
huyện
đồ
chí
38
tờ
12b6-9
nói:
"Huyện
Bình
Đạo...
ở
tây
bắc
cách
phủ
50
dặm,
vốn
là
đất
của
mọi
Phù
Nghiêm,
thời
Ngô
mở
làm
quận
Vũ
Bình,
đặt
huyện
Bình
Đaọ
thuộc
nó.
Tiên
Sơn
ở
phía
đông
bắc
của
huyện
13
dặm,
cách
đồi
Ẩn
vài
trăm
dặm,
làm
cửa
Tây
của
Long
biên"
Vì
Long
Biên
ở
sát
huyện
Bình
Đạo
và
có
Tiên
Sơn
làm
"cửa
tây"
cho
mình,
nên
nó
cũng
có
giai
đoạn
bị
sáp
nhập
vào
Tiên
Châu.
Cựu
Đường
thư
41
tờ
42b12-43a2
viết:
"Long
Biên
vốn
là
Luy
Lâu,
thủ
trị
của
quận
Giao
Chỉ
đời
Hán...
Năm
Vũ
Đức
thứ
tư
(621)
ở
huyện
Đạt
Ba
huyện
Long
Xuyên,
Vũ
Ninh
là
Bình
Lạc.
Năm
Trinh
Quán
thứ
nhất
(627)
bỏ
Long
Xuyên,
đem
Vũ
Ninh
và
Bình
Lạc
nhập
vào
Long
Biên,
cắt
thuộc
Tiên
Châu.
Năm
thứ
10
(637)
bỏ
Tiên
Châu,
đem
Long
Biên
thuộc
Giao
Châu".
Tân
Đường
thư
43
thượng
tờ
9b13
chép
tương
tợ,
chỉ
trừ
Long
Xuyên,
nó
viết
thành
Long
Châu.
Thái
bình
hoàn
vũ
ký
170
tờ
7a9-b3
và
9a9-b
về
huyện
Long
Biên
và
Bình
Đạo,
tổng
hợp
những
nguồn
tài
liệu
từ
Nguyên
hòa
quận
huyện
đồ
chí
cũng
như
Cựu
Đường
thư,
đều
nhất
trí
Tiên
Châu
là
do
Nam
Đạo
châu
đổi
thành
vào
năm
623
đến
năm
627
sáp
nhập
thêm
huyện
Long
Biên
nữa.
Cuối
cùng,
theo
nó
thì
năm
Trinh
Quán
thứ
12
(639)
mới
bỏ
Tiên
Châu,
để
tách
thành
huyện
Long
Biên
và
Bình
Đạo.
Tiên
Châu,
như
vậy,
là
đất
hai
huyện
Bình
Đạo
và
Long
Biên,
trên
đó
có
núi
Tiên
hay
Tiên
Sơn.
Chắc
chắn,
nó
có
tên
Tiên
Châu
vì
nó
có
Tiên
Sơn.
Mà
Tiên
Sơn
theo
những
xác
định
do
ta
thiết
lập
ở
trước
là
núi
Lạn
Kha
tại
tỉnh
Bắc
Ninh.
Do
thế,
Tiên
Châu
phải
chiếm
một
phần
đất
Bắc
Ninh
và
Vĩnh
Phúc.
Tiên
Châu
một
khi
đã
vậy,
thì
Tiên
Châu
sơn,
hay
núi
Tiên
Châu,
tất
không
thể
chỉ
một
ngọn
núi
nổi
danh
nào
hơn
là
ngọn
Tiên
Sơn,
tức
núi
Lạn
Kha.
Tiên
Châu
sơn
từ
đó
cũng
là
Tiên
Sơn.
Và
chùa
núi
Tiên
Châu
tất
không
thể
chùa
nào
khác
hơn
là
chùa
Tiên
Sơn,
nơi
đã
xảy
ra
vụ
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng
ta
đã
bàn
qua.
Sống
tại
chùa
Tiên
Sơn
hay
Tiên
Châu
sơn,
Huệ
Thắng
ưa
thong
dong
trong
rừng
núi,
tập
trung
sự
chú
ý
của
mình
vào
kinh
Pháp
Hoa,
"Mỗi
ngày
tụng
một
biến,
tích
lũy
theo
tháng
năm".
Kinh
Pháp
Hoa
vào
thời
Huệ
Thắng
đã
có
cả
thảy
ba
lần
dịch.
Lần
dịch
đầu
tiên
do
Cương
Lương
Lâu
Tiếp
và
Đạo
Thanh
thực
hiện
tại
nước
ta
vào
năm
255
dưới
tên
Pháp
Hoa
tam
muội
kinh.
Bản
này,
khi
Tăng
Hựu
viết
Xuất
tam
tạng
ký
tập
vào
khoảng
497,
thì
đã
mất,
như
Phí
Trường
Phòng
gh
lại
trong
Lịch
đại
tam
bảo
ký
5
tờ
56c19-24.
Cát
Tạng
viết
Pháp
Hoa
du
ý
ĐTK
1722
tờ
649c25-29
vào
năm
549
cũng
nói
nó
với
bản
dịch
của
Chi
Đạo
Căn
thực
hiện
năm
335,
"hai
bản
ấy
miền
nam
không
có".
Bản
thứ
hai
là
của
Trúc
Pháp
Hộ
dịch
năm
286
với
tên
Chính
Pháp
Hoa
kinh
hiện
còn..
Bản
thứ
ba
là
của
Chi
Đạo
Căn,
và
bản
thứ
IV
là
của
Cưu
Ma
La
Thập
dưới
cái
đầu
đề
nổi
tiếng
Diệu
Pháp
liên
hoa
kinh.
Trong
số
bốn
bản
dịch
đó,
ta
hiện
khó
biết
chắc
Huệ
Thắng
dùng
bản
nào.
Nhưng
cứ
vào
tình
trạng
sử
dụng
dịch
phẩm
của
La
Thập
trong
việc
trích
dẫn
của
những
tác
giả
sáu
lá
thư,
ta
có
thể
giả
thiết
Huệ
Thắng
hẳn
đã
dùng
Diệu
Pháp
liên
hoa
kinh.
Sau
đó,
Thắng
đã
theo
học
các
"quán
hạnh"
với
một
vị
thiền
sư
nước
ngoài
tên
Đạt
Ma
Đề
Bà
(Dharmadeva)
Tung
tích
vị
thiền
sư
này
ta
hiện
không
biết
một
tí
gì.
Tên
ông
kể
ở
đây
là
lần
duy
nhất,
cho
nên,
quan
điểm
cũng
như
phương
pháp
thiền
của
ông,
ta
không
thể
nào
xác
định
được.
Tuy
nhiên
nếu
hiểu
"quán
hạnh"
là
những
phương
pháp
thiền
quán
như
quán
hơi
thở,
tức
an
ban
thủ
ý,
quán
bất
tịnh,
quán
không
v.v..
thì
thiện
của
Đạt
Ma
Đề
Bà
là
mộ
thứ
thiền,
do
Khương
Tăng
Hội
truyền
thụ.
Ngược
lại,
nếu
hiểu
quán
hạnh
là
"quán
hạnh
tức",
một
trong
sáu
"tức"
của
giáo
phái
Pháp
Hoa,
thì
quán
hạnh
của
Đạt
Ma
Đề
Bà
là
năm
loại
quán
hạnh,
mà
phẩm
phân
biệt
công
đức
của
kinh
Pháp
Hoa
nói
tới,
đó
là
tuỳ
hỷ,
đọc
tụng,
thuyết
pháp,
thực
hành
hết
lục
độ,
thực
hành
thực
sự
lục
độ.
Vì
Huệ
Thắng
chuyên
trì
tụng
Pháp
Hoa,
quán
hạnh,
ông
theo
học,
rất
có
thể
là
loại
quán
hạnh
vừa
nói.
Nếu
vậy
Thắng
là
một
trong
những
người
đầu
tiên
nêu
lên
thuyết
quán
hạnh
tức,
mà
sau
này
đã
trở
thành
một
bộ
phận
trọng
yếu
trong
thuyết
sáu
tức
cuả
giáo
phái
Pháp
Hoa.
Dâũ
thế,
vì
tiểu
sử
Thắng
nói
là
"Thắng
mỗi
lần
vào
định,
hết
ngày
mới
đứng
dậy",
quán
hạnh
do
Đạt
Ma
Đề
Bà
truyền
trao
cho
ông
chắc
vẫn
là
loại
quán
hạnh
do
Khương
Tăng
Hội
quảng
bá
và
chủ
trì.
Nó
vẫn
tiếp
tục
được
thực
hành
như
trường
hợp
Đạo
Thiền,
ta
sẽ
thấy
dưới
đây.
Với
sự
chuyên
chú
kinh
Pháp
Hoa
và
thực
hành
thiền
quán
đó,
đạo
phong
của
Thắng
đã
đồn
xa.
"Lưu
Hội
của
Bành
Thành,
khi
ra
làm
thú
Nam
Hải,
nghe
đạo
phong
ấy,
đã
sai
người
đến
mời,
dắt
theo
cùng
về".
Chữ
hội
của
Lưu
Hội,
bản
Cao
Ly
chép
bộ
mịch
với
chữ
qui
nên
các
bản
in
khác
đều
chép
nhằm
thành
chữ
tích
tức
gồm
bộ
mịch
với
chữ
trách.
Nhưng
vì
Đạo
Tuyên
xác
định
rõ
Lưu
Hội,
người
sai
mời
Huệ
Thắng,
là
của
Bành
thành,
ta
biết
chữ
hội
dúng
ra
phải
viết
bên
bộ
mịch
bên
chữ
hội.
Kiểm
tra
lại
các
sách
sử
Trung
Quốc
thời
Huệ
Thắng,
ta
thực
sự
có
một
Lưu
Hội,
gốc
người
Bành
Thành.
Nam
Tề
thư
48
tờ
5a7-6a11
chép:
"Lưu
Hội
tên
chữ
Sĩ
Chương
người
Bành
Thành".
Cứ
tiểu
sử
của
Hội
ở
Nam
Tề
thư,
ông
sinh
năm
457
và
mất
năm
502,
lúc
mới
45
tuổi.
Thuộc
một
gia
đình
quyền
quí
thời
đó,
lúc
đầu
ông
làm
tả
quân
chủ
bộ
cho
Dự
Chương
vương
Tiêu
Đạo
Ngưng,
rồi
thăng
dần
đến
Lục
sự.
Nhưng
vì
có
một
sự
xích
mích
giữa
Ngưng
và
thái
tử
Văn
Huệ.
Hội
sợ
lụy
đến
thân,
nên
"riết
xin"
(khổ
cầu)
ra
trấn
nhiệm
một
quận
biên
giới.
Ông
bèn
được
cử
làm
tướng
quân
Nam
Khương.
Sự
việc
này
xảy
ra
lúc
nào?
Khảo
truyện
của
Tiêu
Đạo
Ngưng
trong
Nam
Tề
thư
22
tờ
3b10-11
thì
sự
xích
mích
xảy
ra
khoảng
năm
485,
vì
cái
chiếu
mở
rộng
phong
ấp
cho
Ngưng
của
Tề
Vũ
đế.
Do
thế,
việc
đi
trấn
Nam
Khương
của
Hội
chắc
chắn
phải
vào
năm
ấy.
Truyện
của
Huệ
Thắng
nói
Hội
"ra
làm
thái
thú
Nam
Hải"
(xuất
thủ
Mam
Hải).
Nam
Hải
có
thể
là
một
viết
lầm
của
Nam
Khương,
vì
phần
Châu
quận
chí
của
Nam
Tề
thư
14
tờ
10b9
và
11a7
liệt
Nam
Hải
và
Nam
Khương
làm
hai
quận
của
hai
châu
khác
nhau.
Nam
Hải
thuộc
Quảng
Châu,
còn
Nam
Khương
thuộc
Giang
Châu.
Cũng
có
thể
Nam
Hải
là
một
tên
chung
chỉ
một
giải
đất
phía
nam
nằm
tiếp
giáp
với
biển,
như
câu
"Quảng
Châu
trấn
bờ
biển
bế
nam"
(Quảng
Châu
trấn
Nam
Hải
tân
tế),
mà
Nam
Tề
thư
dùng
để
mô
tả
Quảng
Châu.
Một
khi
hiểu
như
thế,
nó
có
thể
bao
gồm
luôn
cả
Nam
Khương.
Lưu
Hội
ra
trấn
Nam
Khương
năm
485.
Ở
Nam
Khương,
Hội
"những
lúc
rảnh
rỗi
việc
quân,
chuyên
ý
giảng
dạy",
đến
nỗi
một
tên
tai
mắt
của
Vũ
đế
là
Trần
Hồng
đã
phải
tâu:
"Nam
Khương
là
cái
cổ
họng
của
ba
châu,
nên
cần
phải
có
người
giỏi
việc
cai
trị,
há
có
thể
để
cho
thú
7
trẻ
tuổi
giảng
học
xử
lý
sao?".
Như
vậy,
khi
ra
trấn
Nam
Khương,
Hội
đã
tổ
chức
việc
dạy
học,
say
mê
đến
nỗi
bị
báo
cáo
về
trung
ương
là
chuyên
lo
việc
dạy
học,
mà
bỏ
bê
chính
sự
Hội
là
một
người
"giỏi
ứng
đối",
"thông
minh
nhạy
bén,
có
văn
nghĩa,
giỏi
chữ
viết
lệ,
nhiều
lần
bị
gọi
thưởng,
đối
đáp
đẹp
đẽ
mẫn
tiệp,
trong
số
đồng
liêu,
ít
người
được
đãi
ngộ
kịp",
có
soạn
Năng
thơ
nhân
danh.
Con
người
văn
học
của
Hội
là
như
thế,
nên
khi
ra
trấn
nhiệm
Nam
Khương,
ông
tổ
chức
trường
dạy
học
thì
cũng
không
có
gì
đáng
ngạc
nhiên.
Chính
tại
trường
học
tại
quận
Nam
Khương
đó,
mà
Hội
nghe
"đạo
phong
của
Thắng,
sai
người
đi
mời,
dắt
theo
cùng
về".
Hội
ra
Nam
Khương
năm
485.
Đây
cũng
là
năm
chính
quyền
Vũ
đế
quyết
định
sai
Lưu
Giai
ra
đánh
chiếm
Giao
Châu.
Lý
Thúc
Hiến
sau
khi
ngoại
giao,
để
giải
quyết
không
xong,
đã
để
cho
Lưu
Hội
tiến
quân
chiếm
đóng
nước
ta,
và
hẳn
đã
chuẩn
bị
người
để
chỉ
ba
năm
sau
Phục
Đăng
Chi
đã
phục
hồi
lại
được
chính
quyền
tự
trị
của
mình.
Trong
thời
gian
chiếm
đóng,
Giai
đã
ra
sức
vơ
vét
tài
nguyên
và
nhân
tài
của
Giao
Châu
để
cống
nạp
cho
Trung
Quốc.
Lịch
đại
tam
bảo
ký
3
tờ
44a3
ghi:
"Tháng
giêng
năm
Vĩnh
Minh
thứ
5
(487)
Giao
Châu
dâng
một
viên
ngọc
châu
cao
hai
tấc,
đủ
làm
một
tượng
Phật
ngồi".
Tượng
Phật
ngồi
bằng
ngọc
châu
này
chắc
Giai
đã
cướp
từ
một
ngôi
chùa
hay
một
nhà
Phật
tử
của
nhân
dân
ta.
Không
những
cướp
của
Giai
còn
cướp
người.
Việc
Lưu
Hội
"nghe
tiếng
sai
người
mời"
cướp
nhân
tài
của
nhân
dân
ta,
là
một
vụ
lưu
đầy
đối
với
Huệ
Thắng.
Đặt
vào
một
khung
cảnh
lịch
sử
như
vậy,
ta
bây
giờ
mới
hiểu
hành
trạng
và
thái
độ
của
Huệ
Thắng
lúc
bị
bắt
về
Trung
Quốc.
Đem
về
Trung
Quốc,
Hội
đã
đưa
Thắng
đến
ở
tại
chùa
U
tê.
Chùa
này
cũng
gọi
là
chùa
U
Thê
dựng
vào
năm
457
tại
núi
Ngưu
đầu
ở
40
dặm
phía
nam
huyện
Thượng
Nguyên
phủ
Giang
Ninh
tỉnh
Giang
Tê,
tức
không
xa
trị
phủ
của
Nam
Khương
bao
nhiêu.
Việc
làm
của
Huệ
Thắng
lúc
ở
chùa
đây
đã
biểu
lộ
cao
độ
ý
thức
phản
kháng
và
bất
hợp
tác,
biểu
lộ
cao
độ
sự
phẫn
uất
và
chống
đối
của
Thắng
đối
với
chính
Lưu
Hội,
tên
đại
diện
trực
tiếp
của
chính
quyền
Vũ
đế.
Trước
hết,
Thắng
đã
"thao
minh
che
kín,
thường
tỏ
như
ngu"
Thao
minh
là
sự
tài
giỏi
thông
minh,
Thắng
đã
dấu
hết,
coi
mình
như
kẻ
ngu.
Nói
rõ
ra,
Thắng
đã
không
hợp
tác
với
Lưu
Hội
trong
giảng
đươòng
để
giảng
dạy.
Có
lẽ,
đối
với
Thắng,
làm
sao
có
sự
giảng
dạy
cho
những
tên
xâm
lược
để
nó
đi
xâm
chiếm
nước
mình.
Huệ
Thắng
sinh
ra
và
lớn
lên
hầu
như
hoàn
toàn
trong
giai
đoạn
đất
nước
ta
độc
lập.
Thở
hít
được
bầu
không
khí
độc
lập
thực
sự
gần
hai
mươi
năm
ấy,
Thắng
đã
ý
thức
nó
quí
giá
đến
mức
nào.
Cho
nên,
khi
bị
bọn
xâm
lược
bắt
về
Trung
Quốc,
tất
nhiên
Thắng
đã
chống
đối
mãnh
liệt.
Thắng
đã
không
hợp
tác
dạy
dỗ
với
Lưu
Hội
và
thường
tỏ
ra
như
ngu.
Chỉ
những
người
ở
lâu
với
Thắng,
hiểu
được
tâm
trạng
và
biết
thực
sự
tài
năng
của
ông,
mới
kính
trọng.
Những
người
Phật
giáo
học
thiền
với
ông,
không
những
kính
trọng,
mà
còn
bị
lôi
cuốn
trước
vẻ
đẹp
của
thái
độ
và
cuộc
đời
Thắng.
Nói
khác
đi,
chỉ
những
người
tin
tưởng
là
có
chí
hướng
và
đồng
tình
ủng
hộ
mình,
Thắng
mới
bày
tỏ
tâm
sự
và
quan
điểm
cùng
tài
năng
mình.
Có
thể
nói,
Huệ
Thắng
đã
thể
hiện
cao
độ
không
những
thái
độ
người
trí
thức
Phật
giáo
Việt
Nam,
mà
còn
của
người
trí
thức
Việt
Nam
trước
kẻ
thù.
Đó
là
một
thái
độ
bất
khuất,
bất
hợp
tác,
chống
đối
đến
cùng.
Hình
ảnh
Huệ
Thắng
là
một
hình
ảnh
đẹp
trong
lịch
sử
chống
ngoại
xâm,
đấu
tranh
giải
phóng
dân
tộc
của
nhân
dân
ta,
sao
nó
tương
phản
với
những
con
người
quỳ
lụy,
luồn
lọt
nhục
nhã
kiểu
Lý
Tiến,
Lý
Cầm.
Không
những
chống
đối
về
phương
diện
trí
thức,
Huệ
Thắng
còn
chống
đối
ngay
trong
nếp
sống
của
mình.
Ông
đã
không
chịu
ăn
cơm
do
nhà
chùa
cung
phụng
một
nhà
chùa
do
tên
bắt
mình
là
Lưu
Hội
giúp
đỡ.
Cho
nên,
cơm
ấy
là
cơm
của
kẻ
địch.
Thắng
chỉ
sống
nhờ
vào
phần
vệ.
Phần
vệ
là
một
phiên
âm
chữ
phạn
Pindapata,
tức
những
đồ
ăn
do
Phật
tử
bỏ
vào
bình
bát
của
các
vị
tăng
mỗi
buổi
sáng
họ
đi
khất
thực.
Như
vậy,
Thắng
sống
nhờ
vào
những
đồ
ăn
mình
xin
được
từ
nhân
dân,
những
đồ
ăn
do
nhân
dân
Trung
Quốc
tự
nguyện
cúng
cho
Huệ
Thắng.
Về
phương
diện
chính
trị,
ta
có
thể
nói
hành
động
ấy
của
Huệ
Thắng
thể
hiện
một
quan
điểm
chống
đối
rất
đáng
chú
ý.
Đó
là,
ông
chống
đối
đến
cùng
nhà
nước
và
những
tên
thống
trị
xâm
lược
Trung
Quốc.
Nhưng
đối
với
nhân
dân
Trung
Quốc,
ông
không
chống
đối
họ,
ông
coi
họ
như
anh
em,
như
những
người
cùng
cảnh
ngộ
có
thể
giúp
đỡ
mình.
Thái
độ
và
quan
điểm
này
cuả
Thắng
giải
thích
cho
thấy
hầu
như
rõ
ràng
quá
trình
tiếp
thu
và
đấu
tranh
cuả
dân
tộc
ta
đã
giúp
nhân
dân
ta
đánh
giá
và
xác
định
đúng
đắn
kẻ
thù
truyền
kiếp
của
mình
là
ai.
Chúng
tất
không
thể
là
nhân
dân
Trung
Quốc,
mà
tuyệt
đại
đa
số
cũng
bị
bóc
lột
áp
bức
như
nhân
dân
ta.
Việc
sống
nhờ
vào
phần
vệ
của
Thắng
thực
đầy
ý
nghĩa.
Nhưng
thực
sự
nó
chỉ
có
ý
nghĩa
đó
thôi
sao?
Chỉ
vì
quan
điểm
chính
trị
mà
Thắng
đã
sống
như
thế
sao?
Đương
nhiên,
nó
không
chỉ
có
ý
nghĩa
đó
và
cũng
không
hoàn
toàn
vì
quan
niệm
ấy.
Nhưng
mọi
hành
động
của
con
người,
nhất
là
người
đã
bị
kẻ
thù
bắt
và
ý
thức
cao
độ
tình
trạng
bị
bắt
cuả
mình,
thì
phải
có
một
ý
nghĩa
chính
trị
và
lý
do
chính
trị
nhất
định,
không
thể
chối
cãi.
Chúng
tôi
không
phủ
định
khía
cạnh
lịch
sử
của
vấn
đề
sống
nhờ
phần
vệ
của
Huệ
Thắng.
Vào
thế
kỷ
thứ
V,
tại
miền
nam
Trung
Quốc
có
một
phong
trào
do
Pháp
Độ
chủ
trương,
kêu
gọi
tập
thể
tăng
già
Phật
giáo
hãy
trở
về
nếp
sống
nguyên
thủy
của
thời
Đức
Phật,
đấy
là
quấn
y
vàng
và
cầm
bình
bát
đi
xin
ăn,
chứ
không
ăn
mặc
theo
lối
Phật
giáo
Trung
Quốc.
Phong
trào
này
lôi
cuốn
khá
đông
người,
trong
đó
có
cả
người
con
gái
đã
đi
xuất
gia
biết
dưới
tên
ni
cô
Phổ
Minh
của
thứ
sử
Trương
Mục,
vị
thứ
sử
cuối
cùng
của
nhà
Lưu
Tống,
khi
Lý
Trường
Nhân
khởi
nghĩa.
Cho
nên,
nó
gây
ra
những
bàn
cãi
cực
kỳ
xôn
xao
mà
chúng
tôi
có
nói
qua
ở
trước.
Phải
chăng
Thắng
đã
chịu
ảnh
hưởng
của
nếp
sống
tư
trào
đó?
Hay
sống
nhờ
phần
vệ
là
một
lối
sống
tương
đối
phổ
quát
của
Phật
giáo
Việt
Nam
thời
thắng?
Sự
thiếu
thốn
tư
liệu
hiện
nay
không
cho
phép
trả
lời
một
cách
chắc
chắn
vừa
nêu.
Chúng
tôi
vẫn
nghĩ,
việc
sống
nhờ
phần
vệ
của
Thắng
chủ
yếu
là
do
thái
độ
và
quan
điểm
chính
trị,
biểu
thị
một
sự
chống
kháng
đối
với
những
tên
đã
bắt
mình,
đã
xâm
lược
nước
mình.
Hẳn
vì
thái
độ
và
hành
động
chống
đối
của
Thắng,
Lưu
Hội
tất
không
thể
sử
dụng
Thắng
theo
ý
đồ
của
minh
được.
Do
vậy,
hai
năm
sau,
tức
vào
năm
Vĩnh
Minh
thứ
năm
(487),
chúng
đã
cho
đời
Huệ
Thắng
về
ở
tỉnh
xá
Diên
Hiền
ở
Chung
Sơn,
cách
Kiến
Nghiệp
không
xa.
Từ
đây
cho
đến
lúc
Thắng
chết
vào
khoảng
những
năm
502-519,
trong
gần
ba
mươi
năm
này
Thắng
đã
làm
gì,
Đạo
Tuyên
không
cho
biết.
Ông
chỉ
viết:
"Từ
trẻ
tới
già,
lòng
Thắng
trinh
chính".
Bình
luân
này
rõ
ràng
không
chỉ
đơn
thuần
nhằm
đến
thái
độ
và
quan
điểm
chính
trị
cuả
ông.
Thắng
không
những
trung
trinh
đối
với
đạo,
mà
còn
đối
với
dân
tộc,
không
những
chính
trực
đối
với
đạo,
mà
còn
thẳng
thắn
đối
với
kẻ
thù.
Cuộc
đời
Huệ
Thắng
như
vậy
đó.
Ông
mất
lúc
70
tuổi.
Đạo
Tuyên
không
cho
biết
ông
chết
ở
đâu.
Có
thể
tại
Chung
Sơn.
Nhưng
cũng
rất
có
thể
tại
Tiên
Sơn.
Trong
trường
hợp
sau,
Huệ
Thắng
hẳn
đã
trở
về
nước
ta
vào
thời
những
chính
quyền
tự
trị
của
Phục
Đăng
Chi
và
Lý
Tắc.
Có
lẽ
vì
Thắng
đã
rời
Trung
Quốc
nên
hành
trạng
của
ông
ba
mươi
năm
còn
lại
Tuyên
đã
không
biết
để
ghi.
Dầu
sao
chăng
nữa,
Huệ
Thắng
đã
có
một
số
ảnh
hưởng
nhất
định
nào
đó
đối
với
Phật
giáo
Trung
Quốc,
nhất
là
với
phong
trào
thiền
đang
lên
để
tên
tuổi
của
mình
được
xuất
hiện
trong
sử
sách
Trung
Quốc.
Huệ
Thắng
đã
được
Tuyên
xếp
vào
hạng
những
người
"tập
thiền",
trước
cả
Bồ
Đề
Đạt
Ma
Quan
niệm
và
phương
pháp
thiền
của
ông
đã
có
người
học.
Tuyên
viết:
"Kẻ
học
thiền
thì
kinh
mỹ".
Nhưng
như
đã
nói
ở
trên,
ta
hiện
khó
mà
biết
đích
xác
nội
dung
và
phương
pháp
thiền
của
ông.
Về
việc
ai
được
truyền
thụ
quan
niệm
và
phương
pháp
ấy,
ta
cũng
không
thể
nào
rõ.
Chỉ
biết
Thắng
có
một
uy
tín
và
ảnh
hưởng
nhất
định
đối
với
giới
Phật
giáo,
nên
đã
kính
cẩn
ghi
lại
tên
ông.
Huệ
Thắng
đã
sống
và
đã
chết
như
thế.
Học
phong
và
tư
tưởng
của
ông,
dù
trước
những
thiếu
thốn
tư
liệu
vừa
nói,
vẫn
thể
hiện
thứ
học
phong
và
tư
tưởng
của
nền
Phật
giáo
Mâu
Tử
Khương
Tăng
Hội,
sau
khi
bị
Lý
Miễu,
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh
tra
hỏi.
Ông
tiếp
tục
vào
việc
tin
tưởng
đọc
kinh,
vào
việc
ngồi
thiền
cả
ngày,
hẳn
để
muốn
thấy
Phật.
Điều
này,
ta
sẽ
thấy
rõ
ở
trường
hợp
Đạo
Thiền.
Về
Đạo
Thiền
[^]
Tục
Cao
Tăng
truyện
21
tờ
607b1-17
đã
viết
thư
này:
"Thích
Đạo
Thiền,
người
Giao
Chỉ,
sớm
thoát
lưỡi
đời,
lậptính
phương
nghiêm,
tu
thân
giữ
giới
trong
sạch
sánh
các
cao
đức,
làng
họ
tăng
tục
đều
quí
Thiền
khắc
kỷ,
mà
trọng
Thiền
đốc
hành.
Chùa
núi
Tiên
Châu
xưa
bị
nhiều
cọp
hại,
Thiền
đến
ở
đó,
nạn
ấy
liền
xa.
Khi
nghe
Cánh
Lăng
vương
nhà
Tề
rộng
mở
thiền
luật,
dựng
nhiều
chỗ
giảng,
người
ta
ngàn
dặm
ruỗi
xe,
cùng
đến
Kim
Lăg.
Họ
đều
là
tiêu
lĩnh
cuả
bốn
bể,
người
tài
cuả
đời
và
tay
giỏi
trong
đạo.
Thiền
truyền
dạy
sách
hay
rất
thông.
Ban
đêm
không
ngủ,
tham
khảo
kinh
màu,
vâng
tìm
lời
thậ.
Đến
năm
Vinh
Minh
thứ
nhất,
(483),
du
lịch
qua
nhà
cửa
của
kinh
đô,
để
đến
ở
chùa
Vân
Cư
Hạ
tại
Chung
Sơn.
Thiền
vâng
điều
khiển
Tăng
chúng,
nổi
tiếng
vì
rộng
dùng
luật
Thập
tụng.
Dạy
đào
trải
qua,
tăng
ni
tin
vâng
nên
uy
tín
chấn
phát,
tiếng
tăm
biết
khắp.
Thiền
điềm
đạm
dạy
người,
bàn
cãi
có
phong
thái,
nên
kẻ
chịu
thọ
giới
với
Thiền
ở
tại
kinh
đô,
số
vượt
quá
ngàn.
Học
đồ
thừng
đến
nghe
Thiền
giảng
không
thiêú
dưới
một
trăm.
Thiền
thích
diệt
giác
và
quán,
luôn
náu
núi
xa,
nêú
ồn
ào
quá
cảnh
đêm,
bèn
tìm
cách
lui
bước,
lại
ăn
những
thức
ăn
hoang
dã,
mặc
những
đồ
tồi
tà,
miệng
không
bao
giờ
nói
chuyện
phù
phiếm.
Nếu
có
ai
cho
đồ
ngon
đẹp,
bèn
tuỳ
theo
mà
cấp
phát
cho
những
người
nghèo
đau.
Cái
giàu
cuả
sự
tri
túc,
há
vượt
được
ư!
Cuối
đời,
Thiền
đến
ở
nhà
của
chùa,
chôn
dấu
mình
ở
núi
rừng,
không
giao
thiệp
với
thế
cuộc
cao
sang,
chịu
khổ
lập
hạnh.
Người
ta
lấy
thế
làm
buồn,
nhưng
Thiền
vẫn
không
thay
đổi
sự
vui
của
mình.
Vào
năm
Đại
thông
thứ
nhất
(527)
Thiền
mất
ở
chùa
núi,
xuân
thu
70".
Thiền
mất
năm
527
lúc
70
tuổi,
như
vậy
phải
sinh
vào
năm
457.
Như
Huệ
Thắng,
ông
người
Giao
Chỉ,
tức
quê
quán
vùng
Từ
Liêm
thuộc
ngoại
thành
Hà
Nội
hiện
nay,
như
ta
đã
thấ
bàn
cãi.
Ông
xuất
gia
từ
nhỏ,
nổi
tiếng
là
khắc
kỷ
và
đốc
hành
đối
với
hàng
xóm
cũng
như
Tăng
tục.
Đạo
Tuyên
không
nói
rõ
Thiền
xuất
gia
ở
chùa
nào,
nhưng
chắc
chắn
không
phải
là
chùa
núi
Tiên
Châu,
để
sau
này
ông
đã
đến
ở
và
làm
cho
nạn
cọp
hại
người
hết
đi.
Thiền
ở
chùa
đó,
bao
lâu
ta
không
biết,
có
thể
tới
những
năm
479,
lúc
ông
khoảng
25
tuổi.
Khoảng
tới
năm
479
ấy,
bởi
vì
Thiền
phải
qua
Trung
Quốc
vào
thời
điểm
đó,
hay
chậm
lắm
thì
cũng
phải
một
hai
năm
sau
thôi.
Lý
do
chưa
khẳng
định
này,
ta
sẽ
thấy
dưới
đây.
Theo
Đạo
Tuyên,
thì
Thiền
qua
Trung
Quốc,
khi
"nghe
Cánh
Lăng
vương
nhà
Tề
rộng
mở
thiền
luật,
dựng
nhiều
nhà
giảng"
Cánh
Lăng
vương
nhà
Tề
tên
là
Tiêu
Tử
Lương,
người
con
thứ
hai
của
vũ
đế
được
phong
Cánh
Lăng
quận
vương
năm
483,
lúc
Vũ
đế
lên
ngôi.
Tiểu
sử
của
Lương
trong
Nam
Tề
thư
40
tờ
1à-6b4
chỉ
ghi
hai
lần
Vương
tổ
chức
những
đại
hội
Phật
giáo.
Một
xảy
ra
vào
năm
487,
mà
Tiêu
Tử
Hiển
chép
ở
tờ
4b2-3:
"Mời
danh
tăng
đến,
giảng
nói
Phật
pháp,
tạo
nên
kinh
bối
theo
nhạc
điệu
mới.
Sự
thạnh
hành
của
Đạo
và
đời
ở
Giang
Tả
chưa
từng
có".
Và
một
vào
những
năm
488-489,
mà
Nam
Tề
thư
40
tờ
5b1-3
viết:
"Lại
cùng
với
thái
tử
Văn
Huệ
cùng
ưa
đạo
Thích
vì
hai
người
rất
thiết
với
nhau,
Tử
Lương
kính
tin
càng
dốc
lòng
hơn.
Nhiều
lần
tổ
chức
trai
giới
ở
chùa
Kỳ
Viên,
nhóm
hết
triều
thần
chúng
Tăng.
Đến
việc
bưng
đồ
ăn
đưa
nước
uống,
hoặc
tự
mình
làm
việc
đó.
Đời
phần
nhiều
cho
là
thất
phép".
Hai
đại
hội
Phật
giáo
vừa
ghi.
Thiền
chắc
chắn
có
tham
dự,
nhưng
chúng
không
phải
là
những
đại
hội
đầu
tiên,
bởi
vì
năm
483
Thiền
đã
có
mặt
tại
Kim
Lăng,
rồi
đến
ở
tại
chùa
Vân
Cư
Hạ
của
Chung
Sơn.
Vậy
thì,
Thiền
phải
qua
Trung
Quốc
trước
năm
483
hay
tối
thiểu
vào
năm
đó.
Quảng
hoằng
minh
tập
19
tờ
323a27-b8
và
323b9-c4
có
chép
lại
hai
lá
sớ
do
Thẩm
Ước
thảo.
Lá
sớ
đầu
nhan
đề
Nam
Tề
hoàng
thái
tử
giải
giảng
sớ
nói
rằng:
"Hoàng
thái
tử
vào
ngày
15
tháng
4
năm
Kiến
Nguyên
thứ
tư
(482)
nhóm
các
bậc
vọng
Tăng
Đại
Thừa
ở
vườn
Huyền
Phô,
an
cư
trong
ao
baú
cấm
uyển,
đều
đem
cúng
đủ
lầu
quí
đài
đẹp
cho
Phật
và
chúng
Tăng.
Đến
ngày
rằm
tháng
bảy
kính
xin
bỏ
thân
báu
cúng
xe
mão
cân
đai
phàm
99
vật.
Nguyện
đem
sức
đó,
trùm
khăp
cõi
chết
người
sống,
khiến
đế
thất
vững
bền
như
núi
Tung
núi
Hoa,
dân
đen
được
hưởng
cái
phước
nhân
thọ..."
Lá
sớ
này
như
vậy,
Trầm
Ước
thảo
cho
Vũ
đế,
cha
của
Lương,
xác
định
có
một
đại
hội
Phật
giáo
khác
do
Vũ
đế
tổ
chức
vào
năm
482.
Đạo
Thiền
chắc
phải
tham
dự
đại
hội
an
cư
kết
hạ
này.
Nhưng
Đaọ
Tuyên
nói
Thiền
qua
Trung
Quốc
vì
nghe
Cánh
lăng
vương
tổ
chức
trường
giảng.
Lá
sớ
thứ
hai
nhan
đề
"Tề
Cánh
Lăng
vương
phát
giảng
sớ
viết:
"(...)
Cánh
lăng
vương
điện
hạ
(...)
bèn
vào
ngày
mồng
8
tháng
hai
năm
Vĩnh
Minh
thứ
nhất
(483)
đặt
chiếu
giảng
ở
kinh
đô,
nhóm
danh
Tăng
tại
cung
khuyết.
Họ
đều
là
những
bậc
sâu
rõ
chân
tục,
đo
suốt
danh
tướng,
chia
chẻ
nhỏ
không
bị
vướng
mắc,
gặp
mối
ngờ
thì
liền
hiểu,
cùng
nhóm
ở
tinh
lô
Pháp
Vân
trong
kinh
kỳ,
nói
tiếng
huyền
cho
sáu
loài,
mở
cửa
pháp
cho
vạn
đại".
Như
thế,
Đạo
Thiền
đã
về
Kim
Lăng
vào
dịp
tổ
chức
đại
hội
năm
483
này
của
Tiêu
Tử
Lương.
Những
gì
Trầm
Ước
viết
về
những
người
tham
dự
đây
hoàn
toàn
nhất
trí
với
những
mô
tả
của
Đạo
Tuyên
về
họ
trong
truyện
cuả
Thiền
ở
trên.
Vậy,
vào
năm
483,
lúc
mới
28
tuổi,
Thiền
đã
nổi
tiếng
là
một
danh
Tăng
"sâu
rõ
chân
tục,
đo
suốt
danh
tướng".
Ngày
nay,
Xuất
tam
tạng
ký
tập
12
tờ
85b12-86b17
có
chép
một
bản
mục
lục
nhan
đề
Tề
thái
tổ
Cánh
lăng
Văn
tuyên
vương
pháp
tập
lục.
Trong
lời
tựa,
Tăng
Hựu
có
nói
ông
chép
lại
những
sách
vở
còn
sót
lại
sau
cái
"đại
hội
tốt
đẹp"
(gia
hội)
do
Cánh
Lăng
vương
tổ
chức.
Phải
chăng
những
sách
vở
liệt
ra
trong
nó
là
thành
quả
của
đại
hội
năm
483?
Tiếc
rằng
Hựu
không
nói
rõ
niên
đại
của
cái
đại
hội
ông
tham
dự,
nên
ta
không
thể
nào
trả
lời
câu
hỏi
vừa
nêu.
Tuy
nhiên
ta
có
thể
giả
thiết
một
phần
chúng
là
thành
quả
của
đại
hội
đó,
bởi
vì
đại
hội
năm
487
chỉ
chủ
yếu
tạo
nên
một
nền
lễ
nhạc
Phật
giáo
mới.
Tề
Thái
Tổ
Cánh
lăng
Văn
tuyên
vương
pháp
tập
lục
do
thế
là
một
tập
hợp
thành
quả
những
đại
hội
do
Tiêu
Tử
Lương
tổ
chức,
trong
đó
những
bản
văn
liên
hệ
tới
giới
luật
Thiền
chắc
tham
dự
soạn
thảo,
như
Chú
Ưu-bà-tắc
giới
3
quyển,
Giới
quả
trang
nghiêm
1
quyển,
Thọ
giới
tinh
hoằng
giới
thức
1
quyển...
Đạo
Thiền
đến
Trung
Quốc
do
thế
không
thể
nào
sau
năm
483.
Đến
năm
này,
nước
ta
vẫn
là
một
nước
độc
lập
dưới
chính
quyền
độc
lập
của
Lý
Thúc
Hiến.
Thiền
đến
Trung
Quốc
do
thế
không
phải
do
bọn
xâm
lược
bắt
ép
đi,
như
trường
hợp
cuả
Huệ
Thắng.
Ngược
lại,
Thiền
có
lẽ
đã
do
chính
chính
quyền
Lý
Thúc
Hiến
gởi
sang,
nhằm
thực
hiện
những
sách
lược
ngoại
giao
của
mình.
Kể
từ
khi
Tiêu
Đạo
Thành
dựng
nên
nhà
Nam
Tề,
đã
nhiều
lần
vua
Tề
đòi
đi
đánh
Giao
Chỉ,
để
thu
đất
đai
về
cho
Trung
Quốc.
Nhưng
Lưu
Thiện
Minh,
một
khai
quốc
công
thần
của
nhà
Tề,
đã
viết
một
bản
điều
trần
gồm
11
điều,
trong
đó
điều
11
khuyên
là
không
nên
đánh
nước
ta.
Nam
Tề
thư
26
tờ
5b9-12
chép
thế
này:
"Điều
thứ
11
cho
rằng
vì
Giao
Châu
hiểm
quạnh
ở
ngoài
chỗ
yếu
hoang,
đến
thời
Tống
mạt,
chính
hình
hà
khắc,
bèn
đi
tới
chỗ
oán
phản.
Nay
đại
hóa
mới
bắt
đầu,
nên
làm
cho
nó
nhớ
bằng
ơn
đức,
chưa
nên
xa
nhọc
tướng
sỹ,
dao
động
biên
dân.
Hơn
nữa,
đất
kia
chỉ
sản
xuất
những
thứ
châu
báu
thật
chẳng
phải
những
thứ
thánh
triều
cần
gấp.
Việc
đánh
dẹp
đáng
nên
thư
thả
đình
lại"
Cho
nên,
mới
lên
ngôi
vào
tháng
4,
tháng
6
Tiêu
Đạo
Thành
đã
ra
chiếu
nhận
Lý
Thúc
Hiến
làm
thứ
sử
Giao
Châu.
Khi
Tiêu
Đạo
Thành
chết
năm
482,
Tiêu
Di
nối
nghiệp
dưới
tên
Vũ
đế,
chắc
lại
dở
trò
bàn
bạc
việc
tiến
quân
đánh
nước
ta.
Việc
Đạo
Thiền
qua
Trung
Quốc
vào
năm
483
do
thế
hẳn
nhằm
vận
động
chận
lại
những
mưu
đồ
loại
đó.
Quả
vậy,
trong
bản
tiểu
sử
của
Tiêu
Tử
Lương
ở
Nam
Tề
thư
40
tờ
3a13-b4
có
một
lời
tâu
của
Lương
viết
vào
năm
486
bàn
về
việc
không
nên
đánh
Giao
Châu
"Giao
Châu
quạnh
hiu
một
dải,
thật
chỉ
là
hoang
phục.
Nó
ỷ
thế
xa
nên
đến
làm
khách
chậm,
ấy
cố
nhiên
là
sự
thường.
Từ
khi
đức
trong
mở
vận,
nó
đã
nạp
khoảng
về
khuyết
xin
nhận
chức,
nên
đặt
nó
ngoài
việc
lường
đo,
không
cần
phải
nói
nữa.
Nay
đem
lính
huyện
mà
đi
đánh
xa,
đường
qua
muôn
dặm,
việc
đông
ít
khác
nhau,
thế
chủ
khách
không
giống,
đem
nghỉ
ngơi
đợi
nhọc
mệt,
thì
sự
toàn
thắng
khó
mà
tất
yếu.
Lại
men
theo
đường
mà
tuyển
quân
cho
đủ
sức
quân,
thì
dân
đinh
ô
hợp,
việc
trái
với
sự
luyện
tập
và
tinh
nhuệ.
Quảng
Châu
chứa
tuổi
không
có
năm.
Việt
châu
binh
lương
sạch
thiếu.
Thêm
vào
đó,
nếu
đứng
ra
mượn
thì
chỉ
dẫn
đến
chỗ
phiền
nhiễu
dân.
Ngu
tôi
nói
rằng
việc
xin
của
(Lý)
Thúc
Hiến
không
nên
nghe
theo.
Bắt
loạn
thì
hết
khinh
nhờn,
nên
đợi
cơ
hội
sau.
Tuy
hoãn
năm
tháng,
lẽ
bắt
sống
nó
là
tất
yếu.
Bớt
dứt
phát
động
việc
nhọc
nhằn
của
tốn
hao
lực
dịcy.
Lưu
Giai
chuẩn
bị
giáp
binh
để
giúp
(đánh
dẹp)
miền
Tương
Châu.
Uy
lực
khi
đã
đưa
ra,
bọn
giặc
kiến
tất
tự
phục".
Lời
tâu
vừa
dẫn
của
Cánh
Lăng
vương
Tiêu
Tử
Lương,
như
đã
nói,
là
viết
vào
năm
486,
tức
bốn
năm
sau
khi
Nam
Tề
thư
56
tờ
7a10-13
nói
Nhà
Tề
đã
cử
Lưu
Giai
"làm
thứ
sử
Giao
Châu,
đem
lính
quận
Nam
Khương,
Lô
Lăng
và
Thỉ
Hưng
để
đánh
ở
Giao
Châu.
Thúc
Hiến
nghe,
sai
sứ
nguyện
xin
thay
đổi,
vài
năm,
dâng
12
đội
đâu
mâu
bằng
bạc
ròng
và
lông
chim
công.
Thế
Tổ
không
chịu,
Thúc
Hiến
sợ
Giai
đánh
úp,
đi
đường
tắt
từ
Tương
Châu
về
chầu".
Rõ
ràng,
đến
năm
486,
vấn
đề
Giao
Châu
vẫn
chưa
giải
quyết
xong.
Cho
nên,
tuy
trên
danh
nghĩa,
nhà
Tề
đã
cử
Lưu
Giai
làm
thứ
sử
vào
năm
483,
nhưng
trên
thực
tế,
chính
quyền
độc
lập
Lý
Thúc
Hiến
vẫn
tiếp
tục
dằng
co
với
bọn
xâm
lược
bằng
con
đường
ngoại
giao,
trong
đó
những
người
như
Đạo
Thiên
giữ
một
vai
trò
tối
quan
trọng.
Dẫu
Đạo
Tuyên
nói,
Thiền
"nghe
Cánh
lăng
vương
nhà
Tề
rộng
mở
thiền
luật
dựng
nhiều
chỗ
giảng",
ta
thấy
nhiệm
vụ
của
Thiền
không
chỉ
đơn
thuần
làm
những
việc
như
"truyền
dạy
sách
hay",
hay
"tham
khaỏ
kinh
mầu,
tìm
vâng
lời
thật".
Sự
kiện
Tiêu
Tử
Lương
còn
viết
lời
tâu
trên
vào
năm
486
chứng
tỏ
giữa
Thiền
và
Lương
đã
có
những
liên
hệ
chính
trị
nào
đó,
mà
ngày
nay
ta
không
thể
tả
được.
Cần
chú
ý
là,
Lương
dùng
một
phần
nào
lý
do
mà
Lưu
Thiện
trước
ông
đã
dùng
để
thuyết
phục
Tiêu
Đạo
Thành.
Vì
thế,
tuy
nói
năm
483
giao
Lưu
Giai
cất
quân
đánh
Giao
Châu,
nhà
Tề
vẫn
chần
chừ
không
dám
ra
quân
hẳn,
tối
thiểu
cho
tới
năm
486.
Có
một
vấn
đề
nêu
ra
là,
khi
hai
bên
đang
dằng
co,
thì
chắc
Giai
và
nhà
Tề
cũng
đưa
ra
một
số
yêu
sách,
trong
đó
có
cả
việc
bắt
ép
Huệ
Thắng
về
Nam
Khương
cho
Lưu
Hội,
mà
chúng
tôi
đã
đặt
vào
khoảng
năm
485.
Khác
với
Thắng,
người
bị
bắt
ép,
Đạo
Thiền
đã
tham
dự
tích
cực
vào
đời
sống
văn
hóa
và
tín
ngưỡng
của
Trung
Quốc,
đặc
biệt
của
giới
thống
trị,
nhằm
thực
hiện
đồng
thời
những
nhiệm
vụ
chính
trị
có
thể
của
mình.
Do
vậy,
sau
đại
hội
Phật
giáo
năm
483
và
dời
đến
ở
tại
chùa
Vân
Cư
Hạ,
Thiền
tiếp
tục
dự
vào
các
đại
hội
Phật
giáo
tiếp
theo
của
những
năm
486,
48,
489
v.v...
Thiền
đã
điều
khiển
đời
sống
chúng
tăng
ở
tại
chùa
mình
bằng
luật
Thập
tụng,
nổi
tiếng
đến
nỗi
Đạo
Tuyên
đã
xếp
ông
vào
hàng
những
"luật
sư".
Thiền
đã
dạy
dỗ,
học
trò
không
bao
giờ
dưới
một
trăm.
Những
kẻ
qui
y,
tôn
thiền
làm
thầy
không
dưới
một
ngàn.
Nhưng
Thiền
vẫn
tiếp
tục
nếp
sống
"hoang
thực
tệ
y"
và
ai
có
cho
gì
ngon
đẹp
thì
liền
đem
cấp
phát
cho
những
người
nghèo
đau.
Thiền
đã
thể
hiện
một
tính
nhân
đạo
sâu
xa.
Cuối
cùng,
Thiền
ra
ở
ngôi
chùa
làm
giữa
rừng,
để
tránh
giao
thiệp
với
đời
cao
sang.
Điểm
này
chứng
thực
cho
giả
thiết
của
ta
về
nhiệm
vụ
chính
trị
của
Thiền.
Trong
khi
sống
cuộc
đời
nghèo
hèn
đầy
tính
nhân
đạo
vừa
nói,
Thiền
đã
"thích
diệt
giác
và
quán".
Thế
thì,
giác
và
quán
là
gì?.
Đại
trí
độ
luận
17
tờ
186a14-21
viết:"Thô
tâm
sự
niệm
thì
gọi
là
giác,
tế
tâm
phân
biệt
thì
gọi
là
quán.
Ví
như
đánh
chuông,
tiếng
đầu
to
thì
gọi
là
giác,
tiếng
sau
nhỏ
nhẹ
dần
thì
gọi
là
quán.
Hỏi:
A-tỳ-đàm
nói
từ
dục
giới
đến
sơ
thiền,
giác
và
quán
tương
ưng
trong
một
dục
giới
đến
sơ
thiền,
giác
và
quán
tương
ưng
trong
một
tâm,
nay
sao
nói
thô
tâm
sơ
niệm
thì
gọi
là
giác,
tế
tâm
phân
biệt
thì
gọi
là
quán?
Đáp:
hai
pháp
tuy
ở
một
tâm,
nhưng
hai
tướng
nó
không
cùng
nhau,
khi
giác
thì
quán
không
rõ
ràng,
khi
quán
thì
giác
không
rõ
ràng,
ví
như
mặt
trời
mọc
thì
các
vì
sao
không
hiện
ra
nữa".
Giác
và
quán
như
vậy,
là
những
từ
cựu
dịch
của
vitarka
va
vicàra
tiếng
phạn,
mà
sau
này
những
người
tân
dịch
như
Huyền
Tráng
đã
phiên
dịch
là
tầm
và
tứ.
Chúng
là
tâm
sở
rất
quan
trọng
đối
với
những
người
tu
thiền
kiểu
Khương
Tăng
Hội,
bởi
vì,
như
Đại
tri
độ
luận
17
tờ
186a26-28,
viết
"kẻ
thực
hành
thiền
biết
giác
và
quán
tuy
là
thiện
pháp,
nhưng
chúng
nhiễu
loạn
định
tâm,
tâm
muốn
rời
chúng
nên
mắng
chúng
là
giác
và
quán,
dấy
lên
cái
ý
niệm:
giác
và
quán
nhiễu
loạn
thiền
tâm".
Thực
hành
thiền
do
thế,
phải
khu
trừ
giác
và
quán.
Ấy
thì,
thiền
đây
là
loại
thiền
gì?
Đại
trí
độ
luận
17
tờ
168a4-6
nói:
"Nếu
có
Tỳ-kheo
rời
các
dục
và
các
pháp
ác
bất
thiện,
có
giác
có
quán,
rời
sống
hỷ
và
lạc,
thì
vào
được
thiền
thứ
nhất".
Nó
viết
tiếp
ở
tờ
168b1-3:
"Nhờ
những
nhân
duyên
thứ
nhất".
Nó
viết
tiếp
ở
tờ
168b1-3:
"Nhờ
những
nhân
duyên
như
vậy,
mắng
trách
giác
quán,
khi
giác
và
quán
diệt
thì
bên
trong
thanh
tịnh,
cột
tâm
khi
giác
và
quán
diệt
thì
bên
trong
thanh
tịnh,
cột
tâm
vào
một
chỗ,
không
còn
giác,
không
còn
quán,
định
sống
hỷ
và
lạc,
thì
vào
được
thiền
thứ
hai".
Vì
giác
và
quán
hay
nhiễu
loạn
định
tâm,
nên
người
ta
phải
diệt
trừ.
Khi
diệt
trừ
chúng,
người
ta
chứng
được
nấc
thiền
thứ
hai
của
thứ
thiền
bốn
nấc.
Đạo
Tuyên
nói
Đạo
Thiền:
"thích
diệt
giác
và
quán"
.
Như
thế,
rõ
ràng,
thiền
cuả
Đạo
Thiền
và
thứ
thiền
do
Khương
Tăng
Hội
truyền
thụ
và
quảng
bá.
Đạo
Thiền
muốn
diệt
giác
và
quán,
để
chúng
không
còn
nhiễu
loạn
định
tâm
nữa
theo
quan
niệm
thiền
của
bốn
nấc
ấy.
Trường
phái
thiền
do
Hội
thành
lập
trước
đó
hơn
hai
trăm
năm
như
vậy
vẫn
tiếp
tục
được
kế
thừa.
Nhưng
đến
Thiền,
thì
Thiền
là
người
kế
thừa
cuối
cùng,
mà
ta
biết
một
cách
đích
xác.
Có
thể
Quán
Duyên
là
một
vị
thiền
sư
cuối
cùng
khác
của
thiền
phái
này.
Song
ta
hiện
không
có
một
điểm
gì
cho
thấy
quan
điểm
và
phương
pháp
thiền
của
Quán
Duyên.
Chỉ
biết
rằng,
khi
Tì-ni-đa-lưu-chi
đến
nước
ta
vào
năm
560
thì
người
học
trò
của
Quán
Duyên
là
Pháp
Hiền
đã
bỏ
Duyên
mà
đến
làm
đệ
tử
cuả
Chi,
để
kế
thừa
và
quảng
ba
thứ
thiền
mới
này,
đại
biểu
cho
một
thứ
Phật
giáo
mới,
một
giai
đoạn
Phật
giáo
mới.
Một
khi
đã
xác
định
tư
tưởng
và
phương
pháp
thiền
của
Thiền
như
vậy,
việc
coi
Thiền
là
người
kế
thừa
của
thiền
phái
Khương
Tăng
Hội
là
một
điều
tất
nhiên.
Đạo
Tuyên
đã
tỏ
ra
không
chính
đáng
khi
xếp
Thiền
vào
hạng
những
người
"rõ
luật"
.
"Rõ
luật"
(minh
luật)
thì
Thiền
đã
thực
sự
nổi
tiếng
về
việc
đó.
Ông
có
lẽ
là
một
trong
những
người
Phật
giáo
Viễn
đông
đầu
tiên
áp
dụng
đời
sống
luật
lý
tưởng
của
Phật
giáo
vào
đời
sống
thực
sự
cuả
tập
thể
các
nhà
tu
hành
và
đã
áp
dụng
một
cách
thành
công.
Tuy
nhiên,
đời
sống
giới
luật
không
phải
là
đời
sống
mà
Thiền
đã
sống.
Trái
lại,
chính
thiền
với
phương
pháp
bốn
nấc
của
nó
đã
được
ông
thực
hành.
Do
vậy,
ta
phải
coi
Thiền
như
một
thiền
sư,
và
hơn
nữa,
một
người
kế
tục
dòng
thiền
cuả
Khương
Tăng
Hội.
Cuối
cùng,
Đạo
Thiền
đã
mất
vào
năm
527,
hưởng
thọ
70
tuổi.
Đạo
Tuyên
nói
ông
mất
ở
"chùa
núi"
(sơn
tự).
Phải
chăng
"chùa
núi"
đây
là
chùa
núi
Tiên
Châu,
mà
ông
từng
ở
bốn
mươi
năm
trước
đó?
Phải
chăng
nó
chỉ
chùa
Vân
Cư
Hạ
tại
Chung
Sơn?
Cứ
vào
mạch
văn
chùa
Vân
Cư
Hạ
của
Chung
Sơn,
bởi
vì
không
những
Thiền
đã
có
đệ
tử
và
học
trò
tại
ngôi
chùa
ấy,
mà
sau
này
hình
như
sự
"hoang
thực
tệ
y"
của
ông
cũng
xảy
ra
đây.
Tuy
nhiên,
cũng
có
thể
chùa
núi
là
chỉ
chùa
núi
Tiên
Châu.
Vào
thời
Thiền,
việc
trở
về
quê
hương
của
mình
chưa
tỏ
ra
khó
khăn
gì,
như
ta
có
thể
biết.
Những
chính
quyền
tự
trị
hay
nửa
tự
trị
vẫn
tiếp
tục
nhau
cai
trị
nhân
dân,
cho
tới
khi
Lý
Bôn
xưng
đế,
không
đưa
ra
một
ngăn
cản
nào.
Dù
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
Thiền
đã
chết.
Cái
chết
của
Thiền
đã
kéo
theo
cái
chết,
nếu
ta
có
thể
tạm
gọi
như
vậy,
của
một
thời
đại
Phật
giáo,
thời
đại
của
Phật
giáo
quyền
năng
và
của
pháp
thiền
bốn
nấc,
lặng
lẽ
mở
màn
cho
một
thời
đại
Phật
giáo
mới.
Cùng
với
Huệ
Thắng,
Đạo
Thiền
đã
đại
biểu
về
phương
diện
Phật
giáo
cho
những
gì
đang
đi
xuống,
cho
những
gì
hết
khả
năng
đáp
ứng
yêu
cầu
của
thời
đại.
Chúng
tôi
đã
coi
Huệ
Thắng
và
Đạo
Thiền
là
những
ngọn
đèn
cuối
cùng
của
một
thời
đại
Phật
giáo,
như
cái
đầu
đề
đã
phản
ảnh
một
phần
nào.
Họ
là
những
ngọn
đèn
cuối
cùng,
vì
họ
đã
sinh
ra
và
lớn
lên
trong
tình
trạng
khủng
hoảng
của
nền
Phật
giáo
thời
họ.
Họ
đã
cố
gắng,
cùng
với
Đàm
Hoằng,
thực
hiện
những
vớt
vát
cuối
cùng
cuả
những
gì
nền
Phật
giáo
đó
có
khả
năng
đáp
ứng.
Nhưng
những
vớt
vát
ấy
cũng
không
cứu
nổi
một
cái
gì
đang
trên
đà
đi
xuống
tất
yếu
của
nó.
Giống
như
Đàm
Hoằng,
họ
đã
có
những
đời
sống
rất
đẹp,
đầy
tính
nhân
đạo.
Họ
biểu
lộ
một
lòng
yêu
nước
sâu
xa,
thể
hiện
được
trọn
vẹn
tâm
thức
và
thái
độ
của
trí
thức
Phật
giáo
cũng
như
trí
thức
Việt
Nam
trước
những
vấn
đề
chung
của
đất
nước.
Mỗi
một
người
đã
chứng
tỏ
cách
thế
đóng
góp
của
mình
vào
sự
nghiệp
đấu
tranh
giải
phóng
của
dân
tộc.
Họ
đã
có
lập
trường
rõ
rệt
đối
với
kẻ
thù.
Họ
yêu
tổ
quốc,
nhưng
đồng
thời
lòng
yêu
của
họ
cũng
mang
tính
nhân
đạo
sâu
đậm.
Họ
đã
bất
khuất
trước
kẻ
thù,
nhưng
họ
cũng
biết
cách
hợp
tác
giai
đoạn
với
chúng.
Với
tất
cả
nét
đẹp
ấy,
họ
cũng
chỉ
là
những
ngọn
đèn
cuối
cùng,
bởi
vì
học
phong
họ
vẫn
chưa
vượt
ra
khỏi
những
thiết
định
do
Mâu
Tử
và
Khương
Tăng
Hội
thiết
định
mấy
trăm
năm
về
trước
cho
một
giai
đoạn
lịch
sử
nhất
định.
Họ
chưa
đáp
ứng
nổi
những
yêu
cầu
của
một
thời
đại
đang
lên
của
Phật
giáo
cũng
như
của
dân
tộc
mà
đỉnh
cao
là
cuộc
xưng
đế
của
Lý
Bôn.
Họ
vẫn
còn
ôm
ấp
ước
mơ
về
những
quyền
năng
siêu
nhiên,
về
những
khả
năng
biến
hóa
thoát
khỏi
không
gian
và
thời
gian,
không
liên
hệ
với
nhân
dân
và
đất
nước.
Trong
khi
đó,
các
chính
quyền
tự
trị
và
nửa
tự
trị
tiếp
tục
nhau
ra
đời,
tập
dượt
dần
dần
cái
quyền
năng
siêu
nhiên,
cái
khả
năng
biến
hóa
xưa
nay
để
ước
mơ
đang
trở
thành
hiện
thực,
đang
trở
thành
những
sức
mạnh
cho
mình:
Họ
vẫn
còn
tiếp
tục
nếp
sống
thiền
của
Khương
Tăng
Hội,
mà
chưa
thấy
thời
đại
đang
đòi
hỏi
những
gì
mới
hơn.
Huệ
Thắng
và
Đạo
Thiền
do
vậy
vẫn
chỉ
là
những
ngọn
đèn
cuối
cùng.
Về
Nền
nghệ
thuật
tiên
sơn
[^]
Qua
những
trình
bày
trên,
Tiên
Sơn
tỏ
ra
là
một
trung
tâm
giáo
dục
Phật
giáo
lớn,
là
nơi
tập
trung
phần
lớn
nhân
tài
Việt
Nam
thế
kỷ
thứ
năm.
Ta
biết
chắc
chắn
những
người
như
Đàm
Hoằng,
Huệ
Thắng
và
Đạo
Thiền
đã
xuất
thân
từ
đó.
Những
người
khác
như
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh
có
thể
sống
ở
đó.
Huệ
Lâm
và
Trí
Bân,
khi
bị
đuổi
khỏi
Trung
Quốc
hẳn
cũng
đến
viếng,
nếu
không
là
ở
lại
ngay
tại
trung
tâm
ấy.
Đó
là
ngôi
chùa
Tiên
Sơn
hay
Tiên
Châu
sơn.
Chúng
ta
đã
thành
công
đồng
nhất
Tiên
Sơn
với
Tiên
Châu
sơn,
và
đã
đặt
nó
ở
nơi
ngọn
núi
Lạn
Kha
hiện
nay
tại
làng
Phật
tích
huyện
Tiên
Sơn
tỉnh
Hà
Bắc.
Chính
tại
ngọn
núi
ấy,
trên
di
chỉ
chùa
Vạn
Phúc
dựng
từ
thời
Lý
Thánh
Tôn
năm
1057,
mà
vào
những
năm
ba
mươi
của
thế
kỷ
này,
một
số
di
liệu
khảo
cổ
học
đã
quật
được,
trong
đó
có
một
số
bệ
đá
với
những
khắc
hình
đáng
chú
ý.
Cho
đến
ngày
nay,
niên
đại
cuả
những
bệ
đá
ấy
đều
nhất
trí
đặt
vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
X-XI
của
thời
Lý_1.
Lý
do
để
thiết
định
niên
đại
vừa
nêu
xuất
phát
từ
sự
tra
cứu
lai
lịch
ngôi
chùa
Vạn
Phúc,
mà
Bezacier
cho
là
không
lên
tới
quá
năm
865,
khi
Cao
Biền
dựng
chùa
Kim
Ngưu
của
ông,
vì
"không
một
tư
liệu
cho
phép
ta
giả
thiết
một
cách
nào
khác
hơn_2".
Ngày
nay,
với
sự
phát
hiện
ra
ngôi
chùa
Tiên
Sơn
hay
Tiên
Châu
sơn,
chúng
ta
bây
giờ
có
thể
đẩy
lai
lịch
ngôi
chùa
Vạn
Phúc
cũ
về
với
những
thế
kỷ
thứ
V,
nếu
không
là
sớm
hơn.
Vậy
thì,
những
bệ
đá
tìm
được
tại
chùa
Vạn
Phúc
có
thể
là
những
gì
còn
lại
cuả
ngôi
chùa
Tiên
Sơn,
và
phải
thuộc
thế
kỷ
thứ
V.
Coi
những
bệ
đá
ấy
là
của
chùa
Tiên
Sơn,
và
đặt
nó
vào
thế
kỷ
thứ
V
sẽ
soi
sáng
cho
ta
nhiều
vấn
đề
hiện
đang
phủ
kín.
Theo
mô
tả
của
chính
Bezacier,
mỗi
mặt
của
bệ
đá
có
khắc
ở
trung
tâm
một
hình
lá
bồ
đề
có
hình
hoa
sen
ở
giữa,
hai
bên
là
hình
10
nhạc
công
sử
dụng
những
nhạc
cụ,
mỗi
bên
5
người,
đang
sử
dụng
những
nhạc
khí.
Với
những
mô
tả
ấy,
Bezacier
đã
nhận
xét
là,
về
phương
diện
thế
tài
và
dáng
điệu
những
khắc
hình
trên
bệ
đá
có
những
nét
rất
giống
với
nền
nghệ
thuật
Vân
Cương
và
một
phần
nào
Long
Môn
của
Trung
Quốc.
Nền
nghệ
thuật
Vân
Cương
và
Long
Môn
đều
ra
đời
vào
thế
kỷ
thứ
năm_1.
Vì
trước
đây,
Bezacier
không
thể
truy
nguyên
chùa
Vạn
Phúc
về
một
ngôi
chùa
nào
sớm
hơn
ngôi
chùa
Kim
Ngưu
của
Cao
Biền,
nên
ông
đã
đề
xuất
ý
kiến
cho
rằng
nền
nghệ
thuật
những
bệ
đá
tìm
thấy
tại
di
chỉ
chùa
Vạn
Phúc
không
gì
hơn
là
trải
dài
của
nền
nghệ
thuật
Long
Môn
và
nhất
là
Vân
Cương.
Nhưng
bây
giờ
ta
đã
tìm
thấy
Tiên
Sơn
hay
Tiên
Châu
sơn
xuất
hiện
vào
thế
kỷ
thứ
V
rồi,
thì
không
có
lý
do
gì
mà
phải
giữ
quan
điểm
ấy.
Nền
nghệ
thuật
những
bệ
đá
ra
đời
cùng
một
lần,
nếu
không
là
sớm
hơn,
so
với
nền
nghệ
thuật
Vân
Cương
cũng
như
Long
Môn
tiền
kỳ.
Không
những
thế,
chính
sự
ra
đời
cùng
một
thế
kỷ
này
giúp
ta
thấy
tại
sao
chúng
có
những
nét
giống
nhau
về
thể
tài
và
dáng
điệu.
Và
đây
là
bằng
cớ
khác
cho
ta
khẳng
định
những
bệ
đá
tìm
thấy
tại
Vạn
Phúc
phải
thuộc
về
chùa
Tiên
Sơn
và
tạo
nên
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
của
thế
kỷ
thứ
V.
Ta
biết
vào
cuối
thế
kỷ
thứ
IV
đầu
thế
kỷ
thứ
V,
nền
nghệ
thuật
Phật
giáo
Trung
Quốc
chịu
ảnh
hưởng
của
nền
nghệ
thuật
Phật
giáo
Ấn
Độ,
bởi
vì
chính
những
nhà
sư
Ấn
Dộ
đã
chỉ
vẽ
cho
những
nghệ
sĩ
Trung
Quốc
cách
thức
làm
sao
để
tượng
trưng
Phật.
Chuyện
Huệ
Viễn
nhờ
gặp
"một
thiền
sư
Kế
Tân
và
một
đạo
sỹ
luật
học
nước
Nam"
chỉ
cho
cách
vẽ
Phật,
mà
Phật
ảnh
minh
của
Viễn
ghi
lại
trong
Quảng
hoằng
minh
tập
15
tờ
198a10-13,
là
một
thí
dụ.
Nền
nghệ
thuật
nước
ta
vào
thưở
ấy
chắc
cũng
ó
một
tình
hình
tương
tự,
tức
những
nhà
truyền
giáo
Ấn
Độ
tức
các
nước
chịu
ảnh
hưởng
Ấn
Độ
đến
vẽ
cho
nhân
dân
ta
cách
thức
tượng
trưng
Phật
theo
quan
điểm
của
nền
nghệ
thuật
Phật
giáo
Ấn
Độ.
Mà
nền
nghệ
thuật
Văn
Cương
là
nền
nghệ
thuật
Phật
giáo
xưa
nhất
Trung
Quốc
hiện
còn,
và
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
là
nền
nghệ
thuật
Phật
giáo
Việt
Nam
xưa
nhất
đang
có,
thì
sự
giống
nhau
về
một
số
nét
ở
thể
tài
và
dáng
điệu
là
một
lẽ
tự
nhiên.
Tuy
cảm
hứng
có
khác
nhau,
chúng
đều
xuất
phát
từ
một
nguồn
kiến
thức
cơ
bản
về
ảnh
tượng
và
biểu
trưng.
Cho
nên,
việc
tượng
trưng
Phật
bằng
hình
lá
bồ
đề
giữa
lòng
có
hoa
sen
cuả
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
cũng
như
của
Vân
Cương
và
Long
Môn
tiền
kỳ
đã
có
những
liên
hệ
mật
thiết
với
cách
thức
tượng
trưng
Phật
của
nền
nghệ
thuật
Sanchi_1.
Rồi
đến
những
nhạc
thần
Bezacier
nhận
xét
chúng
có
những
nét
giống
với
những
khắc
hình
tìm
thấy
tại
chùa
Cói
ở
tỉnh
Vĩnh
Yên,
mà
khắc
hình
tại
chùa
Cói
với
những
Garuda
lại
có
những
liên
hệ
với
nền
nghệ
thuật
Chàm.
Vào
thế
kỷ
thứ
năm
và
sáu,
tại
miền
nam
Trung
Quốc
xuất
hiện
nền
nghệ
thuật
Hương
Tượng
sơn.
Những
tượng
Phật
của
nền
nghệ
thuật
này
có
những
nét
tương
tự
và
tượng
Phật
tìm
thấy
tại
Đông
Dương
ở
nước
ta
của
nền
nghệ
thuật
Chàm.
Cả
hai
nền
nghệ
thuật
đây
đã
phản
ảnh
về
thế
tài
và
dáng
điêu
nền
nghệ
thuật
tượng
Phật
Amaravatì
và
Anuruddhapura
của
Ấn
Độ_1.
Như
thế,
những
nhạc
thần
cuả
bệ
đá
có
những
nét
giống
với
những
khắc
hình
tại
chùa
Cói
chịu
ảnh
hưởng
Chàm,
thì
đó
cũng
là
lẽ
tự
nhiên,
căn
cứ
vào
tình
trạng
giao
lưu
văn
hóa
và
nghệ
thuật
xảy
ra
khá
thường
xuyên
vào
thời
ấy.
Nói
tắt,
những
bệ
đá
tìm
thấy
trên
di
chỉ
chùa
Vạn
Phúc,
cứ
vào
những
lý
do
vừa
trình
bày,
phải
trả
lại
cho
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn,
mà
từ
trước
tới
nay
đã
bị
quên
lãng.
Ngay
cả
lúc
mà
ta
chưa
thể
áp
dụng
phương
pháp
niên
định
bằng
đồng
vị
phóng
xạ
đối
với
chúng,
và
chỉ
cần
dựa
vaò
lai
lịch
chùa
Vạn
Phúc
và
thể
tài
cùng
dáng
điệu
cuả
những
khắc
hình
trên
bệ
đá,
ta
cũng
có
thể
tạm
thời
đề
lên
ý
kiến
vừa
nêu.
Kết
luận
này
sẽ
đưa
ta
đến
một
số
hệ
luận
rất
quan
trọng
đối
với
lịch
sử
âm
nhạc
Việt
Nam
và
Phật
Giáo
Việt
Nam
mà
chúng
tôi
đã
bàn
từ
trước.
Ở
đây,
chúng
tôi
chỉ
cần
thêm
là,
với
tình
trạng
trí
thức,
tín
ngưỡng
cùng
học
thuật
vừa
mô
tả,
nhân
dân
ta
vào
thế
kỷ
thứ
năm
đã
thừa
sức
tạo
dựng
nên
một
nền
nghệ
thuật
như
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
với
những
bệ
đá
tìm
thấy.
Để
đóng
góp
tư
liệu
thành
văn
cho
những
điều
tra
khảo
cổ
học
trong
tương
lai
về
núi
Lạn
Kha,
chúng
tôi
thử
tìm
xem
sau
chùa
Tiên
Sơn
hay
Tiên
Châu
sơn
núi
Lạn
Kha
còn
có
chùa
nào
khác
nữa
không?
Truyện
Pháp
Hiền
trong
Thiền
uyển
tập
anh
nói
Hiền
(?-626)
lập
chùa.
Chúng
thiện
trên
núi
Thiên
Phúc
ở
Tiên
Du.
Núi
Thiên
Phúc
này
cũng
là
núi
Tiên
Du,
bởi
vì
truyện
Cứu
Chỉ
nói
Chỉ
đến
ở
chùa
Quang
Minh
Tiên
Du,
trong
khi
truyện
Đạo
Huệ
nói
Huệ
ở
chùa
Quang
Minh
nuí
Thiên
Phúc.
Mà
núi
Tiên
Du,
do
những
đồng
nhất
ở
trước,
lại
là
núi
Lạn
Kha.
Do
vậy,
sau
chùa
Tiên
Sơn,
còn
có
chùa
Chúng
Thiện
của
Pháp
Hiền.
Ngoài
Hiền,
trong
tình
trạng
tư
liệu
hiện
đại,
ta
có
chùa
Kim
Ngưu
cuả
Cao
Biền.
Rồi
đến
những
chùa
dựng
xung
quanh
núi
ấy
vào
thời
nhà
Lý.
Nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
đã
chứng
tỏ
nền
nghệ
thuật
Việt
Nam
bước
những
bước
dài
từ
nền
nghệ
thuật
Đông
Sơn
Lịch
trường.
Với
nét
khắc
điêu
luyện,
với
những
bộ
mặt
người
vui
tươi
khoẻ
mạnh,
với
những
trang
trí
hình
lá
bồ
đề
với
hoa
sen,
nó
đã
thể
hiện
một
sức
sống,
một
học
phong
và
một
thể
nghiệm
sâu
xa
của
đời
sống
Phật
giáo
của
nhân
dân
ta.
Nó
nói
lên
khả
năng
sáng
tạo
và
biểu
trưng
đặc
thù
cuả
quan
niệm
về
nét
đẹp
của
với
mọi
nghệ
thuật
cuả
một
thời
đại.
Và
nghệ
thuật
ấy
biểu
tượng
Phật
giáo,
nó
lên
không
ít
sức
sống
cuả
Phật
giáo
thời
bấy
giờ.
Nền
nghệ
thuật
đầy
sáng
tạo
và
điêu
luyện
này
đương
nhiên
thể
hiện
khả
năng
mỹ
cảm
cao
độ
của
nhân
dân
ta.
Những
người
nghệ
sĩ
tham
dự
vào
việc
xây
dựng
nó,
ta
tất
phải
kẻ
đến
những
vị
Hòa
thượng
và
thiền
sư
đã
từng
sống
tại
Tiên
Sơn,
như
Đạo
Cao,
Pháp
Minh,
Huệ
Thắng,
và
Đạo
Thiền.
Đây
là
một
lực
lượng
nghệ
thuật
tương
đối
mạnh
mẽ,
chứng
tỏ
sự
phát
triển
đồng
đều
của
nền
văn
hóa
dân
tộc
ta,
chuẩn
bị
cho
sự
ra
đời
của
nước
Vạn
Xuân
sắp
đến.
Nói
tắt,
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
cũng
là
một
biểu
hiện
cho
một
tư
trào
Phật
giáo
đang
lên,
rũ
sạch
hết
những
ước
mơ
về
việc
thấy
một
chân
tình
Phật
ở
đời,
Phật
bây
giờ
phải
là
một
cái
gì
vô
hình,
nhưng
có
thể
tìm
thấy
ở
bất
cứ
nơi
đâu,
giống
như
sức
mạnh
cuả
con
người
tuy
không
thể
thấy
được
nhưng
lại
có
những
tác
dụng
vô
cùng
hiệu
quả.
Đó
có
thể
coi
là
cơ
sở
lý
luận
của
nền
nghệ
thuật
Tiên
Sơn
này.
Chúng
tôi
đã
bàn
sơ
sự
liên
hệ
giữa
Phật
thể
quan
của
Sáu
lá
thư
và
quan
điểm
lý
luận
của
nền
nghệ
thuật
âý.
Ở
đây
chúng
tôi
chỉ
nhấn
mạnh
thêm
việc
tượng
trưng
đức
Phật
bằng
lá
bồ
đề
ở
tại
Tiên
Sơn
đã
thể
hiện
một
Phật
thể
quan
mới,
mà
sau
này
ta
thấy
xuất
hiện
rất
rõ
rệt
trong
nền
Phật
giáo
Pháp
Vân.
| Mục lục | I
|
II
|
III
| IV
|
IVb
|
V
|
VI
|
VII
|
VIII
|
VIIIb
|
IX
|
IXb
|
X
|
XI
|
XII |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường