- LỊCH
SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- Từ khởi nguyên
đến thời Lý Nam Đế
-
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
- Học
Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Huế thực hiện
- Nhà
Xuất Bản Thuận Hóa Huế 1999
--o0o--
- Chương
IX
- Sơ
Thám
về
Huệ
Lâm
và
Quán
Thiện
Luận
Qua
nghiên
cứu
về
Sáu
lá
thư
xưa
nhất
cuả
lịch
sử
văn
học
và
Phật
giáo
nước
ta
ở
trên,
chúng
tôi
đã
có
dịp
giới
thiệu
và
phân
tích
sơ
về
một
nhà
sư
Trung
Quốc
bị
đuổi
ra
nước
ta
vào
giữa
thế
kỷ
thứ
V
tên
Huệ
Lâm
và
tác
phẩm
Quân
thiện
luận
của
ông.
Con
người
cũng
như
tác
phẩm
của
nhà
sư
này
qua
thế
kỷ
đã
gây
ra
nhiều
bàn
cãi
khá
lôi
cuốn.
Không
những
thế,
chính
trong
những
phát
biểu
ở
Quân
thiện
luận
đã
tạo
cơ
hội
cho
sự
ra
đời
của
sáu
lá
thư
vừa
nói,
nhằm
trả
lời
và
bác
bỏ
những
kết
luận
mà
Quân
thiện
luận
đề
lên.
Ngoài
ra,
Lâm
có
thể
đóng
góp
không
ít
vào
sự
thành
công
của
cuộc
khởi
nghĩa
Lý
Trường
Nhân.
Do
vậy,
con
người
và
tác
phẩm
Huệ
Lâm
càng
lôi
cuốn
hơn
nữa
đối
với
công
tác
nghiên
cứu
văn
học
Phật
giáo
và
chính
trị
Việt
Nam.
Chúng
tôi
vì
thế
đề
nghị
tìm
hiểu
ở
đây
cuộc
đời
của
Huệ
Lâm
và
dịch
lại
bản
Quân
thiện
luận
vừa
kể
nhằm
cung
hiến
một
phần
nào
tư
liệu
cho
những
tra
khảo
sau.
Về
cuộc
đời
Huệ
Lâm
[^]
Cuộc
đời
của
Huệ
Lâm,
cứ
Cao
Tăng
truyện
quyển
7
ĐTK
2059
tờ
368
a11-21,
thì
như
thế
nay:
"Đệ
tử
cuả
Đạo
Uyên
là
Huệ
Lâm
vốn
họ
Lưu,
người
Tần
quận,
giỏi
hết
các
kinh
điển
và
Trang
Lão,
hay
đùa
giỡn,
ưa
nói
cười,
sở
trường
về
việc
viết
lách
nên
có
Huệ
Lâm
tập
10
quyển,
nhưng
tính
kiêu
ngạo,
lại
hay
tự
khoe
khoang.
Uyên
thường
đến
thăm
Phó
Lượng,
Lâm
tới
chỗ
trước,
bèn
ngồi.
Đến
khi
Uyên
tới,
Lâm
không
trí
lễ.
Uyên
giận,
nóng
cả
mặt,
Lượng
bèn
phạt
Lâm
20
trượng.
Tống
Thế
Tổ
kính
trọng
Lâm,
cho
dẫn
tới
thăm
thì
Lâm
thường
lên
ngồi
trên
cái
giường
một.
Nhan
Diên
Chi,
mỗi
khi
có
dịp,
đều
chê
trách.
Vua
liền
không
vui.
Sau
đó,
Lâm
viết
Bạch
hắc
luận,
trái
với
lý
nghĩa
Phật
giáo.
Thái
thú
Hoạnh
Dương
Hà
Thừa
Thiên
cùng
Lâm
đọ
giáp,
giúp
nhau
kích
dương,
làm
ra
Đạt
tín
luận,
cũng
câu
nệ
một
bên,
mà
chê
trách
Thích
giáo.
Nhan
Diên
Chi
và
Tôn
Bính
Kiểm
bác
hai
cuốn
luận
ấy,
mỗi
người
hơn
một
vạn
lời.
Lâm,
khi
huỷ
phá
áo
pháp
cuả
mình,
bị
đuổi
ra
Giao
Châu,
đời
nói:
"Uyên
công
thấy
ma
tinh
tức
là
con
người
này
vậy".
Đọc
qua
tiểu
truyện
này
của
Lâm,
một
kiểm
soát
tư
liệu
ngoại
tại
chứng
thực
cho
ta
những
chi
tiết
sau.
Thứ
nhất,
về
truyện
"Lâm
lên
ngồi
trên
cái
giường
một"
và
sự
"chê
trách"
của
Nhan
Diên
Chi,
chúng
ta
có
thể
tìm
thấy
trong
tiểu
sử
cuả
Nhan
Diên
Chi
ở
Tống
thư
quyển
73
tờ
7a4-6:
"Lúc
bấy
giờ
Sa
môn
Thích
Huệ
Lâm
vì
có
tài
ba
và
học
thức
nên
được
Thái
Tổ
quí
trọng
thương
yêu.
Mỗi
khi
cho
gọi
vào
thăm,
Lâm
thường
lên
ngồi
trên
giường
một.
Diên
Chi
rất
ghét,
nhân
đang
say,
bạch
với
vua
rằng:
"Xưa
Đồng
Tử
tham
cùng
cỡi
xe,
Viên
Ty
nghiêm
sắc
mặt.
Đấy
là
chỗ
ngồi
cuả
bậc
tam
thai,
há
lại
có
thể
khiến
kẻ
hình
dư
cùng
ở?
Vua
đổi
sắc
luận.
Tống
thư
do
Tề
Vũ
đề
vào
mùa
xuân
năm
Vĩnh
Minh
thứ
5
(487)
ra
lệnh
cho
Trầm
Ước
viết
và
viết
xong
vào
tháng
2
năm
Vĩnh
minh
thứ
6
(488)
Huệ
Hạo
viết
Cao
Tăng
truyện
khoảng
năm
530
và
chắc
chắn
là
sau
năm
519,
do
thế
hẳn
phải
lấy
chi
tiết
vừa
nói
ở
Tống
thư.
Kiểm
soát
này
giúp
ta
đính
chánh
một
sai
lầm
khá
to
lớon,
mà
hình
như
tất
cả
những
bản
khắc
từ
thời
Triệu
Tống
trở
đi
của
Cao
Tăng
truyện
đều
phạm
phải,
đấy
là
Tống
Thái
Tổ
của
nhà
Lưu
Tống
yêu
thương
và
quí
trọng
Lâm,
chứ
không
phải
là
Tống
Thế
Tổ,
như
chúng
đã
có.
Tống
Thái
Tổ
tức
Tống
Văn
đế,
trị
vì
giữa
những
năm
424-453;
còn
Tống
Thế
Tổ
tức
Tống
Hiếu
Vũ
đế,
trị
vì
những
năm
454-464.
Chi
tiết
thứ
hai
liên
quan
tới
chuyện
Lâm
viết
Bạch
hắc
luận
và
đọ
giáp
với
Hà
Thừa
Thiên.
Văn
cú
cuả
hai
chi
tiết,
Hạo
chắc
phải
rút
từ
bài
văn
"trả
lời
Tống
Văn
đế
về
việc
tán
dươong
Phật
giáo"
của
Hà
Thượng
Chi
trong
Hoằng
minh
tập
quyển
11
ĐTK
2102
tờ
69a13-b4;
"Lúc
bấy
giờ
có
Sa-môn
Huệ
Lâm,
giả
mặc
áo
thầy
tu,
mà
hủy
báng
giáo
pháp
của
mình,
viết
ra
cuốn
Bạch
hắc
luận.
Thái
thú
Hoạnh
Dương
Hà
Thừa
Thiên
cùng
Lâm
đọ
giáo,
giúp
nhau
kích
dương,
viết
Đạt
tính
luận,
cũng
câu
trệ
về
một
phía,
mắng
chê
Thích
giáo.
Thái
thú
Vĩnh
gia
Nhan
Diên
Chi
và
thái
tử
trung
xá
nhân
Tôn
Bính
đều
là
những
ngưòi
tín
đạo,
kiểm
bác
hai
cuốn
luận
ấy
mỗi
người
hơn
một
vạn
lời.
Lâm
và
Thiên
ban
đầu
cũng
có
thư
từ
lui
tới,
nhưng
cuối
cùng
bị
bẻ
lý,
họ
bèn
thôi.
Bính
nhân
đó
viết
quyển
Kinh
Phật
luận,
để
mở
rộng
tôn
chi
cuả
mình.
Vua
khen
hay".
Hà
Thương
Chi,
cứ
tiểu
sử
của
ông
trong
Tống
thư
quyển
66
tờ
3a2-6b,
sinh
năm
382
và
mất
lúc
79
tuổi
vào
năm
460.
Về
những
chi
tiết
khác,
chúng
ta
không
có
những
tư
liệu
ngoại
tại,
mà
văn
cú
đã
được
Huệ
Hạo
dẫn
nguyên
văn
như
hai
chi
tiết
vừa
thấy.
Tuy
thế,
đối
với
một
số
nhân
vật
và
chi
tiết
như
Đạo
Uyên,
liên
lạc
của
Uyên
với
Phó
Lượng,
tài
ba
của
Huệ
Lâm
và
việc
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta
đều
có
thể
kiểm
chứng.
Thứ
nhất,
về
Đạo
Uyên,
thầy
Huệ
Lâm,
Hạo
đã
ghi
lại
thế
này
trong
Cao
Tăng
truyện
quyển
7
tờ
368a2-11:
"Thích
Đạo
Uyên,
họ
Quan,
không
biết
người
xứ
nào,
xuất
gia
dừng
lại
chùa
Đồng
An
ở
kinh
sư,
nhỏ
giữ
giới
luật,
lớn
học
nghĩa
tôn,
các
kinh
những
luật
không
gì
là
không
thông
đạt,
nhưng
tiềm
quang
ẩn
đức,
đời
chẳng
ai
biết.
Sau
ở
chùa
Đồng
An
mở
hội
giảng,
Uyên
phẩu
chiết
mọi
nguyên
vy,
làm
srõ
hết
những
chỗ
sâu
sắc,
khiến
cho
tất
cả
những
tích
trệ
xưa
này
đều
bỗng
nhiên
bừng
sáng
băng
giải.
Từ
đấy,
học
đồ
đổi
nhìn,
ùa
theo
lập
đức.
Sau
Uyên
dời
tới
ở
chùa
Bành
Thành.
Tống
Văn
đế
cho
Uyên
lấy
đức
hạnh
làm
vật
quí,
sắc
đến
ở
chùa.
Sau
khi
tới
nhậm,
Uyêm
mất
ở
chỗ
mình
ở,
xuân
thu
78
tuổi".
Bản
tiểu
sử
này
cuả
Uyên
không
những
thiếu
chính
xác
và
thiếu
đầy
đủ,
mà
còn
quá
ngắn,
khi
so
với
bản
tiểu
sử
phụ
tuỳ
của
người
đệ
tử
ông
là
Huệ
Lâm.
Thiếu
chính
xác,
bởi
vì
nói
không
nói
rõ
chẳng
hạn
ngôi
chùa
mà
Tống
Văn
đế
sắc
Uyên
tới
ở
chùa
nào.
Thiếu
đầy
đủ,
bởi
cứ
trong
những
tiểu
sử
khác,
ta
biết
Uyên
đã
đến
thụ
giáo
với
Cưu
Ma
La
Thập
ở
Trường
An
và
tham
dự
vào
những
công
tác
dịch
thuật
vĩ
đại
của
người
này.
Bản
tiểu
sử
của
Trúc
Đạo
Sanh
trong
cùng
quyển
đã
ghi
lại
lời
bình
sau
"Người
đương
thời
bình
luận
rằng:
- Sanh,
Duệ
phát
thiên
chân
- Nghiêm,
Quan
oa
lưu
đắc
- Huệ
Nghĩa
bành
hành
tấn
- Quan
Uyên
vu
mặc
tắc.
Quan
Uyên
tức
Đạo
Uyên
họ
Quan
vừa
nói.
Ông
như
vậy
được
xếp
ngang
hàng
với
danh
sĩ
Phật
giáo
đương
thời,
đây
là
Trúc
Đạo
Sanh,
Huệ
Duệ,
Huệ
Nghiêm,
Huệ
Quan
và
Huệ
Nghĩa;
và
những
người
nà
đều
là
môn
đồ
của
La
Thập,
sống
tại
miền
Nam.
Sanh
mất
năm
435,
Nghiêm
năm
444,
Nghĩa
năm
445,
còn
Duệ
và
Quan
thì
chỉ
biết
mất
trong
khoảng
Nguyên
gia,
tức
những
năm
424-453.
Uyên
cũng
mất
trong
khoảng
Nguyên
gia.
Niên
đại
ông
do
thế
rơi
vào
khoảng
370-440.
Về
chi
tiết
liên
lạc
giữa
Huệ
Lâm,
Đạo
Uyên
và
Phó
Lượng,
cứ
tiểu
sử
của
Lượng
trong
Tống
thư
quyển
43
tờ
10a6-17b6
và
Nam
sử
quyển
15
tờ
11a3-12a5
thì
không
thấy
nói.
Lượng
dĩ
nhiên
là
vị
công
thần
khai
quốc
của
nhà
Lưu
Tống.
Vì
vụ
phế
thí
Thiếu
đế
và
lập
ngôi
Văn
đế,
mà
Lượng
sau
đó
đã
bị
Văn
đế
giết
lúc
mới
53
tuổi
cùng
với
Từ
Thiện
Chi
vào
năm
426.
Uyên
và
Lâm,
nếu
có
đến
thăm
Lượng,
thì
chắc
chắn
phải
trước
năm
ấy.
Hơn
thế
nữa,
chính
vào
năm
426,
Văn
đế
cho
gọi
Huệ
Lâm
vào
cung
để
bàn
bạc
triều
chính.
Cứ
Tư
trị
thông
giám
quyển
120
tờ
11a13-b7,
Nguyên
gia
năm
thứ
3
(426)
tháng
3
ngày
tân
tỵ,
vưa
trở
về
Kiến
Khương,
trưng
Tạ
Linh
Vận
làm
bí
thư
giám,
Nhan
Diên
Chi
làm
trung
thứ
thị
lang,
thưởng
đãi
rất
hậu.
Vua
cho
nhà
sư
Huệ
Lâm
giỏi
bàn
luận,
nhân
thế
cùng
bàn
nghị
triều
đình
đại
sự,
từ
đó
tham
dự
vào
quyền
yếu,
khách
khứa
lui
tới
đông
đúc,
xe
cộ
trước
cửa
thường
có
vài
chục
cặp,
bốn
phương
nối
nhau
dân
gởi
đồ
biếu,
chiếu
vuông
bảy
tám
bức
luôn
luôn
đầy
người.
Lâm
thường
đi
guốc
cao,
mặc
áo
lông
chồn,
đặt
chức
thông
tình
và
thơ
tá,
Khổng
Khải
từ
Hội
Khế
thường
đến
thăm,
gặp
khách
khứa
đầy
nhà
chào
hỏi
nhau
mà
thôi.
Khải
khái
nhiên
hỏi:
"Bèn
lại
có
tể
tướng
áo
nâu,
có
thể
nói
là
quan
lý
mất
chỗ
vậy".
Về
việc
cho
gọi
Lâm
cùng
Tạ
Linh
Vân
và
Nhan
Diên
Chi
vào
làm
việc
này,
Hồ
Tam
Tỉnh
đã
chú
thích
là,
"khi
Lô
Lăng
vương
bị
phế
thì
người
đấy
bị
đuổi
đi,
khi
Từ
Tiện
Chi
và
Phó
Lượng
bị
tru
thì
ba
người
này
được
tiến,
có
thể
nói
là
kiểu
uổng
quá
chính
vậy".
Việc
tham
dự
vào
triều
chính
cuả
Lâm,
chúng
ta
sẽ
có
dịp
bàn
rộng
hơn
ở
dưới.
Ở
đây,
ta
biết,
nếu
Lâm
vào
năm
426
đã
tham
dự
vào
"triều
chính
đại
sự",
thì
chắc
hẳn
Lượng
không
thể
phạt
Lâm
hai
mươi
trượng
vài
năm
trước
đấy.
Chuyện
Lượng
phạt
Lâm
do
thế
hẳn
phải
xảy
ra
khoảng
trước
năm
420,
khi
Lưu
Dụ
lên
ngôi
hoàng
đế
lập
ra
nhà
Lưu
Tống
và
Lượng
đạt
tột
đỉnh
quyền
hành
của
mình,
nếu
không
là
trước
đó
năm,
mười
hay
mười
lăm
năm.
Chi
tiết
về
tài
ba
của
Lâm
có
thể
kiểm
soát
qua
nhiều
tư
liệu
khác
nhau.
Thứ
nhất,
như
những
dẫn
chứng
trên
từ
Nhan
Diện
Chi
cho
tới
Tư
Mã
Quang
cho
thấy,
ai
cũng
nhận
Lâm
"vì
có
tài
ba
học
thức"_1
nên
được
Văn
đế
kính
trọng
và
hỏi
bàn
việc
nước.
Tiếp
đến,
cả
Tống
thư
quyền
97
tờ
6b9-8b13
lẫn
Nam
sử
quyển
78
tờ
10a12-b8
đều
có
tiểu
sử
của
Lâm,
một
vinh
dự
ít
thấy
cho
những
nhà
sư
khác.
Vì
bản
tiểu
sử
trong
Nam
sử
đầy
đủ
chi
tiết
và
gọn
ghẽ
hơn
là
bản
tiểu
sử
của
Tống
thư,
dẫu
chúng
hoàn
toàn
đồng
nhất
với
nhau,
chúng
tôi
xin
dịch
nói
ra
đây:
"Huệ
Lâm
người
Tần
huyện,
Tần
quận,
nhỏ
xuất
gia
ở
chùa
Trị
Thành,
có
tài
văn
chương,
học
kiêm
nội
ngoại,
là
chỗ
bạn
bè
của
Lô
Lăng
vương
Nghĩa
Chân.
Ông
thường
viết
Quân
thiện
luận,
rất
chê
bai
Phật
pháp,
nói
rằng:
"Có
một
bạch
học
tiên
sinh
cho
thánh
nhân
Trung
Quốc
kinh
luân
bách
thế,
đức
họ
đã
rộng,
trí
họ
lại
bao
trùm
mọi
hiện
tượng,
nguyên
lý
của
trời
người
họ
đều
rõ
hết,
đạo
họ
không
có
chỗ
che
dấu,
giáo
pháp
họ
không
có
chỗ
thiếu
sót
hở
hang,
họ
thông
tuấn
dới
triết,
thì
cần
gì
phải
nhờ
đến
những
học
thuyết
khác.
Có
một
hắc
đạo
sỹ
khinh
chê
những
vị
đó,
họ
cho
là
không
rõ
con
đường
ư
minh,
chẳng
đề
cập
đến
sự
biến
hóa
của
đời
sau,
tuy
có
thể
hư
tâm,
nhưng
chưa
chắc
có
thể
hư
sự,
nên
không
thể
bằng
được
sự
thâm
thúy
cuả
học
thuyết
Tây
Vức.
Rồi
đặt
hai
người
này
làm
chủ
khách,
đối
đáp
nhau,
mà
kết
luận
là
"Lục
độ
với
ngũ
giáo
cùng
được
thực
hành,
tín
thuận
với
từ
bi
đều
được
thiết
lập".
Cuốn
luận
ấy
ban
hành
ra
ở
đời,
cựu
tăng
cho
nó
là
biếm
truất
họ
Thíh,
muốn
gia
tẫn
đuổi.
Văn
đế
thấy
nói
khen
thưởng.
Trong
khoảng
Nguyên
gia;
Lâm
tham
dự
vào
quyền
yếu,
triều
đình
đại
sự
đều
cùng
bàn
cãi.
Khách
khứa
lui
tới
đông
đúc,
xe
cộ
trước
cửa
thường
vài
chục
cặp,
bốn
phương
nối
đuôi
nhau
gởi
đồ
dâng
biếu,
thế
khuynh
một
thời,
chiếu
vuông
bảy
tám
chiếc,
trên
đó
luôn
luôn
đầy
người.
Lâm
mang
guốc
cao,
mặc
áo
lông
chồn,
đặt
chức
thông
trình
và
thơ
tá,
quyền
hành
sách
với
bậc
tể
tướng.
Khổng
Khải
từ
Hội
khể
thường
đến
thăm
Lâm,
gặp
khách
khứa
chỉ
ồn
ào
hỏi
thăm
mà
thôi.
Khải
bùi
ngùi
nói:
"Lại
có
tể
tướng
áo
nâu
sao?
Có
thể
nói
quan
chức
không
đúng
chỗ
vậy".
Lâm
chú
thích
Hiếu
kinh
à
thiên
Tiêu
diêu
của
Trang
Tử;
văn
luận
của
ông
còn
truyền
ở
đời".
Đấy
là
cuộc
đời
Lâm
theo
Nam
sử,
Tống
thư
cũng
chép
chừng
ấy
truyện,
nhưng
nó
chấm
dứt
sau
câu
"thế
khuynh
một
thời"
để
tiếp
kể
tác
phẩm
của
Lâm.
Chỉ
khác
một
chỗ
là,
trong
khi
Nam
sử
tóm
tắt
Quân
thiện
luận,
thì
Tống
thư
cho
chép
lại
hoàn
toàn,
từ
đó
sẽ
là
nguồn
tư
liệu
Quân
thiện
luận
cuả
ta
sau
này.
Cứ
tiểu
sử
ấy,
thì
Lâm
là
bạn
bè
cuả
Lô
lăng
vương
Nghĩa
Chân.
Chân
là
con
thứ
hai
của
Vũ
đế.
Khi
Vũ
đế
băng
hà,
người
anh
lên
ngôi
tức
Thiếu
đế,
nhưng
vì
hung
bạo
hoang
tàn,
nên
bị
phế
vào
năm
423.
Chân
đáng
lý
kế
ngôi,
song
bị
Từ
Tiện
Chi
ghét,
do
thế
bị
giết
vào
cùng
năm.
Tiện
Chi
cùng
Phó
Lượng
rước
người
con
thứ
ba
của
Vũ
đế
tức
Nghĩa
Long
về
nối
vị,
lấy
hiệu
là
Văn
đế,
cải
nguyên
là
Nguyên
gia
bắt
đầu
năm
424.
Chân
bị
giết
lúc
mới
18
tuổi.
Liên
lạc
với
Chân
với
Huệ
Lâm
được
Tống
thư
quyển
61
tờ
2a13-b6
và
Nam
sử
quyển
13
tờ
7b5-11
viết
thế
này:
"Nghĩa
Chân
thông
minh,
ái
mộ
văn
học,
nhưng
khinh
cử
không
có
đức
nghiệp.
Chân
cùng
với
Tạ
Linh
Vận
từ
Trần
quận
Nhan
Diên
Chi
từ
Lang
Nha
và
sư
Huệ
Lâm
đi
chơi
khắp
chốn
một
cách
khác
thường,
nói
rằng:
"Tới
ngày
đắc
chí
thì
ta
sẽ
lấy
Linh
Vận
hay
Diên
Chi
làm
tể
tướng,
Huệ
Lâm
làm
đô
đốc
Tây
Dự
Châu".Từ
Tiện
Chi
và
những
người
khác
rất
ghét
sự
khinh
nhờn
quá
sức
của
Nghĩa
Chân
và
Linh
Vận,
Diên
Chi,
nên
sai
Phạm
Yến
nhẹ
răn
Nghĩa
Chân
rằng;
"Linh
Vận
rộng
thưa,
Diên
Chi
bạc
bẽo
hẹp
hòi.
Văn
đế
nhà
Ngụy
nói:
"Văn
nhâ
là
những
kẻ
ít
khi
có
thể
dùng
danh
tiết
của
mình
mà
tự
lập".
Nhưng
tánh
tình
của
Chân
vì
đã
quen
thói,
chưa
thể
quên
lời,
khi
gặp
tặng
thưởng,nên
vẫn
tiếp
tục
giao
du,
đem
đến
cùng
thuyền
của
Nghĩa
Chân
đơn
sơ
không
bằng
thuyền
của
mẹ
Chân
là
Tôn
Tử
Nghi.
Nghĩa
Chân
cùng
Linh
Vận,
Diên
Chi,
Huệ
Lâm
cùng
ngồi
xem
ngũ
bộ,
nhân
thế
thiết
yến
ở
trong
thuyền,
bèn
sai
tả
hữu
cắt
thuyền
cua
mình
ra
khỏi
thuyền
bà
mẹ,
đem
thuyền
ấy
tới
trình
để
xin
lấy
cái
đẹp
nhất..."
Vì
Chân
chết
lúc
mới
18
tuổi,
liên
lạc
giữa
Chân
và
lâm
cũng
như
Tạ
Linh
Vận
và
Nhan
Diên
Chi
chắc
hẳn
không
bắt
đầu
thực
sự
khoảng
ba
bốn
năm
trước
đấy,
tức
khoảng
năm
420
trở
đi.
Lâm
có
liên
lạc
ấy,
bởi
vì
tài
đức
của
mình.
Tài
ba
và
học
thức
ấy,
bản
tiểu
sử
cuả
Tạ
Linh
Vận
ở
Tống
thư
quyển
67
không
nói
đến,
nhưng
bản
tiểu
sử
của
Nhan
Diên
Chi
đã
vạch
ra,
như
thấy
trên.
Không
những
thế,
nó
đã
sáng
chói,
để
một
nhà
sử
gia
nổi
tiếng
kiểu
Phạm
Việp
bình
luận.
Việp
viết
Hậu
Hán
thư
quen
thuộc
ngày
nay.
Tiểu
sử
ông
ở
Tống
thư
quyển
69
tờ
9a4-10
báo
cáo
một
chi
tiết
lôi
cuốn
sau:
"Việp
tính
tinh
vi,
có
nghĩ
suy,
đụng
việc
thì
phần
nhiều
rất
giỏi.
Áo
quần
y
phục
của
Việp
không
gì
là
không
do
Việp
đo
cắt,
người
đời
đều
lấy
phép
tắc.
Việp
soạn
Hòa
hương
phương
cái
tựa
nói
rằng:
"Xạ
vốn
kỵ
nhiều,
dùng
quá
phân
là
giết.
Trầm
thật
dễ
hòa,
nhiều
cân
không
hại.
Linh
hoắc
hễ
khô
là
hư.
Chiêm
đường
hễ
ướt
là
dắn.
Cam
tùng,
tô
hiệp,
an
tức,
uất
kim
và
nại
đa
hòa
la
đều
là
những
thứ
quí
giá
ở
nước
ngoài,
nhưng
vô
dụng
ở
đất
Trung
Quốc.
Còn
táo
cao
hễ
kín
thì
đóng
cục,
giáp
tiễn
hễ
cạn
thì
hôi,
chúng
không
những
không
giúp
ích
gì
cho
sự
thơm
tho,
mà
còn
làm
cho
bệnh
càng
nặng
thêm
nữa".
Cái,
mà
cái
tựa
đầu
muốn
nói,
là
muốn
đem
những
gương
ấy
sánh
với
Dữu
Bính
Chi.
Linh
hoắc
hễ
khô
là
hư,
tức
sánh
với
Trần
Diễn
Chi.
Chiêm
đường
hễ
ước
là
dắn,
tức
sánh
với
Trần
Diễn
Chi.
Táo
cao
hễ
kín
thì
đóng
cục,
tức
sánh
với
Dương
Huyền
Đảo,
Giáp
tiễn
hễ
cạn
thì
hôi,
tức
sánh
với
Từ
Trạm
Chi,
Cam
tùng,
tô
hiệp,
tức
sánh
với
Huệ
Lâm
đạo
nhân.
Và
trầm
thật
dễ
hòa,
tức
sánh
mình
vậy",
Việp
như
vậy,
mặc
dù
coi
Huệ
Lâm
"bất
thú
ư
trung
thổ",
khi
so
sánh
với
cam
tùng
và
tô
hiệp,
đã
coi
Lâm
là
"những
thứ
quí
giá
ở
nước
ngoài".
Về
những
liên
lạc
giữa
Lâm
và
Tạ
Linh
Vận,
tiểu
sử
của
Vận
trong
Tống
thư
quyển
67
lẫn
Nam
sử
không
nói
gì
đến.
Nhưng
một
sưu
tập
của
Đạo
Tuyên
trong
Quảng
hoằng
minh
tập
đã
giữ
lại
một
số
văn
kiện
trao
đổi
giữa
hai
người
này.
Như
đã
thấy
trên,
Vận
là
bè
bạn
của
Nghĩa
Chân.
Tống
thư
quyển
67
tờ
6b8-10
viết:
"Lô
lăng
vương
Nghĩa
Chân
nhỏ
thích
văn
học,
cùng
Linh
Vận
tình
khoản
khác
thường.
Tới
khi
Thiếu
đế
tức
vị,
quyền
hành
đều
tại
tay
những
đại
thần.
Linh
Vận
gây
xúi
dị
đồng,
phê
bình
huỷ
báng
những
kẻ
chấp
chính
Tư
đồ
Từ
Tiên
Chi
và
những
người
khác
do
thế
không
thích,
bèn
đổi
Vận
ra
làm
thái
thú
quận
Vĩnh
gia".
Thế
cũng
có
nghĩa,
Vận
ra
Vĩnh
gia
vào
năm
423.
Trong
khi
làm
thái
thú
quận
này,
ngoài
việc
du
hí,
Vận
còn
viết
một
tiểu
luận
nhan
đề
Biện
tôn
luận,
mà
Quảng
hoằng
minh
tập
quyển
18
ĐTK
2103
tờ
224c25-225a9,
đã
ghi
lại
cùng
với
vấn
nạn
của
những
người
khác,
trong
đó
có
trả
lời
vấn
nạn
của
Huệ
Lâm
ở
tờ
226b6-227a25.
Biện
tôn
luận
viết:
"Cùng
đi
chơi
với
các
đạo
nhân
đều
là
những
vị
chuyên
tu
đạo
tâm
thần,
chuyên
tìm
hiểu
ngoài
lời
nói.
Tôi
đau
gối
giưòng,
việc
ít,
lại
có
nhiều
ngày
rảnh,
nhân
thế
xin
trình
bày
ý
kiến
của
mình
về
do
lai
của
đạo
nhằm
xác
định
sự
tìm
hiểu
tôn
chỉ.
Họ
Thích
bàn
luận
Thánh
đạo
tuy
cao
xa,
nhưng
phải
học
nhiều
mới
hay
đến,
ràng
buộc
hết
thì
sự
rõ
ràng
mới
sinh,
mới
có
thể
đáp
lại
sự
tiện
ngộ.
Họ
Khổng
bàn
luận
Thánh
đạo
đã
hay,
tuy
Nhan
Hồi
chờ
nhiều,
hể
đạo
không
rõ
khắp,
nhưng
lý
về
một
cực.
Có
một
đạo
sỹ
đưa
ra
học
thuyết
mới,
cho
rằng
sự
lặng
soi
vi
diệu
không
dừng
từng
bậc,
học
nhiều
không
hạn,
sao
phải
tự
dứt.
Nên
nay
bỏ
quan
niệm
tiệm
ngộ
của
họ
Thích
mà
dùng
lấy
quan
niệm
có
thể
đến,
bỏ
quan
niệm
chờ
nhiều
của
họ
Khổng
mà
giữ
lại
quan
niệm
một
cực.
Quan
niệm
một
cực
khác
với
quan
niệm
tiệm
ngộ.
Quan
niệm
một
cực
khác
với
quan
niệm
tiệm
ngộ.
Quan
niệm
có
thể
đến
chẳng
qua
là
quan
niệm
chờ
nhiều.
Cho
nên,
lý
do
cho
việc
bỏ
đi
tuy
giống
nhau,
cho
việc
giữ
lại
thì
Khổng
Thích
hai
đường
xa
khác.
Tôi
cho
rằng
hai
bàn
luận
trên
là
những
lời
cứu
vật,
xướng
lên
học
thuyết
đắc
ý
cuả
các
nhà
tu
hành.
Tôi
dám
lây
chúng
chiết
trung,
tự
trộm
gọi
là
học
thuyết
mới
vậy,
nhằm
đáp
lại
những
ý
kiến
thấp
thỏi,
đợi
chờ
có
sự
hiểu
biết
thêm
về
sau".
Giữa
những
ý
kiến
mà
Vận
"xin
đáp
lại
dưới
đây,
đợi
chờ
có
thêm
sự
hiểu
biết",
có
cả
chúng
vấn
nạn
của
Huệ
Lâm
và
Pháp
Vương,
người
Huệ
Lâm
sẽ
viết
truy
điệu
hơn
mười
năm
sau.
Trong
đầu
mở
đầu
cho
trả
lời
vấn
nạn
hai
nhà
sư
này,
Vận
đã
viết:
"Vừa
xem
xong
hai
vấn
nạn,
mừng
vui
như
được
thấy
mặt,
văn
đẹp
ý
rộng,
phất
phới
đầy
mắt,
có
thể
nói
chúng
là
đến
từ
miệng
của
thắng
nhân"
-
phi
lãm
song
nạn,
hân
như
tạm
đối,
tháo
phong
luận
bác,
uý
nhiên
mãn
mục,
khả
vị
thắng
nhân
chi
khấu.
Chỉ
cần
đọc
một
câu
mở
đầu
này,
ta
cũng
có
thể
thấy,
Vận
và
Lâm
đã
có
những
tình
khoản
gì
với
nhau.
Qua
những
liên
lạc
mật
thiết
này
với
những
danh
sỹ
thời
ông,
tài
ba
và
học
thức
của
Lâm
tất
không
phải
tầm
thường
gì.
Ngoài
Quân
thiện
luận
mà
ta
sẽ
cho
bàn
riêng
dưới
đây,
cứ
theo
đoạn
văn
dẫn
trên
từ
Nam
sử
và
Tống
thư
cùng
Cao
Tăng
truyện,
Lâm
đã
chú
thích
Hiếu
kinh,
thiên
Tiêu
diêu
của
Trang
tử
và
có
Huệ
Lâm
tập
mười
quyển.
Một
kiểm
soát
kinh
tịch
chí
của
Tuỳ
thư
quyển
32,
34
và
35
cho
thấy,
những
tác
phẩm
sau
hiện
còn
tới
giữa
thế
kỷ
thứ
7:
1)
Hiếu
kinh
1
quyển,
Thích
Huệ
Lâm
chú.
2)
Lão
tử
đạo
đức
kinh
2
quyển,
Thích
Huệ
Lâm
chú
và
3)
Tống
Sa-môn
Thích
Huệ
Lâm
tập
5
quyển,
thư
mục
đời
Lương
có
tới
9
quyển
và
1
quyển
lục.
Thêm
vào
đó,
ta
phải
kể
2
bài
truy
điệu
do
Lâm
viết
cho
Trúc
Đạo
Sanh
và
Thích
Pháp
Cương,
cùng
với
những
trao
đổi
thư
từ
với
Tạ
Linh
Vận,
mà
Quảng
hoằng
minh
tập
ghi
lại.
Ngoài
ra,
cứ
báo
cáo
trên
của
Hà
Thượng
Chi
thì
Lâm
có
trao
đổi
thư
từ
với
Tôn
Bính
và
Nhan
Diên
Chi
về
cuốn
Bạch
hắc
luận,
nhưng
ngày
nay
không
một
lá
thư
đã
được
bảo
tồn.
Trong
bản
mục
lục
Pháp
luận
do
Lục
Trừng
viết
vào
khoảng
465-469
và
Tăng
Hựu
chép
lại
trong
Xuất
tâm
tạng
ký
tập
quyển
12
ĐTK
2145
tờ
85a25-2a,
ta
thấy
ngoài
Quân
thiện
lua65n,
Lâm
còn
tác
giả
3
luận
văn
khác:
1)
Thích
Huệ
Lâm
nạn,
2)
Hôn
nông
vô
thượng
luận
và
3)
Vấn
nạn.
Nhan
đề
của
luận
văn
thứ
hai
tỏ
ra
lôi
cuốn
vì
nó
đề
cập
tới
hôn
nhân
và
nông
nghiệp.
Tóm
tắt,
trừ
Bạch
hắc
luận
và
những
bài
truy
điệu
cùng
thư
từ
với
Tạ
Linh
Vận,
những
tác
phẩm
của
Lâm
ngày
nay
hầu
hết
đã
tán
thất.
Dẫu
thế,
chỉ
một
cuốn
Bạch
hắc
luận
cũng
đủ
làm
cho
tiếng
tăm
Lâm
vang
dội
và
trở
thành
đầu
đề
bàn
cãi
của
những
trí
thức
lãnh
đạo
thời
ông,
đặc
biệt
là
Hà
Thừa
Thiên.
Hà
Thừa
Thiên
là
một
nhà
thiên
văn
học
nổi
tiếng
của
Trung
Quốc
cổ
đại.
Tiểu
sử
ông
tìm
thấy
trong
Tống
thư
quyển
64
tờ
6b13-13b1.
Ông
sinh
năm
370
và
mất
năm
448
lúc
78
tuổi.
Cứ
vào
tiểu
sử
đây
thì
hình
như
Thiên
không
có
một
liên
lạc
nào
hết
với
Huệ
Lâm.
Điểm
may
mắn
là
Tăng
Hựu
đã
cho
sưu
tập
lại
phần
lớn
những
phát
biểu
của
thiên
về
Phật
giáo
và
dành
hầu
như
hoàn
toàn
hai
cuốn
thứ
3
và
thứ
4
của
Hoằng
minh
tập
cho
chúng.
Chúng
ta
nhờ
thế
biết
tường
tận
quan
điểm
và
cảm
nghĩ
của
Thiên
đối
với
Lâm.
Trong
lá
thư
đầu
tiên
viết
cho
Tôn
Bính,
để
gởi
kèm
cuốn
Bạch
hắc
luận
của
Lâm,
Thiên
viết:
"Đạo
nhân
Huệ
Lâm
ở
chùa
Trị
Thành
làm
ra
Bạch
hắc
luận,
bèn
bị
chúng
Tăng
bài
tẫn,
may
nhờ
gặp
Minh
chúa
khéo
cứu,
nên
miễn
được
tội
ba
la
di.
Đã
làm
Tỷ-kheo,
mà
không
chịu
rõ
điều
ấy.
Huống
nữa
hàng
cư
sỹ
như
tôi,
sao
lại
không
nói"
Trong
lá
thư
trả
lời,
Bính
không
những
phân
tích
một
cách
khá
chi
ly
tác
phẩm
của
Lâm
và
phê
bình
những
kết
luận
của
nó,
trái
lại
còn
dẫn
những
người
từ
Kỳ
Vức
cho
tới
Đạo
An,
Đạo
Lâm
và
Huệ
Viễn,
rồi
hỏi:
"Thần
lý
phong
tháo
cuả
họ
hình
như
rất
không
sau
tỷ
kheo
Huệ
Lâm,
thì
đâu
lại
có
chuyện
họ
bỏ
bậy
nhân
lý,
cạo
vứt
tóc
râu,
để
tin
theo
sự
giáo
hóa
của
người
không
thật?".
Đáp
lại
lá
thư
vừa
dẫn
của
Bính,
Thiên
viết:
"Túc
hạ
đã
biết,
người
thường
không
thể
ngay
cả
lường
đo
việc
gần,
thì
nay
làm
sao
mà
họ
có
thể
hơn
được
trong
việc
lường
đo
việc
trăm
năm
về
trước
hay
ngàn
dặm
nước
ngoài?
Lâm
Tỷ
kheo
dù
dáng
mạo
thầy
tu,
nhưng
bẩm
tính
ngay
thật,
hình
như
sâu
biết
sự
chân
ngụy,
lại
rất
không
chịu
kiêng
sợ
việc
hộ
kinh,
thờ
thầy,
để
ăn
nói
bằng
những
lời
xảo
mỹ.
Tôi
do
đó
mà
có
lòng
kính
trọng
đối
với
ông
ta".
Hà
Thiên
đối
với
Lâm
là
thế.
Điểm
đáng
chú
ý
hơn
nữa
là
thái
độ
của
Tôn
Bính
trong
câu
trả
lời
nhận
xét
vừa
nêu
của
Thiên.
Bính
viết
trong
lá
thư
trả
lời
cho
Thiên
rằng:
"Tôi
quả
không
quen
biết
Lâm
tỷ
kheo
lại
cũng
không
từng
bàn
luận
việc
đời
với
ông
ấy.
Nhưng
nếu
túc
hạ
cho
ông
đó
ngang
hàng
với
Dữu
Văn
Bính,
từ
đó
có
thể
không
thua
gì
Đạo
Thúy,
thì
cũng
đang
còn
thua
Trúc
Pháp
Hộ
và
Vu
Pháp
Lan.
Lời
bình
trước
chưa
hẳn
là
đã
thất
ngôn.
Nếu
Lâm
thật
có
thể
có
mặt
mũi
thầy
tu,
bẩm
tính
ngay
thẳng
sâu
biết
chân
ngụy,
thì
hà
tất
chẳg
hóa
làm
Thiên
đế
thích,
để
khích
lệ
người
mau
thành
Phật
sao?".
Nhận
xét
vừa
kể
phải
nói
là
đáng
ngạc
nhiên,
nhất
là
khi
Bính
xếp
Lâm
lên
ngang
hàng
với
Vu
Đạo
Thúy,
nếu
không
là
với
Vu
Pháp
Lan
và
Trúc
Pháp
Hộ.
Đạo
Thúy
cố
nhiên
là
một
nhân
vật
quan
trọng
trong
thời
Phật
giáo
du
nhập
Trung
Quốc.
Ông
mất
trên
đường
qua
Ấn
Độ
tại
nước
ta
vào
khoảng
năm
320.
Đạo
Lâm
đã
ca
ngợi
ông
với
bài
minh
sau:
- Anh
anh
thượng
nhân
- Biết
rõ
lẽ
trong
- Trí
ngời
ngọc
chiếu
- Tiếng
đức
thơm
lan.
Giả
như
Lâm
ngang
hàng
với
Thúy
theo
xác
định
của
Bính,
thì
tối
thiểu
vị
trí
của
Lâm
trong
lịch
sử
Phật
giáo
Trung
Quốc
cũng
không
phải
nhỏ
mọn
gì.
Tôn
Bính
có
tiểu
sử
trong
Tống
thư
quyển
93
và
Nam
sử
quyển
75
tờ
3b3-4a6.
Sống
giữa
những
năm
374-443,
Bính
là
một
phật
tử
thuần
thành,
đóng
góp
không
ít
trong
việc
giải
thích
Phật
giáo
cho
người
Trung
Quốc.
Ông
là
đệ
tử
của
Huệ
Viễn
(344-416),
một
nhân
cách
vĩ
đại
và
hiếm
có
của
lịch
sử
Phật
giáo
Trung
Quốc
và
thế
giới.
Nhận
xét
của
Bính
về
Lâm
do
thế
không
phải
là
thường.
Đối
với
vấn
đề
tham
dự
quyền
yếu,
tiểu
sử
của
Lâm
trong
Tống
thư
chỉ
bằng
lòng
ghi:
"Trong
khoảng
Nguyên
gia,
Lâm
tham
dự
quyền
yếu...,
thế
khuynh
một
thời".
Nhưng
Nam
sử
đã
thêm
câu
nhận
xét
của
Khổng
Khải
về
cuộc
đời
khá
bận
rộn
và
khá
phong
lưu
của
Lâm
như
đã
thấy
trên.
Khổng
Khái
có
tiểu
sử
ở
Tống
thư
quyển
84
tờ
15a5-21a3.
Cứ
theo
đó
thì
Khải
bị
chém
trong
vụ
gây
hấn
Nghĩa
gia
năm
466,
lúc
mới
51
tuổi.
Năm
Khải
sinh
như
vậy
rơi
vào
khoảng
416.
Thời
gian
để
Khải
phát
biểu
nhận
xét
trên
về
Lâm
chắc
chắn
phải
sau
năm
435
trở
đi.
Sau
năm
435,
Lâm
do
đó
phải
đang
còn
giữ
chức
"tể
tướng
áo
nâu"
tại
triều
Văn
đế.
Kết
luận
này
có
thể
chứng
thực
một
cách
dễ
dàng
bằng
cách
đọc
lại
tiểu
sử
của
Nghĩa
Khương
ở
Tống
thư
quyển
68
tờ
1a6-6a5
và
Nam
sử
quyển
13
tờ
8a9-10a9.
Khương
là
người
con
thứ
tư
của
Vũ
đế
và
em
khác
mẹ
cuả
Văn
đế.
Trong
khoảng
thời
gian
từ
năm
435
cho
đến
440
Văn
đế
đau
yếu,
quyền
hành
đều
do
Nghĩa
Khương
xử
dụng
cùng
với
bộ
hạ
của
mình
là
Lưu
Trạm,
Lưu
Kỉnh
Văn
và
Khổng
Dân
Tú.
Đến
năm
440,
khoảng
tháng
4
bệnh
bớt,
Văn
đế
nghe
phong
phanh
Dẫn
Tú
bàn
việc
lập
Khương
làm
hoàng
đế.
Trạm
lại
gây
oán
với
Ân
Cảnh
Nhân.
Đến
tháng
10,
Nhân
cùng
Văn
đế
ra
chiếu
bắt
Trạm
cùng
các
con
và
đảng
bộ
giao
cho
đình
uý
xử.
Khương
khiếp
sợ,
dâng
biểu
tốn
vị,
xin
đổi
ra
làm
thứ
sử
Giang
Châu.
Trước
lúc
đi,
"Khương
lưu
lại
trong
điện
vua
hơn
10
ngày.
Quế
Hương
hầu
Nghĩa
Dung,
Tần
du
hầu
Nghĩa
Tôn,
Bí
thư
giám
Từ
Trạm
chi
đều
lui
tới
thăm
hỏi
yên
ủi.
Đến
ngày
nhận
chức,
rời
để
xuống
chữ
thượng,
Khương
tới
gặp
vua,
chỉ
biết
nhìn
và
khóc,
không
biết
nói
năng
gì.
Vua
sai
Sa-môn
Thích
Huệ
Lâm
đến
xem.
Nghĩa
Khương
hỏi:
"Đệ
tử
có
thể
được
trở
về
chăng"
Huệ
Lâm
trả
lời:
"Chỉ
tiếc
ngài
không
chịu
đọc
vài
trăm
cuốn
sách".
Khương
từ
đấy
trở
đi
thất
sủng,
để
cuối
cùng
bị
bàn
tay
của
Văn
đế
giết
mười
năm
sau
vào
năm
451,
lúc
ông
43
tuổi.
Khương
bị
nhận
cổ
chết,
vì
ông
từ
chối
uống
thuốc
do
Văn
đế
gởi
bởi
"Phật
dạy
tự
sát
thì
không
được
lại
thân
người".
Đến
năm
440
như
vậy
Lâm
đang
còn
làm
việc
cho
Lưu
Nghĩa
Long.
Kể
tử
ngày
Long
gọi
Lâm
cùng
Tạ
Linh
Vân
và
Nhan
Diên
Chi
vào
triều
cho
tới
lúc
đấy
đúng
mười
ba
năm.
Cuộc
sống
của
Lâm
trong
giai
đoạn
ấy,
như
Nam
sử
báo
cáo,
tương
đối
khá
phong
lưu,
nếu
không
là
khá
thế
tục.
Ông
mặc
áo
lông
con
điêu,
mang
guốc
gỗ
cao,
có
những
tên
thư
ký
với
những
chức
thông
trình
và
thơ
tá.
Khách
khứa
lui
tới
rộn
rịp,
xe
cộ
đầy
ngõ.
Nhà
cửa
ồn
ào
tiếng
người
hỏi
han.
Cũng
chính
trong
khoảng
thời
gian
này,
một
vài
chi
tiết
khá
linh
động
về
đời
sống
và
tính
tình
Lâm
được
ghi
lại.
Tiểu
sử
cuả
Tạ
Hoằng
Vi
ở
Tống
thư
quyển
58
tờ
2b6-3b10
kể
chyện,
vào
năm
427
anh
của
Vi
là
Ta
Diệu
mất
"Hoằng
Vi
ăn
chay
lâu
ngày,
buồn
rầu
quá
lễ,
năm
tang
tuy
đã
hết,
nhưng
vẫn
không
chịu
ăn
thịt
cá,
Sa-môn
Thích
Huệ
Lâm
đến
thăm
Hoằng
Vi,
Hoằng
Vi
cùng
ngồi
ăn,
song
vẫn
một
mình
ăn
đồ
chay.
Huệ
Lâm
nói:
"Đàn
việt
bản
thân
đã
nhiều
bệnh,
lúc
này
xương
thịt
lại
gầy
gò;
sau
ngày
tang,
sao
vẫn
không
chịu
ăn
uống
như
thường?
Nếu
lấy
cái
việc
vô
ích
để
làm
hại
đời
sống,
thì
đâu
có
đúng
lẽ
được.
Hoằng
Vi
đáp:
"Việc
đổi
áo
mũ
tang,
ấy
bởi
lễ
không
vượt,
nhưng
lòng
vẫn
còn
buồn
chưa
thôi,
nên
phải
vậy".
Rồi
bèn
bỏ
ăn,
khóc
lóc
nghẹn
ngào
khôn
xiết".
Từ
chi
tiết
này,
ta
có
thể
rút
ra
hai
kết
luận
sau:
Thứ
nhất,
Lâm
có
một
cái
nhìn
khá
thực
tiễn
về
lễ
nghĩa.
Hoằng
Vi
dĩ
nhiên
là
một
trong
năm
trọng
thần
của
đầu
triều
Nguyên
gia
cùng
ngang
bậc
với
Vương
Hoa,
Vương
Đàm
Thủ,
Ân
Cảnh
và
Lưu
Trạm.
Việc
Lâm
can
gián
Vi,
do
thế
chứng
tỏ
Lâm
không
những
có
liên
lạc
mật
thiết
với
những
người
cao
cấp
này,
mà
còn
có
những
quan
hệ
tình
cảm
riêng
tư
khá
gần
gũi,
dẫn
tới
chuyện
muốn
đem
quan
niệm
lễ
giáo
của
mình
để
ảnh
hưởng
Hoằng
Vi.
Thứ
hai,
bữa
ăn
của
Lâm
với
Vi
chắc
là
một
bữa
ăn
mặn,
bởi
vì
trong
bữa
ăn
hai
người
ấy
thì
"Hoằng
Vi
dữ
chi
cộng
thưc,
do
độc
tố
thực"
-
chỉ
một
mình
Vi
ăn
chay,
giả
thiết
Lâm
chắc
ăn
cá
thịt.
Cũng
cần
nhớ
là
Vy
rất
giỏi
nấu
nướng,
đến
nỗi
cả
Văn
đế
cũng
đến
nhà
Vi
xin
nấu
ăn
-
thượng
dĩ
Hoằng
Vi
năng
doanh
thiện
tu,
thượng
tựu
cầu
thực
-
Bữa
ăn
do
Vi
đãi
Lâm
vì
thế
chắc
một
bữa
ăn
mặn.
Đương
nhiên,
việc
ăn
mặn
này
không
có
gì
đáng
ngạc
nhiên
cho
lắm,
bởi
vì
thủ
tục
ăn
chay
chưa
trở
thành
phổ
quát
vào
thời
ông.
Tăng
sĩ
ăn
chay
là
một
ngoại
lệ
hơn
là
thông
luật,
nên
Huệ
Hạo
đã
có
dịp
ca
ngợi
một
cách
nồng
nhiệt
những
vị
sư
triệt
để
thi
hành
ngoại
lệ
ấy
trong
Cao
Tăng
truyện.
Chi
tiết
thứ
hai
được
Giản
Văn
đế
nhà
Lương
ghi
lại
trong
Kim
lâu
tử
quyển
6
tờ
7b8-8a4.
Nó
đọc
thế
này:
"Hà
Thừa
Thiên
ở
tại
ghế
Thái
Tỏ
nói
giễu
Dữu
Đăng
Chi
rằng:
"Nhân
họa
đổi
thành
phúc,
ấy
chưa
chắc
đều
là
thông
minh".
Dữu
Đăng
Chi
trả
lời:
"Tôi
cũng
từng
vơi
ba
cây
ấy
cùng
giết".
Thừa
Thiên,
khi
Tạ
Hối
làm
loạn,
viết
biểu
cho
Hối
nói:
"Đương
thả
thuyền
xuống
phía
đông,
giết
ba
cây
ấy".
Cho
nên
ông
Dữu
lấy
cái
chuyện
ba
cây
để
giễu.
Thừa
Thiên
thất
sắc.
Thừa
Thiên
lại
cùng
với
đạo
nhân
Huệ
Lâm
ngồi
với
Thái
Tổ.
Thái
Tổ
sử
hai
người
đánh
cờ.
Lâm
công
chỉ
ba
con
cờ
mà
gọi
Thừa
Thiên
nói:
"Chỉ
nên
theo
dòng
thẳng
xuống
giết
ba
cây
đó".
Lâm
lập
lời
nói
tới
ba
lần.
Thừa
Thiên
lưng
toát
mồ
hôi,
hoảng
hốt
khiếp
sợ,
đến
nỗi
bèn
thua
cuộc".
Chi
tiết
này
dĩ
nhiên
nhắc
lại
việc
Thiên
tham
dự
vào
cuộc
kháng
chiến
cuả
Tạ
Hối
chống
lại
sự
giết
Từ
Tiên
Chi
và
Phó
Lượng
của
Văn
đế
vào
mùa
xuân
năm
426.
Hồi
đóng
ở
Giang
Lăng,
thả
thuyền
xuống
phía
đông
tức
xuống
Giang
Khẩu,
nhưng
bị
viện
binh
của
Đàm
Đạo
Tề
đánh
lại.
Hối
chạy
lên
bắc
Ngụy
mượn
viện
binh
Thừa
Thiên
ra
đầu
hàng,
được
sống:
Từ
ngày
ra
hàng
đến
năm
430,
Thiên
được
thăng
từ
chức
như
man
phủ
sự
lên
thượng
thư
điện
trung
lang
kiêm
tả
thừa.
Tới
lúc
Ân
Cảnh
Nhân
được
cất
làm
thượng
thư
bộc
xã
vào
năm
432
thì
Thiên
bị
Ân
đổi
làm
nội
sử
Hoạnh
Dưong,
bởi
vì
"tính
Thiên
cương
trực,
không
chịu
khuất
ý,
bạn
bè
ở
triều
đình
thường
hay
bị
khinh
vũ,
nên
đông
liệt
không
bàn
tán
Thiên
cho
Nhân
biết".
Đến
năm
439,
Thiên
được
gọi
về
triều,
giao
chức
trước
tác
tả
lang,
để
viết
quốc
sử.
Qua
năm
442,
được
bổ
làm
quốc
tử
bác
sỹ
giảng
Hiếu
kinh
cho
Hoàng
thái
tử.
Từ
năm
446,
đổi
làm
dình
uý.
Chưa
tới
nhiệm
sở
thì
vua
muốn
phong
cho
làm
thượng
thư
bộ
lại.
Vì
tiết
lộ
ý
muốn
đó,
Thiên
bị
miễn
quan,
rồi
mất
hình
như
cùng
năm,
thọ
78
tuổi.
Cứ
vào
bảng
liệt
kê
vừa
thấy,
Lâm
chỉ
đánh
cờ
với
Thiên
từ
năm
439
trở
về
sau,
khi
Thiên
đã
hơn
70
tuổi
và
ở
lại
trong
triều.
Tống
thư
viết:
"Thừa
thiên
rất
ưa
đánh
cờ,
thường
hay
đánh
bỏ
việc.
Thái
Tổ
cho
một
bộ
cờ.
Thiên
dâng
biểu
trần
tạ.
Vua
đáp:
"Cho
bộ
cờ,
sao
quyết
chẳng
phải
là
thứ
vàng
Trương
Vũ?".
Việc
Lâm
lập
lại
ba
lần
câu
nói
trào
lộng
cuả
mình,
có
lẽ
là
nguồn
gốc
cuả
cái
mô
tả
trên
của
Huệ
Hạo
về
chuyện
"Hay
đùa
giỡn,
ưa
nói
cười"
của
Lâm.
Cuối
cùng,
về
chi
tiết
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta.
Chi
tiết
gồm
có
hai
vấn
đề.
Thứ
nhất
là
vấn
đề
Lâm
bị
đuổi
và
thứ
hai
là
vấn
đề
nơi
Lâm
bị
đuổi
đến.
Vấn
đề
đầu,
tất
cả
những
tư
liệu
trước
thời
Huệ
Hạo
cũng
như
sau
ông
đều
nhất
loạt
nói
tới.
Chúng
ta
có
báo
cáo
của
Hà
Thượng
Chi,
Hà
Thừa
Thiên,
Trầm
Ước,
Lý
Diên
Thọ,
Đạo
Tuyên
và
Hoài
Tín.
Lý
do
cho
việc
đòi
đuổi
Lâm
nằm
trong
truyện
Lâm
viết
Bạch
hắc
luận
hay
Quân
thiện
luận.
Thế
thì
cuốn
luận
nay
viết
ra
lúc
nào?
Ở
trên,
chúng
tôi
đã
vạch
ra
cái
báo
cáo
của
Hà
Thượng
Chi,
nhưng
đã
vạch
ra
một
cách
nửa
chừng,
bởi
vì
trước
khi
bắt
đầu
với
"lúc
bấy
giờ",
Chi
đã
cho
ta
biết
"lúc
bấy
giờ"
ấy
là
lúc
nào.
Toàn
phần
báo
cáo
đấy
bây
giờ
có
thể
đọc
thế
này:
"Nguyên
gia
năm
thứ
12
tháng
5
ngày
Ất
Dậu
có
ty
tấu
Đan
dương
doãn
là
Tiêu
Mộ
Chi
dâng
lời
nói
rằng:
"Phật
giáo
đã
phát
triển
tới
Trung
Quốc
trải
tới
bốn
triều
đại,
chùa
tháp
hình
tượng
ngày
nay
kể
tới
số
ngàn,
có
thể
làm
động
lòng
đùn
bước
để
được
chiêu
khuyến.
Nhưng
từ
mấy
lúc
nay,
lòng
tín
của
người
ta
ít
ỏi.
Họ
không
lấy
sự
tinh
thành
làm
mục
đích,
lại
lấy
sự
cạnh
tranh
xa
hoa
là
quí
trọng.
Chùa
cũ
đổ
nát
thì
chẳng
có
ai
sửa
chữa,
mà
một
người
lại
muốn
riêng
tạo
ra
một
chùa
mới,
để
tự
khoe
khoang
với
nhau.
Nên
đất
hẹp
nhà
sang
đến
nay
đều
hết.
Săng
gỗ
tre
nứa,
vàng
đồng,
gấm
vải,
tốn
không
kể
xiết.
Thật
là
vượt
sự
vừa
phải,
trái
với
chế
định,
nên
gia
kiểm
soát.
Nếu
không
làm
để
ngăn
ngừa
giòng
tục
chưa
dứt.
Xin
rằng,
từ
nay
trở
đi
ai
muốn
đúc
tượng
đều
phải
đến
kinh
sư
để
xin
phép,
ai
muốn
tạo
dựng
chùa
tháp
tinh
xá
trước
hết
phải
đến
châu
thú
sở
tại,
trình
bày
đầu
đuôi
rõ
ràng,
y
việc
bày
lời,
các
châu
tất
phải
báo
cho
phép,
sau
đó
mới
được
khỉ
công.
Giả
như
có
ai
tự
túc
tượng
đồng,
tự
làm
chùa
tháp
thì
vì
không
dựa
vào
chiếu
thư
luật
luận,
đồng
vàng
săng
gỗ
ngói
gạch
đều
thu
nhập
quan
khố.
Vua
đồng
ý
với
lời
tấu.
Lúc
bấy
giờ
có
Sa-môn
Huệ
Lâm
giả
mặc
áo
thầy
tu
mà
tự
phá
hoại
đạo
mình,
làm
ra
quyển
Bạch
hắc
luận.
Thái
thú
Hoạnh
Dương
Hà
Thừa
Thiên
cùng
Lâm
đọ
giáo,
giúp
nhau
kích
dương,
viết
Đạt
tính
luận..."
Nguyên
gia
năm
thứ
12
tức
năm
435.
Vào
năm
435
như
vậy
Bạch
hắc
luận
đã
ra
đời,
để
cho
Hà
Thượng
Chi
kết
tội
Lâm
là
"giả
mặc
áo
thầy
tu
mà
tự
phá
hủy
đạo
mình"
Do
đó
chúng
ta
biết
chắc
chắn
là,
Lâm
phải
viết
nó
trước
năm
435.
Tiếp
đến,
trong
những
thư
từ
qua
lại
giữa
Tôn
Bính
và
Hà
Thừa
Thiên
về
cuốn
Bạch
hắc
luận,
mà
Tăng
Hựu
đã
cho
sưu
tập
lại
trong
Hoằng
minh
tập
quyển
3,
Bính
luôn
luôn
gọi
Thiên
là
Hà
Hoạnh
Dương,
tức
ông
họ
Hà
ở
Hoạnh
dương.
Cứ
bảng
liệt
kê
chức
tước
của
Thiên
trên,
ta
biết
năm
432
Ân
Cảnh
Nhân
đổi
Thiên
ra
làm
nội
sứ
quân
Hoạnh
Dương.
Thiên
làm
việc
ở
quận
này
cho
tới
năm
439
mới
được
gọi
về
triều.
Như
báo
cáo
của
Hà
Thượng
Chi
nêu
lên,
năm
435
Thiên
đã
cùng
với
Lâm
giúp
nhau
kích
dương
Bạch
hắc
luận.
Do
vậy,
mặc
dù
tiểu
sử
của
Thiên
không
bao
giờ
nói
Thiên
giữ
chức
thái
thú
quận
Hoạnh
Dương,
như
Thượng
Chi
điểm
chỉ
và
Huệ
Hạo
ghi
lại,
điểm
chắc
chắn
là,
Bạch
hắc
luận
phải
ra
đời
trước
năm
435
và
rất
có
thể
trước
năm
433.
Rất
có
thể
trước
năm
433,
bởi
vì
trong
lá
thư
đầu
tiê
gởi
kèm
theo
cuốn
Quân
thiện
luận
cho
Tôn
Bính
đọc
và
phê
bình
Hà
Thừa
Thiên
kể
việc
Huệ
Lâm,
sau
khi
viết
Quân
thiện
luận,
bị
chúng
tăng
đòi
tẩn
xuất,
vì
họ
coi
sự
viết
nó
như
một
ba
la
di,
nhưng
nhờ
che
chở
của
Văn
đế
mà
được
cứu.
Để
một
nhà
sư
có
uy
lực
và
danh
tiếng
như
Huệ
Lâm
bị
đòi
lột
áo
thầy
tu
và
đuổi
cổ;
đặc
biệt
khi
chúng
ta
biết
Lâm
vào
năm
426
đã
chính
thức
vào
làm
cố
vấn
cho
Văn
đế
và
đã
có
những
liên
lạc
khá
mật
thiết
với
những
danh
sĩ
đương
thời
như
Tạ
Linh
Vận,
mà
cao
đức
Huệ
Viễn
gần
hai
mươi
năm
trước
đây
đã
cho
người
gọi
về
Lô
sơn
viết
tán,
chắc
hẳn
một
công
luận
đã
được
tạo
ra.
Thời
gian
để
cho
một
công
luận
như
thế
thành
hình,
sau
khi
ra
đời
của
Bạch
hắc
luận
tất
không
thể
ngắn
ngủi,
cứ
vào
phương
tiện
truyền
đạt
và
thông
tin
thời
bấy
giờ.
Hà
Thừa
Thiên
đã
chú
ý
đến
nó,
sau
lúc
nó
đã
tạo
ra
những
bàn
tán
xôn
xao
và
dị
nghỉ
chỉ
trích,
như
chính
việc
nói
tới
ba
la
di
trong
lá
thư
của
ông.
Vì
vậy,
giả
như
Thiên
nhận
được
cuồn
luận
cuả
Lâm
chậm
nhất
là
vào
năm
433,
thì
tối
thiểu
một
năm
phải
trôi
qua
trước
khi
nhận
sự
việc
do
Thiên
ghi
lại
xảy
ra.
Quân
thiện
luận
do
thế
có
thể
viết
năm
433
hay
sớm
hơn.
Nói
năm
434
là
năm
chậm
nhất,
để
Thiên
nhận
cuốn
luận
của
Lâm,
bởi
vì
mùa
hè
năm
435
Hà
Thượng
Chi
và
Tống
Văn
đế
đã
nói
tới
cuộc
bút
chiến
giữa
Tôn
Bính,
Nhan
Diên
Chi
và
Thiên.
Năm
34
từ
đó
phải
để
ra
cho
cuộc
bút
chiến
xảy
ra.
Ít
nhất
là
12
lá
thư
và
luận
văn
đã
viết
về
Quân
thiện
luận
và
vấn
đề
nó
đề
lên,
như
Hoằng
minh
tập
ngày
nay
đã
có.
Thời
gian
cho
số
lượng
thư
từ
này
lui
tới
tối
thiểu
cũng
phải
sáu
tháng
cho
đến
1
năm,
đặc
biệt
khi
những
người
liên
hệ
không
một
ai
đã
sống
tại
kinh
đô
Kiến
Nghiệp.
Quân
thiện
luận
như
vậy
phải
viết
năm
433,
nếu
không
sớm
hơn,
sau
vụ
bàn
cãi
Biện
tôn
luận
của
Tạ
Linh
Vận
vào
năm
423.
Khi
đã
viết
Quân
thiện
luận,
Lâm
gặp
phải
những
phản
ứng
khá
mãnh
liệt
từ
tập
thể
tăng
già
Trung
Quốc
thời
bấy
giờ,
biểu
hiện
qua
việc
đòi
lột
áo
thầy
tu
của
Lâm.
Họ
coi
Lâm
đã
phạm
một
ba
la
di
khi
viết
nó.
Quả
thật,
nếu
Lâm
dám
bảo
"Thích
Ca
biện
nhi
bất
thật"
thì
người
ta
có
thể
hỏi,
sao
Lâm
vẫn
còn
nhận
mình
là
"người
con
tinh
thần
cuả
Thích
Ca",
là
"Thích
Tử".
Để
hiểu
tại
sao
một
sự
tình
như
thế
này
có
thể
xảy
ra,
ở
đây
mặc
dù
phê
bình
một
số
học
thuyết
của
"Phật
giáo",
một
số
Phật
tử
vẫn
nhận
mình
là
"con
Phật",
chúng
ta
cần
nhìn
đến
tình
trạng
Phật
học
tổng
quát
của
giới
trí
thức
và
Tăng
lữ
lúc
ấy.
Kể
từ
ngày
Phật
giáo
truyền
tới
Trung
Quốc,
kinh
điển
thường
là
những
suối
nguồn
cuả
tin
yêu
nhiều
hơn
là
bàn
cãi.
Nhưng
bắt
đầu
cuối
thế
kỷ
thứIII
đầu
thế
kỷ
thứ
IV,
một
phong
trào
Phật
thực
sự
ra
đời,
phát
triển
song
song
với
và
cung
cấp
chủ
đề
nghĩ
suy
cho
phong
trào
huyền
học
thanh
đàm,
và
Vu
Đạo
Thúy
có
thể
coi
như
là
người
khởi
xướng,
và
chủ
đề
bàn
cãi
là
vấn
đề
sắc
không
của
kinh
Bát
nhã.
Viết
tựa
cho
Tỳ
ma
la
cật
đế
kinh
nghĩa
sớ
vào
khoảng
năm
409,
Tăng
Duệ
nói:
"Từ
gió
huê
đông
thổi,
lời
pháp
chảy
vang
đến
nay,
tuy
ngày
àng
thêm
chỗ
tiảng,
nhưng
sự
cách
nghĩa
xa
vời,
trái
với
lời
cỗi
gốc,
nên
sáu
nhà
thiên
trệch
mà
không
rõ
tôn
chỉ
của
tính
không".
Sáu
nhà
là
ai?
Nhờ
một
chút
dẫn
của
Nguyên
Khương
đời
Đường
trong
Triệu
luận
sớ,
người
ta
biết,
sáu
nhà
này
là
sáu
nhà
chủ
trương
những
cắt
nghĩa
khác
nhau
về
vấn
đề
sắc
không.
Đó
là
thuyết
bản
vô
của
Đạo
An,
bản
vô
dị
của
Pháp
Thân,
tức
sắc
của
Chi
Đạo
Lâm,
thức
hàm
của
Vu
Pháp
Khai,
huyễn
hóa
cuả
Đạo
Nhất,
vô
tâm
vô
của
Pháp
Ôn
và
duyên
hội
của
Vu
Đạo
Thúy,
trong
đó
thuyết
của
An
và
Thâm
hình
như
bị
Duệ
đồng
nhất.
Trong
số
sáu
học
thuyết
về
sắc
không
này,
thuyết
của
Thúy
dĩ
nhiên
là
xưa
nhất,
bởi
vì
Thúy
sinh
khoảng
290
tại
Đôn
hoàng
và
mất
trên
đất
nước
ta
khoảng
năm
320
lúc
mới
31
tuổi.
Cứ
Trung
luận
sở-ký,
"Vu
Đạo
Thúy
viết
Duyên
hội
nhị
đế
luận,
nói
rằn,
Duyên
gặp
nhau
nên
có,
ấy
là
tục
đế,
suy
chiết
nó
thì
không,
ấy
là
chân
đế,
ví
như
săng
gỗ
hiệp
lại
làm
thành
nhà,
nha
không
có
cái
thực
chất
hiện
hữu
ở
trước
nó,
nó
do
thế
có
tên
mà
không
có
thực,
cho
nên
Phật
bảo
La-đa:
"Sắc
tướng
diệt
hoại
thì
thấy
được
cái
không".
Chỉ
một
vấn
đề
sắc
không,
mà
trong
một
thế
kỷ
tối
thiểu
sáu
học
thuyết
khác
nhau
đã
ra
đời.
Tình
trạng
ấy
bước
đến
đầu
thế
kỷ
thứ
V
càng
trở
thành
trầm
trọng
hơn,
vì
những
trường
phái
Phật
giáo
mới
xuất
hiện
ở
Ấn
Độ
và
sự
giao
thương
liên
tục
giữa
Trung
Quốc
và
Ấn
Đô
của
những
nhà
truyền
giáo
và
tìm
đạo,
dẫn
tới
việc
truyền
thừa
nhiều
kinh
điển
chứa
đựng
những
học
thuyết
khác
nhau.
Mỗi
một
người
theo
một
trường
phái
kích
bác
những
trường
phái
khác,
cho
chúng
là
tà
thuyết.
Mỗi
một
người
theo
một
giới
luật,
kích
bác
những
giới
luật
khác,
cho
chúng
là
phi
pháp.
Ta
có
trường
hợp
Giác
Hiền,
dịch
giả
của
Bộ
Hoa
Nghiêm
vĩ
đại,
bị
tẩn
xuất
khỏi
dịch
trường
La
Thập.
Ta
có
sự
tình
Đạo
Sanh
bị
tẩn
xuất
khỏi
chùa
Thạch
viên
và
phải
đến
ở
núi
Hổ
Khưu,
vì
giảng
thuyết
xiển
đề
có
thể
thành
Phật,
mà
Huệ
Hạo
viết:
"Cựu
học
cho
là
tà
thuyết,
chê
bai
tức
giận
rất
nhiều,
họ
liền
trình
ra
cho
đại
chúng,
đại
chúng
lột
áo
đuổi
cổ
đi".
Thậm
chí
có
cái
thuyết
khá
tân
kỳ
của
Pháp
Độ,
"nói
rằng,
chỉ
chuyên
học
tiểu
thừa,
cấm
học
Phương
đẳng,
chỉ
lạy
Thích
Ca,
không
lạy
thập
phương
Phật,
ăn
dùng
bát
đồng,
không
dùng
gì
khác,
lại
khiến
các
ni
nắm
tay
nhau
mà
đi".
Huệ
Hạo
phải
nhận
xét:
"Nhưng
cũng
may
đạt
lượng
quân
tử
chưa
từng
quay
gót
bước
lui,
chỉ
ni
chúng
dễ
tin,
trước
theo
sự
giáo
hóa
của
nó.
Thật
nữ
nhân
lý
giải
khó
thỏa,
sự
tích
dễ
bày,
nghe
nhân
quả
thì
tức
khắc
quay
lưng,
thấy
biến
thuật
thì
bôn
ba
theo
chạy.
Cái
gọi
là
theo
nhau
mà
rớt,
chính
là
đây
vậy".
Rồi
có
chuyện
ngồi
xoạc
chân
ra
mà
ăn,
như
những
cãi
cọ
giữa
Phạm
Thái,
cha
của
Việp,
và
Huệ
Nghĩa,
Huệ
Quan,
mà
Tăng
Hựu
cho
phép
ra
trong
Hoằng
minh
tập.
Cũng
chính
trong
cuộc
cãi
cọ
này,
Thái
ghi
lại
cái
thuyết
"vô
sanh
Phương
đẳng
giải
thị
ma
thơ".
Quả
thật,
Phật
giáo
tiền
bán
thế
kỷ
thứ
V
tại
Trung
Quốc
đang
rơi
vào
một
giai
đoạn
trưởng
thành
mới.
Trong
tình
trạng
đó,
nếu
Huệ
Lâm
có
bị
tẩn
xuất,
chúng
ta
cũng
không
có
gì
ngạc
nhiên
hết.
Ngay
cả
một
người
với
phẩm
cách
của
Đạo
Sanh,
mới
chỉ
nói
tới
xiển
đề
thành
Phật,
là
đã
bị
gọi
là
nói
tà
thuyết
và
bị
lột
áo.
Huống
nữa
là
Lâm
vói
những
ăn
nói
kiểu
"Thích
Ca
biện
nhi
bất
thật".
Điểm
đáng
chú
ý
hơn
nữa
là,
trong
khi
Hạo
chỉ
ghi
Lâm
bị
"đuổi
ra
Giao
Châu",
cả
Tống
thư
lẫn
Nam
sử
đều
xác
định
một
cách
rõ
ràng,
kẻ
chủ
động
trong
vụ
tẩn
xuất
là
"cựu
tăng",
một
từ
ngữ,
mà
Hạo
đã
dùng
khi
mô
tả
việc
Sanh
bị
đuổi.
Lâm
viết
Quân
thiện
luận
năm
433.
Những
bàn
cãi
trên
cho
thấy,
Lâm
vẫn
đang
còn
tại
kinh
đô
Kiến
nghiệp
cho
tới
tối
thiểu
khi
Văn
đế
bị
bàn
tay
con
mình
giết
vào
năm
453
và
sự
che
chở
của
Văn
đế
chấm
dứt.
Như
trường
hợp
của
Đạo
Sanh,
khi
bị
đuổi,
Lâm
chắc
rời
chùa
Trị
Thành
đến
ở
những
chùa
khác.
Đạo
Sanh
sau
lúc
bị
đuổi,
tới
núi
Hổ
Khưu,
rồi
một
thời
gian
sau
dời
tới
ở
Lô
Sơn
và
mất
ở
đấy
vào
tháng
10
năm
Nguyên
Gia
thứ
11
(434).
Đưa
đám
Sanh,
Lâm
đứng
ra
làm
bài
truy
điệu.
Một
tháng
sau,
Pháp
Cương,
người
đã
viết
thư
chung
với
Lâm
cho
Tạ
Linh
Vận,
cũng
mất
tại
núi
Hổ
Khưu.
Một
lần
nữa,
Lâm
nhận
trách
nhiệm
viết
truy
điệu
Cương.
Cả
hai
bài
truy
điệu
này,
Đạo
Tuyên
đã
bảo
tồn
lại
trong
Quảng
hoằng
minh
tập
quyển
23
ĐTK
2103
tờ
265b3-266b2.
Đọc
qua
chúng
ta
sẽ
có
dịp
thấy
Lâm
có
những
tình
tự
gì
đối
với
đồng
đạo
của
mình,
sau
khi
lên
tiếng
phê
bình
gắt
gao
Phật
giáo
thời
ông.
Bài
truy
điệu
về
Sanh
đã
làm
tư
liệu
cho
Huệ
Hạo,
khi
Hạo,
khi
Hạo
viết
tiểu
sử
của
Sanh
trong
Cao
Tăng
truyện
quyển
7,
nhưng
không
đóng
góp
một
cách
trực
tiếp
vào
sự
hiểu
biết
hành
trạng
của
Lâm
trong
liên
hệ
với
Sanh.
Tuy
thế,
để
cho
thấy
Lâm
đã
có
những
tình
tự
gì
đối
với
đồng
đạo
mình
và
văn
tài
siêu
việt
thế
nào,
chúng
tôi
cho
dịch
lại
từ
đây.
"Nguyên
Gia
năm
thứ
11
mùa
đông
tháng
10
ngày
Canh
Tý
Đạo
Sanh
pháp
sư
mất
ở
Lô
Sơn.
Ô
hô
ai
tai!
Người
hiền
cáo
tận!
Sự
đau
xót
ấy
không
cạn,
Lẽ
chung
bảo
mất,
sự
tiếc
thương
âý
lại
sâu.
Pháp
sư
vốn
giòng
họ
Ngụy,
người
Bành
Thành
vậy.
Cha
là
huyện
lịnh
Quảng
Thích,
nhỏ
mà
kỳ
tài,
dắt
tới
Pháp
Thải
pháp
sư,
đổi
áo
theo
học,
thiên
bẩm
thông
mậu,
tự
ngộ
xưa
cao.
Năm
đang
chí
học,
đã
lên
tòa
giảng.
Vọng
đạo
tài
năng,
sĩ
phu
tiếng
nổi,
thời
ấy
chẳng
ai
mà
chẳng
hết
lời
cùng
nghĩ,
phục
sự
tinh
trí,
Lỗ
Liên
làm
chịu
Điền
Ba,
Hạng
Thác
bả
lý
già,
Khổng,
thật
không
kịp
vậy.
Gia
dĩ
tính
tình
trầm
lặg
và
cương
trực,
khí
ý
hòa
hiệp
mà
dễ
theo,
hỷ
xả
để
mà
cứu
dụ,
nên
người
càng
trọng.
Đến
tuổi
trung
niên,
du
học
rộng
tìm
dị
văn
từ
miền
Dương
Việt
lên
tới
Tây
Tần,
trèo
núi
Lỗ
Nhạc,
đạp
lối
Hoạnh
Sơn,
ý
nghĩa
Đại
thừa
của
La
Thập,
yếu
chỉ
tiểu
đạo
của
Đề
Bà,
người
đều
rõ
biết,
rộng
nắm
sự
sâu
sắc.
Chỗ
nghe
càng
ưu,
chỗ
thấy
lúc
mỗi
cao;
nên
đã
hiểu
rằng,
hình
tượng
là
chỗ
nương
của
lý
lẽ,
ôm
chặt
hình
tượng,
lẽ
tất
phải
mê,
lời
dạy
là
nhân
có
giáo
hóa,
giữ
chặt
lòi
dạy,
giáo
hóa
phải
ngu.
Do
thế,
trưng
danh
trách
thật
thì
tất
phải
lầm
sai
ở
việc
hư
đản,
tìm
tâm
ứng
sự
thì
tất
phải
mê
muội
trước
lời
cách
nghĩa.
Từ
ngày
Phật
giáo
truyền
tới,
Trung
Hoa
học
theo,
chưa
từng
hay
sản
xuất
một
người
thành
công
như
thế
đấy,
bèn
bắt
mê
riêng
đổi,
để
dấu
còn
tích,
các
kinh
mây
vạch,
mọi
nghi
sạch
rõ,
ý
chỉ
Thích
Ca
nhạt
tỏ
dễ
tìm,
quái
gỡ
những
lời,
đều
thành
bàn
suốt.
Làm
duỗi
danh
giáo
Đam
Chu,
nắm
lấy
huyền
tâm
Tú
Bật,
nhờ
thế
mà
dễ.
Nhưng,
vật
sợ
sáng
lạ,
ngưòi
ghét
cao
trình,
giận
nhóm
đồng
phục,
ưa
bè
kết
lũ.
Chúng
bèn
dang
cánh
co
chân,
dẹp
ảnh
người
vào
nơi
hang
huyệt,
theo
che
chí
đạo,
quăng
dấu
ngưòi
tới
chốn
ông
Ngu.
Vết
chân
lên
thuyền,
có
đi
không
lại,
mạng
bỏ
núi
non,
buồn
khắp
đô
thị.
Ô
hồ
buồn
thay!.
- Dòng
trong
Tứ
Biện
- Núi
cao
Lữ
lương
- Trong
kinh
chốn
ấy,
- Đức
minh
tuấn
này
- Như
lan
của
cỏ
- Như
ngọc
của
đá
- Chẳng
phải
xông
khắc,
- Cũng
thành
sặc
sỡ
- Lúc
nhỏ
dốc
học,
- Lòng
ôm
huyền
lý
- Nghe
qua
đã
rõ
- Vạch
văn
tìm
ý
- Nhỏ
đã
giảng
tòa,
- Lời
chương
đều
chẻ
- Nói
ít
nhằm
lành
- Không
kể
văn
vẻ
- Người
biết
trọng
theo
- Trung
niên
xét
dại
- Chưa
rõ
hết
lẽ
- Vì
thế
ra
đi
- Tìm
học
uyên
vi
- Tuy
gặp
lời
hay
- Càng
biết
gần
giống
- Đường
cùng
hết
ngõ
- Quay
xe
trở
lui
- San
bằng
mọi
khó
- Xiển
dương
giáo
pháp
- Chân
gì
cũng
tuôn
- Tối
gì
cũng
tỏ
- Như
trời
mới
rạng
- Ánh
tỏa
sáng
rõ
- Tứ
quả
thập
địa
- Dựa
để
sóng
gió
- Đổi
làm
ngựa
trâu
- Chứa
đựng
chim
cá
- Ai
vạch
thật
này
- Chẳng
mê
đạo
đó
- Nghĩ
mãi
điều
đây
- Cùng
người
mở
nói
- Đạo
thành
ở
đây
- Chúng
nghe
đều
đông
- Không
chỉ
chống
lại
- Trách
chê
đa
văn,
- Ta
cho
không
hại
- Khuyên
nên
nói
truyền
- Người
biết
trinh
thành
- Hiểu
dạy
càng
chuyên
- Lặng
lẽ
bỏ
lớn
- Thôi
không
lên
tiếng
- Ở
nhiều
thành
tật
- Sống
ẩn
rừng
tre
- Nghĩ
nấp
đầu
suối
- Trải
nhiều
nhàn
gởi
- Nói:
Nhân
giả
thọ
- Mạng
sống
sợi
treo
- Tằng
không
vĩnh
cửu
- Lan
bồ
nối
loại
- Khí
chợt
bi
thương
- Ô
hô
buồn
thay!
- Nghĩ
mới
vừa
thăm
- Ba
thu
đang
nhớ
- Gió
lạnh
dòng
trong
- Mây
cao
rừng
trắng
- Đưa
nhau
bến
nam
- Chia
tay
rẽ
ngõ
- Đi
đứng
mang
mang
- Buồn
buồn
tình
ngó
- Ẩn
dật
quen
dòng
- Mỗi
theo
lối
cũ
- Lo
sợ
mãi
chia
- Trở
thành
vĩnh
cửu
- Ô
hô
buồn
thay!
- Gió
ngược
lên
làm
tiếng
dứt
- Mây
đưa
đi
khiến
không
còn.
- Ba
động
xa
tít
đã
hết
- Tuổi
hiền
chuyển
tới
xuân
đang
- Nghe
tiếng
chim
ca
mà
lòng
rộng
- Ngắm
khí
trời
mà
hòa
chan
- Nghĩ
sở
trường
dưới
trăng
ấy
- Tin
đạo
nghiệp
vào
lúc
lành
- Nhớ
giảng
đường
khi
thăm
vắng
- Thương
cao
tòa
lúc
nghe
không
- Tham
việc
nhân
để
xót
lý
- Buồn
duyên
khả
để
nhớ
ông
- Ô
hô
buồn
thay!
- Trời
đất
khả
thám
- Lẽ
không
một
mai
- Chúng
đều
cùng
nhóm
- Ngắn
ngủi
gọn
tình
- Tình
còn
để
lại
- Ngắn
lời
không
đủ
- Nhờ
để
tả
buồn
- Ô
hô
buồn
thay!".
Bài
truy
điệu
này,
như
chính
câu
mở
đầu
thú
nhận
viết
vào
tháng
10
năm
Nguyên
Gia
thứ
11,
tức
năm
434.
Nột
số
văn
cú
đã
để
lộ
ra
không
ít
những
quan
hệ
tình
cảm
và
lý
thuyết
giữa
Huệ
Lâm
và
Đạo
Sanh.
Không
khác
gì
Lâm,
Sanh
sau
khi
bị
tẩn
xuất
khỏi
chùa
Thanh
Viên,
khi
ông
tuyên
truyền
thuyết
xiển
đề
thành
Phật,
dựa
trên
quan
niệm
kinh
Niết
bàn
do
Pháp
Hiển
mang
về
Trung
Quốc
vào
năm
412.
Đây
là
theo
báo
cáo
của
Cao
Tăng
truyện.
Cứ
chính
truy
điệu
của
Lâm,
thì
Sanh
bị
tẩn
xuất
vì
đã
phê
bình
một
số
nhà
sư
dùng
"tứ
quả
thập
địa,
dựa
lên
để
làm
sóng
gió"
để
"mê
hoặc
mọi
người
với
chuyện
hư
đản",
ăn
nói
"những
lời
quái
gở".
Chúng
ta
dĩ
nhiên
không
thể
xác
định
một
cách
quái
gở".
Chúng
ta
dĩ
nhiên
không
thể
xác
định
một
cách
dứt
khoát
sự
thật,
bởi
vì
chúng
đều
đúng.
Hạo
vì
những
ác
cảm
đối
với
Lâm,
hắn
đã
bỏ
lý
do
cá
nhân
mà
Lâm
ghi
lại.
Cứ
vào
bài
truy
điệu,
Lâm
đã
có
những
liên
lạc
với
Sanh,
khi
Sanh
trở
về
Kiến
Nghiệp,
sau
buổi
đi
học
với
La
Thập,
lúc
Sanh
sống
ở
chùa
Thanh
Viên,
khoảng
những
năm
414.
Từ
đấy
cho
tới
khi
Sanh
chết
trước
3
năm,
chúng
ta
không
biết
một
tí
gì
hết.
Nhưng
ba
năm
trước
khi
Sanh
mất,
Lâm
đến
thăm,
như
những
mô
tả
buổi
chia
tay
đầy
thương
yêu
và
xót
xa
cuả
Lâm
chứng
tỏ.
Bằng
những
lời
lẽ
của
bài
truy
điệu,
đặc
biệt
là
ở
4
câu
cuối
cùng
"ngắn
ngủi
gọn
tình,
tình
còn
để
lại,
đoàn
chương
không
đủ,
nhớ
để
tả
buồn",
thì
Lâm
và
Sanh
vẫn
tiếp
tục
thăm
viếng
nhau,
kể
từ
khoảng
năm
414
trở
đi,
khi
Sanh
bị
đuổi
khỏi
chùa
Thanh
Viên,
và
đã
có
những
mối
tình
đậm
đà
với
nhau.
Lâm
chắc
hẳn
đóng
một
vai
trò
nào
đấy
trong
quyết
định
tuyên
bố
quan
điể
mình
của
Sanh,
bởi
Lâm
viết:
"Ta
cho
không
hại,
khuyên
nên
nói
truyền".
Bài
truy
điệu
cuả
Lâm
như
vậy
nói
lên
khá
nhiều
tình
tự
của
Lâm
như
một
nhà
sư
Phật
giáo.
Nhưng
bài
truy
điệu
viết
nhân
lúc
Pháp
Cương
mất
lại
càng
để
lộ
ra
nhiều
hơn
nữa,
cho
ta
thấy
một
cách
hầu
như
phơi
bày
tất
cả
tâm
niệm
khá
đau
lòng
cũng
như
những
u
tình
rất
trắc
ẩn
cuả
cuộc
đời
Lâm.
Nó
có
thể
nói
phản
chiếu
trọn
vẹn
khuôn
mặt
nội
tâm
cuả
một
con
người,
mà
Huệ
Hạo
đã
mô
tả
một
cách
khá
sai
lầm
là
"ưa
đùa
giỡn,
hay
nói
cười".
Nó
đọc
thế
này:
"Nguyên
Gia
năm
thứ
11
tháng
11
ngày
Tân
Tỵ,
Pháp
Cương
pháp
sư
mất.
Ô
hô
buồn
thay!
Rằng,
đứng
cao
sửa
vuông
đa
hại
suốt
thông,
theo
thấp
sánh
tròn
lại
thiếu
cứng
sạch;
ở
núi
mắc
cái
tội
ốm
gầy,
sống
làng
gặp
cái
bệnh
ồn
hẹp.
Chọn
lấy
hai
tình
mà
bỏ
đi
đôi
việc,
pháp
sư
quả
đã
có
chúng
vậy.
Ít
đến
kinh
thành,
luôn
ngại
rừng
thẳm,
vui
chí
mà
đi,
theo
tình
mà
đến,
chán
nhàm
giòng
đời,
tìm
nhàn
nơi
cây
đá,
lòng
luyến
hang
động,
mong
vui
ở
ngoại
vật.
Chứng
cho
không
đặc
tháo,
ta
thấy
bậc
làm
thầy,
thật
vậ.
Tính
trời
minh
thông,
luyện
dần
phong
vị,
tình
lý
thung
dung,
thường
giỏi
văn
nghĩa.
Giao
du
chân
thật
hết
chỗ
giống.
Nhắm
đích
mến
yêu
đạo
trường
tồn.
Chôn
thân
áo
pháp,
lụy
cân
đai
sớm
dứt.
Cao
gót
đất
thần,
chướng
dân
vua
xưa
bỏ.
Huống
nữa,
vết
cao
xa
cuả
tăng
môn,
há
dẫn
đường
bọn
xu
phục?
Xưa
nhân
gặp
gỡ,
xuống
đỗ
xe
kết
giao,
cùng
nhau
xuống
tóc,
càng
hiệp
vui
hơn,
bày
nhung
giải
nhớ,
để
gởi
tháng
năm.
Bèn
dắt
tay
đi
Lương,
đọ
cánh
đến
Đặng,
hưởng
gió
núi
thiêng,
mang
đạo
bến
thẳm,
so
vui
bằng
yến;
ngàn
dặm
một
khắc,
từ
đấy
rừng
đổ
chim
bay,
bỗng
chốc
đầy
tuổi.
Người
đậu
cành
cao,
ta
chìm
bùn
cặn,
thường
mong
gặp
Tăng
Bốc
cùng
ở,
thì
hóa
thành
mối
sông
núi
biệt
ly
của
Lương
Cao.
Sóng
đông
không
lại,
tây
cảnh
chẳng
thu,
hết
chỗ
dòng
trôi,
cốt
về
đồi
Tặng.
Ô
hô
buồn
thay!
Xin
truy
điệu
rằng:
- Dòng
ông
họ
Ân
- Thật
con
cháu
Thang
- Tiếng
vinh
dấu
ẩn
- Nguyên
lưu
sáng
choang
- Nhỏ
gặp
đau
yếu
- Nhà
không
áo
manh
- Cô
hiền
nuôi
nấng
- Nhờ
thế
dưỡng
thành
- Đến
thời
ba
bốn
- Dĩnh
đặc
thông
minh
- Sánh
Song
Kỳ
đẹp
- Ngang
Ngẩu
La
thông
- Lòng
chê
Trung
Quốc
- Trí
với
cảnh
thần
- Cởi
bỏ
đời
gần
- Mến
yêu
duyên
vĩnh
- Đã
theo
dấu
huyền
- Rõ
hiểu
danh
tích
- Nhân
nghĩa
bỏ
ngoài
- Toàn
không
chút
tiếc
- Ý
nhà
chẳng
thỏa
- Rồi
cũng
phải
thích
- Không
thèm
quan
chức
- Chọn
sống
động
hang
- Đến
không
ướt
chân
- Đi
không
mất
cánh
- Lừng
lựng
bay
lên
- Tới
lui
thêm
bớt
- Ta
ghét
phù
ba
- Người
hay
tức
tâm
- Đồng
vung
ơn
đạo
- Cùng
nhóm
rừng
đức
- Gió
hòa
cùng
phới
- Cùng
nghe
tiếng
bậc
- Ta
bước
về
đô
- Người
như
trước
mặt
- Đi
giảng
xa
xôi
- Lòng
nhớ
dằng
dặc
- Đến
khi
rời
xa
- Đạo
thời
vằng
vặc
- Người
xa
núi
xưa
- Ta
về
cung
bặt
- Với
nhau
cùng
xe
- Dưới
bóng
nghỉ
mát
- Tro
lạnh
khói
tàn
- Lá
rụng
chẳng
dứt
- Ước
trái
không
theo
- Người
bèn
xuống
đất
- Chúng
bảo
mất
mang
- Gió
nhớ
ức
uất.
Ô
hô
buồn
thay!
Đêm
đông
lạnh
lẽo,
tiêu
điều
ven
sông,
gió
xe
màn
toạc,
tuyết
rot
vào
tròng...
mạng
người
ngắn
đứt,
đường
về
ngái
mong,
xót
xa
kẻ
mất,
lặng
lẽ
khóc
ròng,
một
mình
cô
lữ,
Trời
đất
chẳng
trông.
Ô
hô
buồn
thay!
Mong
đến
sống
đất
Hổ
Khưu,
thương
mất
mờ
nơi
Lô
Lĩnh,
nghĩ
hái
lộc
tại
hoa
kinh,
nhớ
dắt
tay
ngoài
phiên
cảnh,
tình
phiêu
diễu
ở
đôi
sườn,
trí
triền
miên
miền
Lưỡng
Tỉnh,
sao
ràng
buôc
hề
không
dứt,
lòng
nhớ
nhung
hề
dằn
vặt,
gió
đông
hề
đã
hết,
nắng
hè
nực
hề
vừa
mất,
bốn
mùa
đổi
thay
rối
rít,
tình
càng
sâu
để
dấu
lâu,
nếu
lai
duyên
quả
chẳng
mất,
xin
gói
trọn
sanh
niên
để
xót
xa.
Ô
hô
buồn
thay!".
Đấy
là
bài
truy
điệu
do
Lâm
viết
cho
pháp
sư
Pháp
Cương.
Đọc
nó,
ta
có
thể
thấy
một
cách
khá
trọn
vẹn
nỗi
đớn
đau
tâm
trạng
của
Lâm,
không
những
đối
với
người
bạn
vừa
chết,
mà
còn
đối
với
thân
phận
của
chính
mình.
So
với
bài
viết
cho
pháp
sư
Đạo
Sanh,
mà
như
đã
nói,
Lâm
hẳn
đã
có
những
liên
lạc
mật
thiết,
bài
đây
quả
phải
kể
như
một
tiếng
khóc
thầm
cuả
lòng
một
con
người
mà
bên
ngoài.
"Ưa
nói
cười
hay
đùa
giỡn".
Nếu
Lâm
trong
cuộc
sống
thường
ngày
có
"ưa
nói
cười
hay
đùa
giỡn"
thì
đó
là
một
che
lấp
những
đớn
đau
tan
nát
của
nỗi
lòng
bên
trong.
Lâm,
như
đã
vạch
ra
trên,
là
một
nhân
vật
trọng
yếu
của
chính
quyền
Nguyên
Gia,
là
một
tinh
hoa
không
những
của
Phật
giáo
thế
kỷ
thứ
V
mà
còn
của
nền
trí
thức
Trung
Hoa
cùng
thời.
Ông
đã
có
những
liên
lạc
thâm
giao
hầu
như
với
hết
cả
những
trí
thức
nổi
tiếng
của
thời
ông
từ
khoa
học
cho
đến
thi
ca,
từ
Hà
Thừa
Thiên
cho
tới
Tạ
Linh
Vận.
Thế
mà,
Lâm
đã
thố
lộ
"người
đậu
cành
cao,
ta
chìm
bùn
cặn".
tử
bạc
cao
kha,
dư
luân
nê
chỉ.
Quả
thật,
thổ
lộ
ấy
có
thể
tóm
tắt
hết
cả
tâm
trạng
đau
thương
của
cuộc
đời
ông.
Chưa
bao
giờ
ta
thấy
một
nhà
sư
viết
truy
điệu
cho
đồng
đạo
cuả
mình
đã
nói
lên
những
lời
như
vậy.
Chưa
bao
giờ
ta
thấy
một
tiếng
khóc
đầy
đau
thương
của
một
người,
mà
sử
gia
từ
thời
Thẩm
Ước,
Lý
Diên
Thọ
trở
đi
đã
được
bảo
là
"quyền
mâu
tể
phụ"
và
"hắc
y
tể
tướng"
thể
hiện
trong
một
truy
điệu
viết
cho
bạn
mình.
Đọc
những
bài
truy
điệu
loại
này,
ta
mới
hiểu
tại
sao
Lâm
đã
viết
những
dòng
đầy
đanh
thép
và
có
vẻ
"hủy
báng"
Phật
giáo
trong
cuốn
Quân
thiện
luận
của
ông,
và
tại
sao,
sau
khi
viết
chúng,
Lâm
vẫn
tiếp
tục
sống
cuộc
đời
của
một
nhà
sư,
dẫu
những
kẻ
quyền
thế
khác
kiểu
Hà
Thượng
Chi
năm
sau
đã
chửi
bới
là
"giả
làm
thầy
tu
để
tự
hủy
phá
đạo
mình".
Huệ
Lâm
"có
tự
hủy
phá
đạo
mình"
hay
không,
chúng
ta
sẽ
có
dịp
bàn
cãi
trong
mục
nói
về
Quân
thiện
luận.
Ở
đây,
chỉ
cần
vạch
ra
là
vai
trò
của
Lâm
trong
việc
phát
triển
và
truyền
bá
Phật
giáo
tại
Trung
Quốc
không
phải
nhỏ
mọn
gì,
đến
nỗi
một
người
viết
sử
như
thầy
Mật
Thể
đã
dành
dịp
kể
tới
tên
ông
trong
bảng
tóm
tắt
lịch
sử
Phật
giáo
Trung
Quốc
ngắn
ngủi
của
thầy.
Thế
thì,
Pháp
Cương
là
ai?
Cho
đến
nay,
ngoài
bài
truy
điệu
vừa
kể
và
lá
thứ
viết
chung
với
Lâm
cho
Tạ
Linh
Vận
chỉ
một
mẫu
tin
khác
đã
tìm
thấy
liên
quan
tới
ông
trong
thiên
văn
học
của
Thế
thuyết
tân
ngữ
quyển
thượng
tờ
28a2-b1,
mà
Lưu
Nghĩa
Khánh
(403-444)
đã
ghi
lại
và
làm
tư
liệu
cho
tiểu
sử
của
Tăng
Già
Đề
Bà
trong
Cao
Tăng
truyện
quyển
1
do
Huệ
Hạo
viết
sau
đấy.
Chuyện
Nghĩa
ghi
lại
thế
nà:
"Đề
Bà
lúc
mới
tới
kinh
sư,
giảng
A
tỳ
đàm
cho
Đông
đình
hầu
ở
nhà.
Mới
ngồi
nghe
giảng
được
một
nửa
thì
Tăng
Di
liền
nói:
"Đều
đã
hiểu
rồi".
Tức
rời
chỗ
ngồi
mình
cùng
vài
bổn
đạo
nhân,
đến
nhà
riêng
của
mình
mà
tự
giảng.
Đề
Bà
giảng
xong,
Đông
đình
hỏi
đạo
nhân
Pháp
Cương:
"Đệ
tử
đều
chưa
hiểu,
em
Di
cuả
đệ
tử
sao
có
thể
hiểu
liền
ngay
như
vậy?".
Pháp
Cương
trả
lời:
"Đại
khái
thì
ngay
như
vậy?"
Pháp
Cương
trả
lời:
"Đại
khái
thì
những
gì
Di
giảng
đều
đúng,
chỉ
có
một
số
chi
tiết
nhỏ
mọn
là
chưa
vạch
rõ
thôi".
Chú
thích
đoạn
văn
vừa
dẫn,
về
Pháp
Cương,
Lưu
Hiếu
Tiêu
(462-521)
bảo
"thị
tộc
chưa
rõ".
Còn
về
sự
tinh
chung,
ông
cho
dẫn
một
đoạn
văn
từ
Xuất
kinh
tự
"Xuất
kinh
tự
nói
rằng;
"Đề
Bà
vào
khoảng
đầu
Long
an
đến
kinh
sư,
Đông
đình
hầu
Vương
Tuân
nghênh
đến
nhà
mình
giảng
A
tỳ
đàm.
Đề
Bà
rõ
tôn
chỉ
mà
còn
phát
lộ
nghĩa
sâu.
Vương
Tăng
Di
cỉ
một
lần
nghe,
liền
tự
giảng.
Sự
rõ
nghĩa
để
mở
lòng
người
của
ông
là
nhưi
vậy.
Chưa
rõ
năm
ông
mất".
Đúc
kết
hai
mẫu
tin
vừa
dẫn,
Hạo
viết
Cao
Tăng
truyện:
"Đến
Long
An
năm
thứ
nhất,
Đề
Bà
tới
kinh
sư.
Vương
Công
và
phong
lưu
danh
sĩ
triều
Tấn,
chẳng
ai
là
chẳng
đến
chỗ
ông
giảng
trí
kinh.
Lúc
bấy
giờ,
vệ
quân
Đông
đình
hầu
Vương
Tuân
đât
Lang
Nha
hiền
lành
có
lòng
tin
sâu
sắc,
phù
trì
chánh
pháp,
kiến
lập
tinh
xá,
rộng
mời
học
chúng.
Khi
Đề
Bà
tới,
liền
cùng
cung
thỉnh,
xin
đến
giảng
A-tỳ-đàm.
Danh
tăng
đều
nhóm
nghe,
Đề
Bà
đã
rõ
tôn
chỉ,
lời
lẽ
lại
chính
xác,
nên
nêu
phát
nghĩa
lý,
làm
cho
người
nghe
đều
vui
hiểu.
Lúc
ấy,
Vương
Tăng
Trân
(đúng
ra
phải
sửa
thành
Vương
Tăng
Di
-
Lê
Mạnh
Thát
chú)
cũng
tại
giảng
đường
nghe
giảng.
Sau
ở
nhà
mình,
Di
tự
giảng.
Tuân
hỏi
đạo
nhân
Pháp
Cưong:
"Sở
đắc
của
Tăng
Trân
thế
nào?".
Cương
trả
lời:
"Đại
lược
thì
đều
đúng,
chỉ
tiểu
tiết
là
chưa
xét".
Sự
trình
bày
rõ
ràng
dễ
làm
lòng
người
hiểu
của
Đề
Bà
là
như
thế
đấy".
Vương
Tuân
là
em
Vương
Tăng
Di
dĩ
nhiên
đều
là
những
danh
thần
của
triều
Đông
Tấn.
Tuân
sinh
năm
349
và
mất
năm
400.
Di
sinh
năm
361
và
mất
năm
388.
Long
An
nguyên
niên
tức
năm
397
Do
thế,
Đề
Bà
không
thể
đến
kinh
sư
nhà
Tấn
vào
khoảng
Long
An
được,
ob73i
vì
Vương
Tăng
Di
đã
mất
gầ
10
năm
trước
đó.
Có
lẽ
ông
phải
giảng
kinh
chậm
lắm
thì
cũng
khoảng
vào
năm
388.
Dẫu
sao
chăng
nữa,
Cương
đã
có
những
liên
lạc
với
Tuân
cũng
như
Đề
Bà_1.
Gần
bốn
mươi
năm
cho
tới
lúc
chết
năm
434,
Cương
như
vậy
đã
là
một
"danh
tăng"
như
Hạo
bảo.
Mặc
dù
bài
truy
điệu
Lâm
viết
không
ghi
rõ
Cương
mất
lúc
mấy
tuổi.
Cứ
vào
dữ
kiện
vừa
nêu,
ta
có
thể
giả
thiết
là,
Cương
tối
thiểu
cũng
phải
trên
dưới
ba
mươi
tuổi,
lúc
Tuân
hỏi
ông.
Nói
cách
khác,
Cương
phải
sinh
khoảng
năm
350-360.
Bấy
giờ,
bài
truy
điệu
bảo,
Cương
sống
ở
Hồ
Khưu.
Núi
này
Trúc
Hạo
Nhất
của
Cao
Tăng
truyện
quyển
5
đã
nhờ
vào
sự
kính
mộ
của
anh
em
Vương
Tuân
làm
nên
hai
ngôi
tinh
xá,
mà
sau
đấy
thành
chùa
Đông
và
chùa
Tây,
vào
khoảng
năm
368.
Em
của
Tuân
dĩ
nhiên
là
Vương
Dân,
tự
Tăng
Di.
Đầu
năm
ấy,
Nhất
ra
ở
chùa
Ngỏa
quan
tại
Kiến
Nghiệp
để
học
với
Pháp
Thải.
Đến
khi
Giản
Văn
đế
mất,
tức
khoảng
năm
372,
Nhất
về
Hổ
ngưu.
Khoảng
năm
397-401,
Nhất
mắc
bệnh,
chết
ở
núi
ấy,
thọ
71
tuổi.
Pháp
Cương
với
những
liên
lạc
với
Vương
Tuân
và
Vương
Dân
do
thế
hẳn
đã
có
một
quan
hệ
nào
đấy
với
Đạo
Nhất,
nhất
là
khi
ông
sống
tại
ngọn
núi
do
Nhất
khai
sơn.
Cương,
cứ
bài
truy
điệu
đã
đi
lên
Lương
Châu
để
sống
ở
núi
Đặng
Ta
không
biết
chuyến
du
cư
này
xảy
ra
năm
nào.
Nhưng
bằng
vào
việc
Đạo
Sanh,
khi
bị
đuổi
khỏi
chùa
Thanh
Viên,
đã
đến
ở
Hổ
Khưu,
chúng
ta
có
thể
giả
thiết,
Cương
đã
có
mặt
tại
núi
này
vào
khoảng
ấy,
tức
khoảng
năm
414,
bởi
vì
Cương
là
bạn
cuả
Lâm
và
Sanh
lại
tuyên
giảng
"tà
thuyết"
của
mình
dưới
sự
thúc
đẩy
của
Lâm
Sanh
đến
ở
như
vậy
qua
trung
gian
của
Lâm.
Chính
Lâm
nhắc
đến
chuyện
Sanh
mất
ở
Lô
sơn
trong
bài
truy
điệu
Cương
ở
câu
"thương
mất
mờ
nơi
Lô
lĩnh",
tỏ
ra
Cương
Lâm
và
Sanh
có
những
tương
giao
rất
mật
thiết.
Tất
cả
biết
về
Cương
từ
đó
có
thể
nói
gồm
những
chi
tiết
sau.
Sinh
khoảng
năm
360,
Cương
nhỏ
đau
yếu,
nhà
nghèo
nhờ
người
cô
nuôi.
Lớn
lên
không
chịu
ra
làm
quan,
mặc
dầu
Cương
là
con
cháu
một
nhà
quí
tộc.
Lưu
Hiến
Tiêu
bảo
không
rõ
giòng
họ
của
Cương,
nhưng
bài
truy
điệu
nói,
Cương
"quyết
tộc
thị
Ân,
thật
Thang
chi
duệ".
Cương
đi
tu,
khoảng
năm
397
Cương
trở
thành
danh
tăng
ở
kinh
sư.
Sau
đấy
ông
chắc
sống
ở
Hổ
Khưu
khoảng
trước
năm
414
vài
năm
ông
du
lịch
Lương
Châu.
Sau
năm
414,
ông
sống
ở
Hổ
Khưu
với
Trúc
Đạo
Sanh,
và
mất
ở
đấy
năm
434
tháng
1q
ngày
tân
mùi,
sau
lúc
Sanh
mất
một
tháng.
Trong
khi
ông
còn
sống,
Lâm
chắc
đến
viếng
thăm
và
tâm
sự
nhiều
lần.
Tình
tự
giữa
ông
và
Lâm
thế
nào,
ngày
nay
ta
không
có
một
tư
liệu
nào
khác,
ngoài
bài
truy
điệu
trên.
Cứ
nó
thì
Cương
có
thể
nói
là
người
tri
âm
và
tri
kỷ
của
Lâm
là
một
người
hiểu
Lâm
và
Lâm
hiểu.
Cho
nên,
khi
ông
mất,
Lâm
viết:
"Xót
xa
kẻ
mất,
lặng
lẽ
khóc
ròng,
một
mình
cô
lữ,
trời
đất
chẳng
trông"
-
muộn
muộn
tức
tận,
tịch
tịch
ai
hào,
cô
lữ
như
bạc,
quân
hóa
vô
bào.
Viết
truy
điệu
cho
Vương
như
vậy,
Lâm
không
những
truy
điệu
Cương,
mà
còn
truy
điệu
chính
cái
chết
của
phần
cuộc
đời
của
mình.
Cương
mất
một
tháng,
sau
khi
Sanh
mất
năm
434.
Đến
năm
440,
ta
đang
còn
thấy
Lâm
làm
việc
với
Văn
đế,
nhưng
có
lẽ
làm
việc
như
một
cô
lữ,
làm
việc
cho
tới
khi
Văn
đế
bị
chính
con
mình
giết
năm
453,
và
để
cuối
cùng
bị
đuổi
ra
nước
ta,
lúc
Hiếu
Vũ
đế
lên
ngôi
năm
454.
Đọc
hai
bài
truy
điệu
trên,
ta
bây
giờ
mới
có
thể
thấy
tâm
hồn
Lâm
đã
chan
chứa
những
cảm
niệm
nào
đối
với
đồng
đạo
của
mình.
Ta
cũng
sẽ
thấy,
Phật
giáo
theo
Lâm
phải
được
định
nghĩa
ra
sao.
Cho
nên,
khi
ông
nói
"Thích
Ca
biện
nhi
bất
thật"
về
chuyện
u
minh,
ta
phải
hiểu
ông
nhắm
đến
một
thứ
Phật
giáo
nào
đấy,
chứ
không
phải
là
toàn
thể
Phật
giáo.
Hai
câu
cuối
cùng
trong
bài
truy
điệu
Pháp
Cương
"nếu
lai
duyên
quả
chẳng
mất,
xin
gói
trọn
sinh
niên
để
xót
xa"
-
cẩu
lai
duyên
chỉ
phỉ
vong,
quyên
sinh
niên
dĩ
tăng
trắc
-
để
lộ
một
phần
nào
quan
niệm
Phật
giáo
của
ông.
Chúng
nói,
nếu
pháp
sư
sau
khi
chết,
không
hoàn
toàn
tận
diệt,
thì
xin
chứng
dám
cho
tôi
đây
là,
tôi
xin
đem
gói
hết
những
năm
mình
đang
còn
sống
để
thương
nhớ
pháp
sư.
Một
nhà
sư
Phật
giáo
nghi
ngờ
về
đời
sau
quả
là
một
đặc
biệt.
Cố
nhiên,
với
những
bạn
bè
của
ông
như
Hà
Thừa
Thiên
và
Phạm
Việp,
chúng
ta
tất
không
có
gì
phải
ngạc
nhiên
Chuyện
Thiên
đã
nói
trước.
Về
Việp,
có
một
cố
sự
do
Trầm
Ức
ghi
lại
trong
Tống
thư
quyển
69
tờ
8b11-12.
Sau
khi
Nghĩa
Khương
bị
truất
chức
ở
kinh
sư
năm
440.
Khổng
Hy
một
người
chịu
ơn
Khương
bày
mưu
lật
đổ
Văn
đế.
Nhưng
sự
bại
lộ
vì
việc
phản
gián
của
Từ
Trạm
Chi.
Việp
bị
bắt,
hạ
ngục
và
giết
năm
445,
lúc
mới
48
tuổi.
Theo
Ước,
thì
"Việp
thường
nói
người
chết,
tinh
thần
sẽ
mất,
muốn
viết
sách
Vô
quỉ
luận,
đến
đấy
(túc
lúc
bị
ngục)
bèn
cùng
với
Từ
Trạm
Chi
viết
thư,
nói
"Chúng
ta
sẽ
phải
cải
án
nhau
ở
dưới
đất".
Ước
bậy
bạ
của
Việp
là
như
thế
đó
-
Lâm,
như
Việp,
phải
đợi
tới
khi
đối
diện
với
sự
chết,
mới
hy
vọng
có
đòi
sau,
trong
trường
hợp
Việp
đã
cãi
về
việc
gian
trá
của
Từ
Trạm
Chi,
và
trong
trường
hợp
Lâm
để
mong
pháp
sư
Pháp
Cương
hiểu
sự
xót
xa
cuả
lòng
mình.
Quả
là
đặc
biệt.
Việc
Lâm
bị
đuổi
như
vậy
thực
tế
đã
xảy
ra,
kiểu
Đạo
Sanh
đã
bị,
vì
họ
đã
có
những
quan
niệm
Phật
giáo
khác
với
phần
lớn
những
người
làm
nên
tập
thể
tăng
lữ
và
Phật
giáo
bấy
giờ.
Nó
vì
thế
không
có
một
ảnh
hưởng
quyết
định
nào
hết
trên
thâm
cản
đối
vói
Phật
giáo
và
bè
bạn
Phật
giao
cuả
họ.
Sanh
tiếp
tục
tin
tưởng
quan
niệm
Phật
giáo
cuả
mình.
Huệ
Lâm
cũng
vậy.
Nhưng
đặc
biệt
hơn
là,
với
Lâm,
Huệ
Hạo
viết
thêm:
"Lâm
khi
đã
huỷ
phá
áo
pháp
cuả
mình,
bị
đuổi
ra
Giao
Châu".
Vấn
đề
thời
gian
và
nơi
chốn
Lâm
bị
đuổi
tới
từ
đấy
mang
một
ý
nghĩa
lôi
cuốn
với
chúng
ta.
Như
đã
nói,
mọi
tư
liệu
đều
nhất
loạt
ghi
lại
việc
Lâm
"Bị
gia
tần
xuất".
Nhưng
địa
điểm
Lâm
bị
đuổi
tới,
thì
cho
tới
nay
chỉ
hai
giữa
hơn
bảy
nguồn
tư
liệu
về
cuộc
đời
Lâm
nói
đến,
đấy
là
Cao
Tăng
truyện
và
Thích
môn
tự
cảnh
lục.
Thích
môn
tự
cảnh
lục
do
Hoài
Tín
viết
khoảng
năm
830
và
như
nhan
đề
nó
chỉ
điểm,
chỉ
là
một
cuốn
sách
đầy
mùi
vị
đạo
đức
nhằm
răn
dạy
đồng
đạo
của
Tín
về
đức
độ
và
hành
động.
Nó
ghi
lại
tiểu
sử
của
Lâm
ở
quyển
thượng
ĐTK
2083
tờ
809b21-c8,
trong
đó
ta
biết
thêm
là
"vài
năm
sau
khi
bị
đuổi
ra
Giao
Châu,
Lâm
bị
mù
mắt,
kết
phẫn
rồi
chết",
với
mục
đích
cho
thấy,
mặc
dù
Lâm
trải
qua
phần
lớn
cuộc
đời
mình
trên
nhung
lụa
và
quyền
hành
cuối
cùng
ông
ta
cũng
bị
quả
báo
mù
mắt
và
chết
nơi
xa
xôi
vì
dám
nói
"Thích
Ca
biện
nhi
bất
thật".
Chi
tiết
về
những
ngày
cuối
cùng
của
Lâm
tại
nước
ta
này,
tuy
quí
giá
mang
nhiều
màu
sắc
đạo
đức
để
được
tin
chắc
chắn
phải
mất
tại
nước
ta
và
có
lẽ
bị
mù
trước
khi
mất.
Trước
Huệ
Hạo
như
vậy
không
một
tư
liệu
nàn
nói
việc
Lâm
bị
đuổi
tới
của
Hạo
do
đó
gặp
phải
khó
khăn
thứ
nhất
của
nó.
Khó
khăn
thứ
hai
là,
cứ
theo
báo
cáo
của
Hà
Thừa
Thiên
và
Thẩm
Ước
thì
Lâm
"bị
chúng
tăng
bài
tẩn",
sau
khi
viết
ra
Quân
thiện
luận,
nhưng
nhờ
"che
chở
của
minh
chúa
nên
được
miễn
ba
la
di".
Nói
cách
khác,
viết
xong
Quân
thiện
luận
khoảng
433,
Lâm
bị
đuổi,
nhưng
Văn
đế
che
chở
nên
khỏi.
Đấy
cố
nhiên
là
một
sự
thực,
bởi
vì
chúng
ta
đã
thấy
là,
cho
tới
giữa
những
năm
439-440
Lâm
đang
còn
sống
tại
Kiến
Nghiệp
với
"quyền
mâu
tể
phụ"
đánh
cờ
với
Hà
Thùa
Thiên
và
tra
vấn
Lưu
Nghĩa
KHương.
Vậy
thì,
Lâm
bị
"đuổi
ra
Giao
Châu"
từ
bao
giờ?
Nếu
chúng
tăng
hay
cựu
tăng,
sau
năm
431,
đã
tẩn
xuất
không
thành
công,
vì
sự
can
thiệp
của
Văn
đế,
thì
phải
chăng
họ
đợi
khi
Văn
đế
mất
để
làm
một
tần
xuất
thứ
hai?
Hay
Lâm
đã
bị
tẩn
xuất
vào
những
năm
cuối
cùng
của
Văn
đế
khoảng
từ
450
trở
đi?
Những
câu
hỏi
này,
ngày
nay
không
thể
nào
trả
lời
được
và
đó
là
khó
khăn
thứ
hai
của
chuyện
Lâm
bị
đuổi,
bởi
vì
không
tư
liệu
đã
được
bảo
tồn.
Những
bằng
cớ
trùng
hợp
như
lá
thư
của
Đạo
Cao,
Pháp
Minh
và
Lý
Miễu,
không
có
một
tính
quyết
định
nào
hết
về
việc
lâm
có
bị
đuổi
hay
không
bị
đuổi
ra
nước
ta.
Tình
trạng
tổ
chức
quyền
hành
Phật
giáo
dưới
thời
Hiếu
Vũ
đế
lại
không
được
biết
một
cách
chi
tiết
rõ
ràng.
Thời
gian
Lâm
bị
đuổi
từ
đó
hầu
như
hoàn
toàn
không
thể
giải
quyết.
Chúng
tôi
vì
thế
phải
giải
thiết
là,
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta,
khi
Hiếu
Vũ
đế
lên
ngôi,
khoảng
năm
454,
bởi
vì
vào
khoảng
đấy
sự
che
chở
của
Văn
đế
không
còn
và
tập
thể
tăng
lữ
Phật
giáo
lúc
bấy
giờ
thực
sự
thi
hành
quyết
định
tẩn
xuất.
Cứ
vào
những
phân
tích
trên,
cuộc
đời
Lâm
như
vậy
có
thể
trình
bày
thế
này.
Sinh
khoảng
năm
380,
cùng
một
khoảng
với
Tạ
Linh
vận
và
Nhan
Diên
Chi
tại
Tần
huyện
Tần
quận,
tức
phía
nam
tỉnh
Cam
Túc
ngày
nay,
Lâm
xuất
gia
với
Đạo
Uyên
có
lẽ
ở
chùa
Đồng
an.
Khoảng
năm
400,
Lâm
đã
có
những
liên
lạc
với
Pháp
Cương
ở
Hổ
Khưu.
Khoảng
năm
414,
Lâm
giục
Đạo
Sanh
tuyên
giảng
lý
thuyết
xiển
đề
thành
Phật,
dẫn
tới
việc
Sanh
bị
trục
xuất
khỏi
chùa
Thanh
Viên,
và
đến
sống
nhờ
ở
Hổ
Khưu
với
Cương.
Khoảng
những
năm
420,
Lâm
có
những
giao
du
với
Phó
Lượng,
nếu
không
là
sớm
hơn.
Trong
cùng
thời,
ông
làm
bạn
với
Lưu
Nghĩa
Châu,
Tạ
Linh
Vận
và
Nhan
Diên
Chi.
Năm
423,
Lâm
cùng
Cương
bàn
cãi
về
Biện
Tôn
luận
với
Vận.
Khoảng
431,
Lâm
viết
Quân
thiện
luận.
Không
lâu
sau
đấy,
có
lẽ
sau
quyết
nghị
tẩn
xuất
của
tập
thể
tăng
lữ
thời
bấy
giờ,
Lâm
đến
thăm
Đạo
Sanh
ở
Lô
Sơn.
Ba
năm
sau,
Sanh
mất,
Lâm
đứng
ra
đưa
đám
Sanh
và
viết
truy
điệu
cho
Sanh.
Một
tháng
sau,
người
bạn
tâm
sự
của
Lâm
là
Pháp
Cương
theo
gót
Sanh
và
mất
ở
Hổ
Khưu.
Một
lần
nữa,
Lâm
đưa
đám
và
viết
truy
điệu
cho
Cương.
Trong
thời
Cương
còn
sống
khoảng
từ
năm
410
trở
đi,
Lâm
chắc
đã
lui
tới
Hổ
Khưu
nhiều
lần.
Trong
khoảng
ấy,
bài
truy
điệu
Cương
của
Lâm
có
nói
tới
việc
Lâm
"phản
hà
duệ"
-
trở
ề
từ
miền
xa
-
Chúng
ta
không
biết
"miền
xa",
mà
Lâm
đề
cập
ở
đây,
muốn
chỉ
miền
nào,
và
chuyện
Lâm
đề
cập
ở
đây,
muốn
chỉ
miền
nào,
và
chuyện
Lâm
để
chân
lên
nó
xảy
ra
lúc
mô.
Có
lẽ
đó
là
miền
Lương
Châu,
nhưng
ta
không
chắc.
Sau
khi
Cương
mất,
Lâm
có
lẽ
tiếp
tục
sống
tại
chùa
Trị
Thành
và
ra
vào
cung
cấm
làm
việc
cho
Văn
đế.
Trong
giai
đoạn
này,
ngoài
chùa
Trị
Thành,
Lâm
chắc
có
một
văn
phòng
làm
việc
của
riêng
ông,
dẫn
tới
cái
mô
tả
của
Tống
thư
và
Nam
sử
về
chuyện
"khách
khứa
lui
tới
đông
đúc,
xe
cộ
trước
cửa
thường
có
vài
chục
cặp,
bốn
phương
nối
nhau
gởi
dâng
đồ
biếu,
thể
khuynh
một
thời,
chiếu
vuông
bảy
tám
chiếc,
trên
đó
luôn
luôn
đầy.
Lâm
mang
guốc
gỗ
cao,
mặc
áo
lông
chồn,
đặt
chức
thông
trình
và
thơ
tá,
quyền
hành
sánh
với
bậc
tể
tướng.
Khổng
Khải
từ
Hội
khể
đến
thăm
Lâm,
gặp
khách
khứa
chỉ
ồn
ào
hỏi
thăm
nhau
mà
thôi".
Giai
đoạn
làm
việc
này
nổi
bật
với
ba
chi
tiết
khá
lôi
cuốn.
Chi
tiết
thứ
nhất,
xảy
ra
vào
năm
428,
khi
Lâm
đến
thăm
Tạ
Hoằng
Vi.
Chi
tiết
thứ
hai
liên
quan
với
vai
trò
của
Lâm
trong
vụ
tranh
chấp
quyền
hành
giữa
Văn
đế
và
Lưu
Nghĩa
Khương,
dẫn
tới
sự
tốn
vị
của
Khương
và
cái
chết
của
Khương
và
đồng
đảng,
vào
năm
440.
Và
cuối
cùng
là
chi
tiết
về
chuyện
Lâm
đánh
cờ
với
Hà
Thừa
Thiên
trong
khoảng
thời
gian
từ
439
đến
năm
447
lúc
Thiên
mất.
Sau
năm
447
này,
chúng
ta
không
biết
Lâm
đã
làm
gì.
Cứ
Huệ
Hạo
thì
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta.
Hoài
Tín
bảo,
Lâm
mất
tại
Bắc
bộ
trong
một
tình
trạng
mù
lòa
vài
năm
sau
khi
bị
đuổi.
Tất
cả
những
việc
này
có
lẽ
xảy
ra
khoảng
sau
năm
454
và
chắc
chắn
là
sau
năm
447.
Hai
chữ
"vài
năm"
-
sổ
niên
-
của
Tín
có
thể
cắt
nghĩa
như
chỉ
hay
hay
ba
năm,
nhưng
có
thể
cắt
nghĩa
như
"nhiều
năm",
nghĩa
là
bảy
tám
năm
trở
lên.
Lâm
do
thế
rất
có
thể
sống
tại
nước
ta
cho
tới
lúc
Lý
Trường
Nhân
thực
sự
thành
lập
chính
quyền
độc
lập
của
mình
năm
468.
Dẫu
sao
đi
nữa,
nếu
Lâm
tới
nước
ta
năm
454,
ông
đã
tạo
nên
khá
nhiều
bàn
cãi
giữa
tập
thể
tăng
lữ
và
Phật
tử
nước
ta,
dẫn
tới
sự
ra
đời
của
sáu
lá
thư
và
cái
chết
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng.
Khi
nghiên
cứu
về
sáu
lá
thư
xưa
nhất
của
lịch
sử
văn
học
và
Phật
giáo
nước
ta
ở
trên,
chúng
tôi
đã
giả
thiết
sự
ra
đời
của
Sáu
lá
thư
có
thể
định
tự
vào
khoảng
giữa
những
năm
434
khi
Quân
tiện
luận
ra
đời
và
năm
456,
khi
Đàm
Hoằng
tự
thiêu
tại
chùa
Tiên
(châu)
Sơn.
Trong
bản
tiểu
sử
của
Hoằng
do
Hạo
ghi
lại,
chúng
ta
không
được
bảo
tại
sao
Hoằng
chọn
năm
456
để
tự
thiêu,
ngoài
việc
chép
Hoằng
thệ
nguyện
về
An
dưỡng.
Lý
Miễu
nêu
lên
vấn
đề
"không
thấy
hình
Phật",
dĩ
nhiên
là
một
tiếng
vang
khá
rõ
rệt
câu
nói
sau
đây
của
Lâm
trong
Quân
thiện
luận:
"Học
đòi
theo
ánh
thần
ma
không
có
một
tấc
sáng,
nghiệm
lấy
linh
biến
mà
chẳng
có
một
chút
lạ,
kẻ
cần
thành
không
thấy
được
mặt
mũi
của
đấng
thiện
cứu,
người
dốc
học
không
tìm
được
sự
thật
của
chuyện
lăng
hư;
bảo
đại
là
có
sự
sống
lâu
vô
lượng,
những
ai
thấy
được
một
ông
già
trăm
tuổi?
Thiết
tha
về
sự
kiên
cố
của
kim
cương,
nhưng
ai
ngó
được
một
vật
không
hủ?".
Chính
cái
câu
"đồ
xưng
vô
lượng
chi
thọ,
thục
kiến
kỳ
di
chi
tẩu"
với
ý
nghĩa
của
nó
đích
nhiên
nhắm
tới
những
người
tin
tưởng
Tịnh
độ
và
đức
Phật
A
Di
Đà,
có
lẽ
đã
thúc
đẩy
Đàm
Hoằng,
một
người
tu
tịnh
độ
và
chuyên
trì
kinh
Vô
lượng
thọ,
tới
việc
tự
thiêu
năm
456,
hai
năm
sau
khi
Lâm
tới
nước
ta.
Bản
tiểu
sử
của
Hoằng
dĩ
nhiên
phải
đến
tay
Huệ
Hạo
qua
trung
gian
những
Phật
tử
và
tăng
sĩ
nước
ta,
chữ
tất
không
thể
qua
ai
khác.
Và
nó
ghi
việc
"ngày
hôm
ấy
dân
làng
đều
thấy
Hoằng,
thân
sắc
vàng,
cỡi
một
con
nai
vàng,
đi
về
phía
tây
rất
nhanh,
không
dừng
hỏi
han;
tăng
và
tục
mới
hiểu
được
sự
thần
dị,
cùng
nhau
thu
lượm
tro
cốt,
để
dựng
tháp
thờ",
chứng
tỏ
tối
thiểu
là,
chỉ
sau
khi
Hoằng
tự
thiêu
với
những
hiện
tượng
vừa
mới
dẫn
thì
Tăng
và
tục
mới
hiểu
được
sự
thần
dị.
Nói
cách
khác,
trước
khi
Hoằng
tự
thiêu,
tăng
sỹ
và
Phật
tử
nước
ta
có
người
đã
không
tin
vào
sự
thần
dị,
một
điều
khá
điển
hình
những
ăn
nói
của
Huệ
Lâm
và
Lý
Miễu.
Hoằng
muốn
chấm
dứt
sự
hoài
nghi
của
những
người
này,
nên
đã
tự
thiêu
mình,
để
"dĩ
thân
tác
tắc",
để
làm
gương.
Chuyện
đến
nước
ta
của
Lâm
như
vậy
có
thể
coi
như
một
biến
cố.
Cố
nhiên,
Sáu
lá
thư
có
thể
viết,
vì
sự
có
mặt
cuả
Quân
thiện
luận,
chứ
không
cần
phải
có
mặt
của
Lâm.
Việc
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng
cũng
thế.
Nó
rất
có
thể
là
một
trả
lời
cụ
thể
cho
những
vấn
đề
Quân
thiện
luận
nêu
lên,
chứ
không
cần
phải
có
Lâm
tại
nước
ta
hay
tại
chùa
Tiên
(châu)
Sơn.
Dẫu
thế,
cứ
vào
sự
xa
xuôi
giữa
nước
ta
và
Kiến
Nghiệp
cũng
như
giữa
Phật
giáo
nước
ta
và
Phật
giáo
Trung
Quốc.
Nếu
Lâm
không
hiện
diện
tại
Việt
Nam
thì
Quân
thiện
luận
của
ông
khó
mà
có
thể
gọi
lên
những
phản
ứng
đồng
thời
và
đồng
điệu
kiểu
sáu
lá
thư
và
cái
chết
của
Đàm
Hoàng.
Hơn
thế
nữa,
trong
lịch
sử
nước
ta
chưa
từng
có
một
người
được
ghi
lại
là
đã
sống
nhờ
tổ
chức
Phật
giáo
rồi
sau
phản
lại
nó,
như
câu
ca
dao
khá
hóm
hỉnh
"Ăn
cơm
Phật,
đút
râu
thầy
chù"
điểm
chỉ.
Câu
ca
dao
này,
chúng
tôi
nghĩ,
rất
có
thể
đã
xuất
hiện
vào
khoảng
Huệ
Lâm
đến
nước
ta,
tức
khoảng
năm
454.
Nó
có
lẽ
do
một
số
tăng
sĩ
nước
ta
nói
cho
Phật
tử
nước
ta
thời
bấy
giờ,
tại
sao
Lâm
một
nhà
sư
quyền
thế
và
uy
danh
của
"thiên
triều"
bị
đuổi
ra
sống
tại
những
ngôi
chùa
Việt
Nam
xa
xuôi,
cắt
nghĩa
cho
họ
rõ
Lâm
đã
làm
và
viết
gì
về
Phật
giáo.
Lâm,
như
ta
sẽ
thấy
trong
Quân
thiện
luận,
chống
lại
việc
làm
chùa,
chống
lại
việc
đúc
tượng,
chống
lại
việc
ăn
nói
những
chuyện
thiện
ác
thiên
đường,
địa
ngục
kiếp
trước,
kiếp
sau.
Tất
cả
chúng,
theo
ông
là
những
xa
xỉ
vô
ích,
làm
hại
đạo
đức
xã
hội.
Cùng
một
lúc,
Lâm
lại
đề
ra
quan
niệm
Phật
giáo
của
mình,
mà
cốt
tủy
là
"ngũ
giáo
với
lục
độ
cùng
hành,
tín
thuận
và
từ
bi
đều
đúng",
khẳng
định
như
vậy,
đức
Phật
phải
tôn
trọng
như
tôn
trọng
Chu
Công,
Khổng
Tử.
Với
những
luận
đề
loại
này,
mà
về
một
phía
Lâm
vẫn
"ăn
cơm
Phật"
vì
nói
tới
lục
độ
và
từ
bi,
và
về
phía
khác
Lâm
lại
muốn
"đút
râu
thầy
chùa",
bởi
Lâm
chống
những
việc
làm
chùa
đúc
tượng
cúng
kính,
ta
có
thể
thấy,
tại
sao
câu
ca
dao
"ăn
cơm
Phật,
đút
râu
thầy
chùa"
đã
ra
đời.
Hiển
nhiên,
khía
cạnh
hóm
hỉnh
của
nó
nằm
ở
chỗ,
thầy
chùa
tất
cả
không
bao
giờ
có
râu,
vì
luật
lệ
Phật
giáo
không
cho
phép.
Cho
nên,
khi
nói
"đút
râu
thầy
chùa"
các
nhà
sư
nước
ta
không
những
cho
Phật
tử
Việt
Nam
thấy
là,
râu
thầy
chùa
không
bao
giờ
có
thể
đứt,
vì
nó
không
bao
giờ
có,
nghĩa
là
sự
chống
lại
những
việc
như
làm
chùa
đúc
tượng
tất
không
gì
hơn
là
một
công
trình
hảo
không
bao
giờ
thành
công.
Ngược
lại,
nó
còn
muốn
làm
cho
họ
cười
một
cách
tha
thứ
và
đầy
tự
tin,
bởi
giả
như
có
người
muốn
đút
râu
thầy
chùa,
thì
cũng
không
hại
gì,
vì
không
bao
giờ
có
thứ
gọi
là
"râu
thầy
chùa".
Trong
liên
hệ
này,
cần
vạch
ra
là,
nếu
phân
tích
và
giả
thiết
vừa
nêu
là
đúng,
thì
danh
từ
"thầy
chùa"
quả
có
một
lịch
sử
khá
lâu
dài
và
vào
thế
kỷ
thứ
V
chắc
mang
những
ý
nghĩa
khá
đặc
biệt
khác
với
những
gì
ta
hiểu
ngày
nay.
Nó
hình
như
có
một
điển
trình
đoạ
lạc
ý
nghĩa
tương
tự
với
chữ
"thằng"
ở
thế
kỷ
thứ
XII
và
hiện
nay.
Cứ
vào
những
bằng
cớ
và
trường
hợp
và
diễn
dịch
vừa
nêu,
chúng
tôi
do
thế
nghĩ
rằng,
việc
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta
khoảng
năm
454
có
một
ảnh
hưởng
quyết
định
đến
sự
ra
đời
của
sáu
lá
thư
của
Đạo
Cao,
Pháp
Minh
và
Lý
Miễu
giữa
những
năm
454-456
và
cái
chết
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng
năm
456.
Hành
trạng
những
năm
cuối
cùng
của
cuộc
đời
Lâm
tại
nước
ta
vì
vậy
tất
là
đã
hoàn
toàn
bất
khả
thám.
Sau
khi
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta,
ông
chắc
chắn
tiếp
tục
một
cuộc
sống
tích
cực,
tạo
nên
những
biến
cố
văn
học
và
tôn
giáo
vừa
kể.
Chúng
ta
không
biết
ông
sống
tới
bao
nhiêu
tuổi,
điểm
đương
nhiên
là,
ông
phải
mất
sau
năm
456.
Nếu
ông
mất
sau
năm
456
một
năm
chẳng
hạn,
thì
chữ
"sổ
niên"
của
Hoài
Tín
nói
trên
có
thể
cắt
nghĩa
một
cách
tương
đối
dễ
hiểu
và
dễ
nhận
là
"vài
năm".
Giả
như
ông
sống
cho
tới
lúc
Trí
Bân
tới
nước
ta
giữa
những
năm
466-467
và
đón
mừng
cũng
như
rất
có
thể
làm
cố
vấn
cho
cuộc
vận
động
độc
lập
thực
sự
của
Lý
Trường
Nhân,
thì
"sổ
niên"
bấy
giờ
có
nghĩa
"nhiều
năm".
Thông
thường
"sổ
niên"
có
nghĩa
"vài
năm"
nhưng
không
nhất
thiết
la
phải
luôn
luôn
như
thế.
Dẫu
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
Lâm
phải
mất
sau
năm
456
và,
nếu
Hoài
Tín
có
thể
tin
được,
thì
ông
đã
mất
trong
một
tình
trạng
mùa
lòa.
Bệnh
chứng
mù
lòa
này
dĩ
nhiên
không
thể
dựa
vào
để
đoán
định
số
tuổi
của
Lâm,
lúc
Lâm
mất,
nhất
là
khi
ta
không
biết
một
chút
gì
hết
về
tình
trạng
sức
khỏe
của
mắt
Lâm
cũng
như
thân
thể
Lâm
trước
đấy.
Tuy
thế
ta
có
thể
giải
thiết
Lâm
rất
có
thể
mắc
chứng
mắt
diễn
tiến,
mà
hậu
quả
là
mù
lòa
ở
tuổi
già.
Nếu
chấp
nhận
giả
thiết
ấy,
Lâm
rất
có
thể
sống
tới
80
tuổi
và
mất
khoảng
những
năm
385-470,
một
cuộc
đời
khá
dài
và
sống
đầy
đủ.
Ta
có
thể
nói
Lâm
là
một
nhà
tư
tưởng
Phật
giáo
sâu
sắc
và
đi
trước
đời
ông
tới
hàng
năm.
Sự
kính
trọng
Lâm
của
những
người
như
Hà
Thừa
Thiên
tất
phải
một
điều
khá
tự
nhiên.
| Mục lục | I
|
II
|
III
| IV
|
IVb
|
V
|
VI
|
VII
|
VIII
|
VIIIb
|
IX
|
IXb
|
X
|
XI
|
XII |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường