- LỊCH
SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- Từ khởi nguyên
đến thời Lý Nam Đế
-
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
- Học
Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Huế thực hiện
- Nhà
Xuất Bản Thuận Hóa Huế 1999
--o0o--
- Chương VIII
- Sáu lá thư và cuộc khủng
hoảng
- của nền Phật
giáo thế kỷ thứ V
Sáu lá thư
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch
Về tác giả và soạn niên của Sáu lá thư
Về Đạo Cao
Về Pháp Minh
Về Lý Miễu
Nền Phật giáo do Mâu tử và Khương
Tăng Hội gầy dựng đến thế kỷ thứ IV vẫn đang còn có những ảnh hưởng
mạnh mẽ. Chí Hàm viết Triệt tâm ký mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu
ở trên đã nhắc đến Khương Tăng Hội với lòng ngưỡng mộ đặc biệt.
Tuy nhiên, bước sang thế kỷ thứ V thì một số phạm trù cơ bản của nền
Phật giáo Mâu Tử, Khương Tăng Hội đã biến thành đề tài tranh cãi,
trong đó vấn đề then chốt nhất đối với những người Phật giáo là tại
sao thực hành theo Phật giáo mà lại không thấy chân hình của Đức Phật
ở đời. Đây là đề tài bàn cãi của Sáu lá thư trao đổi giữa hai pháp
sư tên Đạo Cao, Pháp Minh và một "Sứ quân" tên Lý Miễu. Mấy
lá thư này là những áng văn xưa nhất của lịch sử văn học Phật giáo,
mà còn đối với lịch sử chính trị và văn hóa Việt Nam một cách tổng
quát.
Sáu lá thư này bày tỏ cho thấy Phật
giáo đã được dân ta tiếp thu như thế nào, những vấn đề gì mà họ
quan tâm nhiều nhất, từ đó, giúp ta xác định được sinh hoạt trí thức
và văn hóa chung của thời đại, Thực sự mà nói, chúng đã phơi trần một
cuộc khủng hoảng có tính chất căn để đối với toàn bộ tư tưởng và
tín ngưỡng Phật giáo vào thời ấy, ví chúng chỉa mũi dùi tra hỏi đến
vấn đề người theo Phật giáo thực sự có thể thấy Phật được không?
Đặt vấn đề như thế là nhắm đến trọng tâm của toàn bộ sinh hoạt
Phật giáo, vì sinh hoạt Phật giáo đâu có ý nghĩa gì khác ngoài mục đích
làm cho những người thực hành nó giác ngộ, nghĩa là tìm lại bản thân
đức Phật của mình, tìm lại bản chất Phật của mình. Do vậy, hỏi sao
không thấy chân hình của Phật đối với người Phật giáo là nêu lên những
nghi vấn về chính cái mục đích mình đang theo đuổi, là tự hỏi về sự
hiện hữu của chính mục đích đó. Có thể nào ta thấy đức Phật
chăng? Có thể nào ta giác ngộ chăng?
Nghi vấn và tự hỏi về mục đích
như vậy bao gồm luôn một nghi vấn và tự hỏi về giá trị phương pháp
nhằm đạt đến mục đích đó. Một mặt, ta hỏi mục đích có hiện hữu
không. Mặt khác giá như mục đích đó hiện hữu mà ta không đạt đến
được, phải chăng vì phương pháp của ta đã sai lầm? Sáu lá thư này sẽ
giúp cho thấy những câu hỏi như thế cần phải giải quyết ra sao trong bối
cảnh lịch sử Việt Nam thời đó, Chúng sẽ phơi bày không những nghi vấn
về giá trị của những phương pháp thực hành Phật giáo đang lưu hành
vào giai đoạn ấy mà còn biểu lộ cho thấy cái quan niệm về Phật do nền
Phật giáo Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết định đang mang trong mình một
số những mâu thuẫn cần giải quyết.
Sáu lá thư ấy ngày nay xuất hiện
trong Hoằng minh tập 11 ĐTK 2145 bản in Đại chính 11 dưới nhan đề
"Cao minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nan Phật bất kiến hình sự".
Việc này có thể làm cho ta nghĩ rằng, chúng đã được Hựu sưu tập sau
năm 513, nếu không là sau năm 495 - 498, bởi vì Hựu đã cho trích lời tựa
của Hoằng minh tập trong Xuất tam tạng kỷ tập quyển 12 ĐTK 2145 tờ
93b12-94a23 viết xong khoảng những năm ấy và bảo là Hoằng minh tập chỉ
có 10 quyển chứ không phải có 11 quyển như bản in Đại chính ngày nay
điểm chỉ.
Tuy nhiên, nếu ta đọc hết lời tựa
cùng bản liệt kê nội dung của nó, thì Sáu lá thư ấy lại được xếp
vào quyển thứ bảy cùng với những đối đáp giữa Hà Thượng Chi và Tống
Văn đế và một số văn bản khác của Tiêu Tử Lang..v.v. Trong đó, Hựu
cho ta biết tại sao và bằng cách nào cuốn Hoằng minh tập ra đời. Ông viết
ở tờ 93b26-c3: "hựu dĩ mạt học, chí thâm hoằng hộ, tĩnh ngôn phù
tục, phấn khái vu tâm, toại dĩ dược tật vi gian, sơn thê dư hà, soạn cổ
kim chi minh thiên, sao đạo tục chi nhã luận, kỳ hữu khắc ý tiển tà vệ
pháp, chế vô đại tiểu, mạc bất tất thám, hựu tiền đại thắng sỹ
thơ ký văn thuật, hữu ích tam bảo giả, diệc giai biên lục, loại tụ
khu quân, liệt vi thập quyển; phù đạo dĩ nhân hoằng, giáo dĩ văn minh,
hoằng đạo minh giáo, cố vị chi Hoằng minh tập". Sáu lá thư do
"Cao Minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nạn Phật bất kiến hình
sự" như vậy chắc chắn phải thuộc loại "tiền đại thăng sỹ
thơ ký văn thuật", và chắc chắn là được sưu tập nếu không trước
những năm 495-498 thì trước năm 513, năm Hựu hoàn thành bộ Xuất tam tạng
ký tập.
Tăng Hựu sinh năm 445 và mất lúc
ông 74 tuổi vào năm 519. Hai vị pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh cũng như người
đệ tử của họ tên Lý Miễu, ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết.
Những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc từ Cao Tăng
truyện đến Tống thư đã không có một người nào với những tên ấy.
Những tư liệu lịch sử nước ta và Phật giáo nước ta cũng không có. Dẫu
thế, vì Tăng Hựu sinh và mất giữa những năm 445 - 519, niên đại của những
vị "tiền đại thắng sỹ" này phải rơi vào khoảng thế kỷ thứ
V. Điều này bản in đời Minh đã xác nhận với những tiêu đề cho những
lá thư ấy như "Đáp Lý Giao Châu thơ Tống Thích Đạo Cao" hay
"Dự Đạo Cao pháp sư thơ Lý Miễu".v.v., định tự một cách rõ
ràng, những người liên hệ quả đã sống vào thời Lưu Tống, tức giữa
những năm 420 - 478. Nghiêm Khả Quân (1762 - 1843) trng Toàn thượng cổ Tam đại
Tấn Hán Tam quốc Lục triều văn cũng đã xếp họ vào trong tập Toàn Tống
văn dành cho văn chương nhà Lưu Tống. Và những niên đại đây có thể đẩy
về một vài chục năm sớm hơn, như chúng tôi sẽ có dịp chứng tỏ dưới
đây, trong đoạn thử truy nhận căn cước những pháp sư và người đệ tử
của họ cùng trạng thái có thể của những người này trong lịch sử nước
ta. Ở giai đoạn này, chúng tôi cần cho người đọc thấy những lá thư
ấy.
Sáu lá thư [^]
Những lá thư này viết bằng Hán văn
và xuất hiện trong Hoằng minh tập ĐTK 2102 quyển 11 tờ 70a26-72a19 của bản
in Đại chính. Vì chúng tương đối khá dài, chúng tôi do thế chỉ cho xuất
bản dịch tiếng ta và xin người đọc tham khảo bản chữ Hán ở bản in
vừa nói. Một số điển cố trong chúng, chúng tôi xin để nguyên trong khi
dịch và sẽ bàn tới trong những chương tiếp theo.
Những lá thư ấy, theo chúng tôi biết,
thì chưa một cuốn văn học sử nào của ta, ngay cả những cuốn mệnh
danh viết về "Việt Nam cổ văn học sử" hay "Lịch sử văn học
Việt Nam thời Bắc thuộc" kể tới. Chính vì vậy được công bố
toàn vẹn ở đây để làm tư liệu cho việc viết một cuốn sách Văn học
sử Việt Nam đầy đủ hơn và giúp sửa soạn việc nghiên cứu lịch sử
tư tưởng Việt Nam một cách nghiêm chỉnh hơn sau này.
- Lá thư thứ nhất:
- Lý Miễu của Giao Châu viết cho
Cao pháp sư
Rằng, chỗ đạo trong vắng, bốn
đại lẽ thường, nhưng giáo pháp nhiệm mầu lan khắp mọi cõi. Nếu bảo
lời dạy ấy khéo hay lợi vật, độ thoát nhiều người thì sao chân hình
nó lại không hiện ở đời? Ấy phải chăng chẳng qua là nói suông không
thật? Nay chính là lúc phải nên tìm nguồn gốc phương tây của nó. Nguyện
xin đại Hòa thượng dũ lòng thương xót, nhận lấy lòng con, mà không tiếc
lời dạy thần tình.
Đệ tử Lý Miễu cúi đầu đảnh
lễ.
- Lá thư thứ hai:
- Đáp lại thư của Lý Giao Châu
Thích Đạo Cao thưa rằng:
Nhận được câu hỏi về dấu
tích ẩn hiện của đấng Chí Thánh, lý vị đã sâu rộng, mà từ nghĩa lại
rõ ràng, trân trọng lại xem qua đọc lại, thì lời hay càng thêm. Sư quân,
thành quách cao sâu, nhận được giáo pháp mà tự hỏi, thì đem hết ống
ngu của mình, để làm chuyện võng tượng đi tìm huyền châu.
Rằng, đức Như Lai ứng vật, phàm
có ba cách, một là hiện ra xác thân, phóng quang động địa; hai là để lại
Chính pháp, như khi Phật còn tại thế; ba là để lại tượng giáo từa tựa,
Pháp tắc từa tựa, Pháp tắc ngày nay đang đáp lại nhân tình, nhân tình
đang cảm lấy tượng giáo thì ai làm cho Phật hiện ra ư? Cho nên kinh Tịnh
Danh nói rằng: "Khéo hiểu được pháp tướng thì biết được căn cơ
của chúng sinh". Đến khi có ba hội Long Hoa ở thành Sí-đầu-mạt, nhân
tình cảm lấy sự hiện thân thì ai làm cho Phật ẩn đi ư? Cho nên kinh
Pháp Hoa nói rằng: "Lúc bấy giờ đức Phật cùng chúng Tăng đều ra
khỏi núi Linh Thứu". Cung vua Nhượng Khư đương nhiên có thể định kỳ
như thế, thì nguồn gốc phương Tây sao lại không thấy? Nhưng kẻ nghi ở
đời phần nhiều nói lời kinh không hợp, nên mắc phải sự ám muội thiếu
tình, ấy là vì lấy chuyện không thấy mà sinh trệ.
Rằng, Tam hoàng Ngũ đế, Tam đại
Ngũ bá, Cơ Đán Khổng Khưu san kinh Thi chế sách Lễ, đều chỉ nghe ở sử
sách, có ai thấy đâu? Họ Thích gióng trống Pháp tại vườn Nai, đức Phu
Tử dương lời đức ở Châu Lỗ, ấy đều là những việc tai mắt không
biết được và đều phải tin vào sách vở. Nếu không tin việc sau, thì
chẳng nhọc lòng nghi chuyện trước. Nhưng nếu đã hay rõ được việc sau
thì sao lại chỉ trệ ở chuyện trước?
Sứ quân nghĩ suy sâu rộng, xem suốt
ba đời, thì xin hãy tìm xem lời dạy của Thọ Lượng chưa dứt, gần theo
dấu Định Quang Nho Đồng, giữa suy tập Đại Thông Trí Thắng, để cởi
mở chỗ trệ mọi người. Như đem mây đùn che lấy thái dương, lời cạn
văn quê của bần đạo nói không hết lòng. Mong đến ngày gặp nhau, thì sẽ
nói rõ ràng hơn về vấn đề trên.
Kính bạch.
- Lá thư thứ ba:
- Thư của Lý Miễu viết cho Pháp
sư Đạo Cao
Lý con xin cúi đầu đảnh lễ,
Con xem đi xem lại lời bàn thanh
nhã của thầy vị thứ đã khu biệt, mà lời lẽ lại sâu đẹp. Con mong
đến ngày gặp rất nhiều. Cái gọi là "cảm hóa có lúc khác nhau,
Chánh pháp và tượng pháp lời lẽ hơi khác", thầy đã viện việc
ngoài để rõ nghĩa trong, trưng lấy văn để nghiệm sự thật, cẩn thận
theo lối mà dẫn tới đích, tất cả chúng không có chỗ nào hở hang hết.
Song rằng, căn do của sự giác ngộ
tất phải nhờ nhìn thấy, khi đã mắc vào ám muội thì phải sinh nghi.
Nghi ngờ không phải là cội nguồn của sự giác ngộ. Nếu sách vở đang
còn, thì những đời khác đều có thể hiểu được, và vạn thế về sau
có thể không đợi một bậc thánh để làm thầy. Nếu nay đã nhờ đến
cả tiếng tăm lẫn dấu tích, thì lời nói và hiện thân phải giúp đỡ
cho nhau. Đạo nghĩa đã bị khó khăn, bọn Nho Mặc đang tranh nhau nổi lên,
thì há để cho chính tín lu mờ, làm cho sự hủy báng hiểu lầm càng tăng
hấn sao? Có thể nào không thấy sự thị hiện và ấn ký để làm chứng
nhằm giữ lấy mình sao? Đấng Đại Thánh ban ra cái trí vô ngại, duỗi
lòng thương không cầu, thì sao lại tiếc cái ánh sáng rực rỡ của mình,
để làm tăm tối hơn những tài năng đi tìm hiểu, dứt hết cả hy vọng
của mọi người sau khi nhập diệt, và gia thêm tội lỗi trước lúc có ba
hội Long Hoa? Chó rơm suông đặt, thì ai mà có thể giác ngộ được? Nghi
tượng giả bày, thì ai mà có thể tin được?
Đến cái chuyện đế vương Cơ Khổng,
thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này. Việc lai sanh, họ để
ra mà không bàn tới. Cho nên, sự ẩn hiện phế hưng quyền thật của họ
không cần phải nói. Nay đức Như Lai đạo nghiệp bao gồm cả ba đời, lòng
thương thấm nhuần khắp cả, thì không được lấy đời hiện tại mà
làm giới hạn. Mọi người mê muội đang tìm xin hiểu biết, thì không
được lấy việc nhập diệt mà cho là chỗ cùng. Vì thế, mà việc hóa độ
không thể hạn cục vào sách vở, và việc Phật la liệt bày ra hàng vạn.
Xin hỏi rằng, cái gọi là việc Phật ấy ngày nay nằm ở đâu ư? Nếu
như dẫn chuyệntin bên này, nghiệm bên kia, nhưng đấng Chí Thánh không ra
đời, Khổng và Thích hai đường khác nhau, tức sự mà bàn không phải là
không mâu thuẫn, thì chúng có cái gì có thể chứng nghiệm cho nhau ư?
Vì chưa thể im lặng bỏ đi, nên
con lại phải mượn lời, xin thầy giải rõ thêm một lần nữa, trong khi
chờ đợi gặp nhau cho việc trình bày rõ ràng hơn.
- Lá thư thứ tư:
- Lại đáp thư của Lý Giao Châu
Thích Đạo Cao thưa rằng:
Lại nhận được lời dạy sâu sắc.
Ý nghĩa đã đẹp đẽ, mà tôn chỉ lại cao xa, ba đọc chín suy mới nắm
hết chỗ uyên áo. Cho nên biết rằng, điều chí lý thì không phải người
tầm thường thiển cận có thể lường đo, lẽ vi tế ẩn khúc thì không
phải kẻ cạn cợt dốt nát có thể tham hiểu. Nay xin đem sự thường thiển
mà trình bày sơ cái sở hoài của mình.
Rằng, lấy muôn điều lành làm lời
dạy thì đường đi không phải là một. Có kẻ ngồi thiền trong rừng
rú, có người tu đức ở bên cạnh thành, hoặc cung kính chấp tay, hoặc
ca hát tán tụng ngâm vịnh, đều là những việc tai mắt cùng biết, và người
thực hành chúng cũng rất nhiều. Đó là bến bờ của sự thọ ngộ. Gọi
việc mắc sự ám muội, sao lại là nguồn gốc của sự thọ ngộ, ấy là
vì nếu đã nhìn thấy thì hà tất lại có sự mắc phải ám muội. Có mắc
ám muội thì mới sinh nghi. Nghi ngờ do thế cũng là cỗi gốc của sự
giác ngộ. Xin đáng bàn rõ điều này. Có nghi ngờ thì người ta đi tìm sự
hiểu biết. Có hiểu biết thì người ta có thể giác ngộ. Đã giác ngộ
thì vào đạo. Nếu không phải gốc thì nó là gì?
Tuy Nho Mặc đang tranh nhau nổi lên,
các học phái cãi cọ phải trái, ấy là vì ngọn đuốc cháy mãi không dứt,
chứ đâu phải trời trăng không sáng chiếu, thì sao lại phải gấp gáp
trong việc thị hiện và hấp tấp trong việc đồng qui? Nay không phải là
giống lúc đời mạt không chứng. Chứng nghiệm là để bày tỏ sự chân
thành, đồng thời cũng để tỏ ra nó không phải là lỗi của đấng Chí
Thánh đầy dẫy ánh sáng rực rỡ. Nhưng kẻ nghi cứ lấy việc không thấy
bản thân Ngài, rồi dài mê trong đại mộng, ngang ngạnh chìm trôi, để mà
chết đắm trong sanh tử. Tiên Nho vãng triết đều có nói sơ điều này từ
lâu. Đường không khác lối. Họ chỉ thuật lại mà không làm.
Rằng, quên mình mà đem hết lòng
thành thì tất có cảm. Có cảm tất phải có thấy. Không có cảm thì
không thấy. Người có thấy đem nói với kẻ không thấy cuối cùng cũng
không tin sự thấy. Thánh nhân không phải là không thường ở với quần
sanh, đâu phải là không thường thấy ư? Nghe Pháp âm mà bảo là hay, thì
chó rơm không thể nói là đặt suông, thấy hình tượng mà cung kính thì
linh nghi há là bày giả.
Cơ Khổng cứu đời đọa lạc không
nổi, thì rảnh đâu mà bày tỏ sự việc của lai sinh? Nếu Khâu và Đán
sinh gặp thời kết nối, họ đã nói rõ chuyện ba đời chẳng thôi. Ngài
hỏi, nay việc Phật nằm ở đâu ư, thì cúi đầu chắp tay, không gì là
không phải việc Phật. Chúng chỉ nhằm khiến người ta thâm ngộ một
cách có phương pháp. Chúng thù đồ mà đồng qui. Thư trước đã dẫn bên
này bên kia, kẻ nghi người tin, ấy chính vì người đời hễ không thấy
thì cho là không có thật. Cho nên phải nói chuyện không thấy của Chu và
Khổng để làm mực thước vậy. Đấy là để dắt dìu mà cùng theo nhau,
há có thể gọi là mâu thuẫn sao?
Sứ quân sinh ra đã biết sự không
giả dối. Với tài năng phú bẩm, ở vào địa vị của một đấng thiên
tử, dùng lấy sự nghĩ suy dĩnh thoát, bơi lội trong rừng nghĩa, đi lại tại
vườn sách, thì ngài có thể nghỉ ăn búi tóc tiếp khách, có rỗi bàn hay
suốt ngày. Lời hay đã nói thì không thể không lắng nghe. Bần đạo học
nghiệp thô thiển, rất thẹn lá thư. Trả lời xằng gọn, sợ làm bẩn vẻ
đẹp của văn đầy. Nghĩ lại càng thêm thẹn thùng, mồ hôi lấm tấm.
Kính bạch.
- Lá thư thứ năm:
- Thư của Lý Miễu viết cho Pháp
sư Đạo Cao
Lý con xin cúi đầu đảnh lễ
Lời bàn thanh nhã của thầy đã
làm rõ bến bờ của sự thọ ngộ, ấy là sự tự nghi. Được mắc ám muội
có thừa, chứ không cần phải nhìn thấy, có cung kính tán tụng thì đều
đủ để dẫn vào đạo vậy. Xem đi học lại, con càng thấy sự sâu sắc
của nó.
Song, cái gọi là tượng pháp và
chính pháp trái nhau, nên đi tìm sự giác ngộ, vì lý thô, phải mượn nơm
để chỉ bày tôn chỉ mà không cần phải nhờ đến sự thị hiện, điều
này vẫn giống như lý do Cơ và Khổng đã ban ra lời dạy của họ và ánh
sáng đã tỏ ra sự chiếu minh của nó. Một khi đã bày tỏ thì ai cũng nhận
được. Điểm này, sách vở đời ghi chú cũng đã nhiều đủ. Thế thì
phóng quang động địa mà làm chi ư?
Nếu chính tín không dừng lại ở
sự lạy lục, và việc Phật gồm đủ cả sự thực hành lẫn giáo hóa,
thì nguyên do của sự đại giác phải làm thần diệu cái nét đẹp của nó,
để cho việc đi tìm có thể định được sự bắt nguồn. Cho nên, biết
rằng, người tin thì tất phải dùng đến Nho Mặc để giải quyết những
nghi ngờ, và kẻ học thì sẽ do dự không chứng mà tự hối hận. Tam
hoàng Ngũ đế, dù có bỏn sẻn sự minh triết, cũng không phải là lỗi của
họ. Mười hiệu của đức Phật, tuy thầm lặng chiếu sáng, đã diễn hết
mọi đạo đức. Chúng há lại không biết sao?
Còn về chuyện Cơ và Khổng chỉ
trọng đến cứu đời tọa lạc, mà không rảnh để đề cập tới lai
sinh, và chuyện giả như họ sống vào thời kết nối thì đã tự nói rõ
cả việc ba đời, những chuyện này lại cũng không phải thế. Bảy kinh
trình bày, ý nghĩa gồm cả tới những gì chưa đến. Sách Phật phu diễn
sự việc thì dừng lại ở duyên báo. Cho nên kinh Dịch nói rằng: "Chứa
lành thừa vui, chứa dữ thừa khổ", và kinh Phật dạy: "Không có
chủ thể làm, không có đối tượng làm, không có kẻ bị làm, hành động
lành và dữ cũng không mất". Điều này chứng tỏ lời dạy về duyên
báo là một lẽ thường mà giáo huấn cả hai bên đều đã truyền rộng,
há có thể bên này vụ điểm này, bên kia chú trọng điểm kia ư?
Bàn lại những điểm ấy lại càng
hay, nên con xin nói lại chúng vậy. Hy vọng thầy lại đem điều mới trình
bày những chỗ khác để gột rửa cái trệ của xưa nay, khiến cho đường
cong thành thẳng, chướng ngại lại thông. Thầm nguyện Đại hòa thượng
duỗi lòng thương rộng nhận chút lòng con.
Đệ tử Lý Miễu kính trình.
- Lá thư thứ sáu:
- Đáp lại thư của Lý ở Giao
Châu
Thích Pháp Minh thưa rằng:
Lá thư dài vừa mới tới, trân trọng
xem nó suốt ngày. Nó thơm tựa lan rừng, thanh như gió huệ. Bần đạo tài
năng không phải là của Sương Dĩnh, thời vận không phải là của Bào
Sinh, việc làm thì sai trái, lý luận thì hở hang, chỉ vấp phải nghi ngờ
từng đống, ấy đều vì lời dốt ý trệ. Song đã gắt hỏi thì xin
trình tỉ mỉ vụn vằn như sau:
Kẻ ngu này cho rằng, nghi ngờ điều
mờ ám, ghi nhớ sự lạ lùng, nhìn thấy việc thị hiện, cung kính tán tụng,
cảm động linh biến, đều là bến bờ dẫn về chỗ đạo, là cơ hội đẹp
đẽ cho sự thăng hoa. Cho nên thắc mắc và nhìn thấy đáng được nêu đều,
nghi ngờ và chứng nghiệm đáng phải đi đôi, thì há có thể quăng phăng
sự thị hiện, mau tiết lộ vỏ thần thái, để đặt đức Phật ngang hàng
với Cơ và Khổng, xếp giáo pháp cùng với lời dạy của đời được
sao? Phong quang động địa đều là lời suông.
Rằng, pháp thân ngưng tịch, sắc màu
sáng trong, cho nên có thể ẩn hiện theo thời, hành tàng chẳng biết. Hiển
thì dựa theo sự thật mà ra. Ẩn thì khéo trôi mà đi. Thế, đã nói đi tìm
tôn chỉ, sao lại phải dòng dài về mười hiệu? Tia lóe của một ánh thừa
cũng đủ làm sáng rạng cả cái đời đồi trụy này thì người tin há
đi lấy một đốm lửa leo lét để làm tăng thêm nỗi nghi ngờ của mình
sao? Chỉ cần hướng đến mặt trời mới rạng thì trắng đen sẽ sánh
vai nhau. Tháp tượng kinh sách đầy khắp cả thế giới, kẻ học há lại
đi lấy điều không chứng để tự hối hận sao?
Ngài lại dẫn đến bảy kinh, ý
nghĩa gồm cả những gì thuộc vị lai như "chứa lành thừa vui, chứa
dữ thừa khổ", thì tuy nói thế, chúng đã không nói đến việc sinh
diệt đổi mới, đổi vai gánh thay, hành động lành dữ không thể không
chịu báo được. Điều này quả đã rõ cả đời, càng rộng rãi sâu sắc
hơn cả bảy kinh. Dù vậy, trưng văn để nghiệm lấy sự thật, điểm ấy
vẫn được lắm. Thư trước ngài nói rằng "Đế vương Cơ Khổng lời
dạy dừng lại ở đời này, viện lai sinh họ để riêng ra mà không bàn tới,
cho nên sự ẩn hiện phế hưng quyền thật của họ không cần phải
rõ", thì tựa hồ như có vẻ mâu thuẫn. Song, ý nghĩa nó bây giờ đã
ổn ký thì đáng lòng thương không nên trách. Chỉ xin nghe rõ hơn nữa điều
sâu sắc.
Thơ đáp trước có nói sơ đến đấng
Chí Thánh và sự chìm nổi của chúng sinh, nhưng nghĩa cứ chưa rõ ràng, lời
lẽ chưa thông suốt, nên nay xin bàn rõ lại, để cùng nhau rộng truyền đạo
lớn.
Rằng, quần sinh dài mê trong ba
cõi, chúng thức tối mờ trước sáu trần, trôi chìm với sinh tử là ông
chúa của sự cấu xé ăn nuốt, tương tục ở tâm thức là bánh xe của sự
lăn lóc luân hồi, xác thân thì đầy dẫy quán trọ của nghịch lữ, tâm
hồn thì chỉ đáng cho khách khứa nghỉ chân, lui tới trong ba ác mà khổ sở,
qua lại trong tám nạn mà chua cay, hân lạc thì tạm vui mà lo sợ suốt kiếp;
một thân chết đi lại chịu một thân khác. Dẫu thế trí biện thông,
sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu suốt, chín phái rõ qua, biết sống chết
có mạng, giàu sang tại trời, quỉ thần không thế đòi hỏi, thánh hiền
không thể dự tri, ấy cũng chưa thoát khỏi sự sai lầm để che lấp tâm
tình hay sự nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ lông bông. Rồi phó thác cho đồng
bóng, đầu thành với phù chú, ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải,
giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ
đôi ngã, thì Phật dù có phóng quang động địa, ai mà có thể thấy cho
ư? Sở dĩ sách Phật lưu bố, ấy là giống như bày nơm mà chờ cơ. Căn
cơ động thì tất có cảm. Có cảm thì sau đó tất có lứng vậy.
Tự khi đặt chí vào nhà huyền, dốc
hết lòng vào chỗ uyên áo, rõ được mạng người như giọt sương mai, hiểu
được ba đời là không giả, thì phải tung mở cái thuật thanh chân, kiểm
chận lấy con đường trược giả, gầy đức nhổ tà mà tà vẫn um tùm,
trồng phước vun chính mà chính vẫn thưa thớt, khổ tiết giành lấy thời
gian với tấc bông, sạch mình tranh lại phút giây với già nua, ôm ấp
lòng thành, bảo hoài chí hướng, cho đến khi có cảm thì mọi việc liền
thông. Há lại không tự mình đem lấy ánh sáng quang minh mà thấy được sự
linh biến của nó đó hay sao? Hoặc qua sự chứng kiến rõ ràng của tai mắt
hoặc qua sự mơ thấy trong giấc mộng như Hán Minh đế nhơn mộng mà thấy
được đấng Chí Thánh, đại pháp do thế mà đã du nhập Trung Quốc, vua
chúa đem hết lòng thành để trở về với bậc đức, anh hào vén áo để
được giáo hóa, Sa-môn sánh vai với vương công, tăng ni trực cung trước
thiên tử. Đối với 96 thứ ngoại đạo thì ai là cao hơn?
Tống Vũ Hoàng đế, khi mới lên
ngôi, nằm mộng thấy một thầy tu mang bát đến xin, nhân thế mà nói rằng:
"Ông đời trước vì bố thí cho Phật Di Vệ một bát cơm, nên nay mới
được ở ngôi này", bèn sai đến hỏi Nghiêm công giải bày thực giả.
Nghiêm công liền đưa kinh Bảy Phật cho xem. Chúa Ngô là Tôn Quyền ban đầu
nghi Phật pháp không nghiệm, đáng nên đình chỉ bãi bỏ, thì liền nhận
được ngọc xá lỵ, chiếu sáng rực rỡ, vàng sắt không thể dập nát,
lò nung không thể thiêu cháy, nay đang còn thấy ở chùa Kiến sơ tại kinh
đô. Ngô quận có một tượng Phật đá, nổi trên nước biển, đạo sỹ
đồng cốt, người theo hàng trăm, ra vẻ phù đọc chú, đánh trống nhảy
múa, không một tên có thể làm nhúc nhích. Năm sáu thầy tu cung Chu Trương
và khoảng bốn người đã nhẹ nhàng nâng lên và cùng nhau bưng đi một cách
dễ dàng, tức nay thấy tại chùa Ngô quận Bắc. Thuần thành chí đáo,
thì không gì là không có cảm ứng. Nhà Chu Trương suốt đời thờ Phật,
do thế mà thấy được sự ứng nghiệm. Quách Văn Cử sùng phụng Tam bảo,
chính tín kiên minh, tay rờ họng cọp, rất biết sự an nguy. Lan công phủi
tuyết buốt cho thú dữ, hộ công cảm suối khô thành dòng nước lũ, họ
đều là những bậc cao hạnh siêu quần, thanh trần thoát tục mà hành
tích khác thường đều có ghi lại ở đời vậy. Ngoài họ ra còn không biết
bao nhiêu nữa.
Bần đạo lúc nhỏ học hành nhác
nhớm, nên đến khi bạc đầu trở thành quê mùa cạn cợt; tỏ rõ lòng
thành của mình, thì lời chẳng văn vụn, vị tất có thể hoa mỹ nên sợ
không duẫn đáng. Suy đi nghĩ lại càng thêm thẹn thùng.
Kính bạch.
Hật bút:
Tống cư sĩ ở Kinh Châu làm ra quyển
Minh Phật luận, bảo rằng, theo lời thuật của Bác Ích trong Sơn hải kinh
thì nước Thân Độc gần người mà thương người. Quách Phác chú thích
là, Thân Độc tức là Thiên Trúc, nơi Phù đồ đang nổi lên - Phù đồ tức
Phật đó vậy. Liệt tiên truyện của Lưu Hướng kể lại 47 người tiên
trong kinh Phật. Đó phải là do cái nhìn hẹp hòi về vấn đề ấy của những
học giả, chứ không phải là Phật giáo bắt đầu với Hán Minh đế. Nhờ
sự nhân tử thánh thiện tên Trừng vào thời Thạch Lặc và Thạch Hổ đã
gọi Hổ bảo rằng: "Tại chỗ chùa vua A Dư xưa trong thành Lâm Truy
còn có cái tháp hứng sương có một bức tượng ở dưới một gốc cây lớn
tại rừng sâu cách đất khoảng hơn 20 trượng". Hổ sai sứ giả y
theo bản đồ đào tìm thì được đúng như lời nói - Vua A Dư tức là vua
A Dục vậy. Chú của Diêu Lược là Tấn vương ở Phố Pha Hà Đông. Ở chỗ
mà những người già gọi là chùa vua A Dục, ông thấy có ánh sáng lóe ra,
bèn dục tìm được xương Phật trong một hộp bạc tại một tráp đá
sáng tỏa lạ thường, theo đường nghênh về kinh đô ở Nghiệp, dâng lên
cho các Tỷ-kheo, nay thấy tại chùa Tấn. Do đó, thấy rằng, Phật sự có
khắp đất Tấn đã lâu vậy. Sở dĩ nó không được nói đến ở thời
Tam đại, ấy cũng giống như các cuốn sử của Can Bảo và Tôn Thạnh đã
không nói đến sự diệu hóa thật rõ của đức Phật đã có tiến bộ
và thạnh hành ở Giang tả vậy.
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử [^]
Đây là Sáu lá thư được bảo là
những thành quả sống sót của những trao đổi giữa Lý Miễu của Giao
Châu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh. Sau lá thư thứ sáu, có một đoạn
văn mà chúng tôi gọi là "Hậu bút", và nói không gì hơn là một
trích dẫn từ Minh Phật luận của Tôn Bính (374-443) do Tăng Hựu sưu tập
lại trong Hoằng minh tập ĐTK 2102 tờ 12c12-18. Bính viết Minh Phật luận nhằm
trả lời những vấn đề do Quân thiện luận của Huệ Lâm nêu lên. Trong
đoạn trích trên, chủ ý của Bính là nhằm chứng minh rằng, Phật giáo đã
được biết tới và xuất hiện rất lâu trong lịch sử Trung Quốc ngay cả
vào thời Tam hoàng Ngũ đế. Bính chẳng hạn kể đến cái câu "đông
hải chi nội, bắc hải chi ngung, hữu quốc viết Triều tiên Thiên độc, kỳ
nhân thủy cư, ôi nhân ái nhân" của Sơn hải kinh trong Sơn hải kinh tiển
sớ quyển 18 tờ 1a, mà ta được bảo là do Bá Ích, người con thứ hai của
vua Thuấn, viết có lẽ vào thế kỷ thứ XXII tdl. (!), tuy rằng, Sơn hải
kinh, cứ vào những bằng cớ nội tại của nó, thì phải viết vào khoảng
thế kỷ thứ I tdl hay sdl., mà Quách Phác (276-324 tdl) hơn ba trăm năm sau đã
viết một chú thích.
Về quyển Liệt tiên truyện của Lưu
Hướng, Chí Bân cho biết trong Phật tổ thống ký viết năm 1269 quyển 35
ĐTK 2035 tờ 329a 17-21 là: "Hồng hy năm thứ hai Quang lục đại phu Lưu
Hướng kiểm sách ở các Thiên bộc, thỉnh thoảng có thấy kinh Phật. Hướng
viết Liệt tiên truyện, nói rằng: "Tôi tìm xem trong thư viện, lục
truy Liệt đồ do Thái sử soạn thì thấy, từ Hoàng Đế trở xuống cho đến
nay 700 người đã đắc đạo tiên. Xét sự thật giả của số đấy thì
còn lại được 148 người, trong đấy 74 người đã tìm thấy trong kinh Phật".
Hồng Hy năm thứ hai nhà Tây Hán tức là năm 19 tdl.
Về chuyện Thạch Hổ và người chú
của Diêu Lược, thì tuy chuyện chú Diêu Lược ngày nay ta không biết một
tí gì rõ ràng, chuyện Thạch Hổ ta có thể tìm thấy trong bản tiểu sử
của Phật Đồ Trừng ở Cao Tăng truyện quyển 9 ĐTK 2060 tờ 38b13-387a29.
Thạch Lặc và Thạch Hổ lập nên nhà Hậu Triệu và trị vì giữa những
năm 329-350, trong khi Phật Đồ Trừng mất vào năm 348 lúc ông 117 tuổi.
Viện dẫn những chứng cớ vừa
nói ra, Tôn Bính nhằm trả lời câu hỏi, nếu Phật giáo có mặt ở Trung
Quốc từ xưa thì tại sao lại không thấy nói đến ở thời Tam đại tức
thời nhà Hạ, Thương và Chu? Bính bảo là, ngay cả những cuốn sử của
Can Bảo và Tôn Thạnh, mà tiểu sử ta tìm thấy trong Tấn thư quyển 82 tờ
8al-9a3 và 6b10-7b7 kiểu Tấn ký hay Ngụy thế xuân thu cũng không nói gì hết
đến chuyện "Phật diệu hóa thật chương hữu tiên nhi thạnh ư Giang
tả", nghĩa là, những cuốn sử viết cách Bính và những người thời
ông không bao xa. Tôn Thạnh sinh năm 302 và mất vào năm 373, một năm trước
khi Tôn Bính ra đời. Vạch ra những điểm này, chúng tôi có ý nhằm cho thấy
những truyền thống lịch sử Phật giáo và văn hóa khác nhau giữa những
người viết Sáu lá thư và tác giả Minh Phật luận. Để rõ hơn, chúng ta
phải phân tích những chứng cớ, mà Pháp Minh đã dẫn ra trong lá thư thứ
sáu, cho việc chứng minh sự cảm ứng linh biến của đức Phật "hoặc
qua sự chứng kiến rõ ràng của tai mắt, hoặc qua sự mơ thấy trong một
giấc mộng", và chúng gồm 7 thứ sau:
Thứ nhất là chuyện Hán Minh đế
mộng thấy Người Vàng và Phật giáo đến Trung Quốc. Từ ngày Tôkiwa đã
vội vàng giả thiết Mâu Tử lý hoặc luận là một ngụy tạo của Huệ
Thông và từ đó kết luận chuyện "Hán Minh đế mộng thấy Người Vàng"
cũng thế, hầu hết những người nghiên cứu, dù có bất đồng ý kiến
và chỉ trích Tôkiwa đi nữa, ít khi thử vạch ra sự sai lầm dữ kiện của
người này.
Theo Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK
2059 tờ 374c28-375a6 thì Huệ Thông "đến dừng lại ở chùa Trị
Thành.. Từ Trạm Chi từ Đông Hải, Viên Sán từ Trần quận kính trọng,
dùng lễ thầy bạn. Hoàng đế Kiến Vũ gia hậu sủng ái, sai làm bạn với
hai vương Hải Lăng và Tiểu Kiến Bình. Viên Sán viết Cừ Nhan luận đem
đưa cho Thông coi.. Thông viết nghĩa sớ cho những kinh Đại phẩm và Thắng
man, những luận Tạp tâm và Tỳ đàm, cùng Bác Di hạ luận, Hiển chứng
luận v.v.. đều có truyền ở đời, đến Tống Thăng Minh ông mất, thọ
63 tuổi".
Thăng Minh là niên hiệu của Tống
Thuận đế kéo dài từ năm 477 đến 478. Nếu Thông mất khoảng Thăng Minh,
thế có nghĩa, niên đại của Thông phải rơi vào khoảng 415 - 478. Xác định
kiểu này thì ngay cả khi Mâu Tử lý hoặc luận là một ngụy tạo của
Thông, một luận đề hoàn toàn sai lầm, mà chúng tôi có dịp chứng tỏ,
ta cũng không thể khẳng định là, thuyết "Minh đế mộng kim nhân",
đã ra đời với Huệ Thông, bởi vì pháp sư Pháp Minh đã kể đến nó và
pháp sư này phải sống vào khoảng những năm 370 - 456.
Nói thế, chúng ta dĩ nhiên chưa kể
đến cái chú thích của Lục Trừng về Mâu Tử lý hoặc luận trong cuốn
Pháp luận của ông, mà Tăng Hựu đã cho thu thập lại trong Xuất tam tạng
ký tập quyển 12 ĐTK 2145 tờ 82c29-83al, theo đấy "Mâu Tử bất nhập
giáo môn, nhi nhập duyên tự, dĩ đặc tãi Hán Minh chi tượng pháp sơ truyền
cổ giả - Mâu Tử không xếp vào loại sách dạy, mà vào loại sách nhập
đề, bởi vì nó đã đặc biệt ghi lại lúc tượng pháp mới truyền vào
thời Hán Minh đế - Những dòng này, Trừng phải viết trước năm 470, bởi
vì khi Tống Minh đế ra lệnh soạn cuốn Pháp luận ấy thì ông đang còn
ở tại chức Trung thơ thị lang, như Tăng Hựu đã ghi, trong khi vào năm 470
ông đã bị đổi qua chức Ngự sử trung thừa vì mắc tội.
Và đó cũng chưa kể đến thuyết
của Viên Hoằng (328 - 376) trong Hậu Hán ký. Dẫu sao đi nữa, với những củ
soát vừa thấy, ta có ít nhất là hai truyền thuyết khác về giấc mộng
Người Vàng của Hán Minh đế, ngoài truyền thuyết của Huệ Thông, vào thế
kỷ thứ năm. Những truyền thuyết này, tất cả chúng đều phải rút ra từ
Mâu Tử lý hoặc luận, và giữa chúng thì thuyết của Hán Minh có lẽ là
xưa nhất, một điều không có gì là đáng ngạc nhiên cho lắm nhưng rất
lôi cuốn bởi Lý hoặc luận đã viết tại nước ta và là một sản phẩm
văn hiến đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Ý nghĩa của nó sẽ trở
nên rõ ràng hơn với những bàn cãi về những chứng cớ tiếp theo.
Chứng cớ thứ hai Pháp Minh dùng
là chuyện Tôn Quyền tin Phật vì viên ngọc Xá-lị. Như Zurcher đã nhận
thấy, lá thư của Pháp Minh là văn kiện đầu tiên kể đến chuyện thần
dị này, mà sau đó ta thấy xuất hiện trong hầu hết những bản tiểu sử
của Khương Tăng Hội. Bắt đầu với Xuất tam tạng ký tập quyển 13 ĐTK
2145 tờ 97 98b2 của Tăng Hựu và Cao Tăng truyện quyển 1 ĐTK 2060 tờ 325a
13-326b13 của Huệ Đạo.
Khương Tăng Hội từ thời Đàm
Thiên và Thông Biện trở đi thường được coi như một người truyền đạo
đầu tiên ở nước ta cùng với Mâu Bác, Chi Cương Lương và Ma Ha Kỳ Vực.
Quan niệm lịch sử này về vai trò của Hội ngày nay đã chứng tỏ là
không chính đáng, nếu không là hoàn toàn sai, như chúng tôi đã vạch ra
ở chương trước.
Trong An ban thủ ý kinh tự mà Tăng
Hựu sưu tập lại trong Xuất tam tạng ký tập tờ 43b24-c1 và Thang Dụng Đồng
coi như viết vào khoảng năm 229, Hội đã cho ta biết thế này về tình trạng
Phật giáo nước ta qua lời tự thú sau: "Tôi sinh muộn màng, nên tuổi
mới vào thời vác củi thì hai thân đều mất, ba thầy đã táng, ngước
trông mây trời, buồn rầu không biết hỏi han ai, nín lời nhìn lấy (cuốn
sách), tự nhiên ứa lệ. Song phúc xưa chưa hết, nên gặp được bạn Hàn
Lâm từ Nam Dương"..
Rồi, trong Pháp Kính kinh sự ở Xuất
tam tạng ký tập tờ 46C2-11 Hội cũng lập lại những cảm hoài đầy nước
mắt về những vị thầy của ông tại nước ta: "Kỵ đô úy An Huyền
và Nghiêm Phù Điều từ Lâm An, hai vị hiền đây.. đã đem hết trí óc
mình, dịch lấy cuốn kinh này.. lời nói đã đúng theo văn xưa, mà ý lại
vi diệu.. nhưng nghĩa nó đã bị chận đứng không thông, nên tôi mạo muội
đem hết chỗ ngu của mình làm lấy chủ nghĩa này. Tang thầy đã nhiều năm,
nên không do đâu mà hỏi lại được. Lòng rười rượi, miệng tấm tức,
dừng bút xót thương những ai theo dõi dấu xưa, quyến luyến thánh giáo, nước
mắt bỗng tự nhiên chảy ròng ròng. Nay xin ghi lại những điều mình biết,
giúp giải quyết những nghi ngờ, đợi chờ những bậc cao minh về sau. Giả
như có sự xướng thành, ấy là nhằm làm rõ Tam bảo vậy".
Chứng cớ thứ ba của Pháp Minh là
cái tượng thờ ở chùa Ngô quận Bắc. Một lần nữa, Pháp Minh là người
đầu tiên ghi lại sự thần dị của tượng Phật này cũng như sự thành
công của Chu Trương trong việc vớt nó lên, trong khi những bọn đồng cốt
thầy pháp đều thất bại, và sau đó Huệ Hạo đã ghi lại trong Cao Tăng
truyện quyển 13 ĐTK 2060 tờ 409b6-410a7 tại bản tiểu sử của Thích Huệ
Đạt, tuy đã đổi tên Chu Trương thành Chu Ứng.
Hạo kể lại chứng cớ này một
cách chi tiết như sau: "Đạt.. lại đông du tới Ngô huyện bái thạch
tượng, vì bức tượng ấy vào năm Quý Dần niên hiệu Kiến Hưng thứ nhất
(313) thời cuối nhà Tây Tấn nổi lên tại cửa Hồ Thục của sông Ngô
Tùng. Những người đánh cá cho đó là vị thần biển, tìm đến để nghênh
thì sóng gió nổi lớn; họ khiếp sợ trở về. Lúc ấy có những kẻ thờ
phụng Hoàng Lão cho đó là hiển thần của vị Thiên sư của họ, lại cùng
nhau đến nghênh, sóng gió vẫn như xưa. Sau đấy có một cư sĩ thờ Phật
là dân Ngô huyện tên Chu Ứng nghe, bèn than rằng: "Ấy nếu không phải
là đấng Đại Giác thì ai mà ứng hiện ra đó?" Rồi trai giới cùng với
Bạch Ni chùa Đồng Vân và vài tín giả đến cửa Hồ thục, cúi đầu chí
thành, ca tụng lời nguyện rất khẩn, thì sóng gió đều dứt, xa thấy hai
người nổi trên sông mà đi, ấy là những tượng đá, sau lưng một có
tên Ca Diếp, một có tên Duy Vệ; họ liền nghênh về an trí ở chùa Huyền
Thê".
Trước khi kể câu chuyện này, Hạo
cũng cho biết thêm là, Đạt đã xuống miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là
Hợp Phố, để chiêm bái một tượng Phật bằng châu do một người tìm
châu ở Hợp Phố tìm thấy và trao lại cho thứ sử Giao Châu lúc bấy giờ
là Đào Khản vào năm 318. Cuối đời Đạt, Hạo bảo là, ông không biết
Đạt đi đâu và mất vào năm nào hay thọ bao nhiêu tuổi, dù vào khoảng
niên hiệu Ninh Khương, nghĩa là khoảng giữa năm 373-375, Đạt đã tới Kiến
Nghiệp trên đường xuống chiêm bái ở Hợp Phố và Ngô quận. Huệ Đạt
do thế rất có thể đến nước ta, nhất là vào khoảng thế kỷ thứ IV
và V, Giao Chỉ đã là một nơi nổi tiếng với những danh địa của nó,
như ta sẽ có dịp thấy khi bàn với Quách Văn Cử.
Chứng cớ thứ tư là chuyện Quách
Văn Cử thò tay vào họng cọp mà không sợ. Văn Cử là tự của một dật
dân tên Quách Văn, và tiểu sử đã được ghi lại trong Tấn thư quyển 94
tờ 9a 5 - 10a 8, do Đường Thái Tôn (597 - 649) viết. Cứ vào tiểu sử ấy,
thì Văn là một người tu tiên làm nhà trong núi không dính líu gì đến Phật
giáo hết tuy Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK 2059 tờ 369c26 có dẫn tên ông. Về
chuyện thò tay vào họng cọp, thì truyện thuật rằng, một hôm Văn đang
ở trong rừng, gặp một con cọp há miệng ra, ông liền thò tay vào và lấy
một thanh xương đang chận họng ra cho cọp. Cọp biết ơn, nên thường bắt
nai đem đến trả ơn. Người ta hỏi, ông không sợ cọp sao, ông đáp
"nếu mình không có lòng sát hại nó thì nó không làm gì mình".
Khi ông mất, có lẽ vào khoảng năm 320-330, Cát Hồng và Dữu Xiển đã viết
tiểu sử lưu lại, ca ngợi sự đẹp đẽ của cuộc đời ông.
Hoạt động của Văn Cử như vậy,
hầu như hoàn toàn giới hạn ở rừng núi Trung Quốc. Việc tiếng ông vang
đến cả nước ta chắc chắn phải qua trung gian của Cát Hồng. Tiểu sử
của Hồng nằm ở Tấn thư quyển 72 tờ 7b11-9a9, theo đó thì Hồng, khi về
già muốn luyện đơn để cầu sống lâu, đã xin Tấn Thành đế vào khoảng
những năm 326-336 ra làm quan lịch tại huyện Cú Lậu của quận Giao Chỉ nước
ta. Thành đế không cho, vì nghĩ rằng Hồng là một bậc đại thần của
Triều đình thì sao lại nhận một chức nhỏ bé như quan lịnh. Hồng trả
lời là, vì ông nghe Giao Chỉ sản xuất linh đơn, nên muốn ra đó mà luyện
đơn. Vua bằng lòng. Nhưng khi tới Quảng Châu, viên thứ sử ở đó tên Đặng
Nhạc không cho phép ông đi, nên ông phải dừng lại và luyện đơn tại núi
La Phù.
Một lần nữa, bản tiểu sử của
Hồng ở Tấn thư không nói gì hết về những liên lạc của ông đối với
Phật giáo. Tuy nhiên, cứ vào Phật tổ thống ký quyển 36 ĐTK 2035 tờ
339c5-8, thì Cát Hồng đã viết một tấm biển cho chùa Linh Ấn do một nhà
sư Ấn Độ dựng ở núi Vũ Lâm tại Tiền đường vào năm 326. Và cái
chú thích ở quyển 37 tờ 348a7-15 cũng ghi lại chuyện Hồng muốn làm quan
lịnh tại huyện Cú Lậu ở nước ta, để luyện đơn. Hồng để lại nhiều
sách và mất vào lúc 81 tuổi, khoảng năm 363.
Chứng cứ thứ năm là chuyện Lan
công phủi tuyết buốt cho thú dữ. Lan công đây dĩ nhiên là Vu Pháp Lan, vị
sư đã đến nước ta khoảng những năm 320 trên đường đi tham bái Phật
tích ở Ấn Độ, nhưng không may đã mắc bệnh và mất tại vùng Trị
Thiên ngày nay, mà ta đã có dịp nhắc tới ở trên. Việc phủi tuyết buốt
cho thú dữ Cao Tăng truyện quyển 4 tờ 349c29-350a 3 viết: "Tính Lan ưa
núi sông hang động. Thường vào những mùa đông tuyết lạnh buốt xương,
có cọp vào phòng mình. Thần sắc Lan không đe dọa, nên cọp cũng rất thuần,
đến sáng hôm sau tuyết hết rơi, cọp ra đi". Nó như vậy không nói
rõ Lan trực tiếp phủi tuyết cho cọp. Dẫu vậy, vào cuối thế kỷ thứ
IV người ta đang còn truyền tụng về khả năng "lành nhiếp cọp dữ"
của Lan, từ đó giả thiết Lan đã có những giao tiếp như thế nào đấy
với cọp. Chi Tuần (314-366) đã vẽ tượng Lan để thờ, viết bài tán để
ca ngợi cuộc đời Lan thế này:
- "Họ Vu vượt đơn
- Nắm cả huyền chỉ
- Ưa lánh rừng núi
- Lành nhiếp cọp dữ".
Việc Lan phủi tuyết cho cọp do thế
đang còn phổ cập nhiều trong nhân gian.
Chứng cứ thứ sáu là chuyện Trúc
Pháp Hộ làm cho suối khô trở thành có nước. Cứ Cao Tăng truyện quyển
1 ĐTK 2059 tờ 326c2-327a12 và Xuất tam tạng ký tập quyển 13 ĐTK 2146 tờ
97c19-98b2 thì câu chuyện này được mô tả như sau:
"Đến cuối đời Tấn Vũ đế,
Hộ vào ở ẩn rừng sâu, rừng có một suối nước trong, mà ông thường
đến tắm giặt. Sau có một người hái củi tới phóng uế bên bờ, nó bỗng
nhiên khô cạn đi. Hộ bèn ngồi than: "Người chi mà thất đức, đến
nỗi khiến cho giòng nước hết chảy, nước nếu khô mãi, thì mình thực
không tự cung cấp được, chính là lúc nên dời đi". Than xong, thì suối
bỗng trở thành một dòng nước chảy mạnh. Ấy chính là lòng thành của
Hộ đã làm cho có sự cảm như vậy. Cho nên, khi Chi Tuần làm tượng ông,
đã ca ngợi rằng:
- "Hộ công trong vắng
- Đạo đức đẹp sâu
- Hang cùng nhẹ vãn
- Tuôn nước suối khô
- Cao thay ông Hộ
- Tư chất tuyệt luân
- Chân ruổi cát dồn
- Học lấy huyền đạo".
Hộ, tuy có chữ Trúc như họ của
ông, thực sự là người sinh ở Đôn Hoàng, và cha mẹ gốc người Nguyệt
Chi. Như đã nói trên, ông mất lúc 78 tuổi khoảng năm 308 và đã quen thân
với Vu Đạo Thúy. Thúy cũng là người Đôn Hoàng giống Hộ. Vì vậy, mặc
dù Hộ không bao giờ xuống miền Nam Trung Quốc và nước ta, tiếng tăm và
dự nghiệp dịch thuật vĩ đại của ông chắc chắn đã được người
nước ta biết một cách khá tường tận qua những trung gian đắc lực như
Đạo Thúy.
Hơn thế nữa, như Huệ Hạo đã
ghi ở trên, thì Biệt truyện về Vu Pháp Lan cũng đã kể ra chuyện "cảm
cô tuyền nhi hồng lưu" cho Lan, dẫu có lẽ không chính đáng cho mấy,
bởi vì không những lời ngợi ca Lan của Chi Tuần chỉ nói đến chuyện
phủi tuyết cho cọp và không nói chi hết tới chuyện "cảm cô tuyền",
trong khi lời tán Hộ lại nói đến sự cảm ấy, mà còn vì Pháp Minh đã
xác định một cách rõ ràng là "Hộ công cảm cô tuyền nhi hồng lưu".
Như vậy theo tài liệu xưa nhất của Chi Tuần và Pháp Minh thì chuyện
"cảm suối khô" phải là của Hộ, và nó được người nước ta
biết đến chắc chắn phải qua trung gian Vu Đạo Thúy, mà họ đã đặt
nhiều tin tưởng, khi Thúy đến nước ta.
Chứng cứ thứ bảy là chuyện nằm
mộng thấy một nhà sư của Tống Vũ đế hỏi Huệ Nghiêm. Chuyện này ghi
lại trong bản tiểu sử của Huệ Nghiêm ở Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK
2059 tờ 367b18-368b7. Huệ Nghiêm mất vào năm Nguyên Gia thứ 20, tức năm
443, lúc ông 81 tuổi. Niên đại của ông do thế rơi vào khoảng 362 - 443. Năm
420, Lưu Dụ lật đổ vị vua cuối cùng của nhà Đông Tấn và lên ngôi lấy
hiệu là Tống Vũ đế. Dù có sự huyền khải của nhà sư về việc bố
thí một bát cơm cho Phật Di Vệ nên mới có được ngôi thiên tử, Tống
Vũ đế trị vì không quá hơn hai năm. Đến năm 423 thì Vinh Dương vương lên
thay để rồi năm sau bị Tống Văn đế lật đổ.
Cái chứng cớ cuối cùng này, về
phương diện lịch sử Phật giáo Việt Nam, không có gì đáng lôi cuốn sự
chú ý của chúng ta hết. Tuy nhiên, trên khía cạnh xác định niên đại có
thể của những bức thư cùng những tác giả của chúng ở đây, nó tỏ
ra có một giá trị vô cùng quí báu bởi vì ít nhất là với tính khởi sự
của nó, cho biết những lá thư ấy phải viết sau khoảng Lưu Dụ lên
ngôi, nghĩa là sau năm 420, nếu không là sau khi Huệ Nghiêm chết vào năm
433. Niên đại sớm nhất của chúng do đó phải là khoảng những năm
420-443. Về niên đại chậm nhất, chúng ta sẽ có dịp bàn tới dưới đây,
khi nói về lai lịch của những bức thư cũng như niên đại có thể của
những tác giả chúng.
Đấy là bảy chứng cớ do Pháp
Minh dẫn trong lá thư trả lời Lý Miễu. Chúng tôi đã dài dòng truy nhận
căn cước và bàn cãi giá trị của từng chứng cớ một với mục đích
trước hết là trả lời câu hỏi, phải chăng đoạn văn, mà chúng tôi gọi
là Hậu bút, là một thêm thắt của những người sau, đặc biệt là của
người Trung Quốc, và tiếp đến nhằm cho thấy, những chứng cứ ấy thuộc
về một truyền thống lịch sử và văn hóa khác với những chứng cớ của
Hậu bút.
Về mục đích đầu, câu trả lời
là một khẳng định. Hậu bút là một thêm thắt của những người sau. Nói
là khẳng định, bởi vì, như đã vạch ra, những chứng cớ cua Tôn Bính
là nhằm chứng minh Phật giáo đã được người Trung Quốc biết từ thời
Tam đại, tức thời những nhà Hạ, Thương và Chu, với quyển Sơn hải
kinh của Bá Ích, người con thứ hai của vua Thuấn. Những chứng cứ về
Phật Đồ Trừng và ông chú của Diêu Hưng do Bính dẫn ra là để chứng
minh rằng, thậm chí những người này sống vào thời Tấn cách Can Bảo
và Tôn Thạnh không bao nhiêu năm, mà cũng không bao giờ được họ nói tới
trong những cuốn sách họ viết như Tấn ký của Can Bảo hay Ngụy thế
xuân thu của Tôn Thạnh. Do thế, tuy Bá Ích đã biết đến nước "Thân
độc ở đó đạo Phù đồ đang nổi lên", nhưng Phật giáo đã không
được nói tới qua những đời nhà Hạ, Thương và Chu, ấy là lỗi
"nhỏ nhen thiếu sót của các học giả" sử gia, chứ đâu phải
"Phật giáo chỉ bắt đầu với Hán Minh đế".
Chứng minh như thế, những bằng cớ
của Tôn Bính đi ngược lại ngay cả một chứng cớ của Pháp Minh ấy là
chuyện Phật giáo đến Trung Quốc với giấc mộng Người Vàng của Hán
Minh đế. Từ đó tạo nên một mâu thuẫn nội tại trong chính ngay bức thư,
một điều không thể xảy ra được, nếu cứ vào sự sáng sủa mạch lạc
của sự hành văn cũng như cách lý luận, chúng ta phải loại đoạn Hậu bút
ra và coi nó không gì hơn là một thêm thắt của những người sau.
Những người sau này là ai? Chúng
tôi nghĩ, họ là người Trung Quốc, tại vì, nếu ta so sánh những bằng cớ
của đoạn Hậu bút với bảy chứng cớ của Pháp Minh, thì điểm nổi bật
nhất sau đây đã lộ ra. Đấy là, trong số bảy chứng cớ ấy, trừ chứng
cớ cuối cùng có tính chất thời sự về Tống Vũ đế, sáu chứng cớ
kia dưới dạng một hình này hay một dạng hình khác liên lạc với lịch
sử nước ta và Phật giáo nước ta. Từ thuyết "mộng kim nhân" của
Mâu Tử cho đến chuyện "cảm cô tuyền", của Trúc Pháp Hộ qua
Chu Trương, Quách Văn Cử, Vu Pháp Lan, Vu Đạo Thúy và Khương Tăng Hội, mỗi
một chứng cớ đã có những dấu tích đặc biệt đối với người Phật
tử Việt Nam. Trái với đặc tính này, những bằng cớ của Tôn Bính như
Phật Đồ Trừng và người chú của Diêu Hưng hầu như không có một liên
lạc nào hết. Do thế, khi người Trung Quốc đọc thấy những lá thư trao
đổi trên chắc phải thấy điểm nổi bật vừa nói và phải ngạc nhiên
là, chúng không nói gì hết đến những thần dị ngoài những thần dị
liên lạc với Giao Châu. Lúc đã nhận thấy điều đó, họ chắc không ngần
ngại cho trích một số văn cú từ Minh Phật luận của Tôn Bính và làm
thành đoạn Hậu bút và chỉ giữ lại sáu lá thư mà thôi.
Dĩ nhiên, kết luận này không có
gì mới mẻ cho lắm, bởi vì trước đây Nghiêm Khả Quân khi cho trích Sáu
lá thư trong Toàn Tống văn đã loại bỏ phần mà chúng tôi gọi là Hậu
bút trên. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho dịch và bàn cãi vì đoạn "Hậu
bút" ấy, một mặt chứng thực nguồn gốc Việt Nam của Sáu lá thư.
Mặt khác, vì "Hậu bút" là một trích dẫn từ Minh Phật luận do
Tôn Bính viết để trả lời lại Quân thiện luận, nó giúp ta kết nối sự
ra đời của Sáu lá thư với những vấn đề do Quân thiện luận đề ra.
Do thế, dù loại bỏ, chúng tôi vẫn cho dịch kèm theo với Sáu lá thư.
Về mục đích thứ hai, qua những
phân tích sáu chứng cớ của Pháp Minh ta thấy chúng vẽ nên không ít một
bức tranh khá linh động về lịch sử Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ
thứ năm. Chúng ta có Mâu Tử vào thế kỷ thứ II, Khương Tăng Hội thế kỷ
thứ III và Vu Pháp Lan, Vu Đạo Thúy, Quách Văn Cử, Chu Trương và Cát Hồng
của thế kỷ thứ IV. Bức tranh ấy càng linh động hơn, khi chúng ta phân
tích hết toàn bộ Sáu lá thư với những dẫn chứng và điển cố của chúng.
Ngay lúc này, ta chỉ cần nhận xét
là, nếu đem những chứng cớ của Pháp Minh so sánh với những chứng cớ
của Tôn Bính trong Minh Phật luận cũng như của Tôn Xước trong Dụ hiền
luận, thì chúng ta phải giả thiết sự hiện diện của những truyền thống
văn hóa và lịch sử khác nhau giữa Pháp Minh và hai người ấy. Chính vì sự
khác nhau đây mà khi những lá thư ấy mang lên Trung Quốc, có lẽ qua những
trung gian như Huệ Thắng và Đạo Thiền vào cuối thế kỷ V, những người
Trung Quốc đã phải thêm vào đoạn Hậu bút, để gia thêm một sắc mầu
Trung Quốc cho cái bối cảnh Việt Nam của chúng.
Sự khác biệt truyền thống này,
không chỉ giới hạn vào lãnh vực tôn giáo. Nó còn lan ra nhiều lãnh vực
khác, mà quan trọng nhất là lãnh vực chính trị và độc lập chính trị.
Chẳng hạn trong đoạn kết luận lá thư thứ tư, Đạo Cao đã không ngần
ngại bảo người đệ tử Lý Miễu của mình là "đang ở vào địa vị
thiên tử" (cư đại bảo chi địa) Dĩ nhiên, người ta có thể hỏi, nếu
Lý Miễu "cư đại bảo chi địa" thi sao Đạo Cao lại cứ xưng Miễu
bằng "sứ quân", chứ không bằng những mỹ hiệu như "bệ hạ".v.v..
? Chữ "sứ quân" dùng để gọi những người ở vào địa vị thứ
sử hay chư hầu, kiểu hai câu nói sau đây do Tiêu Tử Hiến ghi lại trong
Nam Tề thư quyển 58 tờ 16a-9-b2, khi thứ sử Giao Châu Phòng Pháp Thừa xin
sách xem từ trường sứ Phục Đăng Chi: "Sứ quân ký bị tật, bất
nghi lao" và "sứ quân tỉnh xứ, do khủng động tật, khỉ khả khán
thư?" mà Đại Việt sử lược quyển 1 tờ 8b3 đổi thành "sứ
quân an cư, do khủng động tật, khỉ khả khán thư".
Vấn đề "sứ quân" và
"cư đại bảo chi địa" này, chúng tôi sẽ có dịp bàn rõ hơn dưới
đây. Ở đây ta chỉ cần vạch sơ ra như thế, để cho thấy rằng, sự khác
biệt truyền thống giữa những lá thư và các tác giả Trung Quốc là một
sự thực và là một điểm nổi bật cần chú ý. Nó sẽ hướng dẫn ta khá
nhiều trong việc nghiên cứu những lá thư ấy.
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch [^]
Nếu những phân tích về bảy chứng
cớ của Pháp Minh đã điểm chỉ cho ta một cách lôi cuốn nguồn gốc Việt
Nam của những người viết thư, thì những phân tích tiếp theo về thư tịch
và điển cố do họ dẫn sẽ soi sáng không ít cái nguồn gốc ấy, nhất
là những loại thuộc Phật giáo.
Về những loại thư tịch điển cố
"Sương Dĩnh" và "Bào Sinh" trong câu "Bần đạo, khí
phi Sương Dĩnh, vận phi Bào Sinh" của đoạn mở đầu lá thư thứ sáu.
Sương Dĩnh và Bào Sinh là ai? Không một cuốn tự điển nào đã ghi lại.
Phải chăng chỉ là những từ chung? Chúng tôi ban đầu nghĩ vậy, nhất là
khi những bộ tự điển lớn tiếng Trung Quốc có từ ngữ "bào sương"
mà chúng cắt nghĩa như "đao nhà bếp" - bào đao, và cho dẫn hai
thí dụ chứng minh. Một từ bài ngụ ngôn của Hoàng Đình Kiên, theo đó:
- Bào sương đao lạc quải
- Chấp ngọc tử minh thuyền
- và một bài từ Đường luật của Chu Tùng:
- Áp tào ngọc diện thiên nhai kiến
- Trác tuyết bào sương chiếu nhãn minh
Chúng tôi ban đầu nghĩ "sương
dĩnh" và "bào sinh" có thể là một diễn ngữ "của bào sương".
Do thế câu "khí phi sương dĩnh, vận phi bào sinh" có thể cắt nghĩa
như "bần đạo không có tài năng sắc bén". Nhưng vì chưa thể tìm
ra một dụng ngữ nào thuộc loại sương dĩnh vào bào sinh, nên chúng tôi,
vì cẩn thận phải giả thiết chúng như hai điển cố cần khảo tra thêm.
Dĩ nhiên, người ta cũng có thể dịch theo chữ câu ấy thành "bần đạo,
tài năng không phải là bút sương, vận mệnh thì không phải là sinh vật
dùng cho nhà bếp", rồi để nguyên như vậy cho ai muốn hiểu sao thì
hiểu.
Ngoài ra, Tiền Hán thư quyển 39 tờ
2b9-12 cũng có nói tới Bào Sinh; dù chữ Bào ở đây viết bằng bộ
"ngư", như một cố vấn của Tiên Hà. Nó viết: "Vua nhiều lần
sai sứ đến vấn lao thừa tướng. Bào Sinh gọi Hà nói: "Nay vua áo chiều
sương phủ, đã nhiều lần đến vấn lao ông, ấy vì người có ý nghi ngờ
lòng ông. Kế cho ông bây giờ không gì hơn là ông hãy sai con cháu em út
ông, đứa nào giỏi về việc binh đều đến ở trong quận sở của vua thì
vua càng tin ông". Từ đó, Hà làm theo kế của Bào. Hán Vương rất vui
lòng". Bào Sinh của Tiên Hà này là ai? Câu hỏi này cho đến thời Nhan
Sư Cổ (581-645) thì đã hoàn toàn không thể trả lời được. Trong các
chú thích về chữ đấy, Cổ chỉ biết viết: "Sư Cổ nói: Bào Sinh
là một bậc hữu thức thời bấy giờ, họ Bào, là người học trò vậy".
Do thế, ngày nay dù ta có đồng nhất Bào Sinh ở đây với Bào Sinh trong những
lá thư của chúng ta, một điều rất có thể, chúng ta cũng không thể biết
gì thêm hơn về ý nghĩa câu "Vận phi Bào Sinh", ngoài cái suy đoán
rằng, Pháp Minh có thể ví mình không có cái may mắn kiểu của Bào Sinh
được phục vụ Tiêu Hà.
Dù với trường hợp nào đi nữa,
chúng tôi cũng không loại bỏ cái khả hữu Sương Dĩnh và Bào Sinh rất
có thể là tên của hai người nổi tiếng nước ta vào một thời gian nào
đấy trước khi những lá thư trên xuất hiện; vì họ là người nước
ta, nên đã không bao giờ được ghi lại trong sách vở Trung Quốc và trở
thành mai một với thời gian. Cho đến khi một trong những trường hợp
trước được xác nhận, khả hữu này đáng nên chú ý.
Về các thư tịch điển cố ngoài
Phật giáo có thể truy về sách vở Trung Quốc, gồm có bốn nhóm chính
sau: Nhóm thứ nhất là chữ "võng tượng huyền châu" trong câu
"chiếp khách ngu quản, võng tượng huyền châu", mà chúng tôi dịch
thành "thì xin đem hết ống ngu của mình để làm chuyện võng tượng
đi tìm huyền châu", ở đoạn mở đầu của lá thư thứ hai.
Bốn chữ này dĩ nhiên là một mượn
ý từ câu chuyện Hoàng đế sai Võng Tượng đi tìm huyền châu trong Nam hoa
kinh thiên Thiên địa XII tờ 29 của Trang Tử: "Hoàng đế du hồ Xích
thủy chi bắc, đăng hồ Côn lôn chi khưu, nhi nam vọng, hoàn qui, di kỳ huyền
châu, sử tri sách chi nhi bất đắc, sử ly châu sách chi nhi bất đắc, sử
kiết cấu sách chi nhi bất đắc dã; nãi sử tượng võng, tượng võng (bk.
Võng tượng) đắc chi. Hoàng đế viết: "Di tai, tượng võng nãi khả dĩ
đắc chi hồ". Câu chuyện đây, người ta thường cắt nghĩa và dịch
thành "Hoàng đế, trong khi đi chơi ở miền Bắc sông Hồng, đã lên đồi
Côn Lôn, mà ngó về miền Nam, rồi trở về, đến viên huyền châu lại.
Ông sai hiểu biết đi tìm, nó tìm không được. Sai cái có hình dáng đi tìm,
nó tìm không được. Sai ngôn từ đi tìm, nó tìm không được. Bèn sai cái
không dáng hình đi tìm, không dáng hình tìm được. Hoàng đế nói: "Lạ
thay, không hình dáng mà có thể tìm được huyền châu ư?".
Quách Tượng đời Tấn chẳng hạn
đã giải nghĩa chữ "ly châu" như "sắc hình". Hay Thành Huyền
Anh đời Đường đã chú thích chữ võng tượng thành "ly thanh sắc tư
lự", như Lý Thiện đã làm, khi ông bàn tới câu "bạc sách hiệp
đạp, võng tượng tương cầu" trong bài phú Động tiêu của Vương Bào
ở Văn Tuyển: "Thiện nói: Hư vô là võng tượng ấy vậy". Điều
đáng chú ý là, chữ võng tượng hay tượng võng ấy lại có dịp xuất hiện
ở thiên Đạt sinh, tức thiên XIX tờ 49, theo đó Hoàn công đi chơi gặp quỉ,
về quá sợ nên phát bệnh, bèn hỏi Cáo Ngao có quỉ hay không, Ngao trả lời
là có như "đầm có con Lý, bếp có con Kết, rác rưởi bên trong cửa
là chỗ ở của Lôi đình, phía dưới phương đông bắc con Bội a và con
Khúc long nhảy lượn, phía dưới phương tây bắc là chỗ của con Dật dương,
sông có con võng tượng, đồi có con Sân, đồng bằng có con Bàng hoàng,
núi có con Quỉ, vũng có con Rắn ủy".
Cố nhiên, việc kết nối Hoàn
công với võng tượng của Trang tử đây điểm chỉ cho ta không ít cái kết
nối giữa võng tượng, Khổng Tử và Hoàn công, mà Tư Mã Thiên đã ghi lại
trong Khổng Tử thế gia của Sử ký quyển 47 tờ 6a 6 - 10. Một hôm, Hoàn Tử
đào giếng gặp được một vật trông giống con dê trong một bình đất.
Để thử Khổng Tử, Hoàn bảo mình gặp được con chó. Khổng trả lời:
"Theo chỗ Khưu biết thì nó là con dê vậy, vì Khưu nghe rằng, quái vật
của núi là con quì và con võng lạng, quái vật của con sông là con ám và
con võng tượng, quái vật của đất là con dê chôn".
Võng tượng do thế tự nguyên uỷ
rất có thể không chỉ gì hơn là tên một con vật, ngay cả trong trường
hợp câu "võng tượng đi tìm huyền châu". Những chữ
"tri", "ly châu" và "kiết cấu", ở đoạn ấy của
Thiên địa cũng phải coi như tên những con vật, rất có thể là ngoại
lai, mà Trang Tử đã phiên âm ra tiếng Trung Quốc. Dù với trường hợp nào
đi nữa, điển cố "võng tượng huyền châu" của Đạo Cao nhằm nói
rằng, nếu Đạo Cao đem hết chỗ ngu của ông trình bày và người đọc nắm
được ý tưởng, thì điều ấy thật là không ngờ được, thật hy hữu
như chuyện con võng tượng đã tìm được huyền châu, mà người ta, ngay cả
Hoàng đế, đã không ngờ là nó có thể làm được.
Nhóm thứ hai gồm bốn chữ "thổ
ác dư hà" - nhả thức ăn, búi lấy tóc, mà vẫn còn rối - ở đoạn
cuối cùng của lá thư thứ tư. Điển "nhả miếng ăn, búi lấy
tóc" này, Đạo Cao phải lấy từ Chu công thế gia của Sử ký quyển
33 tờ 3a9-b2, theo đấy khi Chu công nghe Bá Cầm được phong đất Lỗ, ông
liền dặn Bá Cầm thế này: "Ta là con của Văn vương, em của Vũ
vương và chú của Thành vương; đối với thiên hạ, ta do thế cũng không
hèn hạ gì. Thế mà, ta một lần tắm thì ba lần búi tóc, một bữa ăn thì
ba lần nhả miếng, đứng dậy, để đợi kẻ sỹ, vậy mà ta còn sợ mất
kẻ hiền trong thiên hạ; con khi đến Lỗ, nên cẩn thận, đừng đem thế
nước ta ra mà kiêu ngạo với người".
Sự rút gọn điển này thành hai chữ
thổ ác ít nhất đã bắt đầu với Ban Cố trong tiểu sử của Tiêu Vọng
ở Tiền Hán thư quyển 78 tờ 1b5-9; khi Vọng trách Hoắc Quang là "khủng
phi Chu công tướng Thành vương cũng thổ ác chi lễ, trí bạch ốc chi
ý", và dùng trong Hậu Hán thư quyển 66 tờ 18b3-5 ở tiểu sử của Trần
Nguyên: "Cố nhân quân hoạn tại tự kiêu, bất hoạn kiêu thần, ưng tại
tự nhiệm, bất tại nhiệm chân, thị dĩ Văn vương hữu nhật ngô chi lao,
Chu công chấp thổ ác chi thuật".
Nhóm thứ ba là những dẫn chứng từ
kinh Dịch và Luận ngữ. Trong lá thư thứ năm, Lý Miễu cho dẫn câu
"Tích thiện dư khương, tích ác dư ương", và bảo là từ kinh Dịch.
Câu ấy quả đến từ phần văn ngôn của quẻ khôn, mà theo bản in Chu Dịch
của cụ Phan Bội Châu đọc như "Tích thiện chi gia tất hữu dư
khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương, thần thí kỳ quân, tử
thí kỳ phụ, phi nhất triệu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai tiệm hỷ".
Trong lá thư thứ sáu, Pháp Minh nói
đến "sống chết có mạng, giài sang tại trời" và "quỉ thần
không thể cản ngăn, thánh nhân không thể tiên đoán". Câu "tử
sinh hữu mạng, phú quí tại thiên" đây đương nhiên là một trích dẫn
từ câu trả lời của Tử Hạ cho Tư Mã Ngưu Ưu ở thiên Nhan Uyên của Luận
ngữ, khi Ưu phàn nàn là "nhân giai hữu huynh đệ, ngã độc vong",
theo đấy "thương giai chi hỷ, sinh tử hữu mạng, phú quý tại thiên,
quân tử cẩu cập nhi vô thát, dự nhân hào nhi lễ, tứ hải chi nội giai
huynh đệ dã, quân tử hà hoạn hồ vô huynh đệ dã".
Còn câu "quỉ thần không thể
can ngăn, thánh nhân không thể tiên đoán" được Pháp Minh lấy từ
Chinh tây phú của Phan Nhạc (?-300), mà Văn tuyển quyển 10 tờ 1b10-2a3 đã
ghi: "Thử tam tài giả, thiên địa nhân, đạo duy sinh dự vị, vị chí
đại bảo, sinh hữu tu đoản chi mạng, vị hữu thông tác chi ngẫu, quỉ
thần mạc năng yêu, thánh trí mạc năng dự..".
Nhóm cuối cùng gồm những tên Cơ,
Khổng, Đán, Khưu, và từ "Thất kinh". Cơ Đán là tên của Chu
Công, còn Khổng Khưu là tên của Khổng Tử. Thất kinh là bảy bộ điển
tịch tiêu chuẩn của lịch sử Trung Quốc cổ đại, gồm bốn kinh thường
xuyên là Dịch, Thi, Thơ và Lễ, và ba kinh có thể thay đổi giữa Nhạc, Tả
truyện Xuân thu.
Luận ngữ, Mạnh tử, Hiếu kinh.
Đấy là sơ lược về những thư tịch
điển cố ngoài Phật giáo dùng trong Sáu lá thư. Về thư tịch điển cố
Phật giáo, một số chúng tôi đã phân tích ở trên. Số còn lại có thể
chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những tên họ sách vở do Đạo
Cao, Pháp Minh và Lý Miễu dẫn, và là nhóm quan trọng nhất. Hầu hết là
những tên Sí-đầu-mạt, Nhượng Khư và Long Hoa. Một củ soát những kinh
điển Phật giáo cho thấy những tên vừa nói đã xuất hiện trong các bản
văn liên quan tới sự ra đời của đức Phật Di Lặc trong tương lai.
Những bản văn ấy là
Maitreyàvadàna cùng năm bản dịch Hán văn của nó, đó là Phật thuyết Di
Lặc hạ sinh kinh do Trúc Pháp Hộ thực hiện vào năm 303, Phật thuyết Di Lặc
hạ sanh thành Phật kinh và Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật kinh do Cưu
Ma La Thập dịch giữa những năm 402-412, kinh Di Lặc hạ sinh của Tăng nhất
A hàm kinh ĐTK 125 do Cồ Đàm Tăng Già Đề Bà dịch vào năm 397, và Phật
thuyết Di Lặc hạ sinh kinh ĐTK 457 do Nghĩa Tịnh dịch vào năm 703.
Trong số những bản dịch ấy, chúng
ta có thể loại bỏ bản của nghĩa Tịnh, bởi vì chúng không liên can gì
hết với những bức thư của ta. Nguyên bản Phạn văn, tuy không hoàn toàn
đồng nhất với những bản dịch Hán văn, có thể giúp ta nhận ra những
danh từ Phạn văn, mà người Trung Quốc đã cho phiên âm và đã xuất hiện
trong những lá thư. Bốn bản dịch còn lại, tất cả chúng đều dịch
trước năm 412 và hầu như hoàn toàn đồng nhất với nhau, mặc dù ngắn
dài hơi khác.
Thế thì, Đạo Cao có dùng những bản
văn dịch này không? Hay ông dùng một nguyên bản Phạn văn nào đó do người
Ấn Độ mang tới nước ta cho việc nói về thành Sí-đầu-mạt và vua Nhượng
Khư trên? Chúng tôi không thể trả lời câu hỏi sau được, vì không một
dữ kiện nào hiện còn cho phép ta giả thiết. Về câu hỏi trước, chúng
tôi nghĩ, chúng ta phải trả lời khẳng định, vì tối thiểu một bằng cớ
trong lá thư của Đạo Cao đã xác nhận như vậy.
Bằng cớ đó là chữ Sí-đầu-mạt.
Trong bản dịch của Trúc Pháp Hộ, cái thành mà Phật Di Lặc sẽ sinh vào,
được gọi là thành Kê Đầu. Bản dịch của Tăng Già Đề Bà ở quyển
thứ 44 của Tăng nhất a hàm kinh ĐTK 125 tờ 787c2-789c28 cũng gọi nó là
thành Kê Đầu. Hai bản dịch của La Thập, ngược lại, gọi nó là thành
Sí-đầu-mạt, cái tên đã xuất hiện trong lá thư của Đạo Cao. Vậy thì,
với bằng cớ này, chúng ta có thể giả thiết là Đạo Cao đã biết một
trong hai bản dịch của La Thập, đặc biệt là bản dịch đầu. La Thập,
dẫu thực hiện công tác dịch thuật ở miền Bắc, đã có những liên lạc
mật thiết với những người Phật giáo miền Nam, mà thí dụ điển hình
nhất là những trao đổi thư từ giữa ông và Huệ Viễn của Lô sơn, tạo
nên tập Đại thừa nghĩa chương sau này. Về phía nước ta, vào khoảng năm
425, Đàm Hoằng từ miền Bắc xuống ở tại chùa Tiên Sơn ở Bắc Ninh, nên
một số bản dịch của La Thập chắc hẳn đã tìm đường tới Việt Nam
không lâu sau khi chúng được dịch.
Sí-đầu-mạt với những biến thái
của nó như Kê Đầu, Kê-đầu-mạt, Kê Viên, Kê Lân.v.v.. cố nhiên vừa
là một phiên dịch vừa là một phiên âm Trung Quốc của chữ kurkutàràma
hay kukkutàràma tiếng Phạn. Kurkutàràma đã là tên của cái tu viện nổi
tiếng do vua A Dục dựng tại thành Pataliputra, mà Huyền Tráng, hơn tám trăm
năm sau khi Pusyamitra phá hủy trong cuộc đàn áp Phật giáo khoảng năm 187
tdl, vẫn còn nhận ra cái nền, như Đại Đường tây vức ký quyển 8 ĐTK
2087 tờ 912b14-17 ghi lại.
Điểm đáng ngạc nhiên, nguyên bản
Phạn văn chuyện thần thoại Maitreya, như nó đã xuất hiện ngày nay trong
bản in của Viện Phạn ngữ học Mithila, đã không có cái tên Xí-đầu-mạt
này. Cái tên Nhượng Khư, ngược lại, với những biến thái nhượng già,
hướng khư .v.v.. đã có mặt trong nó và không gì hơn là một phiên âm
Trung Quốc của chữ Sankha tiếng Phạn và Sankha tiếng Paris. Tất cả những
bản Hán văn đều đồng ý Nhượng Khư là vị vua ở thành Xí- đầu-mạt
và là người sẽ nhường ngôi cho Di Lặc nhằm thực hiện giấc mộng một
thế giới, ở đó mọi người đều sống lâu và giác ngộ qua ba hội thuyết
pháp dưới gốc cây Long Hoa.
Việc Đạo Cao đem vua Nhượng Khư,
thành Xí-đầu-mạt và ba hội Long Hoa để chứng minh tính có thể thấy
được của "Tây phương căn nguyên", phải kể là khá lôi cuốn cả
về phương diện tín ngưỡng lẫn cắt nghĩa. Về khía cạnh tín ngưỡng,
nó cho thấy những người thời âm đã có một tin tưởng sâu sắc vào sự
xuất hiện sắp đến của Phật Di Lặc. Về phương diện cắt nghĩa, nó vạch
ra sự hàm hồ không rõ ràng của câu hỏi do Lý Miễu nêu lên. Trong lá thư
thứ nhất Miễu nói: "Đây chính là lúc phải tìm nguồn gốc phương Tây
của giáo pháp". Ở lá thư trả lời, Đạo Cao chia câu đáp của mình
thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất, ông dùng chứng cớ Phật Di Lặc. Do thế,
ta có thể giả thiết là nguồn gốc phương Tây của Miễu đây muốn nói
đến nguồn gốc Tây phương tịnh độ, nhưng người dịch bản tiếng Nhật
trong "Quốc dịch nhất thiết kinh" đã hiểu. Nhưng đến đoạn thứ
hai, Cao dẫn tới chuyện "Họ thích giống trống Pháp ở vườn Nai, đức
Phu Tử dương lời đức tại Châu lễ". Điều này có nghĩa nguồn gốc
phương Tây ấy không chỉ muốn nói Tây phương cực lạc mà còn muốn nói
đến nguồn gốc Ấn Độ của Phật giáo như một thực tại lịch sử,
như thực tại lịch sử của Tam hoàng Ngũ đế và Chu Khổng.
Tiếp đến là những dẫn chứng
và điển cố liên hệ với kinh Pháp Hoa. Trong lá thư thứ hai, Đạo Cao cho
dẫn câu "Thời ngã gặp chúng tâm, câu xuất linh thứu sơn" và bảo
là từ kinh Pháp Hoa. Khi củ soát những bản dịch hiện còn, đấy là
chính Pháp Hoa kinh của Túc Pháp Hộ, Diệu pháp Liên Hoa kinh của Cưu Ma La
Thập và Thiện phẩm diệu pháp Liên Hoa kinh của Xà Na Khuất Đa, chúng ta
đã gặp câu ấy trong bản của La Thập quyển 5 ĐTK 262 tờ 43b24 và của
Xà Na Khuất Đa quyển 5 ĐTK Q64 tờ 177c13 ở phẩm thứ 16 của bản trước
và 15 của bản sau, mà chúng đều gọi là "Như Lai thọ lượng phẩm".
Câu tương đương trong bản dịch của Trúc Pháp Hộ quyển 7 ĐTK 263 tờ
114c17-18 phẩm thứ 15 "Như Lai hiện thọ". Đọc như: "Nhiên hậu
Như Lai hiệp tập chúng âm, năng tự thị hiện, hiển đại Phật đại".
Nguyên bản Phạn văn hiện nay do
Woghihara và Tsuchida xuất bản trong Saddhadma-Pundadikà-Sùtram ở Đông Kinh năm
1934-1936 trang 276 đã chứng tỏ La Thập và Sà Na Khuất Đa dịch sát với
nguyên văn hơn; Câu trên theo Phạn văn là: Aham Sràvaka - Sangha Krtvà Àtmàna
darseny ahu Grdhrakaùte.
Vậy thì, trong bản dịch hiện
còn, Đạo Cao phải dẫn bản của La Thập và Xà Na Khuất Đa. Nhưng vì Xà
Na Khuất Đa thực hiện bản dịch của mình vào năm 601, bản của ông ta
do thế không thể là tài liệu cho việc dẫn chứng của Cao. Còn lại như
vậy là bản do La Thập dịch vào năm 406. Câu ấy La Thập xếp dưới phẩm
"Như Lai thọ lượng" như đã nói. Điều này giúp ta thấy cái tên
"Thọ Lượng vị tận" trong khúc "Nguyện tin lời của Thọ Lượng
vị tận" phải đến từ phẩm ấy. Và chúng ta không sai cho mấy, bởi
vì dẫu phẩm danh gọi là Như Lai thọ lượng, nội dung nó nói tới chuyện
Như Lai thọ lượng chưa hết. Chúng tôi nghĩ, cái tên Thọ Lượng vị tận
đây do đó đáng nên dịch ra Thọ Lượng chưa hết, và coi Đạo Cao muốn
đề cập tới phẩm Như Lai thọ lượng của bản dịch La Thập.
Dù có sự giống nhau về văn cú giữa
câu dẫn của Đạo Cao và bản dịch của La Thập, chúng ta có nên loại hẳn
cái khả hữu về việc Cao dùng một bản dịch khác không, nhất là khi ta
có cái tên Thọ Lượng vị tận không hoàn toàn đồng nhất với phẩm
danh của La Thập và vào thời Cao đang có những dịch phẩm khác lưu hành
như của Pháp Hộ và Chi Cương Lương? Chúng tôi nghĩ là nên, vì Đạo Cao
hình như có một đánh giá cao về dịch phẩm của La Thập và rất ưa dùng
chúng, mà điển hình là bản dịch Kinh Duy Ma Cật dưới đây hay chuyện thần
thoại Maitreya trên.
Ngoài cái tên "Thọ Lượng vị
tận" và câu "Thời nhả gặp chúng tâm cu xuất Linh Thứu sơn",
Cao cũng nói đến chuyện "Trung suy Đại Thống Trí Thắng chi tập".
Đại Thống Trí Thắng là tên một vị Phật trong kinh Pháp Hoa ở phẩm
"Hóa thạch" của bản dịch La Thập quyển 5 tờ 22a18-27b8 và bản
dịch của Xà Na Khuất Đa quyển 5 tờ 87b22-94b20. Cái tên "Vãng cổ"
của Hộ tỏ ra khá gần với phẩm danh Pùrva-Yoga của nguyên bản Phạn văn
kinh Pháp Hoa hiện nay do Wogihara và Tsuchida xuất bản trang 141-175.
Nội dung của phẩm này, như nhan đề
của nó điểm chỉ là nhằm cho thấy tính chất hóa thạch của mọi lý
thuyết Phật giáo và có thể tóm tắt thế này. Đại Thông Trí Thắng là
một vị vua, có 16 người con. Sau ông bỏ ngôi đi tu và thành Phật hiệu
là Đại Thông Trí Thắng. 16 người con dần dà được hóa độ và người
con thứ 15 sau naỳ trở thành Phật dưới tên Thích Ca Mâu Ni. Sự giác ngộ
của những người con này đều được thực hiện bằng những phương tiện
diễn giảng thí dụ của Đại Thông Trí Thắng. Dẫn truyện này ra, Đạo
Cao chắc muốn cho Lý Miễu hiểu một sự định kỳ của sự xuất hiện
những đức Phật và nhắc nhở Miễu về việc không nên đặt quá nặng
tin tưởng chuyện thị hiện và nhìn thấy.
Một lần nữa, với những dẫn chứng
ấy từ kinh Pháp Hoa, Đạo Cao đã cho thấy một phần nào tình trạng tín
ngưỡng nhiệt thành và sâu sắc về kinh Pháp Hoa của những người thời
ông, bởi vì để có thể chấp nhận giá trị bằng cớ của chúng, nó giả
thiết cả người đọc lẫn người viết, phải có một niềm tin nào đó
vào sự chân thật của cuốn kinh cùng những câu chuyện thần thoại nó kể.
Sự thật, ta có Huệ Thắng (440-510) đã "Tụng kinh Pháp Hoa ngày kể một
biến" như tục Cao tăng truyện quyển 16 ĐTK 2060 tờ 550c9 đã ghi. Hoằng
Pháp Hoa truyện quyển 5 ĐTK 2067 tờ 24c10-13 cũng chép lại chuyện một tín
sĩ của huyện Bình Lục thuộc Giao Châu đời Lương đã nhân tụng kinh
Pháp Hoa, hăm mộ sự tích Dược Vương. Sau khi thiêu mình, nơi thiêu bỗng
nổi gò cao, dáng giống hình người. Người cha đến Lào thì được tượng
vàng một pho lớn bằng người thật, ôm vào, trước muốn cất lên, bỗng
nhiên không thấy.
Cuối cùng là những dẫn chứng Tịnh
Danh và điển cố "Định Quang Nho Đồng". Trong lá thư thứ hai Đạo
Cao cho dẫn câu "Hiện giải pháp tứ, Tri chúng sanh căn" và bảo
là trích từ kinh Tịnh Danh. Một kiểm soát những bản dịch tiếng Trung Quốc
của cuốn kinh này cho thấy câu đó chỉ xuất hiện trong Duy Ma Cật sở viết
kinh ĐTK 475 tờ 537a14 phẩm "Phật quốc" do Cưu Ma La Thập dịch
năm 406, bởi vì bản Duy Ma Cật kinh do Chi Khiêm dịch khoảng năm 222-229 quyển
thượng phẩm "Phật quốc" ĐTK 474 tờ 519a 15 - 16 có "Tùy trung
vi hiện huệ đức, tại chư chúng vi chính đạo, còn bản Thuyết vô cấu
xứng kinh ĐTK 476 tờ 557c17-18 do Huyền Tráng dịch năm 650 đổi thành
"Thiện tri hữu tình chư căn thánh liệt, nhất thiết đại sở bất
năng phục". Cứ vào sự đồng nhất văn cú, chúng ta phải kết luận
là, Đạo Cao đã dẫn câu chứng của mình từ bản dịch của La Thập.
Tuy nhiên, vì Cao đã dẫn nó dưới
tên kinh Tịnh Danh, chúng ta cần phải kiểm thêm xem có bản dịch nào mang
cái tên ấy không? Dựa vào những thư tịch Phật giáo Trung Quốc từ Tăng
Hựu cho đến Viên Chiếu, cái thường biết như kinh Tịnh Danh được dịch
cả thảy 7 lần đấy là lần dịch năm 188 dưới tên Cổ Duy Ma Cật kinh của
Nghiêm Phật Điều, năm 291-296 dưới tên Di Duy Ma Cật kinh của Trúc Thúc
Lan, năm 280-300 dưới tên Duy Ma Cật kinh của Kỳ Đa Mật và năm 303 dưới
tên Duy Ma Cật kinh của Trúc Pháp Hộ, cộng thêm với ba bản dịch hiện
còn vừa kể. Bốn lần dịch này cùng với San Duy Ma Cật kinh của Trúc
Pháp Hộ và Hiệp Duy Ma Cật kinh của Chi Mẫn Độ ngày nay đã tán thất.
Dù còn hay mất, tất cả chúng không một bản nào đã mang cái tên Tịnh
Danh kinh. Chúng ta do thế phải kết luận cái tên ấy là một sáng tạo của
Đạo Cao.
Cố nhiên, đây là một điều
tương đối dễ hiểu, bởi vì nó không gì hơn là một dịch ngữ của
cái đầu đề Vimalakìrti-sùtra tiếng Phạn. Thế thì, cứ vào sự đồng
nhất văn cú, câu dẫn trên của Đạo Cao phải đến từ bản dịch của
La Thập. Khẳng định này về việc dùng bản dịch của La Thập của những
người viết Sáu lá thư còn có thể làm vững với một bằng cớ sau.
Trong lá thư thứ năm, để chứng
minh Phật giáo cũng chỉ nói đến duyên báo như Nho giáo, Lý Miễu cho dẫn
câu "vô ngã vô tạo vô thọ giả, thiện ác chi nghiệp diệc bất
vong" và bảo là "kinh nói", chứ không nói rõ "kinh
nói" ấy là kinh nào. Người dịch tiếng Nhật cuốn Hoằng minh tập là
ông Thái điền Thế Tạng trong Quốc dịch nhất thiết kinh hộ pháp bộ
quyển 1 tờ 260 cũng bảo, ông không biết "kinh nói" ấy là kinh
nào, và cho chú là "vị tường".
Điều đáng ngạc nhiên là, dịch
giả này đã thành công trong việc nhận ra câu "thiện giải pháp tướng",
tri chúng sanh căn" nói trên là xuất pháp từ phẩm Phật quốc của
kinh Tịnh Danh. Nói là ngạc nhiên, bởi vì nếu đã thành công trong việc
truy nhận câu ấy, thì làm sao ông Thái Điền lại có thể chú là "vị
tường" cho câu dẫn "vô ngã vô tạo vộ thọ giả, thiện ác chi
nghiệp diệc bất vong". Nếu đọc hết phẩm "Phật quốc" của
bản dịch La Thập hay Huyền Tráng, người ta không đợi lâu để gặp nó.
Nó nằm ở tờ 537c16 của bản La Thập và tờ 558c4 của bản Huyền Tráng.
Chỉ bản dịch của Chi Khiêm là dịch khác đi một chút là làm cho nó trở
thành khó hiểu như "phi ngã bất tạo dĩ bất tri, như Phật thanh tịnh
vô ác hạnh" ở tờ 519c19.
Vậy thì, trừ khi đọc bản dịch
của Chi Khiêm, ông Thái Điền mới có thể chú là "vị tường"
cho câu dẫn của Lý Miễu. Chứ nếu xem hoặc bản dịch của La Thập hoặc
bản của Huyền Tráng thì khó mà có thể không nhận được. Không những
thế, nếu đã nhận ra được câu "thiện giải pháp tướng, tri chúng
sanh căn", điều này tỏ ra rằng, ông Thái Điền đã dùng bản dịch của
La Thập, bởi vì như đã thấy, câu đó chỉ xuất hiện trong bản dịch đấy
mà thôi. Việc xuất hiện của cái chú thích "vị tường" của
ông Thái Điền do thế quả là đáng ngạc nhiên.
Dù với trường hợp nào đi nữa,
câu dẫn chứng của Lý Miễu, vì sự đồng nhất văn của của nó, phải
đến từ bản dịch của La Thập. Chúng ta không kể tới bản dịch của
Huyền Tráng, vì Tráng chỉ chép lại của La Thập và đã ra đời quá chậm.
Về điển "Định Quang Nho Đồng",
chúng không gì hơn là dịch ngữ của hai cái tên Phạn văn dipamkara và
mànava. Như những dịch ngữ độc lập, chúng đã xuất hiện khá sớm
trong nhiều bản dịch khác nhau, nhất là những bản dịch phát nguyên từ
nước ta và miền Nam Trung Quốc như Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội
chẳng hạn.
Song, như hai dịch ngữ kết nối với
nhau trong một trình tự kể chuyện, chúng chỉ xuất hiện một cách đáng
chú ý trong bản Phật thuyết thái tử thụy ứng bản khởi kinh ĐTK 185 tờ
472c1-483á9 do Chi Khiêm dịch vào khoảng những năm 222-229. Nội dung cuốn
kinh này có thể nói không gì hơn là một mô tả khá chi tiết và hoa mỹ
cuộc đời đức Phật từ sơ sinh cho đến nhập diệt, bắt đầu với một
câu chuyện nhập đề cuộc gặp gỡ giữa đức Phật Định Quang và vị
Sa-môn Nho Đồng. Câu chuyện này thực thi vị. Sa-môn Nho Đồng, vì muốn
cúng hoa cho đức Phật Định Quang, đã phải mua hoa từ cô hái hoa với một
giá rất đắt. Cô hái hoa ngạc nhiên, bèn hỏi lý do rồi cúng không lấy
tiền hai cành hoa với lời nguyện xin là, nàng và vị Sa-môn luôn luôn kết
nghĩa vợ chồng trong mọi kiếp sau. Phật Định Quang không ai khác hơn là
Phật Nhiên Đăng, và Sa-môn Nho Đồng không ai khác hơn là Phật Thích Ca với
cô hái hoa là công chúa Da Du Đà La.
Việc Đạo Cao cho dẫn điển cố
"Định Quang Nho Đồng" ở đây có cùng một mục đích như những
dẫn chứng về Nhượng Khư và Đại Thông Trí Thắng, đó là nhằm cho thấy
sự xuất hiện của đức Phật là một chắc chắn, dù năm tháng có xa
xôi tới đâu đi chăng nữa. Câu chuyện ấy ngày nay năm trong bản dịch
kinh Phật thuyết thái tử thụy ứng bản khởi của Chi Khiêm. Bản này là
bản dịch duy nhất tại Trung Quốc. Do thế, ta phải kết luận, Đạo Cao dùng
nó cho việc nói tới điển Định Quang Nho Đồng của ông.
Điều này càng rõ hơn với một
vay mượn sau trong lá thư thứ sáu của Pháp Minh. Trong đoạn thứ ba của lá
thư ấy, khi bàn về sự chìm nổi của chúng sinh, Minh đã nói tới chuyện
"nhất thân tử hoại, phục thọ nhất thân" - một thân chết đi,
lại nhận một thân khác - Nếu đọc qua bản dịch của Khiêm, ta thấy
Minh dẫn trực tiếp không thay đổi câu ấy từ tờ 472c5-6. Điểm này chứng
tỏ bản dịch của Khiêm đã được cả Minh và Đạo Cao, nếu không là
toàn thể những người học Phật thời họ, biết đến. Và sự tình ấy
không có gì là lạ cho lắm, bởi vì nó có thể nói là một cuốn sách
trình bày cuộc đời đức Phật với tất cả những đẹp đẽ và thi vị,
mà những Phật tử Ấn Độ trước thời Chi Khiêm đã có thể vận dụng
và thực hiện.
Rồi trong lá thư thứ tư, Đạo Cao
lại so sánh Phật giáo với "mặt trời mặt trăng" và các luồng tư
tưởng khác với ngọn lửa leo lét - Cửu lưu chỉ thị phi, nãi yêu hỏa
chi bất tức, phi nhật nguyệt chi bất huy - Hình ảnh này Cao rút ra từ
Mâu Tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập quyển 1 tờ 6b23: "Nhật
nguyệt phi bất minh, chúng ám tệ kỳ quang, Phật đạo phi bất chính,
chúng tư yếm kỳ công" - trời trăng không phải không sáng, bóng tối
nhiều che mất sáng, đạo Phật không phải không chính, ý riêng nhiều ám
mất ý công - Cũng trong lá thư ấy, Cao lại nói đến việc "người có
thấy đem nói với kẻ không thấy thì kẻ không thấy cuối cùng cũng không
tin sự thấy". Ý kiến này cũng đạo xuất từ câu: "sự thường
cộng kiến giả, khả thuyết dĩ thật, nhất nhân kiến nhất nhất nhân bất
kiến giả, nan dữ thành ngôn dã" - Việc thường cùng thấy thì có thể
nói cho là thật, một người thấy một người không thấy thì khó mà nói
với nhau - trong Mâu Tử lý hoặc luận quyển 1 tờ 4b18-19.
Trên đây là những thư tịch điển
cố của nhóm thứ nhất. Nhóm thứ hai gồm những kẻ khai danh số, mà phần
lớn đã xảy ra trong lá thư thứ sáu của Pháp Minh. Ở đoạn thứ ba của
nó, Minh nói tới ba cõi, sáu trần, ba ác, tám nạn và chín mươi sáu thứ
ngoại đạo.
Ba cõi hay tam hữu là ba thứ thế
giới, đấy là thứ thế giới xây dựng trên cơ sở tình yêu (dục giới),
thứ thế giới trên cơ sở hình tướng và thứ thế giới trên cơ sở phi
hình tướng.
Sáu trần hay lục trần là sáu thứ
đối tượng của sáu giác quan, đấy là đối tượng của thị giác, của
thính giác, của khứu giác, của vị giác, của xúc giác và của não giác.
Ba ác hay tam ác là ba con đường sống
khổ sở, đấy là con đường sống địa ngục, con đường sống quỉ đói
và con đường sống súc vật.
Tám nạn tức tám khó khăn ngăn cản
sự tiến triển trên đường về giác ngộ, đấy là sinh vào địa ngục,
vào quỉ đói, vào thú vật, vào cõi trời sống lâu, vào nơi biên địa hạ
tiện, vào tình trạng đui mù câm điếc, vào những kiến giải sai lầm và
vào thời trước hay sau Phật.
Chín mươi sáu thứ ngoại đạo tức
96 thứ học thuyết sai lầm vào thời đức Phật, mà người ta thường cắt
nghĩa như gồm 90 trường phái do 6 vị thành lập sáu học phái của triết
học Ấn Độ chủ trương, theo đấy mỗi một vị có 15 thứ lý thuyết
khác nhau (15x6: 90) cộng thêm với 6 học phái do 6 người đệ tử của 6 vị
ấy xướng xuất: (15x6)+6=96. Tuy một số kinh điển Phật giáo khác lại chỉ
nói có 95 thứ, và thứ học thuyết 96 chính không ai khác hơn là Phật
giáo, những bộ sách như Phân biệt công đức luận quyển 2 ĐTK 1507 tờ
34c 22-23 hay Tăng nhất A hàm kinh quyển 20 ĐTK 125 tờ 651c29 khẳng định là
96 thứ, không kể Phậg giáo.
Con số 96 thứ ngoại đạo ấy
cũng xuất hiện trong Đại trí độ luận do La Thập dịch năm 406 quyển 22
ĐTK 1509 tờ 228b25, quyển 27 tờ 261a 15-16, quyển 34 tờ 309b, quyển 36 tờ
325c11, quyển 40 tờ 349b22, quyển 49 tờ 412b5, quyển 74 tờ 581b18, v.v.. Và
tác giả những lá thư của ta chắc hẳn đã biết tới bản dịch đó và
đã dẫn số 96 thứ ngoại đạo từ nó, cứ vào việc họ thường dẫn
văn cú từ những bản dịch của La Thập nói trên. Nhưng điều đáng chú
ý là Mâu Tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ 6a 8-15 đã hai lần
nhắc đến con số 96 ấy, và theo nó 96 thứ "đạo" này không thứ
nào "chí tôn chí đại", không thứ nào "đạm bạc vô vị"
bằng đạo Phật. Do đó, việc nói tới 96 thứ ngoại đạo trong lá thư Pháp
Minh có thể đã rút ra từ Mâu Tử lý hoặc luậnl hay từ truyền thống học
tập Phật giáo danh số tại Việt Nam.
Cố nhiên, việc kể đến những
danh số loại này không có gì lôi cuốn lắm. Điểm lôi cuốn nằm ở chỗ,
nó cho thấy những người viết thư đã bằng lòng chịu khó đi sâu tới mức
nào vào việc học tập và nghiên cứu lý thuyết Phật giáo, nhất là Phật
giáo danh số. Thứ Phật giáo ấy không những vừa khô khan vừa kỹ thuật
và đôi khi vừa phi lý và phiền nhiễu, mà còn đòi hỏi những người học
tập một thời gian hơi dài cho trí nhớ ghi lại những phạm trù và danh số
của nó. Pháp Minh, Đạo Cao chắc có đủ thời gian và chịu khó. Điều đáng
nói là, hình như Lý Miễu cũng có đủ chúng, để có thể hiểu được lá
thư một cách hoàn toàn. Và nó cho thấy một phần nào tình trạng giáo dục
Phật giáo nước ta vào thời những vị này đã phát triển đến một trình
độ tương đối cao.
Với những phân tích thư tịch điển
cố và danh số Phật giáo này, một nét nổi bật đáng được nêu lên, đấy
là trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh của Trung Quốc, nước ta hình như đã
có một liên lạc hầu như thường xuyên với miền Bắc, mặc dù tình
hình chính trị đã đôi lần hệ lụy quyền hành chính trị của người
nước ta với miền Nam. Bằng cớ cho khẳng định này dĩ nhiên là việc Đạo
Cao và Lý Miễu cũng như Pháp Minh đã dẫn những văn cú phần lớn từ những
bản dịch của La Thập, như đã thấy. Hệ luận tất nhiên là, vào khoảng
thế kỷ thứ IV - V quyền hành chính trị nước ta đã đạt đến một mức
độ tự trị khá cao, cuối cùng dẫn đến sự xưng đế của Lý Bôn vào
năm 544.
Sau thất bại của cuộc khởi
nghĩa do Lữ Hưng lãnh đạo vào năm 280, Đào Hoàng đã phải viết trong
cái báo cáo cùng năm về người nước ta như "thử châu chi nhân, thức
nghĩa giả quả, yếm kỳ an lạc, hảo vi họa loạn" - người châu
này, biết nghĩa thì ít, chán ghét yên sướng, ưa làm họa loạn. Và tổ
tiên ta không đợi lâu để làm thực lời báo cáo này. Đến cháu của
Hoàng thì quyền hành đã hoàn toàn thuộc nhà khởi nghĩa Lương Thạc, tuy
Thạc không bao giờ giữ chức thứ sử. Năm 322 Tấn Nguyên đế cử Vương
Lượng sang làm thứ sử, Thạc không ưa, nên giết Lượng. Năm sau, Cao Bảo
tiến quân đánh Thạc.
Từ năm 323 cho đến khi Lý Tốn chống
lại sự đáo nhiệm của Bằng Độn Chi vào năm 380, sử Trung Quốc không
ghi rõ tên những người được mệnh danh làm thứ sử Giao Châu. Các cuốn
sử ta như cuốn Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục thì chỉ ghi có hai người, đấy là Nguyễn Phóng và Nguyễn
Phu. Song, Đại Việt sử lược quyển 1 tờ 6b11 liệt thêm một người thứ
ba, đấy là Chu Phụ, và chú là "làm thứ sử thời Tần Phù
Kiên". Tần Phù Kiên lập nên nhà Diêu Tần ở miền Bắc và trị vì
giữa những năm 357-386.
Chu Phụ là ai? không một cuốn sử
nào, trừ chi tiết vừa kể của Đại Việt sử lược đã nói đến. Tấn
thư quyển 97 tờ 9a 7-10a 9 có ghi lại tên một Chu Phiên, theo đấy
"Vĩnh Hòa năm thứ ba Văn đem bè lũ hắn hãm Nhật Nam, hại thái thú Hạ
Hầu Lãm, giết năm sáu ngàn người, số còn lại chạy trốn đến Cửu Chân;
Văn lấy thây Lãm đến tế trời, cắt bình huyện Tây Quyện, rồi chiếm
Nhật Nam, nói với thứ sử Giao Châu là Chu Phiên xin lấy Hoành Sơn phiá Bắc
Nhật Nam làm biên giới". Vĩnh Hoà thứ 3 tức năm 348 Chu Phiên, cứ
vào niên đại này, tất không thể là Chu Phụ được, bởi vì Phụ làm thứ
sử đời Tần Phù Kiên, tức giữa những năm 357-386, và sau năm 348 ta có Dương
Bình giữ chức ấy vào năm 352, Nguyễn Phu vào năm 355 và Nguyễn Phóng hay
theo Tấn thư Ôn Phóng Chi vào năm 359.
Điều chắc chắn là Tần Phù Kiên
quả đã mở rộng ảnh hưởng quyền hành của ông xuống cho tới Ích
Châu, khi ông cử Đặng Khương xuống dẹp loạn bọn "mọi Ba Thục",
mà Thập lục quốc xuân thu quyển 36 tờ 962-4 đã ghi lại như "ba di hiểm
nghịch, khấu loạn Ích Châu, chiêu dân Ngô quân vi thần xử xỉ chi thế,
đặc tiến chấn Nam quân tướng quân lệ phong hiệu úy Đặng Khương khả
soái giáp sĩ ngũ vạn, tinh dạ phó thảo", cứ theo trích dẫn của
Nghiêm Khả Quân trong Toàn Tấn văn quyển 151 tờ 4a 10-11.
Một trích dẫn ở tờ 2b7-9 liên
quan đến việc thăng chức cho Khương viết: "Khương hữu liêm lý chi
tài, trẫm phương dĩ chi phạt chi sự, bắc bình Hung nô, nam đảng Dương
Việt, Khương chi nhiệm dã", xác nhận như vậy nỗ lực thấm nhập vào
miền Nam của Tân Phù Kiên đặc biệt là miền Dương Việt.
Chu Phụ hẳn đã thiết lập những
liên lạc ngoại giao với Kiên có lẽ vào sau khoảng năm 360 qua những cuộc
hành quân vừa kể của Khương. Chúng ta không biết Phụ giữ chức thứ sử
bao lâu, nhưng chắc phải chết trước năm 380, khi nhà Tấn cử Đằng Độn
Chi qua làm thứ sử và Lý Tốn đã cắt binh chống lại. Năm sau, thái thú
Giao Chỉ Đỗ Viện giết Tốn và đón Chi tới. Hai người con của lãnh tụ
Tốn là Lý Dịch và Lý Thoát trốn vào núi tiếp tục kháng chiến, cho đến
năm 412 khi họ liên lạc được với Lư Tuần ở Hợp Phố và tiến đánh
Đỗ Huệ Độ, con của Viện và thay thế Viện vào năm 411, lúc Viện chết
81 tuổi. Họ bị Độ giết trong trận đánh tại bến Nam thành, Long Biên.
Trong khoảng thời gian kháng chiến
giữa năm 380 - 412 tại nước ta thì ở miến Bắc, Diêu Hưng đã làm cho
Phù Kiên tự thắt cổ ở chùa Tân Bình và lập nên nhà hậu Tấn vào năm
386, mở đầu cho việc đón tiếp và giúp đở Cư Ma La Thập thực hiện sự
nghiệp dịch thuật vĩ đại của ông sau này vào những năm 402 - 412.
Từ năm 412 trở đi cho đến khoảng
năm 450, về phương diện chính trị mặc dù nhà Tấn và Tống tiếp tục cử
hay phong thứ sử cho nước ta, một mức độ tự trị nào đấy đã đạt
được, dẫn đến cuối cùng sự kháng chiến công khai và thành công sau
này của Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến vào năm 468 cho đến năm 485
cũng như Phục Đăng Chi hai năm tiếp đấy.
Về phương diện văn hóa và tôn
giáo, chúng ta có Đàm Hoằng từ miền Bắc xuống tu họp tại chùa Tiên Sơn
khoảng năm 425. Vị Tăng chính nhà Tống và đồng thời vị lương y Trí
Bân đã đến nước ta khoảng 466 - 468, cứ theo một ghi chú của Cao Tăng
truyện quyển 7 ĐTK 2059 tờ 373c11-15. Và trước Bân ta có Huệ Lâm, người
viết luận văn nổi tiếng khiêu khích nhan đề Quân thiện luận đã là động
cơ cho sự ra đời Sáu lá thư trên của ta. Huệ Lâm đã đến Bắc bộ có
lẽ vào khoảng những năm 412 cho đến 450 không có gì đáng phải ngạc
nhiên hết, nếu chỉ dựa vào những liên lạc chính trị và văn hóa vừa
nói giữa hai miền Trung Quốc với người nước ta.
Đến đây, người đọc chắc cũng
tự hỏi, tại sao chúng tôi phải dài dòng truy nguyên từng điển có thư tịch
trên một cách tỉ mỉ chi tiết như vậy. Một trong những mục đích đã
nêu ra, đó là nhằm chứng minh nguồn gốc Việt Nam của những lá thư. Việc
ấy, chúng tôi tin tưởng bây giờ đã đạt được. Ngoài điển cố
Sương Dĩnh và Bào Sinh, mà ngày nay hiện chưa truy ra, những phân tích về
thư tịch điển cố Phật giáo cho thấy những tác giả của Sáu lá thư tỏ
ra rất quen thộc với điển tịch Phật giáo nước ta và miền nam Trung Quốc
mà trường hợp điển hình là việc Đạo Cao ba lần đã dẫn Mâu Tử lý
hoặc luận, việc Pháp Minh dẫn từ bản dịch Phật thuyết thái tử thụy
ứng bản khởi kinh của Chi Khiêm, hay cái tên "Thọ lượng vị tận"
rất có thể đến từ bản dịch của Cương Lương Tiếp và Đạo Thanh
v.v... Việc họ sử dụng những bản dịch La Thập, cứ vào tình trạng
chính trị và văn hóa vừa mô tả, thực là một sự tình khá tự nhiên. Nếu
so sánh cách dùng điển cố thư tịch trong Sáu lá thư với cách dùng trong
những tác phẩm đồng thời với chúng như Minh Phât luận của Tôn Bính,
Quân thiện luận của Huệ Lâm, và nhất là những lá thư trao đổi giữa
Tôn Bính và Hà Thừa Thiên, thì nguồn gốc Việt Nam của những lá thư chúng
ta càng trở nên minh nhiên.
Tuy vậy, làm rõ nguồn gốc Việt
Nam của những lá thư không phải là mục đích duy nhất. Không phải vì chỉ
muốn làm rõ nó mà chúng tôi đã dài dòng phân tích những chứng cớ thư
tịch điển cố chứa đựng trong sáu lá thư ấy, dù rằng đó là một ý
muốn cần thiết cho việc giải quyết quê quán của những tác giả của
chúng, như người đọc sẽ thấy dưới đây. Chúng tôi còn muốn bằng những
phân tích trên đạt đến hai mục đích quan trọng và lôi cuốn hơn, ấy là
thử xác định niên đại ra đời của những lá thư cũng như vấn đề chúng
ta có thể biết gì về những tác giả của chúng hay không. Chúng tôi đề
nghị theo đuổi hai mục đích này trong những bàn cãi tiếp theo.
Ve͊ tác giả và soạn niên của Sáu lá thư
[^]
Như đã nói ngay từ đầu, tung tích
của những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miểu ngày nay chúng ta
không biết một tí gì hết. Kiểm soát toàn bộ những tư liệu lịch sử
Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và
Phật giáo Việt Nam, chúng ta không tìm thấy một mẫu tin nào về những người
có các tên ấy. Kiểm soát Tấn thư, Tống thư, Nam tề thư, Lương thư, Ngụy
thư, Bắc sử và Tư trị thông giám, cũng như Đại Việt sử lược, Đại
Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu tán, và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, chúng ta đã không gặp một "sứ quân" nào với
cái tên Lý Miễu. Kiểm soát Cao Tăng truyện và Tục Cao Tăng truyện cũng
như Thiền uyển tập anh. chúng ta cũng không tìm thấy một pháp sư nào có
tên Đạo Cao hay Pháp Minh.
Veࠦ#272;ạo Cao [^]
Trong Toàn Tấn văn quyển 157 tờ
15a12-12, Nghiêm Khả Quân có liệt ra tên một Thích Đạo Cao. Nhưng kiểm
tra bản mục lục của Toàn Tấn văn quyển 157 tờ 17a5 cùng như nơi xuất
xứ của tên ấy, tức Cao Tăng truyện quyển 5 tờ 355b15-17, thì chúng ta
có Thích Đạo Tung chứ không phải là Thích Đạo Cao. Cố nhiên, chữ ? mà
cách phát âm tiêu chuẩn luôn luôn là tung đôi khi có thể đọc thành cao,
như trường hợp chữ cao trong cái tên Trần Cao ? của lịch sử nước ta
chẳng hạn. Như thế, chữ cao? ở quyển 157 tờ 15a12, cứ vào kiểm tra vừa
thấy, chắc chắc là một khắc lầm.
Ngoài ra, Toàn Tống văn quyển 63 tờ
11a3-13a1 có đoạn nói về tung tích Thích Đạo Cao, tác giả những lá thư
của chúng ta. Nghiêm Khả Quân đã chú thích là "Đạo Cao Giao Châu
pháp sư", trong khi Thích Đạo Tung, mà người khắc bản Toàn tấn văn
đã đổi thành Thích Đạo Cao, được Quân cũng như Cao Tăng truyện bảo là
"ở chùa Ngõa Quan". Điều này chính tỏ, theo Quân, Thích Đạo Tung
của Toàn Tấn văn không thể là Thích Đạo Cao của Toàn Tống văn.
Cần thêm rằng Cao Tăng truyện quyển
12 tờ 408b5-12 có ghi lại tiểu sử của một vị sư tên Thích Đạo Tung khác.
Vị sư này chắc chắn không thể là Thích Đạo Tung, mà Toàn Tấn văn đã
dẫn ra, cũng như Cao Tăng truyện quyển 5 tờ 355b 15-17 nói tới. Bởi vì Đại
Tung sau nàu là người đồng đại với Thích Đạo An ( 320 - 388 ) và sống
tại chùa Ngõa Quan trong khi Đạo Tung trước đã đến kinh sư vào năn 473 -
476 và mất lúc ông 49 tuổi tại chùa Định Lâm núi Chung. Cái tên Đạo
Cao của chúng ta do thế không thể tìm thấy trong các sách sử hiện còn của
Trung Quốc hay nước ta.
Việc bản in Quảng nhã thư cục của
Toàn Tấn văn có Thích Đạo Cao, từ đó không thay đổi hình trạng sử liệu
về vấn đề Đạo Cao. Chúng ta phải tìm cách mở rộng giới hạn truy tầm
tư liệu mới hy vọng giải quyết một phần nào những bí ẩn vây quanh
Sáu bức thư ấy.
Trong khi điều tra những tư liệu
Nhật Bản viết giữa những thế kỷ thứ 8 và thứ 10 cho việc nghiên cứu
của Định pháp sư và Duy Giám pháp sư, chúng tôi đọc lại Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục do chính ngũ vị hành lục Việt thủ kiêm Thượng
dã quyền giới Đằng Nguyên Tá Thế soạn và đã tìm thấy những dự kiện
rất lôi cuốn sau về một người mang tên Đạo Cao pháp sư hay Thích Đạo
Cao. Trước hết dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra ở
tờ 34b4-5 một bộ sách nhan đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn"
- Tá âm nhất quyển, Thích Đạo Cao sọan - Rồi dưới mục Biệt tập ở
tờ 48a14 lại ghi :"Đạo Cao pháp sư tập, một quyển" - Đạo Cao
pháp sư tập nhất quyển - Như vậy, cứ Nhật BẢn kiến quốc tại thứ mục
lục, một tăng sỉ biết dưới tên Thích Đạo Cao hay Đạo Cao pháp sư đã
là tác giả hai tác phẩm nhan đề Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập. Câu hỏi
bây giờ đương nhiên là Thích đạo cao đây có phải là pháp sư Đạo Cao
của Sáu lá thư chúng ta không ?
Trả lời câu hỏi này, chúng ta biết,
Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục đã được Vũ Điền thiên hoàng
sắc cho Đằng Nguyên Tá Thế viết năm 889 - 890, nhằm ghi lại hết những
bộ sách Trung Quốc còn sót trong thư viện hoàng gia, sau vụ cháy năm 887. Kể
từ ngày Địch Cốc Dịch Trai lần đầu tiên chú giải nó cho tới những
nghiên cứu gần đây nhất của Tiểu Trường Cốc Huệ Cát và Trỉ Đảo
Huyền Lượng thì giữa 1586 bộ 17.106 quyển sách của nó quả thực nó là
một bản thư tịch những tác phẩm do người Nhật mang từ Trung Quốc về
Nhật Bản. Chỉ trừ bảy bộ sách sau, do người Nhật sáng tác và Đằng
Nguyên ghi nhầm vào,đấy là: 1. Hoàng đế phạm 3 quyển, 2. Nhiếp dưỡng
yếu quyết 22 quyển, 3. Tần tu nhạn kinh 3 quyển, 4. Luật phụ thích 10 quyển,
5. Đại luật 6 quyển, 6. Tân luât 10 quyển và Tân lịnh 10 quyển và 7.
Biên sắc lập thành 1 quyển. Hai tác phẩm Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập
do đó chắc chắn không phải do người Nhật soạn thảo và phải được họ
mang về Nhật Bản từ Trung Quốc, sau khi đã xin, thỉnh, sao hay mua được
chúng tại Trung Quốc. Thật vậy, một kiểm thể tài liệu Phật giáo Nhật
Bản, không một tăng sĩ Nhật Bản nào có tên Đạo Cao. Nếu vậy thì Tá
âm và Đạo Cao pháp sư tập được mang về Nhật Bản lúc nào ?
Một kiểm soát toàn bộ những thư
tịch Nhật BẢn viết trước và sau Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục
không lâu đã không cho biết một tí gì cả, và chúng gồm những bản sau
:
Tên sách Tác giả Năm viết
1. Tối Trừng mục lục
a. Truyền Giáo đại sư tương Tối
Trừng 805 lai Việt châu lục ĐTK 2159
b. Truyền Giáo đại sư tương lai (
767 - 822 ) Việt châu lục ĐTK 2160
2. Ngự thỉnh lai mục lục Không Hải
806 ĐTK 2162 ( 774 - 835 )
3. a .Huệ Vận thiền sư tương Huệ
Vận 847 lai giáo pháp mục lục ĐTK 2168a ( 789 - 869 )
b. Huệ Vận luật sư thứ mục lục
ĐTK 2168b
4. Nhật Bản quốc thừa hòa ngũ Viên
Nhân 838 niên nhập Đường cầu pháp (794 - 864) mục lục ĐTK 2165
5. Nhập Đường tan cầu kinh giaó
Viên Nhân 847 mục lục ĐTK 2167
6. Từ Giác đại sư tại Đường
Viên Nhân Tống Tấn lục ĐTK 2166
7. Linh Nham tự hòa thượng Viên
Hành thỉnh lai pháp môn đạo cụ (799 - 852) đăng mục lục ĐTK 2164
8. Thường Hiểu hoà thượng Thường
Hiểu thỉnh lai mục lục ĐTK 2163 (? - 865)
9. a. Tân thơ tả thỉnh lai Tôn Duệ
pháp môn đẳng mục lục (809 - 884) ĐTK 2174ab. Thiền Lâm tự Tôn Duệ tăng
chính mục lục ĐTK 2174b
10. Trí Chứng đại sư thỉnh lai Viên
Trân mục lục ĐTK 2173 (814 - 891)
11. Phúc châu Ôn Thai châu cầu Viên
Trân 891 cầu đắc kinh luận luận sớ ký ngoại thư đẳng mục ĐTK 2170
12. Nhật Bản Tỷ - kheo Viên Viên
Trân Trân nhập Đường cầu pháp mục lục ĐTK 2172.
13. Thanh Long tự cầu pháp mục
Viên Trân lục ĐTK 2171
14. Khai Nguyên tự cầu đắc kinh Viên
Trân sơ ký đẳng mục lục ĐTK 2169
15. Căn Bản đại hòa thượng chân
tích sách tử đẳng mục lục ĐTK 2162
16. Thông Hiền nhập đạo tạng
thư mục lục
Trong số 16 bản mục lục vừa liệt,
chỉ trừ bản của Hoà thượng Căn BẢn và một số bản của Viên Trân,
tất cả chúng đều viết và xuất hiện trước thời của Đằng Nguyên
Tá Thế và Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục, như người đọc có
thể thấy và ghi lại những sách vở Trung Quốc do người Nhật mang về Nhật
Bản. Dẫu vậy, chúng đã không ghi một tác phẩm nào mang tên Tá âm hay Đạo
Cao pháp sư tập, cũng như không một tác giả nào mang tên Thích Đạo Cao
hay Đạo Cao pháp sư . Do thế câu hỏi nêu trên , ta không thể nào trả lời
được. Nói cách khác , ta không biết Tá âm hay Đạo Cao pháp sư tập đã
tới Nhật Bản hồi nào . Điều chắc chắn là , chúng phải tới trước
năm 889 , để cho Đăng Nguyên ghi vào trong bản thư mục của ông.
Về phía cạnh Trung Quốc, như đã
nói không một tư liệu Phật giáo cũng như không Phật giáo, dĩ nhiên trừ
bộ Hoằng minh tập và những tài liệu lấy từ nó ra như Toàn thượng cổ
Tam đại Tần Hán Tam quốc Lục triều văn của Nghiêm Khả Quân, đã đề
cập hay kể ra cái tên Thích Đạo Cao. Chúng tôi đã kiểm soát lại bản
tin những Cao Tăng trong Danh Tăng truyện do Bảo xướng viết năm 515, mà bản
mục lục mệnh danh Danh Tăng truyện mục lục đã được Tôn Tánh sao y
nguyên lại vào năm 2135 trong Danh Tăng truyện sao TcT 134 ờ 5al-6a2 của ông
nhưng đã thất vọng như trong những lần kiểm soát Cao Tăng truyện của
Huệ Hạo (? - 549) và những kinh lục khác. Chúng tôi cũng đã kiểm soát lại
những bản thư tịch liệt kê những tư liệu tìm được tại Đôn Hoàng
hiện tàng trữ ở các nước Anh, Pháp, Liên xô, Trung Quốc và Nhật BẢn
và đã không tìm thấy một tư liệu nào mang tên Đạo Cao cả . Dẫu việc
điều tra tỉ mỉ ấy đã đưa tới cho ta những thất vọng vừa thấy, hai
tác phẩm Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập , tuy sẽ không được xác định
với một mức độ chính xác nào, cũng gợi lên nhiều bàn cải chú ý.
Trước hết, về Tá âm,, Đằng
Nguyên liệt nó vào loại Tiểu học gia. Nó như vậy, cứ định nghiã của
Tùy thư kinh tịch chí quyển 32 tờ 18b1-20b4, tất phải là một tác phẩm về
ngôn ngữ. Trong bản chú giải đầu tiên về Nhật bản kiến quốc tại thư
mục lục nhan đề Nhật Bản kiến tại thư mục chứng chú cảo, Địch Quốc
Dịch Trai, dưới mục "Tá âm nhất quyển, Thích Đạo Cao soạn",
đã ghi thêm: "Tùy chí Tá âm tự nhất quyển, bất trước tánh
danh" - Kinh tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng
không ghi họ tên người viết. Sau Địch Cốc, những nhà chú giải nghiên
cứu khác của Nhật Bản như Tiểu Trường Cốc và TRí Đảo cũng thêm
được một chú thích nào hết dưới mục Tá âm của Thích Đạo Cao, còn
Trí Đảo thì đem ngay cả cái ghi chú vừa dẫn trên của Địch Cốc, để
chú thích mục Tá âm ba quyển và hoàn tòan để trống mục Tá âm một quyển
của Thích Đạo Cao.
Về mặt những người chú thích
Trung Quốc, thì như cái ghi chú trên của Địch Cốc cho thấy, Kinh tịch chí
của Tùy thư quyển 32 tờ 19a4 là quyển sách đầu tiên ghi lại một tác
phẩm nhan đề Tá âm tự nhất quyển, nhưng không cho biết tên họ người
soạn. Những bản thư tịch tiếp theo Tùy thư như Cựu Đường thư và Tân
Đường thư không còn nói đến tác phẩm ấy nữa. Nó cũng không được
những cuốn tự điển bách khoa kiểu Bắc đường thư sao của Ngô Thế
Nam (558 - 638), Nghệ văn loại tụ của Âu Dương Tuân (557 - 641), Sơ học ký
của Từ Kiện (659 - 729), Thái bình ngự lãm của Lý Phưởng (925 - 996)
v.v... đề cập tới. Rồi, những cuốn tự điển nổi danh như NGọc Thiên
của Cố Dã Vương (519 - 581), Nhất thiêt kinh âm nghiã do Huyền Ứng viết
năm 664 v.v... lại không dẫn ra một tác phẩm nào mang tên Tá âm hay Tá âm
tự hết. Cho nên, với một bộ sách gần tới 50 quyển chuyên khảo về những
loại sách được các bản thư tịch liệt vào loại Tiểu học gia mang tên
Tiểu học khảo. Tạ Khải Côn (1737 - 1802) chỉ biết viết ở quyển 29 tờ
8a5-7 về cuốn Tá âm tự sau: "Vô danh thị Tá âm tự, Tùy chí, nhất
quyển, dật" - Không tên họ Tá âm tự, Kinh tịch chí của Tùy thư ghi
1 quyển, (nay) đã mất.
Mãi đến Diêu Chấn Tôn (1842 -
1906), nó mới được bàn cải rộng ra một chút. Trong Tùy thư kich dịch chí
khảo chứng quyển II tờ 5216b27-c4, lợi dụng được những tư liệu Nhật
Bản, đặc biệt là cuốn Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục, Tôn đã
viết như sau về Tá âm tự: "Tá âm tự, 1 quyển, không ghi tên người
soạn. Tiểu học khảo nói: không tên họ Tá âm tự, Tùy chí ghi 1 quyển,
mất. NAy xét Nhật Bản thư mục nói Tá âm 3 quyển, không người ghi soạn;
lại nói Tá âm một quyển Thích Đạo Cao soạn. MỘt quyển (Tá âm tự) đây
hoặc tức cũng là sách của Đạo Cao. Nhưng Đạo Cao lại không biết người
thời nào" - Tá âm tự nhất quyển bất trước soạn nhân. Tiểu học
khảo viết: Vô danh thị Tá âm tự, Tùy chí nhất quyển, dật. Án Nhật Bản
thư mục, Tá âm tam quyển, bất trước soạn nhân, hựu viết: Tá âm nhất
quyển, Thích Đạo Cao soạn. Thử nhất quyển hoặc tức Đạo Cao chi thơ
diệc bất tri hà thời nhân dã.
Cứ chú thích này, Tôn như vậy muốn
coi Tá âm tự do Tuỳ thư liệt ra là một tác phẩm khác của Thích Đạo
Cao do Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục nói tới, dẫu ông thú nhận
"Không biết Đạo Cao là người thời nào". Chúng ta ngày nay nhờ
khám phá ra được Saú lá thư nói trước, đã biết không những một cách
chắc chắn là, "Đạo Cao người thời đại nào", mà còn biết
thêm một phần nào cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp của ông. Tuy
nhiên, vì đang thiếu những tư liệu cần thiết về Tá âm cũng như Tá âm
tự, chúng ta không thể biết gì hơn về những liên hệ có thể giữa
chúng cũng như giữa Tá âm tự và Thích Đạo Cao. Có thể chúng ta chỉ
nên nói, như Tôn đã làm là, "hoặc giả Tá âm tự cũng là sách của
Đạo Cao" Mà thực vậy, nếu kiểm soát toàn bộ những từ vựng Trung
Quốc, ta tất không thể tìm thấy một danh từ nào mang tên Tá âm hết. Một
danh từ như thế không bao giờ được dùng. Về tác phẩm, thì chỉ độc
một mình Kinh tịch chí của Tùy thư là có nói tới cuốn Tá âm tự như
đã thấy. Danh từ Tá âm và tác phẩm có mang tên Tá âm do thế có thể
nói hầu như không dùng hay không biết tới ở Trung Quốc.
Trong khi đó, cứ Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục tờ 34b4-5 thì giữa những số sách do người Nhật
Bản mang về từ Trung Quốc, tối thiểu hai tác phẩm nữa đã mang tên Tá
âm của Thích Đạo Cao, đấy là Tá âm ba quyển và Tân sao Tá âm năm quyển.
Điều này chứng tỏ ít nhất là, trước năm 889 tại Trung Quốc đã có những
cuốn sách nhan đề Tá âm hay Tân sao Tá ân, để cho người Nhật có thể
mang về Nhật Bản và được ghi lại trong Nhật Bản kiến quốc tại thư
mục lục, chứ không phải là không có, như sự im lặng về chúng trong
các bản thự tịch Trung Quốc như đã điểm chỉ. Và giả như nếu ta đồng
ý với Trỉ Đảo, để ghi Tân sao Tá âm năm quyển là do "người Nhật
tân sao", thì nó càng tỏ ra rằng, thứ sách mệnh danh Tá âm đâu chắc
hẳn xuất hiện nhiều tại Trung Quốc, để cho người Nhật mang về nước
mình và sao thành những tới năm quyển. Dầu sao chăng nữa, chúng ta hiện
biết mọt cách chắc chắn là, ngoài cuốn Tá âm tự ra, tại Trung Quốc trước
năm 889 tối thiểu đã hiện diện những bộ sách Tá âm sau, đấy là Tá
âm ba quyển, Tá âm một quyển và Tân sao tá năm quyển. Thế thì, tại sao
chúng ta lại không được kể đến trong Kinh tịch chí của Cựu Đường
thư, Nghệ văn chí của Tân Đường thư và các bản thư tịch khác của
Trung Quốc vào thời Đường và đầu thời Tống ?
Dĩ nhiên, không phải là các tác giả
những bản thư tịch Trung quốc không biết đến chúng, bởi vì chúng đã
hiện diện ở TRung Quốc trước năm 889 không phải chỉ một hai bộ mang
tên Tá âm, mà tới những ba bộ hay nhiều hơn nữa cùng tên với một vài
thêm thắt, như Đằng Nguyên đã ghi lại. Và cái tên Tá âm cũng không phải
mới lạ gì, bởi vì nó đã xuất hiện trong Tùy thư kinh tịch chí, như đã
nói. Giả như có ai cải rằng, Kinh tịch chí của Cựu Đường thư và Nghệ
văn chí của Tân Đường thư không liệt ra những bộ sách Tá âm trên, với
lý do là, những bộ sách ấy xuất hiện dù trước năm 889, nhưng lại sau
năm 742. Cho nên, vì xuất hiện sau năm ấy, chúng tất không thể được
ghi lại, do vì cả Cựu Đường thư lẫn Tân Đường thư đều sao lại những
bản thư tịch của mình từ những bản thư tịch viết dưới thời Khai
nguyên thư mục để viết nên phần Nghệ văn chí.
Giả như có ai lý luận như thế,
thì họ chắc chắn có thể dùng cùng một lý luận, để có kết luận rằng,
trước năm 889 những bộ sách Tá âm trên không bao giờ xuất hiện và đem
tới Nhật Bản, bởi vì những bản mục lục viết cho tới lúc đó, đã
không một bản nào ghi lại sự có mặt của chúng. Hơn nữa, nó thật là
một ngẫu nhiên kỳ lạ, nếu từ năm 742 đến năm 889 những ba bộ sách
Tá âm ra đời, trong khi đó từ năm 742 trở lên cho tới tối thiểu năm
622, lúc Đồ thư mục lục của Tùy Thương đế được quân đội của Lý
uyên Tịch thâu làm cơ sở cho việc viết nên Tùy thư kịch tịch chí sau
này và đã nói tới một cuốn sách Tá âm, lại không có một tác phẩm
nào liên quan với Tá âm xuất hiện. Ngoài ra, nếu lý luận kiểu trên, người
ta phải làm sao giải thích sự vắng mặt của những bộ sách Tá âm trong
các bản thư tịch viết sau năm 890 tại Trung Quốc như Thái bình ngự lâm
kinh sử đồ thư cương mục do Lý Phưởng và những người khác thiết lập
năm 977 hay Sùng văn tổng mục do Vương Nghêu Thần (1001 - 1056) và đồng liêu
viết xong giữa những năm 1034 - 1038 v.v... Không lẽ nào lại bảo chúng đã
tán thất, chỉ hơn tám chục hay một trăm bốn mươi năm sau khi chúng ra đời
và được sao đem về Nhật Bản ?
Việc chúng không được các bản
thư tịch của Trung Quốc, ngoài Tùy thư kinh tịch chí với cuốn Tá âm tự,
nói tới, do thế phải đến từ một căn do khác. Và căn do đó theo chỗ
chúng tôi nghĩ, không gì hơn là những loại sách Tá âm trên không phải nhằm
đến ngôn ngữ Trung Quốc như chính nó, trái lại, nhằm đến một ngôn ngữ
khác với ngôn ngữ Trung Quốc, nhưng có một liên lạc nào đấy với ngôn
ngữ đó, như việc dùng những ký hiệu ngôn ngữ của nó chẳng hạn. Thực
vậy, danh từ Tá âm chỉ xuất hiện một lần độc nhất trong các sách vở
Trung Quốc, ấy là tại Tùy thư kinh tịch chí quyển 32 tờ 19a4 trong liên hệ
với bộ sách Tá âm tự như đã nói. Xét lý do, tại sao nó xuất hiện ở
bản kinh tịch chí đó, mà không xuất hiện ở các bản kinh tịch khác, sẽ
chứng thực một phần nào cái ý nghĩ vừa nêu của chúng tôi.
Lấy thí dụ Kinh tịch chí của Cựu
Đường thư và Nghệ văn chí của Tân Đường thư, cả hai bản thư tịch
này dưới mục tiểu học của chúng đã không một lần liệt một cuốn
sách ngôn ngữ nào, mà không liên quan tới tiếng Trung Quốc. Ngược lại,
nếu đọc mục Tiểu học của kinh tịch chí Tùy thư, ta không những gặp
nhan nhản những quyển sách về những ngôn ngữ khác với tiếng Trung Quốc
như tiếng Phạn, tiếng Tiên ty v.v..., mà còn được bảo, tại sao nó lại
có những cuốn sách đó. Nó viết ở tờ 20a9-12: "Từ thời Hậu Hán,
Phật pháp lưu hành ở Trung Quốc, lại có được sách của Tây vức chỉ
dùng mười bốn mẫu âm mà còn gồm hết tất cả mọi âm. văn nó đã gọn,
mà nghiã nó lại rộng, gọi là chữ Bà - la - môn. So với nghiã của tám
thể sáu văn thì nó khác biệt. Nên nay xếp nó vào dưới mục Thể thế.
LẠi lúc nhà Hậu Ngụy mới bình định Trung nguyên, việc quân hiệu lịnh
đều dùng tiếng mọi, sau nhiễm thói Tàu, đa số không thể hiểu được.
Nên bèn chép tiếng mình ra, dạy dỗ cho nhau gọi là quốc ngữ, nay xếp
nó vào cuối mục âm vận".
Đọc lời giải thích ấy ta có thể
thấy, vào những thế kỷ trước thời Tùy nhiều tác phẩm về các ngôn
ngữ khác ngôn ngữ Trung Quốc đã xuất hiện, và Tùy thư không chỉ bằng
lòng ghi lại những cuốn sách thuần túy về tiếng Trung Quốc, như sau nàu
Cựu Đường thư đã làm, mà còn ghi thêm luôn cả những "sách Hồ của
Tây vức và những sách "dùng tiếng mọi" của nhà Hậu Ngụy. Tá
âm tự được Tùy thư liệt ra, do thế, chắc chắn phải thuộc cùng một
thứ với những loại "sách dùng tiếng mọi" và "chữ Bà - La
- Môn" vừa nói. Nói cách khác, Tá âm tự không phải là một cuốn
sách về tiếng Trung Quốc, mà là về một ngôn ngữ dùng tiếng Trung Quốc
như một thứ Tá âm. Chỉ một kết luận như thế mới có thể giúp ta giải
đáp câu hỏi, tại sao Tá âm tự được Tùy thư chép ra và tại sao vào năm
889 Đằng Nguyên còn ghi lại những hơn ba tác phẩm mang tên Tá âm lấy
được từ Trung Quốc về, trong khi đó Cựu Đường thư và Tân đường
thư hoàn toàn im lặng.
Vậy, nếu Tá âm tự là một tác
phẩm về một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ Trung Quốc, thì ngôn ngữ đó
là gì? Như đã thấy, Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục hiện ghi ba
tác phẩm mang tên Tá âm, đấy là Tá âm ba quyển, Tá âm một quyển, và
Tân sao Tá âm năm quyển, mà riêng về cuốn Tá âm một quyển thì biết chắc
chắn là Thích Đạo Cao soạn. Bây giờ, ta đồng thời cũng biết, trong lịch
sử Phật giáo Nhật Bản, Triều Tiên cũng như Trung Quốc không có một Tăng
sĩ nào mang tên Đạo Cao hết. Ngược lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam lại
có một người mang tên Đạo Cao sống giữa những năm 370 - 460 và đã viết
hai lá thư trả lời cho những câu hỏi của người nạn vấn Lý Miễu. Thế
thì, với chỉ nhừng ấy sự kiện, ta không có lý do gì mà không đồng nhất
vị pháp sư Đạo Cao của Sáu lá thư chúng ta với Thích Đạo Cao soạn giả
của Tá âm một quyển trong Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục. Với
một đồng nhất như vậy, nó trở thành rõ ràng là, Tá âm một quyển chắc
phải là một quyển sách về cách muợn âm Tàu để viết tiếng nuớc ta,
Còn Tá âm tự là một cuốn sách về những chữ mượn âm Tàu để viết
tiếng nước ta. Nói thẳng ra., Tá âm là một cuốn ngữ học về tiếng quốc
âm, và Tá âm tự là một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Cả
hai chúng đều do pháp Sư Đạo Cao soạn.
Vào thời Đạo Cao, tiếng quốc âm
tương đối đã có một lịch sử lâu dài và đã có một tính phổ quát
đáng muốn. Ngày nay, mỗi khi nói đến nguồn gốc và lịch sử tiếng quốc
âm, người ta không bao giờ đẩy nó qua thời Sĩ Nhiếp (137 - 226) được.
Và giả như có đẩy tới được thời Sĩ Nhiếp kiểu của Nguyễn văn San
và Lê Dư, thì đó cũng là phỏng đoán vô bằng, chứ không có những chứng
cớ gì chính xác rõ ràng khách quan. Cho nên nhiều người chỉ coi tiếng quốc
âm như bắt đầu với cái danh hiệu "Bố cái đại vương" của Phùng
Hưng, hay gần hơn, với bài thư đuổi cá sấu của Hàn Thuyên. Họ đâu biết
rằng, nguồn gốc và lịch sử tiếng quốc âm có thể truy về một cách
chính xác tời năm 17 tdl., ki Lưu Hướng soạn xong bộ Tuyết uyển, nếu không
là sớm hơn tới những thế kỷ thứ VI - V tdl., với bài thơ tiếng quốc
âm nằm trong đấy. Rồi đến thời Sĩ Nhiếp, ta biết Sĩ Nhiếp đã mượn
tá âm chữ "da" của tiếng Trung Quốc để ghi lại tên một món đồ
giữa những cống vật Nhiếp gởi cho Tôn Quyền những năm 210 - 226, mà sau
này các nhà chú giải Trung Quốc đã không ngần ngãi đồng nhất với chữ
"da" là "dừa". Nhiếp như vậy có thể nói là người tá
âm đầu tiên được biết một cách minh bạch không thế chối cãi trong lịch
sử văm học quốc âm. Đầu kết luận này của chúng tôi không phải mới.
khi ta nhớ rằng cách đây hơn 400 năm Pháp Tính (1470 - 1550) cũng đã ghi nhận
như thế trong bài tựa viết cho chỉ nam ngọc âm giải nghiã mà còn nói
thêm Nhiếp viết Chỉ nam phẩm vựng 2 quyển. Cũng vào thời Nhiếp hay trước
đó không lâu, một quật liệu tìm thấy tại Bắc Ninh, đã mang một dòng
chữ gồm cả chữ Hán và viết theo lối chữ Hán, nhưng người Tàu đọc
không ra. Từ khi Sĩ Nhiếp chết đi cho tới khoảng lúc pháp sư Đạo Cao sắp
mất, chúng tôi hiện chưa tìm thấy những dấu tích chữ quốc âm điển hình
nào . Nhưng với sự ra đời Bản thảo tập chú của Đào Hoằng Cảnh (452
- 538), chúng ta lại có những chữ tá âm mới của tiếng quốc âm.
Giữa những năm 901 - 922 lúc còn
đang giữ chức đại thần bác sĩ, Thân Căn Phụ Nhân đã viết khoảng năm
918 một bộ sách thường được biết như Bản thảo hoà danh hay Phụ Nhân
bản thảo trong đó ở quyển thượng tờ 381a9-12 dưới mục về Ý dĩ tử,
Phụ Nhân đã viết: "Ý dĩ tử, một tên là giải lãi ... một tên là
ốc thảm ... một tên là cống. Nhân nói: "âm là cống, một tên là cống
châu. Tên người Giao Chỉ gọi nó, cứ bản chú của Đào Hoằng Cảnh, một
tên là yết Châu, một tên can châu cứ Khiêm danh uyển, một tên là cảm
châu cứ Thiên kim phương". Nay xét Chính hòa kinh sử chứng loại bị dụng
bản thảo quyển 6 tờ 42a2-43a7 do Tào Hiếu Trung thực hiện năm 1116, Trường
Tồn Huệ , trùng tu năm 1249, dưới mục Ý dĩ nhân, ta đọc: "Đào ẩn
cư nói rằng: "Huyện Chân định thuộc quận Thường Sơn, đường gần
quận, chỗ chỗ đều có chúng, phần nhiều sinh tại vườn nhà người. Trái
của thứ cây Giao Chỉ là lớn nhất. Xứ đó gọi là Cán Châu. Mã Viện lấy
nhiều đem về, người ta nói dèm đó là chân châu. Hột nó nặng để lâu
ngày càng tốt, dùng thì nhắm trúng người. Nay trẻ con có bệnh sán, lấy
gốc nó nấu với nước cơm, rồi ăn thì rất thơm, mà lại trừ được bệnh
sán hiệu nghiệm".
Ý dĩ tử hay y dĩ nhân dĩ nhiên là
một cái cây, mà ngày nay ta thường gọi là cây bo bo (?) Cios adrestis. Nếu
cứ lời dẫn trên của Phụ Nhân bản thảo và Trùng tu Chính hòa kinh sử
chứng loại bị dụng bản thảo, ta biết vào thời Đào Hoằng Cảnh, tức
hậu bán thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, nó còn được người nước
ta gọi là cán châu. Cán châu, chỉ cần ngó vô mặt chữ, chúng ta cũng có
thể thấy chúng là một phiên âm của chữ cơn châu - ở miền Trung thay
vì gọi cây mít cây xoài, người ta nói cơn mít cơn xoài. Và phiên âm cán
châu đây rõ ràng là một tá âm. một mượn âm hai chữ Trung Quốc để
ghi lại một danh từ Việt Nam. Danh từ ấy, do đó phải đến tay Đào Hoằng
Cảnh qua trung gian những cuốn sách kiểu tá âm hay tá âm tự . Mà thực vậy,
chỉ khi nào một ngôn ngữ phải ở vào một cái thế tá âm đối với một
ngôn ngữ Trung Quốc, bấy giờ những cuốn sách tá âm mới trở thành một
cần thiết. Điều này một lần nữa sẽ giải thích thêm cho rõ hơn cái sự
tình, tại sao các bản thư tịch Trung Quốc không chú trọng gì hết tới
những cuốn sách tá âm, trong khi đó Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục
lại liệt ra đến những ba cuốn khác nhau, như đã thấy. Cũng nên nhớ,
vào thời Đằng Nguyên Tá Thế, phong trào tá âm của Nhật Bản đối với
Trung Quốc đang phát triển mạnh, mà điển hình nhất không gì hơn là bộ
Vạn diệp tập viết trước đó không lâu, hay bộ Bản thảo hòa danh của
Thân Canh Phụ Nhân dẫn trên.
Cuốn
Tá
âm
của
Thích
Đạo
Cao
do
vậy
có
thể
coi
như
một
tác
phẩm
viết
về
cách
thế
mượn
âm,
còn
Tá
âm
tự
là
một
cuốn
tự
điển
những
chữ
có
mượn
âm.
Nói
cách
khác,
Tá
âm
là
một
cuốn
văn
phạm,
trong
khi
cuốn
Tá
âm
tự
là
một
cuốn
tự
điển.
Việc
Diêu
Chấn
Tôn
giả
thiết
Thích
Đạo
Cao
cũng
là
tác
giả
của
Tá
âm
tự,
do
thế
không
phải
là
hoàn
tòan
bất
khả
chứng.
Ngày
nay
tại
Nhật
Bản
cũng
như
các
nơi
khác
không
một
di
liệu
mang
tên
Tá
âm
hay
Tá
âm
tự
đã
được
tìm
thấy.
Song
giữa
những
thủ
bản
Đôn
Hoàng
trong
Sưu
tập
Stein
tàng
trữ
tại
Bảo
tàng
viện
Anh
có
một
thủ
bản
mang
ký
hiệu
S.
5731
nhan
đề
Thời
yếu
tự
dạng,
mà
Giles
đã
mổ
tả
như:
"Một
bản
những
chữ.
trong
đó
nhiều
chữ
khác
lạ,
được
xếp
ít
nhiều
theo
vận
hay
âm
của
chúng.
Mỗi
một
chữ
lại
có
một
hay
nhiều
chữ
đi
theo
sau
nhằm
giải
thích
sơ
ý
nghiã
của
nó
;
trong
nhiều
trường
hợp,
những
giải
thích
đó
lại
có
những
con
số
(Thay
đổi
từ
số
1
đến
số
6,
với
một
trường
hợp
số
8)
với
những
ý
nghiã
mơ
hồ
đi
theo
sau.
Nó
bị
rách
nát
rất
nhiều,
hầu
hết
phần
dưới
của
nó
bị
xé
đi.
Thủ
bản
tình
thường.
Mặt
trái:
có
ngày
(ngày
10
tháng
12
năm
Càn
Phù
thứ
sáu
tức
ngày
25
tháng
1
năm
880)
và
một
vài
ghi
chú
đoạn
phiến
khác.
Giấy
vàng
xám,
dài
ba
bộ".
Cứ
mô
tả
đây,
Thời
yếu
tự
dạng
với
"nhiều
chữ
khá
lạ,
được
xếp
ít
nhiều
theo
vận
hay
âm
của
chúng,
mỗi
một
chữ
lại
có
một
hay
nhiều
chữ
đi
theo
sau
nhằm
giải
thích
sơ
ý
nghiã
của
nó",
phải
chăng
là
một
tác
phẩm
chữ
nôm
hiện
còn
?
Phải
chăng
nó
là
môt
tên
gọi
khác
của
Tá
âm
hay
Tá
âm
tự
của
Thích
Đạo
Cao
?
Chúng
tôi
hiện
chưa
có
trong
tay
thủ
bản
Stein
số
S.
5731
nên
chưa
thể
trả
lời
được
về
những
câu
hỏi
vừa
nêu.
Chúng
tôi
chỉ
xin
nêu
lên,
để
khơi
sự
chú
ý
của
những
người
nghiên
cứu
khác
.
Về
những
cuốn
Tá
âm
còn
lại
trong
Nhật
Bản
quốc
kiến
tại
thư
mục
lục,
đấy
là
Tá
âm
ba
quyển
và
Tân
sao
tá
âm
năm
quyển,
chúng
ta
hiện
chưa
có
những
bàn
cãi
rõ
ràng
gì
về
chúng
cả.
Trí
Đảo
trước
đây
đã
nuốn
kết
nối
Tá
âm
ba
quyển
với
cuốn
Tá
âm
tự
của
Tùy
thư
kinh
tịch
chí
trong
Nhật
Bản
quốc
kiến
tại
thư
mục
lục
của
ông,
như
đã
thấy,
nhưng
ông
đã
không
có
những
ghi
nhận
gì
đáng
chú
ý,
nên
ta
cũng
không
cần
phải
dài
dòng
bàn
cãi.
Dĩ
nhiên,
nếu
Tá
âm
tự
ba
quyển
và
Tân
sao
Tá
âm
tự
năm
quyển
tất
phải
có
một
liên
lạc
nào
đó
với
Đạo
Cao,
nếu
không
phải
do
chính
Dạo
Cao
soạn,
bởi
vì
cho
đến
lúc
này
ta
biết
Đạo
Cao
cùng
cuốn
Tá
âm
một
cuốn
là
người
đầu
tiên
đã
thực
sự
viết
và
nghĩ
về
Tá
âm.
Nói
trắng
ra,
Tá
âm
ba
quyển
và
Tân
sao
Tá
âm
năm
quyển
chắc
chắn
phải
soạn
ra
trong
truyền
thống
và
tinh
thần
ngữ
học
của
Tá
âm
của
Đạo
Cao,
nếu
chúng
đã
không
phải
do
Cao
soạn.
Tác
phẩm
Tá
âm
của
Thích
Đạo
Cao
là
như
thế.
Bây
giờ
về
Đạo
Cao
pháp
sư
tập
,
nó
tất
nhiên
là
một
tác
phẩm
của
pháp
sư
Thích
Đạo
Cao,
như
chính
đề
danh
điểm
chỉ.
Và
chúng
ta
hẳn
phải
đồng
nhất
pháp
sư
Đạo
Cao
này
với
Thích
Đạo
Cao
của
Tá
âm
cũng
như
pháp
sư
Đạo
Cao
của
Sáu
lá
thư
chúng
ta.
Tập
ấy
được
Đằng
Nguyên
xếp
vào
loại
Biệt
tập.
Cứ
Kinh
tịch
chí
của
Tùy
thư
quyển
35
tờ
111b6-9
thì
"cái
tên
Biệt
tập,
ấy
bởi
do
thời
Hán
Đông
kinh
tạo
ra.
Từ
Linh
Quân
trở
xuống
,
người
viết
văn
nhiều.
nhưng
chí
thượng
họ
không
giống
,
phong
độ
họ
khác
biệt.
Những
quân
tử
về
sau,
vì
muốn
xem
cái
thể
thế
để
lấy
cái
tâm
linh
họ,
nên
riêng
nhóm
lại
văn
họ,
đặt
tên
là
tập.
Nhà
văn
rất
ưa
lối
ấy
,
tự
họ
chép
lấy
để
thành
một
bộ
sách
.
Năm
tháng
đổi
đời,
chúng
cũng
đã
tán
thất
đi
nhiều,
song
loại
cao
xướng
tuyệt
tục,
nói
tắt,
thì
đang
đủ
cả".
Linh
Quân
là
một
biệt
hiệu
của
Khuất
Nguyên
(340
-
377
tdl).
Biệt
tập
ra
đời
là
bởi
từ
thời
Hậu
Hán,
nhiều
nhà
văn
xuất
hiện,
nên
muốn
biết
mỗi
nhà
văn
nghĩ
và
viết
gì
,
người
ta
sưu
tập
lại
hết
những
gì
mà
họ
viết
và
đặt
cho
nó
vào
loại
biệt
tập.
Rồi
sau
đó
mỗi
nhà
văn
chính
tự
mình
tạo
nên
biệt
tập
của
mình.
Đạo
Cao
pháp
sư
tập
là
một
biệt
tập,
như
đã
thấy.
Cho
đến
lúc
này,
Biệt
tập
ấy
hiện
đang
tán
thất.
Do
thế,
ta
không
thể
bàn
cãi
nói
năng
về
nó
được.
Dẫu
vậy,
với
hai
lá
thư
Đạo
Cao
viết
cho
Lý
Miễu,
chúng
ta
có
thể
cảm
thấy
một
phần
nào
an
ủi,
để
biết
sơ
cái
"chí
thượng"
cũng
như
"phong
độ"
của
Cao,
để
thấy
cái
"tâm
linh"
của
Cao
qua
việc
xem
thể
thế
do
chính
lá
thư
ấy
phát
biểu.
Như
cuốn
Quan
âm
linh
nghiệm
ký
của
Phó
Lượng
(374
-
426),
mà
từ
lâu
người
ta
nghĩ
là
đã
hoàn
toàn
tán
thất
nhưng
đã
được
Tsukamoto
tìm
thấy
và
xuất
bản,
chúng
ta
hy
vọng
một
ngày
kia
Đạo
Cao
pháp
sư
tập
cũng
như
Tá
âm
sẽ
có
cùng
một
số
phận
may
mắn.
Cần
nói
thêm
là,
sau
mọi
tra
cứu
những
bản
thư
tịch
Trung
Quốc,
Nhật
Bản
cũng
như
Triều
Tiên
nước
ta,
không
có
một
bản
nào
kê
ra
một
tác
phẩm
mang
tên
Đạo
Cao
pháp
sư
tập
hết,
dĩ
nhiên
trừ
Nhật
BẢn
quốc
kiến
tại
thư
mục
lục.
Pháp
sư
Đạo
Cao
như
vậy
ngoài
hai
lá
thư
viết
cho
người
đệ
tử
là
Lý
MIễu,
còn
tác
giả
hai
tác
phẩm
khác,
mà
ngày
nay
ta
biết
được
tên,
đấy
lá
Tá
âm
và
Đạo
Cao
pháp
sư
tập.
Thế
thì
Cao
viết
chúng
vaò
lúc
nào?
Câu
hỏi
này
tất
nhiên
không
phải
là
dễ
giải
quyết
,
nhất
là
khi
những
tác
phẩm
ấy
hiện
đã
tán
thất
chưa
tìm
thấy.
Tuy
nhiên,
vì
Tá
âm
là
một
tác
phẩm
ngôn
ngữ
học,
nó
hẳn
phải
được
viết,
lúc
Cao
đang
còn
trẻ
khoảng
trên
dưới
ba
mươi
tuổi.
Nêú
ta
coi
TÁ
âm
tự
cũng
là
một
tác
phẩm
của
Cao,
như
Diêu
Chấn
Tôn
đã
giả
thiết,
thì
nó
chắc
cũng
được
soạn
vào
khoảng
đó.
Còn
về
Đạo
Cao
pháp
sư
tập
với
danh
nghiã
một
biệt
tập
tất
phải
nói
lên
một
cái
"chí
thượng",
cái
"phong
độ"
của
người
viết
nó.
Hơn
nữa,
là
một
biệt
tập,
nó
dĩ
nhiên
bao
gồm
phần
lớn
những
gì
Đạo
Cao
viết
nhằm
cho
người
xem
"nhìn
cái
thể
thế
để
thấy
cái
tâm
linh
của
Cao".
Nó
do
đó
có
thể
coi
như
một
tuyển
tập
những
tác
phẩn
của
pháp
sư
Đạo
Cao,
nếu
không
là
một
toàn
tập,
nó
thường
thường
phải
xuất
hiện
vào
cuối
đời
của
tác
giả.
Đạo
Cao
pháp
sư
tập
do
đấy
tất
phải
ra
đời
vào
khoảng
những
năm
cuối
cùng
của
cuộc
đời
Đạo
Cao,
nghiã
là
khoảng
những
năm
450
-
460,
và
có
thể
gồm
cả
hai
lá
thư
viết
cho
Lý
Miễu.
Veࠐháp
Minh
[^]
Về
cái
tên
Pháp
Minh,
một
kiểm
soát
Cao
Tăng
truyện
và
Tục
Cao
Tăng
truyện
đã
cung
hiến
hai
mẫu
tin
sau
:
Cao
Tăng
truyện
quyển
12
tờ
408b13-24,
sau
khi
đã
kể
xong
tiểu
sử
của
Thích
Siêu
Biện,
viết
tiếp:
"Thời
hữu
Linh
căn
Thích
Pháp
Minh,
Kỳ
Hoàn
Thích
Tăng
Chí,
Ích
châu
Thích
Pháp
Định,
tịnh
tụng
kinh
thập
dư
vạn
ngôn,
hoang
khổ
hữu
chí
đức".
Thế
cũng
có
nghiã,
Pháp
Minh,
Tăng
Chí
v.v...
là
những
người
đồng
thời
trẻ
tuổi
của
Siêu
Biện.
Biện
mất
lúc
ông
73
tuổi
vào
năm
492,
Đây
là
mẫu
tin
thứ
nhất
.
Mẫu
tin
thứ
hai
năm
trong
Tục
Cao
Tăng
truyện
quyển
1
DTK
2060
tờ
431a7-432a8
ở
bản
tiểu
sử
của
Thích
Pháp
Thái.
Sau
khi
cho
biết
Thái
mất
vào
năm
567
thọ
51
tuổi,
nó
nói:
"Bấy
giờ
có
Sa
-
môn
Trí
phu
chùa
Bình
Đẳng
Tuần
Châu,
tuổi
nhỏ
đến
chùa
Diên
Tộ
học
Thành
thật
luận
với
hai
thầy
Đạo
và
Duyên,
rồi
lạy
tạ,
mà
đến
Bắc
thổ
học
Kim
Cang,
Bát
nhã
luận
với
Sa
-
môn
Pháp
Minh,
lại
đến
hai
thầy
Hy
và
Kiên
nghe
giảng
luận
Tì
-
bà
-
sa
và
Trung
luận
v.v...
Trí
Phu
theo
đó
thì
mất
vào
năm
601,
không
biết
thọ
bao
nhiêu
tuổi.
Giả
như
ông
ta
sống
tới
80
năm
,
thì
năm
sinh
của
ông
phải
là
521.
Sa
-
môn
Pháp
Minh
mà
ông
đến
học
luận
KIm
Cang
Bát
Nhã,
tất
phải
sống
vào
khoảng
năm
500,
nếu
không
là
sớm
hơn
khoảng
năm
480
-
490.
Dù
với
năm
sinh
nào
đi
nữa,
ông
đã
ra
đời
quá
chậm,
để
có
thể
viết
lá
thư
thứ
sáu
trên
cho
Tăng
Hựu
sưu
tập
vào
Hoằng
minh
tập,
mà
ta
biết
Hựu
phải
khởi
thảo
khoảng
năm
494
trở
đi,
nếu
không
là
sớm
hơn,
và
để
có
thể
được
Tăng
Hựu
coi
như
"tiền
đại
thắng
sĩ".
Xin
nhắc
lại
là,
Hựu
sinh
năm
445
và
bắt
đầu
thảo
xong
Xuất
tam
tạng
ký
tập
giữa
những
năm
494
-
498.
Chúng
ta
do
thế
không
cần
phải
đi
sâu
vao
việc
bàn
cãi
về
tung
tích
của
vị
Sa
-
môn
từ
Bắc
thổ
tên
Pháp
Minh
này.
Về
vị
Sa
-
môn
Pháp
Minh
trong
bản
tiểu
sử
của
Siêu
Biện
nói
trên,
một
khối
những
mập
mờ
đang
vây
phủ
ông.
Trước
hết,
ta
biết
ông
ở
tại
Linh
Căn.
Linh
Căn
dĩ
nhiên
là
tên
một
ngôi
chùa
nổi
tiếng
ở
Dương
Đô,
Trung
Quốc.
Thứ
hai,
ông
nổi
tiếng
vì
"đã
tụng
hơn
mười
vạn
lời
kinh".
Cuối
cùng,
ông
là
một
người
đồng
đại
trẻ
tuổi
của
Siêu
Biện.
Chúng
tôi
nói
"đồng
đại
trẻ
tuổi",
bởi
vì
những
người
được
Cao
Tăng
truyện
cũng
như
Tục
Cao
Tăng
truyện
giới
thiệu
bằng
hai
chữ
"thời
hữu"
trong
bản
tiểu
sử
của
một
người
khác
thì
những
người
ấy
thường
sống
sau
kẻ
được
nói
tới
trong
bản
tiểu
sử
.
Trường
hợp
Pháp
Thái
và
Trí
Phu
là
một
thí
dụ
điển
hình
của
Tục
Cao
Tăng
truyện.
Trường
hợp
Vu
Pháp
Lan
và
Vu
PHáp
Đạo
là
một
thí
dụ
điển
hình
của
Cao
Tăng
truyện.
Siêu
Biện
mất
năm
493
và
thọ
73
tuổi
như
đã
nói.
Năm
sinh
của
ông
như
thế
rơi
vào
khoảng
420.
Pháp
Minh,
Tăng
Chí
v.v...
do
vậy
phải
ra
đời
sau
năm
đó,
có
lẽ
khoảng
những
năm
425
-
450.
Một
lần
nữa,
nếu
chấp
nhận
năm
450
như
sinh
niên
cho
Pháp
Minh
đây,
thì
ông
ta
khó
có
thể
được
coi
như
đồng
nhất
với
Pháp
Minh
của
lá
thư
thứ
sáu,
vì
Pháp
Minh
của
lá
thư
ấy
đã
thú
nhận
là
ông
đã
bạc
đầu,
khi
viết
nó,
và
để
bạc
đầu,
ông
ít
nhất
cũng
phải
là
trên
dưới
60
tuổi,
tức
khoảng
năm
510,
một
năm
quá
gần
Tăng
Hựu,
để
có
thể
cho
phép
Hựu
gọi
là
"tiền
đại
thắng
sĩ".
Ngược
lại,
nếu
chấp
nhận
năm
534,
thì
hai
Pháp
Minh
ấy
có
thể
đồng
nhất,
nhưng
ta
lại
gặp
phải
vấn
đề
gần
gũi
thời
gian
của
Pháp
Minh
và
Siêu
Biện,
hai
người
chỉ
cách
xa
nhau
khoảng
5
năm,
một
điều
thường
không
thấy
trong
những
trường
hợp
bắt
đầu
với
chữ
"thời
hữu".
Dù
bằng
khả
hữu
thế
nào
đi
nữa,
sự
đồng
nhất
ấy
cũng
không
đem
lại
một
kết
quả
đáng
chú
ý,
bởi
vì
ta
sẽ
không
biết
rõ
ông
sinh
năm
nào,
đến
từ
đâu,
làm
những
gì
và
mất
lúc
nào.
Ngay
cả
việc
ông
ở
chùa
Linh
Căn
tại
Dương
Đô
cũng
không
nhất
thiết
làm
ông
là
người
Trung
Quốc,
Vì
Huệ
Thắng
chẳng
hạn,
tuy
là
người
nước
ta,
đã
được
Tục
Cao
Tăng
truyện
kê
ra
như
"Chung
sơn
Duyên
hiền
tự
Thích
Huệ
Thắng".
Nó
tương
tự
việc
Cao
Tăng
truyện
quyển
11
tờ
399c19-400a4,
khi
đã
miêu
tả
xong
tiểu
sử
của
Thích
Tăng
Phú
và
cho
biết
Phú
mất
năm
487
thọ
75
tuổi,
nói
tiếp
theo,
"thời
hữu
Tăng
Khiêm,
Diêu
Chí,
Pháp
Đạt,
Huệ
Thắng,
tịnh
nghiệp
thiền,
diệc
các
hữu
dị
tích",
theo
đấy
Huệ
Thắng
chắc
phải
là
Huệ
Thắng
của
chùa
Tiên
(châu)
Sơn.
Không
những
thế,
nếu
Huệ
Hạo
và
Đạo
Tuyên
đã
liệt
ra
hai
vị
Pháp
Sư
khác
nhau
có
cùng
tên
Pháp
Minh,
thì
ta
không
có
lý
do
gì,
mà
không
giả
thiết
sự
hiện
diện
của
một
người
thứ
ba
cũng
có
tên
Pháp
Minh,
nhất
là
khi
sự
trùng
tên
loại
này
đã
xảy
ra
một
cách
khá
thường
xuyên.
Kiểm
điểm
chỉ
Cao
Tăng
truyện
thôi,
chúng
ta
đã
có
những
cùng
tên
khác
người
như
Thích
Pháp
Độ
ở
quyển
1
tờ
320
-
16-28
và
quyển
8
tờ
380b15-22,
Thích
Huệ
Thông
quyển
7
tờ
374c28-375a6
và
quyển
10
tờ
393c21-39a14
chứ
khoan
nói
chi
tới
chuyện
kiểm
điểm
thêm
Tục
Cao
Tăng
truyện
mà
kết
quả
cũng
sẽ
tương
tợ,
như
trường
hợp
một
người
tên
Pháp
Độ
ở
quyển
5
DTK
2060
tờ
461a10-11
chẳng
hạn.
Thực
vậy,
bản
danh
sách
các
Danh
Tăng
trong
Danh
Tăng
truyện
của
Bảo
Xướng
do
Tôn
Tánh
sao
vào
trong
Danh
Tăng
truyện
sao
cũng
có
một
nhà
sư
tên
Pháp
Minh
ở
chùa
Linh
Căn
tại
Dương
Đô.
Nhưng
chúng
ta
vẫn
không
thể
quyết
chắc
gì
được
hết
về
nhà
sư
Pháp
Minh
ấy.
Còn
những
thủ
bản
tìm
thấy
tại
Đôn
Hoàng,
chỉ
trong
sưu
tập
Stein
thôi
cũng
đã
có
tới
ba
người
tên
Pháp
Minh.
Tập
1
ký
hiệu
S.
523
đã
ghi
Pháp
Minh
tham
dự
vào
việc
dịch
kinh
Kim
quang
minh
tối
thắng
vương
kinh
của
Đạt
Ma
Lưu
Chi
vào
năm
695.
Tập
3
ký
hiệu
S.
890
là
bản
chép
một
chương
của
luận
Đại
thừa
khởi
tín
và
cuối
chương
có
ghi
tên
Tỳ
-
kheo
Pháp
MInh.
Trong
ba
Pháp
Minh
này,
thì
hai
Pháp
Minh
đầu
có
lẽ
chỉ
một
người
vì
cùng
ở
Trường
An
tham
dự
vào
việc
dịch
kinh
và
có
niên
đại
suýt
soát
nhau,
với
những
năm
695
và
703.
Còn
Tỳ
-
kheo
Pháp
Minh
thì
không
rõ
niên
đại
tung
tích.
Ngoài
sưu
tập
Stein,
sưu
tập
của
thư
viện
Leningrad
cũng
có
một
thủ
bãn
mang
tên
Pháp
Minh
tham
dự
vào
việc
dịch
của
Nghiã
Tịnh.
Chúng
tôi
đón
Pháp
Minh
này
cũng
là
Pháp
Minh
703.
Còn
những
sưu
tập
khác
như
sưu
tập
Pelliot
của
thư
viện
quốc
gia
Pháp,
sưu
tập
của
Trung
ương
đồ
thư
quán
Trung
Hoa
và
sưu
tập
Nhật
Bản
không
có
những
đóng
góp
gì
đang
chú
ý.
Bằng
những
dữ
kiện
và
lý
luận
vừa
thấy,
chúng
ta
có
lẽ
tốt
hơn
hết
là
đồng
ý
ở
giai
đoạn
này
với
cái
chú
thích
nghèo
nàn
trong
Toàn
Tống
văn
quyển
63
tờ
13a3
của
Nghiêm
Khả
Quân
về
vị
pháp
sư
của
lá
thư
thứ
sáu
trên
như
"Pháp
Minh,
Giao
Châu
pháp
sư"
-
Pháp
Minh,
pháp
sư
của
Giao
Châu.
Veࠌý
Miễu
[^]
Cuối
cùng
về
nhân
vật
sứ
quân
Lý
Miễu,
như
đã
nói,
ngày
nay
chúng
ta
không
có
một
người
nào
mang
tên
ấy
ghi
lại
trong
các
sử
sách
Trung
Quốc
và
nước
ta.
Cái
chữ
"Sứ
Quân"
có
hai
nghiã.
Nó
chỉ
sứ
giả
do
thiên
tử
gởi
ra
bốn
phương,
như
sự
xuất
hiện
của
nó
trong
cuộc
đối
thoại
giữa
Khấu
Tuân
và
sứ
giả
của
Hoài
Dương
vương
nhà
Tây
Hán
trong
Hậu
Hán
thư
quyển
46
tờ
24a6-8:
"Tuần
lặc
binh,
nhập
kiến
sứ
giả,
tựu
thỉnh
chi,
sứ
giả
bất
dự.
Viết,
Thiên
vương
sứ
giả,
công
tào
dục
hiếp
chi
gia
?
Tuân
viết,
phi
cảm
hiếp,
sứ
quân,
thiết
thương
kế
chí
bất
tương
giã".
Nó
cũng
chỉ
những
quan
lại
đứng
đầu
các
châu
quân,
đặc
biệt
là
chức
thứ
sử,
như
cái
thí
dụ
chúng
tôi
cho
dẫn
ở
trên
về
Phòng
Pháp
Thừa
hay
trong
truyện
Viên
Áng
ở
Tiền
Hán
thư
quuyển
49
tờ
3b8-4a7
"Áng
...
tỉ
vi
Ngô
tướng
...
Áng
tháo
qui,
đạo
phụng
thừa
tướng
Thân
Đồ
Gia
...
nhân
quì
viết,
nguyện
thỉnh
nhàn;
thừa
tướng
viết,
sứ
quân
sở
ngôn
công
sự
chi
tào
dự
trường
sứ
nghị
chi".
Cái
chữ
"sứ
quân"
trong
lá
thư
của
chúng
ta
có
thể
nói
là
chứa
đựng
cả
hai
nghiã
vừa
kê,
bởi
vì
trong
giai
đoạn
giữa
những
năm
43-939
những
thứ
sử
thường
là
kẻ
đại
diện
chính
quyền
Trung
Quốc
đến
đứng
đầu
nước
ta,
dù
rằng
phần
lớn
cái
việc
đứng
đầu
này
chỉ
có
danh
hơn
là
thực
và
đôi
khi
kẻ
đứng
đầu
ấy
là
người
Việt.
Thế
thì,
ở
thời
kỳ
ra
đời
của
Sáu
lá
thư,
ai
là
những
sứ
quân
?
Như
những
phân
tích
chứng
cớ
và
thư
tịch
điển
cố
trên
cho
thấy,
những
lá
thư
ấy
phải
viết
sau
năm
420,
nếu
không
là
năm
443,
lúc
Huệ
Nghiêm
mất.
Giai
đoạn
giữa
năm
420
cho
đến
khi
Phục
Đăng
Chi
thay
thế
Phòng
Pháp
Thừa
vào
năm
488,
cứ
vào
những
báo
cáo
của
Tống
thư
cũng
như
Nam
Tề
thư
và
Nam
sử
tham
khảo
thêm
các
sử
ta
như
Đại
Việt
sử
lược,
Đại
Việt
sử
ký
toàn
thư,
Đại
Việt
sư
ký,
Việt
sử
tiêu
án
và
Khâm
định
Việt
sử
thông
giám
cương
mục
thì
có
cả
thảy
26
người
làm
thứ
sử
như
sau:
Năm
Thứ
sử
Bị
chú
- 411-423
Đỗ
Huệ
Độ
Cuộc
khởi
nghiã
năm
412
của
Lý
Dịch
Độ
chết,
Văn
thay
- 423
Đỗ
Hoàng
Văn
- 428
Vương
Huy
Chi
- 432
Nguyễn
Di
Chi
- 433
Lý
Tú
Chi
- 435
Lý
Đam
Chi
- 436
Cẩu
Đạo
Phúc
- 438
Từ
Sâm
Chi
- 444
Đàm
Hòa
Chi
- 446
Tiêu
Cảnh
Hiến
- 456
Viên
Hoằng
Tháng
5
Hoằng
thay
Hiến
- 456
Tiêu
Cảnh
Hiến
Tháng
12,
Hiến
thay
- 457
Phi
Yêm458
Viên
Hoằng
- 462
Đàn
Dực
Chi
- 464
Trương
mục
Khoảng
tháng
2
Mục
chết,
Lý
Trường
- 468
Tôn
Phụng
BÁ
Nhân
giết
bộ
khúc
trung
quốc
của
- 468
Lưu
Bột
Mục
và
tự
xưng
là
thứ
xử.
Tháng
3
- 469
Trần
Bá
Thiệu
được
cử,
nhưng
nghe
Nhân
cự,
không
- 477
Trần
Cảnh
Đức
dám
qua,
tháng
8
Bột
được
cử,
cũng
không
dám
qua
- 478
Triệu
Siêu
Dân
- 478
Trần
Hoán
- 479
Lý
Thúc
Hiến
- 485
Lưu
Giai
- 488
Phòng
Pháp
Thừa
Thừa
thấy
chi
chuyên
quyền,
bắt
bỏ
tù
Chi.
Chi
hối
lộ
người
em
rể
488
Phục
Đăng
Chi
của
Thừa,
được
thả
ra.
Chi
liền
bắt
Thừa
bỏ
tù,
rồi
gửi
thư
xin
chức
thứ
sử
với
nhà
Tề.
Mãi
đến
tháng
12
năm
Vĩnh
minh
thứ
8
(492)
Chi
mới
được
trao
chức
thứ
sử.
Cứ
theo
Nam
Tề
thư,
quyền
hành
từ
năm
488
trở
đi
đã
thuộc
về
Chi
Với
bảng
liệt
kê
trên,
chúng
ta
thấy
không
có
một
sứ
quân
nào
tên
Lý
Miễu
hết.
Trong
khoảng
thời
gian
gần
một
thế
kỷ
giữa
những
năm
420
-
520,
ta
có
thể
nói
hơn
nữa
thế
kỷ
nước
ta
là
một
nước
độc
lập
và
có
những
triều
đại
xưng
đế
xưng
vương,
như
trường
hợp
hoàng
đế
Lý
Miễu
của
chúng
ta,
dù
các
chính
sử
của
nước
ta
và
TRung
Quốc
đã
không
ghi
lại
một
thông
tin
nào.
Đặc
biệt
trường
hợp
giết
"bắc
lai
bộ
khúc"
của
Mục
do
Lý
Trường
Nhân
thực
hiện
năm
468.
Để
có
thể
làm
thế,
trước
năm
468
này
thanh
thế
và
quyền
hành
của
Nhân
chắc
đã
mở
rộng
rất
nhiều
,
nếu
không
là
mở
rộng
toàn
diện.
Việc
vua
chúa
nhà
Tống
tiếp
tục
cử
những
quan
lại
qua
làm
thứ
sử
Giao
Châu
từ
năm
468
cho
đến
năm
479,
nghiã
là,
trong
giai
đoạn
nước
ta
hoàn
toàn
độc
lập,
đưa
ra
khá
nhiều
tiền
lệ
về
giá
trị
thực
sự
của
những
bổ
cử
trước
năm
468
đó.
Chúng
chắc
hẳn
chỉ
có
danh,
mà
không
có
thực
.
Tình
trạng
này
không
có
gì
khó
hiểu
hết.
Tùy
thư
quyển
24
tờ
3b3-10
về
Thực
hóa
chí
cho
biết:
"Nhà
tấn
tự
khi
Trung
Nguyên
tán
loạn,
Nguyên
đế
dời
xuống
Giang
tả
...
Những
bọn
mọi
rợ
núi
động
đã
thấm
nhuần
vương
hóa,
thì
mỗi
một
chúng
tự
tùy
năng
nhẹ,
thu
lấy
vật
thuế,
để
giúp
bổ
quốc
dụng
.
Thêm
vào
đó,
các
cừ
soái
ngoài
Ngũ
lĩnh,
nhân
vì
sự
phong
phú
của
nhân
khẩu,
phỉ
thúy,
minh
châu,
voi
tê,
thì
kẻ
nào
hùng
giữa
những
hương
khúc,
triều
đình
phần
nhiều
nhơn
đấy
mà
giao
chức
cho
họ,
nhằm
thu
lấy
một
phần
lợi.
Những
đời
Tống,
Tề,
Lương
và
Trần
đều
nhân
theo,
mà
không
đổi.
Quân
đội
và
nhà
nước
cần
tạp
vật,
thì
tùy
thổ
sản
của
từng
nơi,
đến
lúc
chia
khóa
ra
mà
lấy,
nên
không
có
định
lệnh
phép
thường.
Các
châu,
quận
và
huyện
nhất
loạt
tự
định
lấy
mức
sản
xuất
của
những
nhiệm
thổ
của
mình,
để
làm
chuyện
đóng
thuế".
Nguyên
đế
đời
nhà
Tấn
xuống
miền
nam
Trung
Quốc
năm
317
và
biến
nó
thành
nhà
Đông
Tấn.
Nhà
Trần
bị
Tùy
Văn
đế
diệt
năm
590.
Như
vậy,
cứ
vào
báo
cáo
vừa
dẫn
của
Tùy
thư,
thì
trong
khỏang
hai
thế
kỷ
từ
năm
317
đến
tối
thiểu
năm
590,
nếu
không
là
năm
602,
khi
Lưu
Phương
dụ
hàng
Lý
Phật
Tử,
quan
chức
ở
các
châu,
quận
và
huyện
nước
ta
đều
là
"hùng
cư
hương
khúc
giả
triều
đình
đa
nhân
nhi
tự
chi",
và
mục
đích
là
để
chia
xẻ
một
phần
nào
những
thổ
sản
và
lợi
lộc
của
chúng.
Nói
cách
khác,
ngay
cả
trước
lúc
Lý
Bôn
xưng
đế,
nước
ta
đã
là
một
nước
tự
trị
tới
một
mức
độ
nào
đó.
Sự
tình
ấy,
Tiểu
Tử
Hiển
(489
-
537)
có
thể
chứng
thực
cho
ta
trong
Nam
tề
thư.
Như
đã
thấy,
năm
468
Lý
Trường
Nhân
giết
"bắc
lai
bộ
khúc"
của
Mục,
rồi
tự
xưng
làm
thứ
sử.
Nhà
Tống
tiếp
tục
cử
thứ
sử
của
mình,
nhưng
không
một
tên
nào
dám
qua.
Vào
khoảng
trước
hay
sau
năm
470,
Nhân
mất,
tùng
tử
Lý
Thúc
Hiến
lên
thay.
Hiến
gửi
thư
xin
chức
thứ
sử.
Nhà
Tống
chỉ
bằng
lòng
phong
cho
Hiến
làm
thái
thú
quận
Vũ
Bình
và
Tân
Xương
và
chức
Ninh
viên
Tư
Mã
tướng
quân,
đồng
thời
cử
Trần
Hoán
làm
thứ
sử.
Hiến
nhận
được
chỉ
của
Tống,
liền
cự
Hoán,
Hoán
sợ
không
dám
tới.
Năm
479,
Tiêu
Đạo
Thành
diệt
nhà
Tống,
lập
nên
nhà
Tề.
Thành
đòi
đánh
Hiến.
Lưu
Thiện
Minh
can
Thành.
Trong
số
11
lý
do
Minh
đề
ra,
lý
do
cuối
cùng
theo
Nam
Tề
thư
quuyển
28
tờ
12b2-6
đọc
như
thế
này:
"Vì
Giao
Châu
hiểm
trở
xa
xôi
ở
ngoài
miền
hoang
yếu,
cuối
đời
Tống
chính
trị
hà
khắc,
bèn
nổi
giận
làm
phản,
nay
đại
nghiệp
mở
ra
thì
nên
lấy
ân
đức
mà
làm
cho
nó
mong
nhớ,
chưa
nên
xa
nhọc
tướng
sĩ,
làm
giao
động
biên
dân;
hơn
nữa,
thổ
sản
của
xứ
ấy
chỉ
có
châu
báu,
thật
không
phải
là
những
thứ
cần
dùng
khẩn
cấp
của
triều
đình;
việc
thảo
phạt
do
đó
đáng
nên
đình
chỉ".
Thế
cũng
có
nghiã,
lý
do
cho
việc
thảo
phạt
dưới
thời
Tề
phần
lớn
là
nhắm
chiếm
đất
để
thu
thổ
sản,
đặc
biệt
là
những
miền
đất
không
chịu
cống
hiến
như
nước
ta
dưới
thời
Lý
Trường
Nhân
và
Lý
Thúc
Hiến.
Và
ngay
khi
đánh
được,
việc
cai
trị
chưa
chắc
đã
thực
hiện
được,
như
trường
hợp
Phòng
Pháp
Thừa
và
PHục
Đăng
Chi.
Năm
485,
Tề
Vũ
lấy
cớ
Hiến
không
những
không
chịu
cống
Hiến,
mà
còn
ăn
gian
của
công
do
những
nước
miền
nam
đến
cống
cho
Trung
Quốc
như
Phù
Nam,
Chân
Lạp
v.v...,
bèn
cử
Lưu
Giai
ra
đánh
Hiến.
Giai
ở
chưa
tới
ba
năm
thì
Phòng
Pháp
Thừa
ra
thay.Khi
THừa
đến,
Phục
Đăng
Chi
đã
tự
chuyên
quyền,
nhưng
Thừa
không
biết.
Khoảng
tháng
sau,
có
người
mách
với
Thừa,
Thừa
nổi
giận,
bắt
tù
Chi.
Chi
hối
lộ,
nên
được
thả
ra,
lại
bắt
tù
Thừa.
Nhà
Tề
cho
Chi
làm
thứ
sử.
Quả
thật,
nước
ta
vào
những
năm
ấy
thực
không
khác
gì
với
nhận
xét
của
Dương
Hùng,
mà
Nam
Tề
thư
cho
dẫn
ở
quyển
14
tờ
24b1-3
"Giao
Châu
hoang
độ,
thủy
dự
thiên
tế,
ngoại
tiếp
man
di,
bảo
hóa
sở
xuất,
sơn
hải
trận
quái,
mạc
dự
vi
tỷ,
dân
thị
hiển
viễn,
sở
hảo
phản
loạn",
một
tiếng
vang
xa
xôi
của
cái
báo
cáo
năm
280
của
Đào
Hoàng:
"Thử
châu
chi
nhân,
thức
nghiã
gia
quả,
yếm
kỳ
an
lạc,
hảo
vi
họa
loạn".
Những
phân
tích
ấy
như
thế
cho
thấy,
cái
chức
thứ
sử
ở
nước
ta
vào
thế
kỷ
thứ
V
-
VI
thực
sự
có
danh
nhưng
không
có
thực
và
chúng
ta
đã
không
thể
tìm
thấy
một
người
nào
mang
tên
Lý
Miễu.
Phải
chăng
đã
có
một
sự
viết
lầm
nào
đó
?
Chẳng
hạn
chữ
"Miễu"
?
rất
có
thể
là
viết
lầm
của
chữ
?
"Sâm"
hay
chữ
Tú
?
trường
hợp
chữ
"Sâm"
là
rất
có
thể
nhưng
ta
lại
phải
giả
thiết
thêm
sự
viết
lầm
chữ
"Tú"
?
thành
chữ
"Lý"
?
để
có
thể
cho
phép
ta
đồng
nhất
Lý
Miễu
?
với
Từ
Sâm
Chi
?
vị
thứ
sử
năm
438
cho
đến
năm
444.
Đồng
nhất
này
dĩ
nhiên
đòi
hỏi
quá
nhiều
giả
thiết
và
quá
nhiều
viết
lộn,
do
đó
khó
có
thể
đứng
vững
được.
Trường
hợp
chữ
"Tú"
trong
cái
tên
Lý
Tú
Chi
của
vị
thứ
sử
năm
433,
mặc
dù
nó
yêu
cầu
ít
giả
thiết
và
viết
lầm
hơn,
cũng
không
thể
chấp
nhận
được
một
cách
dễ
dàng,
bởi
vì
chữ
"Tú"
khó
viết
lầm
thành
chữ
"Miễu"
được,
và
ta
chưa
giải
quyết
được
sự
thiêú
mặt
của
chữ
Chi
của
tên
Lý
Miễu.
Dù
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
chúng
ta
tốt
hơn
hết
nên
nhận
lấy
dự
kiện,
như
sử
liệu
ngày
nay
cung
hiến,
và
khẳng
định
là,
không
một
Lý
MIễu
nào
đã
xuất
hiện
giữa
bản
danh
sách
những
thứ
sử
do
vua
chúa
Trung
Quốc
cử
nhiệm.
Từ
khẳng
định
này,
ta
có
thể
hỏi
thêm,
thế
thì
phải
chăng
Lý
Miễu
là
một
trong
những
trường
sứ
hay
quận
sứ
hay
thái
thú,
nằm
đằng
sau
cái
chính
quyền
thứ
sử
và
giật
giây
nó,
như
Lương
Thạc
đã
làm
vào
năm
317
và
Lý
Trường
Nhân
kế
tập
gần
150
năm
sau
?
Trả
lời
câu
hỏi
này,
chúng
ta
ngày
nay
không
có
đủ
tư
liệu
một
cách
đáng
muốn.
Từ
năm
420
cho
đến
khoảng
năm
469,
chúng
ta
chỉ
biết
được
một
số
những
anh
em
bà
con
của
Đỗ
Huệ
Độ
làm
thái
thú,
cộng
thêm
với
Lý
Đạm
Chi
thái
thú
Giao
Chỉ
trước
năm
435
cùng
cái
tên
Khương
Trọng
Cơ
của
vị
thái
thú
Ái
Châu
và
Phó
Ủy
Tổ
của
vị
thái
thú
Cưủ
Chân
kể
ra
trong
cuộc
hành
quân
năm
446
của
Đàn
Hoà
Chi,
thế
thôi.
Ngay
cả
cái
tên
Lý
Trường
Nhân
cũng
không
bao
giờ
xuất
hiện
cho
tới
năm
468.
Trước
những
im
lặng
và
thiếu
sót
ấy,
việc
thiết
lập
nên
một
bản
những
thái
thú
hay
trường
sứ
do
thế
không
thể
thực
hiện
được,
và
chúng
ta
không
bao
giờ
có
thể
trả
lời
một
cách
dứt
khoát
câu
hỏi
vừa
nêu.
Tuy
nhiên,
chúng
tôi
nghĩ,
Lý
Miễu
rất
có
thể
là
cái
tên
khác
của
Lý
Trường
NNhân.
Thí
dụ
Miễu
là
tên
húy,
còn
Trường
Nhân
là
tên
tự,
như
trường
hợp
Văn
Cử
là
tên
tự
của
Quách
Văn
mà
những
sử
liệu
như
Cao
Tăng
truyện
quyển
7
tờ
369c26
hay
Bảo
phát
tử
đẫn
trong
Thái
bình
ngự
lãm
quyển
666
tờ
2a5-6
đều
gọi
là
Quách
Văn
Cử,
chứ
không
Quách
Văn.
Lý
do
cho
một
suy
nghĩ
như
thế
trước
hết
nằm
ở
sự
có
thể
của
một
đồng
nhất
kểu
đó,
như
đã
vạch
ra
trong
trường
hợp
Quách
Văn.
Hơn
nữa,
trong
quan
hệ
lịch
sử
giữa
Việt
Nam
và
Trung
Quốc
về
sau,
thì
các
hoàng
đế
Việt
Nam
thường
dùng
một
tên
khác
với
tên
chính
của
mình
để
thư
từ
với
các
hoàng
đế
TRung
Quốc.
Thí
dụ,
vua
Trần
Thái
Tông,
tên
trong
sử
là
Trần
Cảnh,
nhưng
trong
các
văn
kiện
với
Trung
Quốc
thì
ký
tên
là
Trần
Quang
Bính,
như
An
Nam
chí
lược
tờ
1b3
đã
ghi.
Tiếp
đến,
tình
hình
chính
trị
nước
ta
vào
thế
kỷ
V,
cứ
những
mô
tả
trên
của
chúng
tôi,
cho
phép
sự
hiện
diện
của
những
người
mệnh
danh
"sứ
quân"
nằm
đằng
sau
giật
dây.
Và
cuối
cùng,
còn
một
lý
do
quan
trọng
sau.
Chúng
tôi
đã
nói
ở
trước
là,
trong
lá
thư
thứ
tư,
Đạo
Cao,
ngoài
chuyện
gọi
Lý
Miễu
là
sứ
quân,
đã
cho
biết
thêm,
Miễu
"ở
vào
địa
vị
của
một
bậc
thiên
tử"
-
cư,
đại
bào
chi
địa
-
và
"thổ
ác
dư
hà".
Chữ
"đại
bảo"
thường
có
hai
nghiã
chính,
đấy
là
chỉ
địa
vị
hoàng
đế
thiên
tử
hay
chỉ
một
vật
gì
quý
trọng.
Nghiã
thứ
hai
ở
đây
dĩ
nhiên
không
thích
hợp
với
ý
của
câu
"cư
đại
bảo
chi
địa"
của
Lý
Miễu,
do
thế
có
thể
loại
ra.
Còn
lại
như
vậy
là
ý
thứ
nhất.
Nghiã
này
đạo
xuất
từ
câu
"Thiên
địa
chi
đại
đức,
viết
sinhl
thánh
nhân
chi
đại
bảo,
viết
vị;
hiện
tài,
chính
từ,
lân
dân
vô
phụ,
viết
nghiã"
của
Hệ
từ
hạ
trong
Chu
dịch,
Thế
thì,
"cư
đại
bảo
chi
địa"
phải
có
nghiã
là
"ở
vào
địa
vị
của
thiên
tử".
Đây
cũng
là
cách
cắt
nghiã
của
ông
Thái
Điền
Thế
Tạng
trong
bản
dịch
tiếng
Nhật
nói
trên.
Thêm
vào
đó,
trong
lá
thư
thứ
hai,
Đạo
Cao
khi
nhắc
đến
học
thức
của
Lý
Miễu
thì
dùng
bốn
chữ
"thánh
tư
uyên
viễn".
Chữ
"thánh
tư"
này
tất
nhiên
không
có
nghiã
thông
thường
là
suy
nghĩ
của
bậc
thánh,
mà
phải
hiểu
lả
suy
nghĩ
của
một
vị
hoàng
đế.
Do
thế,
ta
có
đủ
chứng
cứ
để
khẳng
định
Lý
Miễu
là
một
vị
hoàng
đế
của
Việt
Nam.
Song,
nếu
Lý
Miễu
"ở
vào
địa
vị
thiên
tử",
thì
tại
sao
những
lá
thư
của
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh
lại
gọi
Miễu
là
"sứ
quân",
chứ
không
bằng
một
hiệu
thích
hợp
với
thiên
tử
?
Chữ
"sứ
quân"
như
chúng
tôi
đã
có
dịp
vạch
ra,
thường
để
chỉ
sứ
giả
của
thiên
tử
hay
những
quan
lại
đứng
đầu
các
châu
quận.
Để
giải
quyết
rắc
rối
này
chúng
ta
có
nhiều
cách.
Cách
thứ
nhất,
ta
có
thể
cắt
nghiã
câu
ấy
thành
"ở
vào
đất
đai
của
thiên
tử",
nghiã
là
ở
tại
cung
vua.
Nhưng
làm
thế,
chúng
ta
tất
không
thể
giải
thích
được
cái
đề
danh
"Lý
Giao
Châu"
của
Miễu;
và
nhất
là
hai
chữ
"sứ
quân"
vừa
nói.
Bởi
vì,
nếu
ở
tại
cung
vua
thì
sao
lại
gọi
là
"sứ
quân",
và
giả
như
Miễu
đã
đi
sứ
rồi
trở
về,
thì
sao
lại
có
cái
đề
danh
"Lý
từ
Giao
Châu"
trong
bản
sao
của
Tăng
Hựu.
Nếu
cắt
nghiã
đất
đai
của
thiên
tử
có
nghiã
là
vương
đế,
đất
đai
của
nhà
vua,
thì
chúng
ta
lại
không
thể
giải
thích
được
những
câu
"lưu
lãng
nghiã
uyển,
thiệp
sậu
thơ
viên"
tiếp
theo
cũng
như
nguyên
lai
của
Đạo
Cao.
Bởi
vì
nếu
mọi
chỗ
"mạc
phi
vương
thổ"
thì
hà
tất
đất
vua
đâu
đâu
cũng
có
vườn
sách
và
Đạo
Cao
ở
đâu
ngoài
"vương
thổ",
để
bảo
Miễu
ở
vào
"đại
bảo
chi
địa".
Cách
thứ
nhất
như
thế
là
không
xong.
Cách
thứ
hai,
ta
có
thể
cắt
nghiã
chữ
đại
bảo
bằng
một
trong
những
nghiã
phụ
của
nó,
mà
đáng
chú
ý
nhất
dĩ
nhiên
là
"Bồ
tát".
Trong
Diêu
pháp
Liên
hoa
kinh
quyển
2
tờ
11b26-27
cũng
như
Chính
Pháp
hoa
kinh
quyển
6
tờ
100c23-24
và
Thiện
phẩm
Diệu
pháp
Liên
hoa
kinh
quyển
2
tờ
144b14-15,
chúng
ta
có
những
câu
như
"kỳ
quốc
trung
dĩ
Bồ
tát
vi
đại
bảo
giáo
hóa
chúng
sinh"
hay
"tự
tộc
tánh
tử
tư
tộc
tánh
nữ
sắc
vi
đại
bảo
đáng
vi
tác
lễ"
v.v...Chữ
đãi
bảo
trong
những
câu
này
đồng
nhất
với
chữ
Bồ
tát.
"Lấy
Bồ
tát
làm
đại
bảo"
đương
nhiên
có
thể
cắt
nghiã
như
"lấy
Bồ
tát
làm
những
người
cai
trị";
như
vậy,
nghiã
"Bồ
tát"
của
chữ
đại
bảo
chưa
hẳn
đã
thoát
ra
ngoài
cái
nghiã
"thiên
tử"
nói
trên.
Cách
cuối
cùng
có
lẽ
tương
đối
thỏa
mãn
nhất,
đấy
là
giả
thiết
sự
thêm
thắt
của
Tăng
Hựu
hay
một
người
có
ý
thức
chính
trị
Trung
Quốc
nào
đó,
và
nó
có
thể
xảy
ar
như
sau.
Từ
nguyên
ủy
những
lá
thư
của
Đạo
Cao
và
Pháp
minh
rất
có
thể
chỉ
xưng
Lý
Miễu
như
"quân"
hay
"quân
vương".
Đến
khi
chúng
lọt
vào
tay
những
người
Trung
Quốc,
họ
liền
thên
vào
chữ
"sứ"
trước
chữ
"quân"
và
lặt
chữ
"vương"
đi,
đưa
đến
sự
xuất
hiện
cái
anh
hiệu
"sứ
quân",
trong
khi
lá
thư
vẫn
tiếp
tục
nói
đến
chuyện
"cư
đại
bảo
chi
điạ"
và
"thổ
ác
dư
hà"
của
Lý
Miễu.
Nói
cách
thứ
ba
này
là
tương
đối
thoả
mãn
nhất,
bởi
vì
nó
không
cho
phép
hiểu
câu
"cư
đại
bảo
chi
địa
và
tình
hình
chính
trị
nước
ta
ở
thế
kỷ
V
một
cách
dễ
dàng,
mà
còn
để
lộ
ra
một
phần
nào
thái
độ
chính
trị
và
cảm
thức
chính
trị
của
dân
ta
trong
thế
kỷ
ấy.
Đấy
là
tiếp
tục
gọi
lãnh
tụ
của
mình
là
thiên
tử,
dù
ông
chỉ
là
thứ
sử
hay
thái
thú
trong
các
sử
sách
Trung
Quốc,
và
từ
đó
để
lộ
thêm
nguồn
gốc
Việt
NAm
của
những
lá
thư.
Cố
nhiên,
ta
có
thể
hỏi,
nếu
Lý
Miễu
đối
với
Đạo
CAo
và
Pháp
Minh
là
ở
địa
vị
thiên
tử,
thì
sao
vị
ấy
chỉ
gọi
Miễu
là
"quân"
?
Trả
lời
câu
hỏi
này,
chúng
ta
không
phải
tìm
đâu
cho
xa.
Vào
thế
kỷ
thứ
V,
tổ
chức
Phật
giáo
Trung
Quốc
dưới
sự
lãnh
đạo
của
Huệ
Viễn
đã
xướng
lên
thuyết
bất
kỉnh
vương.
Thuyết
đó
nói
rằng,
Tăng
Ni
Phật
giáo
không
cần
phải
làm
lễ
hay
xưng
mình
là
thần
hay
khanh
trước
vua
chúa.
Cuối
cùng
dẫn
đến
sự
ra
đời
của
Bất
kỉnh
vương
luận
của
Huệ
Viễn
và
cuộc
bàn
cãi
sôi
nổi
về
nó,
mà
Tăng
Hựu
cho
sưu
tập
lại
trong
Hoằng
minh
tập.
Chúng
tôi
nghĩ,
cách
cắt
nghiã
thứ
ba
đây
đáng
nên
chấp
nhận,
và
chúng
ta
có
lẽ
nên
đổi
chữ
"sứ
quân"
trong
những
lá
thư
thành
những
chữ
"quân".
Trong
liên
hệ
này,
cần
thêm
là,
bản
tiếng
Nhật
của
ông
Thái
Điền
Thế
Tạng
đã
dịch
một
cách
bí
hiểm
hai
chữ
"sứ
quân"
thành
một
chữ
"quân".
Bí
hiểm,
bởi
vì
ông
không
nói
lý
do
tại
sao.
Như
vậy,
cái
chi
tiết
về
chuyện
Lý
Miễu
"cư
đại
bảo
chi
điạ"
này
giả
thiết
ông
là
kẻ
đứng
đầu
chính
quyền
nước
ta,
dù
chính
quyền
đó
là
một
chính
quyền
nhị
nguyên
với
sự
hiện
diện
đồng
thời
và
song
song
của
những
thứ
sử
Trung
Quốc
hữu
danh
vô
thực
vào
thời
những
lá
thư
được
viết.
Như
đã
nói
trên,
chúng
tôi
nghĩ,
Lý
Miễu
rất
có
thể
là
Lý
Trường
Nhân,
tuy
rằng
không
một
dữ
kiện
xác
đáng
nào
có
thể
tìm
thấy
cho
một
suy
nghĩ
như
vậy
,
ngoài
những
lý
do
ngẫu
nhiên
và
ngoại
tại
vừa
kể.
Dĩ
nhiên,
Lý
Miễu
cũng
có
thể
là
một
người
khác
Lý
Trường
Nhân,
như
Miễu
là
cha
hay
chú
gì
đó
của
Nhân
chẳng
hạn.
Trong
tình
trạng
khuyết
phạp
tư
liệu
và
thiếu
thốn
dữ
kiện
hiện
tại,
mọi
giã
thiết
đều
là
có
thể
và
không
có
thể.
Lý
Trường
Nhân
xuất
hiện
trong
sử
sách
Trung
Quốc
qua
việc
ông
giết
những
bộ
hạ
Trung
Quốc
của
Mục,
sau
khi
Mục
chết,
vào
khoảng
tháng
2
năm
468.
Sau
biến
cố
này,
Tống
thư
không
nói
gì
hết
về
những
biến
cố
tiếp
theo
và
chỉ
bằng
lòng
ghi
lại
những
bổ
nhiệm
hữu
danh
vô
thực
của
những
thứ
sử
Giao
Châu,
như
đã
liệt
ở
trên.
Chúng
ta
phải
đợi
đến
Nam
Tề
thư,
mới
thấy
nói
tới
chuyện
Lý
Thúc
Hiến
cầu
phong
với
nhà
Tống
và
chuyện
Hiến
chống
lại
tên
thứ
sử
do
Tống
bổ
nhiệm
làm
cho
tên
này
sợ
không
dám
đến,
cũng
như
chuyện
Lý
Trường
Nhân
đau
mất
khoảng
vài
năm
sau
khi
giết
bộ
khúc
của
Mục.
Ngày
nay
chúng
ta
không
biết
Nhân
chết
lúc
nào
và
thọ
bao
nhiêu
tuổi.
Cứ
vào
cái
chữ
"sổ
niên"
của
Tiêu
Tử
Kiển,
thì
Nhân
có
lẽ
mất
khoảng
năm
470
hay
sau
đó
không
lâu.
Ngay
cả
khi
Nhân
thọ
không
hơn
50
tuổi,
chúng
ta
có
thể
đặt
năm
sinh
của
ông
vào
khoảng
năm
420.
Ông
như
vậy
rất
có
thể
là
một
bà
con
gì
đấy
với
Lý
Tốn
cũng
như
Lý
Dịch,
hai
người
lãnh
đạo
cuộc
khởi
nghiã
năm
380
và
412.
Nếu
chấp
nhận
năm
420
là
sinh
niên
của
ông,
sự
tham
dự
chính
trị
có
lẽ
đã
xảy
ra
khoảng
từ
năm
440
trở
đi.
Những
lá
thư
của
chúng
ta
dựa
trên
chính
những
bằng
cớ
nội
tại
của
chúng,
phải
viết
ra
khoảng
năm
435,
nếu
không
là
453
như
đã
thấy,
và
chắc
hẳn
phải
trước
năm
455.
Chúng
tôi
nghĩ
trước
năm
455,
bởi
vì
nếu
sau
đó,
thì
Pháp
Minh
phải
kể
việc
thiêu
thân
của
Đàm
Hoằng
tại
chùa
Tiên
Sơn,
mà
sự
thần
dị
vang
lừng,
đến
nỗi
hơn
nữa
thế
kỷ
sau
Huệ
Hạo
còn
ghi
lại
trong
Cao
Tăng
truyện
của
ông.
Đặc
biệt
là
khi
cả
Tăng
lẫn
tục
tại
chùa
Tiên
Sơn
đều
chứng
kiến
nó
khi
Pháp
Minh
đã
dùng
đến
những
thần
dị
của
những
người
đã
có
một
kết
nối
đậm
đà
với
nền
Phật
giáo
nước
ta
như
Vu
Pháp
Lan.
Việc
Đàm
Hoằng
tự
thiêu
vào
năm
455.
rất
có
thể
là
vì
những
bàn
cãi
kiểu
bàn
cãi
trong
sáu
lá
thư
trên,
những
bàn
cãi
về
sự
không
thấy
bản
thân
đức
Phật
và
sự
không
có
cảm
ứng..
Nó
nhằm
chứng
minh
sự
chân
thực
của
điều
khẳng
định,
mà
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh
lập
đi
lập
lại
mấy
lần,
đấy
là
"vong
thân
đầu
thành
thì
tất
có
cảm,
có
cảm
thì
tất
đều
thấy,
không
cảm
thì
tất
không
thấy".
Hoằng
quả
đã
vong
thân
đầu
thành,
nên
đã
thấy
được
đức
Phật
và
hiện
về
cho
mọi
người
cùng
thấy.
Hành
động
của
Hoằng
không
những
cung
hiến
sự
minh
chứng,
mà
còn
cho
thấy
một
phần
nào
sự
gần
gũi
đậm
đà
của
Phật
tử
nước
ta
đối
với
Hoằng.
Vậy,
nếu
chấp
nhận
năm
455
ấy
cho
chung
kỳ
cực
tiểu
của
những
lá
thư,
thì
sự
đồng
nhất
Lý
Miễu
với
Lý
Trường
NHân
có
lẽ
không
xa
vời
lắm,
khi
coi
Nhân
sinh
vào
khoảng
420,
như
đã
vạch
ra.
Không
xa
vời,
bởi
vì
những
lá
thư
của
Miễu
tuy
khá
rõ
ràng
mạch
lạc,
đã
tỏ
ra
không
già
giặn.
Chẳng
hạn
lá
thư
thứ
ba,
Miễu
nói
tới
chuyện
"Đế
vương
Cơ
Khổng
huấn
chỉ
dương
thế",
trong
hki
lá
thư
thứ
năm
ông
nói
ngược
lại,
và
Pháp
Minh
đã
không
quên
vạch
ra
sự
mâu
thuẩn
ấy.
Chúng
do
thế
có
lẽ
do
một
người
trên
dưới
ba
mươi
tuổi
viết,
khi
khí
hăng
đang
còn
mạnh
và
sẵn
sàng
thay
đổi
ý
kiến.
Dù
Lý
Miễu
và
Lý
Trường
Nhân
là
một
hay
hai
người,
điều
chắc
chắn
vẫn
là,
những
lá
thư
trên
phải
được
viết
sau
năm
435
và
có
lẽ
trước
năm
455,
và
tác
giả
Lý
Miễu
phải
đang
còn
thanh
niên,
khi
viết
những
lá
thư
này.
Tất
nhiên,
chúng
ta
không
thể
loại
hẳn
cái
khả
hữu
là
Lý
Miễu
có
thể
là
người
đứng
tuổi
hay
một
người
già
khi
viết
chúng.
Niên
đại
435
-
455
giả
thiết
này
cho
những
lá
thư
có
thể
làm
vững
thêm,
khi
ta
trả
lời
câu
hỏi
sau:
"tại
sao
chúng
đã
ra
đời
và
lại
bàn
về
những
chủ
đề
như
"không
thấy
bản
thân
đức
Phật"
| Mục lục | I
|
II
|
III
| IV
|
IVb
|
V
|
VI
|
VII
|
VIII
|
VIIIb
|
IX
|
IXb
|
X
|
XI
|
XII |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường