- LỊCH
SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- Từ khởi nguyên
đến thời Lý Nam Đế
-
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
- Học
Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Huế thực hiện
- Nhà
Xuất Bản Thuận Hóa Huế 1999
--o0o--
- Chương
X
- Sáu
lá
thư
và
cái
chết
của
Đàm
Hoàng
Cuộc
đời
Đàm
Hoằng
Tiên
sơn
và
chùa
Tiên
sơn
Tư
tưởng
tịnh
độ
Đàm
Hoằng
và
Quân
thiện
luận
Trong
khi
Đạo
Cao,
Pháp
Minh
và
Lý
Miễu
đang
viết
thư
hỏi
nhau
sao
không
thấy
Phật,
thì
tại
chùa
Tiên
Sơn
một
vụ
tự
thiêu
xảy
ra,
mà
tiếng
tăm
vang
lừng
đến
nỗi
sau
này
viết
Cao
Tăng
truyện
Huệ
Hạo
đã
phải
ghi
lại.
Vụ
tự
thiêu
đó
do
một
vị
sư
tên
Đàm
Hoàng
thực
hiện
vào
năm
455.
Trong
phần
trình
bày
sáu
lá
thư
ở
trên,
chúng
tôi
đã
nhận
định
là,
có
một
liên
hệ
nhất
định
nào
đấy
giữa
vụ
tự
thiêu
vừa
nói
và
cuộc
bàn
cãi
về
vấn
đề
không
thấy
chân
hình
Phâạt
đang
diễn
ra,
mặc
dù
các
ghi
chép
hiện
biết
về
vụ
tự
thiêu,
không
một
tài
liệu
đã
ám
chỉ
xa
gần
gì
hết
về
sự
có
mặt
của
một
liên
hệ
như
thế.
Có
thể
vụ
tự
thiêu
xảy
ra
với
những
thần
dị
của
nó,
đã
làm
cho
những
người
tham
dự
cuộc
bàn
cãi
chấm
dứt
sự
tra
hỏi
cuả
họ.
Cuộc
đời
Đàm
Hoằng
[^]
Cứ
Cao
Tăng
truyện
12
tờ
405c19-28,
cuộc
đời
và
vụ
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng
như
thế
này:
"Thích
Đàm
Hoằng,
người
Hoàng
Long,
nhỏ
tu
giới
hạnh,
chuyên
sành
luật
bộ.
Trong
khoảng
Tống
Vĩnh
sơ
(420-422)
nam
dư
Phiên
Ngung,
dừng
lại
ở
chùa
Đài,
sau
lại
đến
chùa
Tiên
Sơn
của
Giao
Chỉ,
tụng
Vô
lượng
thọ
và
Quán
kinh,
lòng
thề
về
An
dưỡng.
Vào
năm
HIếu
Kiến
thứ
2
(455),
nhóm
củi
trên
núi,
lén
vào
trong
củi
lấy
lửa
tự
thiêu.
Đệ
tử
đuổi
kịp,
ôm
giữ
đem
về,
thì
nửa
mình
đã
cháy,
trải
tháng
mới
bớt
chút
ít.
Sau
đó,
xóm
gần
có
hội,
cả
chùa
đều
phó
Hoằng
vào
ngày
ấy
lại
vào
hang
núi
tự
thiêu.
Dân
xóm
đuổi
tìm
thì
mạng
Hoằng
đã
dứt.
Do
đó
họ
chất
củi
thêm,
đốt
lửa
cháy
đến
ngày
hôm
sau
mới
tắt.
Ngày
hôm
đó,
dân
xóm
đều
thấy
Hoằng
thân
vàng
sắc
vàng,
cỡi
một
co
nai
vang,
đi
về
phía
tây
rất
nhanh,
không
nghỉ
hỏi
han.
Tăng
và
tục
mới
hiểu
sự
thần
dị,
cùng
lượm
xương
tro,
để
dựng
tháp
thờ".
Huệ
Hạo
(497-554)
viết
Cao
Tăng
truyện
vào
khoảng
năm
530,
như
vậy
cách
vụ
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng
80
năm.
Sử
liệu
Hạo
thu
thập
để
viết
chắc
phải
qua
trung
gian
những
báo
cáo
của
người
khác,
rất
có
thể
là
do
những
tác
phẩm
họ
viết
ra
như
Cảm
ứng
truyện
của
Vương
Diêm
Tú,
Trưng
ứng
truyện
của
Chu
Quân
Thai
v.v...
mà
Hạo
có
liệt
ra
trong
bài
tựa
của
mình
ở
Cao
Tăng
truyện
14
tờ
418b25-c10.
Dầu
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
ta
ngày
nay
không
thể
chắc
chắn
Hạo
đã
sử
dụng
một
nguồn
sử
liệu
nhất
định,
để
viết
nên
tiểu
sử
Đàm
Hoằng.
Tuy
nhiên,
nếu
so
với
một
tiểu
sử
khác
của
Hoăòng
viết
sau
Hạo
khoảng
500
năm,
ta
thấy
có
một
số
sai
khác
đáng
chú
ý.
Theo
Vãng
sanh
tịnh
độ
truyện
quyển
thượng
tờ
112a22-b7
do
Giới
Châu
viết
vào
những
năm
1068-1077,
thì
Đàm
Hoằng
đã
sống
và
đã
chết
như
sau:
"Thích
Đàm
Hoằng,
ngưòi
Hoàng
Long,
hoặc
nói
là
người
Cao
Bưu
của
Quảng
Lăng,
trong
khoảng
Tống
Vĩnh
sơ,
nam
du
Phiên
Ngung,
dừng
ở
chùa
Đài,
sau
đến
chùa
Tiên
Sơn
của
Giao
Chỉ.
Ngoài
việc
đèn
nhang,
hoàn
toàn
không
làm
việc
gì
khác,
chỉ
tụng
Vô
lượng
thọ
và
Quán
kinh,
không
biết
bao
nhiêu
lần.
Hoằng
mỗi
lần
niệm,
nói:
"MỌt
thân
muôn
nối,
niệm
chính
khó
giữ,
có
thể
nương
niệm
chính,
mới
sớm
thây
Di
Đà".
Do
đó,
ở
tại
sơn
am,
bèn
chất
củi
thành
đống,
một
hôm
lén
vào
trong
đống
củi,
miệng
tự
nói
rằng:
"Xin
bỏ
thân
này,
mau
gặp
kim
nhan,
không
còn
ở
trong
ba
cõi,
để
rơi
vào
các
hữu".
Nhân
thế,
bèn
phóng
lửa
đốt.
Đệ
tử
đuổi
kịp,
bồng
đem
về
chùa,
nhưng
nửa
người
đã
bị
đốt
cháy.
Chữa
qua
hơn
tháng,
những
nơi
bị
cháy
đã
bình
phục.
Sáng
hôm
sau,
xóm
làng
tổ
chức
hội
lớn,
cả
chùa
đều
đến,
Hoằng
vào
ngày
ấy,
lại
vào
trong
núi,
nhóm
củi
thiêu
mình.
Dân
làng
chạy
tới
cứu
thì
Hoằng
đã
mất.
Do
đó,
họ
chất
củi
thêm,
đốt
lửa,
cháy
đến
hôm
sau
mới
tắt.
Đệ
tử
thu
lấy
di
cốt,
được
xá
lỵ
vài
trăm,
đánh
vào
đá,
ánh
lửa
xẹt
ra,
rốt
cuộc
không
sứt
mẻ.
Ngày
hôm
sau,
họ
thấy
Hoằng
thân
vàng
sắc
vàng,
cỡi
một
con
nai
vàng
đi
về
phía
tây
rất
gấp.
Có
ai
hỏi
thì
không
đáp.
Có
hỏi
nữa
thì
Hoằng
chỉ
đưa
một
tay
chỉ
về
phía
Tây
mà
thôi.
Có
người
ép
đuổi
theo
thì
cách
nhau
càng
xa,
cuối
cùng
cũng
không
kịp".
Trong
bài
tựa
cho
Tịnh
độ
vãng
sanh
tập
ĐTK
2071
tờ
108c29-109a1.
Giới
Châu
cho
biết
ông
đã
tham
"khảo
truyện
từ
đời
Lương
Tùy
trở
xuống
như
của
Huệ
Hạo
và
Đạo
Tuyên
soạn,
gồm
có
12
nhà",
cộng
thêm
với
Tống
cao
tăng
truyện
của
Tán
Ninh,
để
viết
nên
tác
phẩm
mình.
Khi
viết
tiểu
sử
Đàm
Hoàng,
Châu
chắc
đã
có
dùng
đến
một
tài
liệu
khác,
ngoài
Cao
Tăng
truyện
cuả
Hạo,
bởi
vì
cũng
cách
hành
văn
với
những
mẫu
độc
thoại
của
Đàm
Hoằng
được
ghi
lại,
ta
biết
Hoằng
không
nhất
thiết
có
quê
quán
Hoàng
Long
ở
miền
Bắc
Trung
Quốc,
mà
có
thuyết
nói
Hoằng
gốc
người
Quảng
Lăng
ở
trong
tỉnh
Giang
Tô
ngày
nay.
Điều
đáng
tiếc
là,
Châu
không
ghi
lại
xuất
xứ
những
mẫu
tin
sai
khác
vừa
nêu.
Bây
giờ,
phối
hợp
hai
bản
tiểu
sử
trên,
ta
có
thể
biết
về
cuộc
đời
và
vụ
tự
thiêu
của
Đàm
Hoằng
thế
này.
Không
biết
sinh
vào
năm
nào,
Hoằng
gốc
người
Hoàng
Long,
tức
thuộc
tỉnh
Hà
Bắc
gần
thủ
đô
Bắc
Kinh.
Cũng
có
thuyết
nói
ông
gốc
người
Cao
Bưu
của
Quảng
Lăng
thuộc
tỉnh
Giang
Tô
hiện
tại.
Xuất
gia
từ
nhỏ,
ông
rất
sành
về
luật
học
Phật
giáo.
Có
thể
ông
là
một
trong
những
người
có
công
trong
việc
dựng
nên
truyền
thống
luật
học
nổi
tiếng
của
nước
ta,
mà
sau
này
đã
hiện
thân
trong
con
người
của
Đạo
Thiền.
Đến
khoảng
những
năm
420-422,
ông
đi
về
phương
nam,
đến
dừng
ở
lại
chùa
Đài
tại
Phiên
Ngưng.
Đây
có
lẽ
chỉ
là
một
trạm
nghỉ
chân
trên
con
đường
Hoằng
tìm
đến
tu
học
tại
nước
ta.
Sau
đó
ông
đến
chùa
Tiên
Sơn
ở
Giao
Chỉ.
Trong
Cao
Tăng
truyện,
Huệ
Hạo
đã
dùng
chữ
"văn".
Nhưng
Giới
Châu
đã
thay
vào
bằng
chữ
"hậu".
Do
thế,
chữ
văn
của
Hạo
không
có
nghĩa
lại
phải
đợi
đến
"tuổi
xế
chiều",
đến
"gần
cuối
đời"
mình,
Hoằng
mới
đến
Tiên
Sơn,
trái
lại,
chỉ
có
nghĩa
giống
như
chữ
hậu,
tức
là
sau
khi
đến
Phiên
Ngung
không
lâu,
Hoằng
lại
cất
bước
ra
đi.
Hoằng
đến
Tiên
Sơn
như
vậy
tất
phải
rơi
vào
khoảng
năm
425.
Tới
Tiên
Sơn,
Hoằng
chỉ
tập
trung
tụng
kinh
Vô
lượng
thọ
và
Thập
lục
quán
với
một
ước
mơ
duy
nhất
là
được
vãng
sanh
về
thế
giới
Cực
Lạc
ở
phương
Tây.
Vào
năm
455
ông
hai
lần
tự
thiêu.
Lần
thứ
nhất,
ông
lén
chất
củi
thành
đống
và
tự
thiêu,
nhưng
đệ
tử
Hoằng
phát
giác
kịp
và
bồng
trở
về,
khi
nửa
mình
Hoằng
đã
bị
cháy
sém.
Lần
thứ
hai,
khoảng
một
tháng
sau,
khi
làng
gần
chùa
có
hội,
cả
chùa
đều
phải
đi
dự,
Hoằng
lại
tự
thiêu.
Đến
lúc
phát
hiện
thì
Hoằng
đã
chết...
và
mọi
người
"thấy
Hoằng
thân
vàng
sắc
vàng,
cỡi
một
con
nai
vàng
đi
về
phía
Tây
rất
gấp,
không
dừng
lại
mà
hỏi
han
thăm
viếng",
họ
mới
biết
Hoằng
thần
dị.
Hành
trạng
Hoằng
là
như
thế
đấy.
Nó
có
ba
điểm
cần
nghiên
cứu
sâu
hơn,
để
cho
việc
tìm
hiểu
lịch
sử
Phật
giáo
Việt
Nam
thế
kỷ
thứ
V
được
đầy
đủ.
Điểm
thứ
nhất
liên
quan
với
ngôi
chùa
Tiên
Sơn
ở
Giao
Chỉ.
Tiên
Sơn
và
chùa
Tiên
Sơn
[^]
Tiên
sơn
là
tên
một
ngọn
núi
khá
quen
thuộc
của
lịch
sử
nước
ta.
Lưu
Chiếu,
người
đồng
thời
với
Huệ
Hạo,
đã
viết
phần
địa
lý
chỉ
trong
Hậu
hán
thư
33
tờ
13a9-b1,
đã
nói:
"Quận
Giao
Chỉ
có
12
thành.
Về
Long
Biên,
Giao
Châu
ký
nói:
Huyện
phía
Tây
tiếp
giáp
với
sông,
có
núi
Tiên
(Tiên
Sơn),
vài
trăm
dặm
có
ba
hồ,
có
hai
sông
Nguyên
và
Chu"
Nguyên
Hòa
quận
huyện
đồ
chí
38
tờ
12b9
do
Lý
Cát
Phủ
soạn
giữa
những
năm
813-815
cũng
xác
nhận
Tiên
Sơn
là
"cửa
tây
cuả
Long
Biên"
Sách
này
viết:
"Tiên
Sơn
ở
phía
đông
bắc
huyện
(Bình
Đạo)
khoảng
13
dặm,
cách
đồi
Ẩn
khoảng
vài
trăm
dặm,
là
cửa
tây
của
Long
Biên
vậy".
Điều
đáng
ngạc
nhiên
là,
Phủ
lại
xếp
Tiên
Sơn
là
loại
những
danh
sơn
của
huyện
Bình
Đạo,
chứ
không
phải
của
huyện
Long
Biên.
Sự
kiện
nay
đã
dẫn
Nhạc
Sử
đến
chỗ
cũng
liệt
Tiên
Sơn
thuộc
huyện
Bình
Đạo
như
Thái
bình
hoàn
vũ
ký
170
tờ
9b9
đã
ghi.
Thế
thì
huyện
Bình
Đạo
ở
đâu?
Theo
Hồng
Lượng
Cát
trong
Tam
quốc
cương
vức
chí
quyển
hạ
tờ
33a6-33b2
thì
cái
tên
Bình
đạo
xuất
hiện
lần
đầu
tiên
vào
năm
271,
khi
Tôn
Hạo
đánh
bại
được
cuộc
khởi
nghĩa
Phù
Nghiêm.
Chúng
đặt
ra
quận
Vũ
Bình
gồm
tám
huyện,
đó
là
Vũ
Bình,
Phong
Cốc,
Bình
Đạo,
Vũ
Hùng,
Tân
Sơn,
Cam
Ninh,
An
Vũ
và
Phù
An.
Qua
đến
nhà
Tấn,
Địa
lý
chí
của
Tấn
thư
15
tờ
8b13-9a2
còn
giữ
quận
Vũ
Bình,
nhưng
chỉ
gồm
có
bảy
huyện.
Năm
huyện
sau
của
nó
thì
đồng
nhất
với
năm
huyện
của
nhà
Ngô.
Còn
hai
huyện
Vũ
Ninh
và
Phong
Khê
thì
tương
đương
với
ba
huyện
Vũ
Bình,
Phong
Cốc
và
Bình
Đạo
tới
nhà
Lưu
Tống,
quận
Vũ
Bình
chỉ
còn
lại
có
ba
huyện,
đó
là
Ngô
Định,
Tân
Đạo
và
Tấn
Hóa,
như
Tống
thư
38
tờ
40a3-41b4
ghi
lại.
Bước
sang
đời
Tề,
châu
quận
chí
cuả
Nam
Tề
thư
14
tờ
13b1-2
chép
quận
Vũ
Bình
có
sáu
huyện,
tức
Vũ
Địh,
Phong
Khê,
Bình
Đạo,
Vũ
Hưng,
Căn
Ninh
và
Nam
Di.
Nhà
Lương
theo
Độc
sử
phương
dư
kỷ
yếu
112
tờ
6a5-7b7
chia
nước
ta
làm
8
châu,
trong
đó
Giao
Châu
có
ba
quận
là
Giao
Chỉ,
Tống
Bình
và
Vũ
Bình
và
Vũ
Bình
lại
có
6
huyện
như
đời
Tề.
Đời
Trần
không
ghi
rõ
châu
quận
của
nó.
Nhưng
Địa
lý
chí
của
Tùy
thư
31
tờ
7b7-9
nhà
Tuỳ
chép
quận
Giao
Chỉ
có
chín
huyện
trong
ấy
có
huyện
Bình
Đạo,
mà
nó
viết:
"Cũ
gọi
là
Quốc
Xương,
năm
Khai
Hoàng
thứ
12
(600)
đổi
tên
ấy".
Huyện
Bình
Đạo
ấy
đến
đời
Đường
vẫn
thuộc
Giao
Châu.
Nguyên
hòa
quận
huyện
đồ
chí
38
tờ
12b4-9
viết"
"Huyện
Bình
Đạo
ở
phía
tây
bắc
cách
phủ
(Giao
Châu)
50
dặm,
vốn
đất
bọn
mọi
Phù
Nghiêm,
thời
Ngô
mở
ra
quận
Vũ
Bình,
lập
huyện
Bình
Đạo
thuộc
vào
nó.
Tiên
Sơn
ở
phía
Đông
Bắc
của
huyện,
cách
đổi
Ẩn
vài
trăm
dặm,
làm
cửa
tây
của
Long
Biên".
Phủ
trị
của
Giao
Châu
thời
Đường
ở
vào
phía
Tây
Bắc
của
Hà
Nội,
huyện
Bình
Đạo
tất
rơi
vào
tỉnh
Vĩnh
Phú
ngày
nay.
Điều
này,
Cựu
Đường
thư
41
tờ
43a2-8
chứng
thực,
bởi
vì
theo
nó
thì
chính
tại
huyện
Bình
Đạo
có
di
tích
thanh
"chín
vòng"
của
An
Dương
Vương,
tức
thành
Cổ
Loa
và
địa
phận
Cổ
Loa
phía
tây
bắc
Hà
Nội.
Nó
viết:
"Bình
Đạo
là
đất
huyện
Phong
Khê
đời
Hán,
đến
thời
Nam
Tề
đặt
huyện
Xương
Quốc.
Nam
Việt
chí
nói:
Đất
Giao
Chỉ
rất
mầu
mỡ,
xưa
có
quan
trường
gọi
là
Hùng
Vương,
kẻ
phò
tá
gọi
Hùng
hầu.
Sau
vua
Thục
đem
ba
vạn
lính
đánh
Hùng
Vương
diệt
được,
cho
con
mình
là
An
Dương
Vương
cai
trị
Giao
Chỉ.
Đất
nước
nó
nay
tại
phía
Đông
huyện
Bình
Đạo.
Thành
chín
vòng,
chu
vi
chín
dặm.
Dân
chúng
và
sĩ
phu
đều
làm
phên
dậ.
Uý
Đà
ở
Phiên
Ngung
sai
đem
binh
đánh.
Vua
có
nỏ
thần
mỗi
lần
bắn
giết
quân
Việt
một
vạn
người.
Triệu
Đà
xin
hòa,
cho
con
mình
là
Tử
Thỉ
đi
làm
con
tin.
An
Dương
Vương
đem
Mỵ
Châu
gả
cho.
Tử
Thi
được
nỏ
huỷ
đi.
Quân
Việt
đến,
bèn
giết
An
Dương
Vương,
tóm
thâu
đất
đai.
Vũ
Đức
năm
thứ
tư
(621)
đặt
Đạo
Châu
ở
huyện
gồm
ba
huyện
Bình
Đạo,
Xương
Quốc
và
Vũ
Bình.
Năm
thứ
sáu
(623)
cải
làm
Nam
Đạo
châu,
lại
cải
làm
Tiên
Châu.
Năm
Trinh
quán
thứ
10
(637)
bỏ
Tiên
Châu,
đem
Xương
Quốc
nhập
vớiBình
Đạo
thuộc
Giao
Châu".
Tân
Đường
thư
43
thượng
tờ
9b13-10a1
chỉ
thêm
một
chi
tiết
là,
Nam
Đạo
châu
đổi
làm
Tiên
Châu
cũng
vào
năm
623.
Những
gì
Cựu
Đường
thư
viết
về
Binh
Đạo,
sau
này
Nhạc
Sử
cho
chép
lại
y
nguyên
trong
Thái
Bình
hoàn
vũ
ký
177
tờ
9a9-b9
với
hai
thêm
thắt
đáng
chú
ý.
Thứ
nhất,
về
phương
hướng,
nó
ghi:
"Huyện
Bình
Đạo,
đông
năm
60
dặm
4
hướng".
Phải
chăng
Bình
Đạo
ở
phía
đông
nam
của
tri
phủ
Giao
Châu?
Đương
nhiên
là
không,
bởi
Nguyên
hòa
quận
huyện
đồ
chí
ghi
nó
ở
phía
tây
bắc
và
những
dữ
kiện
khác
chứng
thực
hướng
đó.
Vậy
"đông
năm
60
dặm"
chắc
chắn
có
nghĩa
trị
phủ
Giao
Châu
ở
phía
đông
nam
và
cách
nó
60
dặm,
một
điều
khá
tự
nhiên.
Thứ
hai,
về
Tiên
Sơn,
nó
viết:
"Các
vị
già
cả
nói:
xưa
có
ngưòi
vào
trong
núi
đó
chặt
cây,
gặp
người
tiên
ở
dưới
cây
quỉ
mục
(?)
đánh
cờ,
gốc
cây
chằng
chịt
hiện
đang
còn".
Chi
tiết
thứ
hai
này,
cộng
với
việc
Nguyên
hòa
quận
huyện
đồ
chí
bảo
Tiên
Sơn
là
cửa
tây
của
Long
Biên,
giúp
ta
xác
định
Tiên
Sơn,
hay
núi
Tiên,
tất
phải
thuộc
vào
một
trong
những
ngọn
núi
của
tỉnh
Bắc
Ninh
cũ.
Khảo
cứu
các
sách
sử
nước
ta
thì
truyền
thuyết
do
Nhạc
sử
ghi
lại
về
việc
người
gặp
Tiên
tại
Tiên
Sơn
càng
xác
định
rõ
hơn
ngọn
núi
nào
ở
Bắc
Ninh
phải
là
Tiên
Sơn.
Phần
dư
địa
chi
trong
Lịch
triều
hiến
chương
loại
chí
3
tờ
2a6-7
viết:
"Phật
tích
ở
tại
huyện
Tiên
Du,
cũng
gọi
là
núi
Tiên
Du.
Xưa
có
khách
hái
củi
Vương
Chất
vào
gặp
hai
ông
lão
đánh
cờ
ở
dưới
cây
tùng,
bèn
dựa
búa
mà
xem,
đến
khi
ván
cờ
hết,
ngó
trở
lại
thì
không
ngờ
là
cán
búa
đã
bị
mục,
nên
lại
có
tên
xóm
Lạn
Kha".
Mục
Sơn
xuyên
của
tỉnh
Bắc
Ninh
trong
Đại
Nam
nhất
thống
chí
38
mô
6ả
chi
tiết
hơn
ngọn
núi
Phật
tích
này:
"Núi
Lạn
Kha
ở
phía
nam
huyện
Tiên
Du
4
dặm,
trên
núi
ó
ao
Thú
Long.
Đỉnh
núi
Thạch
Thất
có
bàn
cờ
đá.
Tương
truyền
khách
hái
củi
Vương
Chất
vao
núi
gặp
hai
ông
lão
đánh
cờ
dưới
cây
tùng,
bèn
chống
búa
đứng
xem,
khi
tan
ván
cờ,
không
hay
cán
búa
đã
mục.
Nên
dưới
núi
có
sông
Vạn
Phúc,
cảnh
trí
u
nhã,
tương
truyền
là
tạo
ra
đời
Lý.
Sử
ký
chép
Triệu
Đà
đóng
quân
ở
núi
Tiên
Du,
cùng
đánh
với
An
Dương
Vương,
tức
đất
này,
Truyền
kỳ
lục
chép
Từ
Thức
cởi
áo
cho
tiên
nữ,
tức
cũng
tại
núi
này.
Cũng
có
tên
là
Tiên
Du
Vũ
Sơn.
Xét
Lễ
minh
chí
thì
núi
Tiên
Du
là
một
trong
21
ngọn
núi
nổi
tiếng
của
An
Nam.
Năm
Hồng
Vũ
thứ
nhất
(1368)
xuống
chiếu
cùng
hiệp
tế
ở
giao
đàn
với
sông
núi
của
Trung
Quốc.
Năm
thứ
3
(1370)
sai
sứ
sang
xem
và
khiến
vẽ
hình
thế
nó
cùng
các
núi
Vũ
Ninh,
Phổ
lại
và
Vạn
Kiếp
đem
về.
An
nam
chí
của
Cao
Hùng
Trưng
nói:
Vua
Trần
sáng
lập
thư
viện
Lan
Kha,
cho
danh
nho
Trần
Tôn
làm
sơn
trưởng,
dạy
dỗ
học
trò.
Vào
tiết
Trùng
dương,
vua
thường
hay
thăm
viếng.
Cách
vài
dặm
về
phía
tây
có
chùa
Vĩnh
Phúc,
lại
cách
vài
dặm
có
am
Nguyệt
Thường.
Góc
bắc
của
núi
có
chùa
Kim
Ngưu,
tức
là
nơi
Cao
Biền
đào
giếng
thấy
có
con
trâu
vàng
chạy
ra,
đá
nó
sắc
đỏ
như
vàng,
ban
đêm
có
ánh
sáng
nên
gọi
núi
Kim
Ngưu".
Vậy
thì
truyền
thuyết
người
gặp
tiên
do
Nhạc
Sử
ghi
lại
cho
Tiên
Sơn
là
rất
phù
hợp
với
truyền
thuyết
về
núi
Phật
tích
hay
Lạn
Kha
tại
làng
Phật
tích
huyện
Tiên
Du
tỉnh
Bắc
Ninh.
Trong
tất
cả
các
núi
non
nước
ta,
chỉ
ngọn
núi
này
là
có
một
truyền
thuyết
như
thế.
Do
đó,
Tiên
Sơn
của
huyện
Bình
Đạo
thời
Đường
tất
phải
là
núi
Phật
Tích
tại
Tiên
Du,
Bắc
Ninh.
Về
Tiên
Sơn
của
Giao
Chỉ
thời
Lưu
Tống
cũng
phải
chỉ
ngọn
núi
ấy.
Cao
Tăng
truyện
bảo
Đàm
Hoằng
đến
ở
tại
chùa
Tiên
Sơn
của
Giao
Chỉ,
chắc
hẳn
phải
chỉ
một
ngôi
chùa
tại
núi
Lan
Kha
đấy.
Núi
Lan
Kha
như
vậy
là
một
trung
tâm
Phật
giáo
xưa
nhất
tại
nước
ta
được
biết
một
cách
đích
xác
qua
những
sử
liệu
có
tính
cổ
sơ
đáng
muốn.
Tuy
nhiên,
phần
Dư
địa
chí
của
Lịch
triều
hiến
chương
loại
chí
2
tờ
30b5-6
lại
có
một
ngọn
núi
tên
Tiên
Sơn
ở
tại
huyện
Hoài
An
của
trấn
Sơn
Nam.
Nó
viết:
"Tiên
Sơn
ở
bên
ngoài
núi
Hinh
Bồng,
phía
nam
ngõ
xuống
Trường
Giang,
đá
như
bình
phong,
cây
như
tàn
lọng,
cảnh
trí
thạnh
u.
Tỉnh
vương
tuần
du
phương
nam,
lên
đỉnh
núi
làm
lễ
đốt
củi
tế
trời".
Mục
sơn
xuyên
của
tỉnh
Hà
Nội
trong
Đại
Nam
nhất
thống
chí
cũng
có
ghi
"Tiên
Sơn
ở
phía
nam
huyện
Hoài
An
11
dặm,
ngó
xuống
Trường
Giang,
đã
như
bình
phong
bày
hiện,
cảnh
trí
xanh
um".
Bắc
thành
địadư
chí
lục
không
có
chép
ngọn
núi
ấy.
Bây
giờ,
cứ
những
dẫn
chứng
vừa
thấy,
thì
Tiên
sơn
ở
gần
núi
Hinh
Bồng.
Mà
Hinh
Bồng
theo
Lịch
triều
hiến
chương
loại
chí
2
tờ
30b3
lại
"Ở
ngoại
núi
Hưong
Tích",
và
theo
Đại
nam
nhất
thống
chí
thì
"ở
bên
cạnh
núi
Hương
Tích"
(Hương
Tích
sơn
chi
bàng).
Núi
Hương
Tích
với
ngôi
chùa
Hương
nổi
tiếng
ở
tại
làng
Yến
Vĩ
huyện
Hoài
An
tỉnh
Hà
Nội
đời
Nguyễn,
tức
nay
thuộc
địa
phận
tỉnh
Hà
Tây.
Vậy
Tiên
Sơn
tại
Hà
Tây
này
có
phải
là
Tiên
Sơn
của
Giao
Chỉ
xưa
không?
Trả
lời
câu
hỏi
này,
chúng
ta
hiện
không
có
một
tư
liệu
nào
giúp
xác
định
cái
tên
Tiên
Sơn
tại
huyện
Hoài
An
ấy
xuất
hiện
từ
bao
giờ
và
có
một
truyền
thuyết
gì
liên
kết
với
nó.
Do
thế,
xu
thế
tư
liệu
chung
không
cho
phép
ta
đồng
nhất
Tiên
Sơn
tại
huyện
Hoài
An
với
Tiên
Sơn
của
sử
sách
Trung
Hoa
nhắc
tới.
Dù
vậy,
chúng
tôi
vẫn
ghi
lại
đây
sự
có
mặt
của
cái
tên
Tiên
Sơn,
để
làm
tài
liệu
tra
khảo
thêm
trong
tương
lai.
Với
sự
đồng
nhất
trên,
Đàm
Hoằng
khi
đến
nước
ta
vào
khoảng
năm
425,
đã
đến
sống
tại
một
ngôi
chùa
tại
núi
Lan
Kha
tỉnh
Bắc
Ninh.
Nói
vậy,
tất
nhiên
giả
thiết
rằng
chùa
Tiên
Sơn
có
nghĩa
là
chùa
ở
tại
Tiên
Sơn,
và
Tiên
Sơn
là
một
địa
danh.
Vì
Tiên
Sơn
có
ngôi
chùa,
nên
gọi
là
chùa
Tiên
Sơn.
Giả
thiết
này
tỏ
ra
tương
đối
dễ
chấp
nhận,
bởi
vì
các
ngôi
chùa
Phật
giáo
tại
Trung
Quốc
cũng
như
nước
ta
vào
những
thế
kỷ
đầu
công
nguyên
đều
thường
lấy
tên
đất
đặt
tên
chùa.
Một
kiểm
soát
Cao
Tăng
truyện
5
tờ
351c15
và
352b5,
7
tờ
370b8,
9
tờ
389b17
v.v...
đã
cho
những
tên
như
chùa
Nghiệp
Trung,
chùa
Đan
Khê,
chùa
Hoài
Nam
Trung,
chùa
Lạc
Dương,
đại
thị,
chùa
Bái
huyện
Trung
v.v...
Cho
nên,
dùng
địa
danh
để
đặt
tên
chùa
là
một
tập
quán
phổ
biến
của
Phật
giáo
Viễn
đông
vào
thời
mới
du
nhập.
Chùa
Tiên
Sơn
do
thế
phải
hiểu
là
chùa
tại
núi
Tiên.
Bây
giờ,
ta
đã
đồng
nhất
Tiên
Sơn
với
núi
Lạn
Kha
rồi,
thì
Hoằng
đến
nước
ta
tất
phải
đến
ngọn
núi
Lạn
Kha
với
ngôi
chùa
nổi
tiếng
của
nó.
Như
sẽ
thấy
chính
ngôi
chùa
ở
ngọn
núi
ấy,
mà
Huệ
Thắng
và
Đạo
Thiền
đã
được
giáo
dục
và
tu
dưỡng,
trở
thành
những
người
nổi
tiếng
đến
nỗi
những
nhà
trí
thức
Trung
Quốc
như
Lưu
Hội
nghe
tiếng
đã
phải
đến
mời
sang
Trung
Quốc
dạy,
hay
đã
bị
chính
quyền
chiếm
đóng
Trung
Quốc
bắt
gởi
về
Kiến
Nghiệp.
Đàm
Hoằng
tự
thiêu
năm
455
vào
lúc
Huệ
Thắng
khoảng
trên
dưới
10
tuổi.
Thế
thì,
ngôi
chùa
tại
Tiên
Sơn
trước
đó
chắc
chắn
đã
phải
lừng
danh
là
một
trung
tâm
lớn
của
Phật
giáo
tại
nước
ta,
một
trung
tâm
lớn
đến
nỗi
Đàm
Hoằng
tại
miền
Bắc
Trung
Quốc
đã
nghe
tiếng
để
tìm
đến
tu
học.
Sự
thực,
trung
tâm
nay
vào
thời
Huệ
Thắng
đã
có
dịp
đón
nhận
một
vị
sư
nước
ngoài
tên
Dharmadeva
ở
lại
nhằm
dạy
phép
thiền
cho
đồ
chúng,
trong
đó
có
cả
Huệ
Thắng.
Xung
quanh
trung
tâm
này
là
những
xóm
làng
Phật
giáo.
Những
xóm
làng
này
tương
đối
trù
phú,
để
có
thể
tổ
chức
đại
hội
và
mời
hết
cả
chùa
tới
dự.
Đây
là
những
điểm
chỉ
đầu
tiên
về
sự
thâm
nhập
khá
sâu
đậm
của
Phật
giáo
vào
nhân
gian
Việt
Nam.
Giữa
chùa
và
xóm
làng
hình
như
có
một
sợi
dây
kết
thân
gắn
bó
rất
mực
với
nhau.Nên
khi
nghe
Đàm
Hoằng
tự
thiêu,
không
phải
chỉ
các
nhà
tu
hành,
mà
hết
cả
dân
làng
đều
chạy
đi
tìm
cứu,
một
hình
ảnh
thực
rất
đẹp
về
tính
đại
chúng
cuả
nền
Phật
giáo
thời
bấy
giờ.
Tư
tưởng
Tịnh
độ
[^]
Vậy
khi
đến
chùa
Tiên
Sơn,
Đàm
Hoằng
làm
gì?
Cả
Cao
Tăng
truyện
lẫn
Tịnh
độ
vãng
sinh
truyện
đều
nhất
trí
nói
Đàm
Hoằng
chuyên
tụng
kinh
Vô
lượng
thọ
và
Thập
lục
quán,
quyết
chí
thề
về
thế
giới
An
dưỡng
của
Phật
A
Di
Đà.
Đây
là
điểm
thứ
hai
ta
cần
bàn
đến
thấy
tình
trạng
học
lý
và
trí
thức
của
một
mặt
trung
tâm
Phật
giáo
Tiên
Sơn,
và
mặt
khác
cuả
nền
Phật
giáo
đương
thời.
Kinh
Vô
lượng
thọ
(Sukhàvati-vyùha-sùtra)
cũng
gọi
là
Đại
Vô
lượng
thọ
kinh
hay
Song
quyển
Vô
lượng
thọ
kinh
hiện
còn
trong
bản
in
Đại
tạng
kinh
ĐTK
360
do
Khương
Tăng
Khải
dịch
vào
khoảng
những
năm
252.
Nhưng
căn
cứ
nội
dung
của
cuốn
kinh
này
và
những
báo
cáo
cuả
các
kinh
lục,
thì
vào
thời
Đàm
Hoằng
đã
có
cả
thảy
tối
thiểu
10
lần
dịch
khác
nhau.
Hai
bản
dịch
đầu
tiên
là
của
An
Thế
Cao
với
tên
Vô
lượng
thọ
kinh
2
quyển,
và
của
Chi
Lâu
Ca
Sấm
với
tên
Vô
lượng
thanh
tịnh
bình
đẳng
giác
kinh
4
quyển.
Bản
của
An
Thế
Cao
ngày
nay
đã
mất,
những
bản
của
Chi
Lâu
Ca
Sấm
tì
đang
còn
trong
Đại
tạng
kinh
ĐTK
361.
Vì
hai
bản
dịch
này
không
được
ghi
lại
trong
Xuất
tam
tạng
ký
tập
và
lần
đầu
tiên
được
kể
tới
trong
Lịch
đại
tạm
bảo
ký
4,
nên
có
người
nghi
ngờ
là
không
phải
của
An
Thế
Cao
và
Chi
Lâu
Ca
Sấm.
Điểm
quan
trọng
đối
với
chúng
ta
là,
chúng
có
lưu
hành
vào
thời
Đàm
Hoằng
chưa?
Phí
Trường
Phòng
viết
Lịch
Đại
tam
ký
vào
năm
597.
Như
vậy,
rất
có
thể
hai
bản
trên,
nhất
là
bản
dịch
của
An
Thế
Cao
với
tên
Vô
lượng
thọ
kinh,
rất
có
thể
lưu
hành
vào
thời
Hoằng.
Bản
dịch
thứ
ba
do
Chi
Khiêm
thực
hiện
giữa
những
năm
222-257
với
tên
Phật
thuyết
A
di
đà
tam
da
tam
Phật
tát
lâu
Phật
đàn
quá
độ
nhân
đạo
kinh
2
quyển.
Bản
này
hiện
còn
ở
bản
in
Đại
chính
của
Đại
tạng
kinh
ĐTK
262.
Vì
tất
cả
các
kinh
lục
gồm
luôn
Tổng
lý
chúng
kinh
mục
lục
của
Đạo
An
trong
Xuất
tam
tạng
ký
tập
2
tờ
6c27
có
ghi
là
do
Khiêm
dịch,
và
vì
lời
văn
cổ
kính
của
nó,
nó
được
thừa
nhận
là
cuả
Khiêm
dịch.
Sáu
bản
dịch
tiếp
theo
ngày
nay
đã
mất,
đó
là
Vô
lượng
thanh
tịnh
bình
đẳng
giác
kinh
2
quyển
của
Bạch
Diên
thời
Tào
Ngụy,
Vô
lượng
thọ
kinh
2
quyển
của
Trúc
Pháp
Hộ,
Vô
lượng
thọ
chí
chân
đẳng
chính
giác
kinh
1
quyển
của
Trúc
Pháp
Lực
đời
Đông
Tấn,
Tân
Vô
Lượng
thọ
kinh
2
quyển
của
Phật
Đà
Bạt
Đà
La,
Vô
lượng
thọ
kinh
1
quyển
của
Cưu
Ma
La
Thập,
Tân
vô
lượng
thọ
kinh
2
quyển
của
Đàm
Ba
La
Mật
cả
hai
người
sau
này
là
đồng
đại
của
Đàm
Hoằng.
Trong
số
những
bản
dịch
kinh
Vô
lượng
thọ
bị
mât
này,
Đàm
Hoằng
có
dùng
bản
nào
không,
chúng
ta
ngày
nay
không
thể
nào
xác
quyết
được.
Nhưng
cứ
vào
việc
Hoằng
sử
dụng
bản
dịch.
Thập
lục
quán
kinh
của
Kàlayásas
dưới
đây,
ta
có
thể
giả
thiết
Hoằng
dùng
những
bản
dịch
đồng
thời
với
ông,
nhất
là
bản
dịch
của
Bảo
Vân
thực
hiện
vào
năm
421.
Tuy
nhiên,
nếu
căn
cứ
vào
những
trích
dẫn
của
sáu
lá
thư
thì
Hoằng
cũng
có
thể
dùng
bản
dịch
cuả
Kumarajiva,
nếu
không
là
của
Chi
Khiêm.
Dầu
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
vào
thế
kỷ
thứ
năm,
bản
kinh
Vô
lượng
thọ
đã
liên
lạc
được
ngưòi
này
đến
người
khác
dịch,
chắc
chắn
để
đáp
ứng
đòi
hỏi
của
Phật
từ
thời
đó.
Chỉ
cần
nhìn
vào
tiến
dọ
dịch
kinh
đây,
ta
có
thể
thấy
một
phần
nào
xu
thế
và
yêu
cầu
tín
ngưỡng
của
thời
đại,
một
xu
thế
rất
mạnh
mẽ
và
một
yêu
cầu
rất
bức
thiết
đối
với
tín
ngưỡng
Tịnh
độ.
Với
cái
nhìn
này,
ta
sẽ
hiểu
tại
sao
vấn
đề
phê
phán
tư
tưởng
Tịnh
độ
đã
xảy
ra,
và
vấn
đề
tại
sao
không
thấy
Phật
đã
được
nêu
lên.
Dù
sử
dụng
bản
dịch
nào
đi
nữa,
thì
nội
dung
kinh
Vô
lượng
thọ
vẫn
là
kể
lại
sự
tích
Phật
A
Di
Đà
cùng
48
lời
nguyện
cuả
Ngài
với
thế
giới
Tịnh
độ
trong
sạch
trang
nghiêm
của
cung
điện
vàng
ngọc,
cây
báu
ao
báu
Phật
ấy
mà
niệm
Phật,
đừng
có
nghi
ngờ.
Trong
48
lời
nguyện
ấy,
có
lời
nguyện
rằng
tất
cả
chúng
sinh,
nếu
ai
niệm
Phật
A
Di
Đà
thì
sẽ
được
đức
Phật
ấy
tiếp
dẫn
đưa
về
thế
giới
Tịnh
độ
đẹp
đẽ
khi
lâm
chung,
ở
đó
họ
vĩnh
viễn
sẽ
không
bao
giờ
bị
đau
khổ
sinh
tử
nữa,
họ
gặp
được
Phật
A
Di
Đà,
nghe
Phật
dạy
dỗ
và
đợi
ngày
thành
Phật.
Tư
tưởng
và
tín
ngưỡng
Tịnh
độ
chủ
yếu
là
thế,
như
nó
xuất
hiện
trong
kinh
Vô
lượng
thọ,
mà
ta
biết
ngày
nay.
Về
kinh
Thập
lục
quán
hay
Quán
kinh,
gọi
cho
đủ
là
Quán
Vô
lượng
thọ
kinh
(Amitàyur-buddha-dhyàna
(?)
-
sùtra),
cũng
gọi
Vô
lượng
thọ
Phật
quán
kinh.
Bản
dịch
duy
nhất
và
hiện
còn
trong
bản
in
Đại
chính
của
Đại
tạng
kinh
ĐTK
365
là
do
Cương
Lương
Da
Xá
(Kàlayásas)
thực
hiện
giữa
những
năm
424-442
tại
tinh
xá
Đạo
Lâm
ở
Chung
Sơn.
Tiểu
sử
cuả
Kàlayásas
tron
Cao
Tăng
truyện
3
tờ
343c11-23
nói
ông
"gồm
rõ
tam
tạng
nhưng
lấy
phép
thiền
làm
chuyên
nghiệp,
mỗi
một
lần
đi
vào
thiền
quán
có
khi
bảy
ngày
không
đứng
dậy".
Kinh
Thập
lục
quán
là
một
bản
kinh
trình
bày
quan
điểm
"tất
cả
chúng
sanh
quán
vào
thế
giới
cực
lạc
ở
Phương
Tây,
thì
nhờ
sức
Phật,
mà
được
thấy
cõi
nước
trong
sạch
kia".
Thế
thì
quán
bằng
cách
nào?
Theo
nó
"chúng
sanh
phải
nên
chuyên
tâm
cột
niệm
vào
một
chỗ,
mà
tưởng
đến
Tây
Phương".
Tưởng
làm
sao?
"Tất
cả
chúng
sanh,
trừ
phi
tự
mình
sinh
ra
đã
mù,
tất
có
mắt,
đều
thấy
mặt
trời
lặn,
nên
dấy
lên
cái
niềm
tưởng,
ngồi
thẳng
hướng
về
phương
Tây
xem
kỹ
chỗ
mặt
trời
muốn
lặn,
khiến
lòng
kiện
trú,
chuyên
tưởng
không
đổi,
thấy
mặt
trời
muốn
lặn,
hình
giống
như
cái
trống
treo,
đã
thấy
mặt
trời
rồi,
nhắm
mắt,
mở
mắt,
đều
khiến
rõ
ràng,
đó
là
tướng
mặt
trời,
gọi
là
quán
thứ
nhất".
Ấy
là
quán
đầu
trong
16
quán.
Những
quán
tiếp
theo,
cứ
thứ
tự,
là
quán
nước,
quán
đất,
quán
cây
báu,
quán
ao
báu,
quán
lâu
đài
báu,
quán
tòa
hoa,
quán
tượng,
quán
Phật
A
di
Đà,
quán
Quan
Thế
Âm,
quán
Đại
Thế
Chí,
quán
khắp,
quán
tạp
tưởng,
quán
tưởng
thượng
bối
sanh,
quán
tưởng
trong
bối
sanh
và
quán
tưởng
hạ
bối
sanh.
Đó
tức
16
quán.
Rõ
ràng
với
16
phép
quán
vừa
kể,
kinh
Thập
lục
quán
đúng
là
một
bản
kinh
mô
tả
phương
pháp
thực
hành
niệm
Phật,
mô
tả
cách
thức
để
làm
sao
những
gì
nói
trong
kinh
Vô
lượng
thọ
trở
thành
hiện
thực,
để
làm
cho
việc
thấy
Phật
trở
nên
một
kinh
nghiệm
sống.
Những
vị
tổ
sư
của
trường
phái
Tịnh
độ
Trung
Quốc
như
Thiện
Đạo
đã
coi
đó
là
phương
pháp
niệm
Phật
tam
muội,
một
phương
pháp
thiền
định
theo
lối
niệm
Phật.
Trong
số
16
quán
ấy,
quán
Phật
A
Di
Đà
dĩ
nhiên
là
quan
trọng
nhât,
và
từ
đó
mà
cuốn
kinh
có
tên
Quán
Vô
lượng
thọ
Phật
kinh.
Nó
xác
định:
"Ánh
sáng,
tướng
hào
cuả
Phật
Vô
lượng
thọ
cùng
hóa
thân
của
Ngài
là
không
thể
nói
hết,
chỉ
nên
nhớ
tưởng,
khiến
cho
con
mắt
lòng
thấy.
Người
thấy
việc
đó
tức
thấy
tất
cả
các
đức
Phật
trong
mười
niệm
Phật
tam
muội".
Niệm
Phật
tam
muội
như
vậy
cũng
giống
như
ban
chu
tam
muội,
là
nhằm
để
thấy
Phật
một
cách
cụ
thể
và
cá
nhân.
Nhưng
nếu
phương
pháp
ban
chu
tam
muội
không
trình
bày
rõ
ràng
những
bước
tiến
tuần
tự
của
quá
trình
thực
hành
để
thấy
Phật,
thì
phương
pháp
niệm
Phật
tam
muội
của
kinh
Quán
vô
lượng
thọ
Phật
ghi
cho
ta
rõ
rệt
từng
nước
bước
của
cái
quá
trình
âý
từ
thấp
đến
cao.
Đàm
Hoằng
và
những
người
đệ
tử
của
ông
tại
chùa
Tiên
Sơn
vào
thế
kỷ
thứ
V
đang
mãnh
liệt
tin
tưởng
vào
mục
đích
Tịnh
độ
do
kinh
Vô
lượng
thọ
nêu
ra
và
nghiêm
túc
thực
hành
phương
pháp
niệm
Phật
tam
muội
do
kinh
Thập
lục
quán
đề
xuất.
Tiểu
sử
của
Hoằng
trong
Cao
Tăng
truyện
chỉ
nói
khi
Hoằg
"đến
chùa
Tiên
Sơn
của
Giao
Chỉ,
tụng
kinh
Vô
lượng
thọ
và
Thập
lục
quán".
Nhưng
tịnh
độ
vãng
sanh
truyện
nói
rất
rõ
là,
Hoằng
"không
làm
một
việc
gì
khác"
mà
chỉ
tụng
hai
kinh
ấy
thôi.
Nói
khác
đi,
Hoằng
đã
tập
trung
thực
hành
phương
pháp
niệm
Phật
tam
muội.
Với
cách
thực
hành
phải
là
một
cái
gì
thiêng
liêng
không
thể
tra
hỏi
xúc
phạm
được.
Đàm
Hoằng
và
Quán
Thiện
Luận
[^]
Nhưng
với
sự
xuất
hiện
của
Quân
thiện
luận,
và
nhất
là
sự
có
mặt
của
Huệ
Lâm
tại
nước
ta,
gây
nên
cuộc
bàn
cãi
về
việc
không
thấy
Phật
giũa
Lý
Miễu,
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh,
niềm
tin
tưởng
thiêng
liêng
và
phương
pháp
hiện
thực
về
Phật
A
Di
Đà
của
Đàm
Hoằng
không
thể
nào
mà
không
bị
tra
hỏi
xúc
phạm.
Và
đây
là
điểm
thứ
ba
ta
cần
tìm
hiểu.
Ta
muốn
tìm
hiểu
xem
cuộc
bàn
cãi
trong
sáu
lá
thư
có
một
liên
quan
gì
đến
niềm
tin
của
Hoằng
không?
Nó
có
gây
ra
những
xúc
phạm
trầm
trọng
đến
nỗi
Đàm
Hoằng
phải
tự
thiêu?
Tự
thiêu
phải
chăng
là
một
đỉnh
cao
của
chính
những
mâu
thuẫn
trong
nội
bộ
lý
thuyết
Phật
giáo
thời
bấy
giờ?
Có
thể
giả
thiết
Quân
thiện
luận
và
sáu
lá
thư
là
nguyên
nhân
trực
tiếp
của
vụ
tự
thiêu?
Trước
những
câu
hỏi
này,
những
tư
liệu
hiện
có
bao
gồm
Cao
Tăng
truyện
và
Tịnh
độ
vãng
sinh
truyện
không
cho
một
ám
chỉ
xa
gần
nào.
Chúng
chỉ
nói
Hoằng
"thệ
lòng
về
An
dưỡng",nên
đã
lén
mà
tự
thiêu,
chứ
không
vì
một
nguyên
do
nào
khác.
Riêng
Tịnh
độ
vãng
sinh
truyện
có
ghi
lời
tự
trần
cuả
Hoằng
rằn:
"Xin
bỏ
báo
thân
này
để
mau
thấy
kim
nhan,
không
còn
ở
trong
ba
cõi
để
rơi
vào
các
hữu",
ý
chừng
muốn
nói
Hoằng
tự
thiêu,
trước
hết
để
mau
thấy
Phật,
và
sau
nữa
để
khỏi
phải
còn
ở
trong
ba
cõi
để
bị
sinh
tử.
Về
ý
thức
phương
pháp
niệm
Phật
tam
muội
hứa
chắc
chắn
với
người
thực
hành
là,
nếu
thực
hành
nó
đúng
phép
thì
nhất
định
thấy
Phật,
chứ
không
cần
phải
thiêu
thân.
Không
có
một
đoạn
nào
trong
kinh
Thập
lục
quán
hay
kinh
Vô
lượng
thọ
kêu
gọi
người
thực
hành
phương
pháp
niệm
Phật
thiêu
thân
hết.
Về
ý
thứ
hai,
muốn
nói
Hoằng
tự
thiêu
vì
sợ
sinh
tử,
điều
này
Tứ
thập
nị
chương
kinh
ĐTK
784
tờ
723b27-c1,
mà
Đàm
Hoằng
chắc
chắn
có
đọc
tới,
xác
minh
rõ
là,
người
ta
không
thể
tự
thiêu
để
tránh
sinh
tử
được,
giống
như
người
vì
sợ
lòng
dâm
của
mình,
mà
đã
chặt
đứt
bộ
phận
sinh
dục.
Hơn
nữa,
Cao
Tăng
truyện
nói
Hoằng
"Nhỏ
tu
giới
hạnh,
chuyên
sành
luật
luật
bộ",
ghi
rõ
như
vậy
Hoằng
biết
giới
luật
Phật
giáo
rất
rõ
ràng.
Mà
hành
động
tự
thiêu
của
Hoằng,
như
tác
giả
Cao
Tăng
truyện
12
tờ
406a21-22
là
Huệ
Hạo
nhận
xét
trái
với
giới
luật
(vi
giới),
tuy
rằng
nó
có
cái
đẹp
ở
chỗ
"quên
mình,
bỏ
hết
hình
hài".
Nó
trái
với
giới
luật
không
những
vì
mình
tự
giết
mình,
một
điều
giới
luật
Phật
giáo
cấm,
mà
còn
vì
trong
khi
giết
mình,
mình
giết
luôn
những
loài
vật
khác.
Hạo
viết:
"Phật
dạy
thân
người
có
tám
vạn
hộ
trùng
cũng
chết
theo.
Cho
nên..
khi
gieo
mình
vào
đống
lửa,
khi
xé
xác
phân
phát
cho
người,
nên
biết
đó
là
tôi
giết
trùng,
mục
đích
nó
thực
rõ
ràng"
Đối
cách
nói,
ki
mình
tự
thiêu,
mình
không
những
tự
giết
mình,
mà
còn
giết
luôn
những
con
vi
trùng
và
sinh
vật
bám
vào
thân
mình
để
sống
nữa.
Một
người
"chuyên
sành
luật
bộ"
như
Đàm
Hoằng
tất
không
có
những
hành
động
mà
ý
nghĩa
quá
hàm
hồ
khó
phân
biệt
như
vậy.
Nó
đòi
hỏi
phải
có
những
nguyên
nhân
khác,
quan
trọng
và
bức
thiết
hơn,
để
ông
tự
thiêu,
ngoài
"thề
lòng
và
An
dưỡng".
Một
trong
những
nguyên
nhân
đó
là
Quân
thiện
luận
và
Sáu
lá
thư.
Quân
thiện
luận
với
khuynh
hướng
Phật
giáo
xã
hội
của
tác
giả
ó,
đã
tiến
công
mạnh
mẽ
vào
những
thành
trì
qua
niệm
Phật
giáo
từ
trước
cho
tới
thời
nó
được
coi
là
đương
nhiên
Phật
giáo
và
tất
yếu
Phật
giáo.
Nó
đã
tiến
công
vào
những
quan
niệm
vô
thường,
vô
ngã,
niết
ban,
những
quan
niệm
mà
không
có
chúng,
ta
tưởng
Phật
giáo
không
thể
tồn
tại
được.
Nó
cũng
tiến
công
vào
những
tin
tưởng
như
đời
sau,
kiếp
sau,
tịnh
độ,
và
coi
chúng
như
những
thứ
ăn
lớn
nói
láo,
những
chuyện
không
có
thực,
mà
người
ta
đặt
điều
nên,
để
mê
hoặc
thường
dân.
Đối
với
vấn
đề
đời
sau,
ông
đã
dám
thẳng
tay
lên
tiếng
nói:
"Thích
Ca
giải
thích
là
không
thật"
Đời
sau
đó
khi
ấy
tạm
thời
là
có
thực
đối
với
tín
ngưỡng
Tịnh
độ,
ông
chỉ
có
việc
đùa:
"Nay
học
đòi
theo
ánh
thần,
mà
không
có
một
tấc
sáng,
nghiệm
lấy
linh
biến,
mà
chẳng
có
mộ
tí
lạ,
kẻ
cần
thành
không
thấy
được
mặt
người
hiền
cứu,
người
dốc
học
chẳng
tìm
được
sự
thật
của
chuyện,
lăng
hư.
Nó
đại
là
có
sự
sống
lâu
không
lường,
nhưng
ai
thâý
được
một
ông
già
trăm
tuổi?
Thiết
tha
về
sự
cứng
rắn
củ
kinh
Kim
Cương,
nhưng
ai
ngó
được
một
vật
không
thối
mục?".
Viết
như
thế,
rõ
ràng
Huệ
Lâm
đã
chế
giễu
trực
tiếp
những
người
tin
tưởng
Phật
A
Di
Đà
là
những
kẻ
nhẹ
dạ
cả
tin.
Phật
A
Di
Đà
vào
thời
Lâm
đã
được
quan
niệm
như
một
vị
Phật
"ánh
sáng
không
lường"
(amitahbhà,
vô
lượng
quang)
và
"sống
lâu
không
lường"
(amitàyus,
vô
lượng
thọ).
Và
những
kinh
điển
Tịnh
độ,
mà
ta
thấy
trên,
đã
hứa
hẹn
là,
nếu
ai
thực
hành
phương
pháp
niệm
Phật
tam
muội
thì
nhờ
sức
Phật
mà
thấy
được
Phật
A
Di
Đà.
Trước
những
quan
niệm
và
hứa
hẹn
ấy.
Lâm
chỉ
biết
vạch
ra
sự
phi
lý
đáng
buồn
cười
của
chúng.
Làm
gì
có
ông
già
trăm
tuổi,
mà
bảo
có
vị
Phật
"sống
lâu
không
lường".
Bảo
Phật
"là
ánh
sáng
không
lường",
mà
ai
có
thâý
được
một
chút
ánh
sáng
không?
Nói
là
thấy
Phật,
mà
người
siêng
năng
chí
thành
thì
ai
thấy
được
mặt
đâu?.
Nêu
nên
những
câu
hỏi
như
thế
là
trực
tiếp
tra
hỏi
chính
niềm
tin
Tịnh
độ
của
những
người
như
Hoằng,
là
xúc
phạm
vào
chính
sự
thiêng
liêng
cuả
một
niềm
tin
như
vậy.
Những
người
tin
tưởng
như
Đàm
Hoằng
còn
có
phương
cách
nào
khác
để
trả
lời
những
câu
hỏi
loại
đó
đâu.
Lý
luận
làm
sao
được
với
những
người,
mà
ngay
cả
đời
sau
họ
còn
không
tin
là
có,
huống
nữa,
là
Tịnh
độ
và
Phật
A
Di
Đà.
Thêm
vào
đây,
những
câu
hỏi
trên
đã
khai
màn
cho
những
tra
vấn
tiếp
theo
về
việc
không
thấy
chân
hình
Phật
hiện
ở
đời.
Phải
chăng
giáo
lý
và
phương
pháp
Phật
giáo
chỉ
là
"những
lời
nói
suông
không
thực",
để
cho
những
người
theo
Phật
không
thấy
chân
hình
Phật,
mà
các
kinh
điển
và
phương
pháp
Phật
giáo
hứa
hẹn?
Phải
chăng
đó
là
một
sự
sai
lầm
về
quan
niệm
và
phương
pháp
thiền
của
Khương
Tăng
Hội
đã
xưa
cũ.
Phương
pháp
quán
Phật
Vô
Lượng
Thọ
mới
du
nhập
vào
thời
Hoằng
lẽ
nào
lại
không
có
những
hiệu
quả
sao?
Tối
thiểu
qua
chính
bản
thân
những
người
chủ
trương
và
du
nhập
nó
như
Kàlayasas
ta
thực
sự
chứng
kiến
một
vài
thần
dị.
Không
lẽ
nào,
những
người
bản
xứ
thực
tập
nó
lại
vô
hiệu
chăng?
Đứng
trước
những
câu
hỏi
như
thế,
Hoằng
chỉ
có
cách
giải
quyết
truyền
thống
duy
nhất
hữu
hiệu
là
đem
chính
bản
thân
mình
ra
để
thí
nghiệm:
Ông
đã
tự
thiêu.
Ông
tự
thiêu,
để
chứng
cớ
cơ
sở
lý
luận
và
phương
pháp
thực
hiện
niềm
tin
ông
là
đúng
đắn
và
chính
đáng,
việc
vãng
sinh
về
thế
giới
Cực
lạc
là
có
thực.
Như
trên,
chúng
tôi
đã
giả
thiết
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh
có
thể
sống
tại
trung
tâm
Phật
giáo
Tiên
Sơn.
Khi
Huệ
Lâm
bị
đuổi
ra
nước
ta,
có
thể
Lâm
cũng
đến
thăm
hay
ở
tạm
tại
trung
tâm
ấy.
Với
một
trung
tâm
tu
học
Phật
giáo
lớn,
chắc
chắn
nhiều
cuộc
bàn
cãi
về
nhiều
vấn
đề
khác
nhau
đã
xảy
ra.
Ngoài
Đạo
Cao,
Pháp
Minh,
Huệ
Lâm
và
Lý
Miễu
ra,
Đàm
Hoằng
rất
có
thể
tham
dự
vào.
Nó
tạo
nên
một
bầu
không
khí
sôi
nổi
về
những
cuộc
bàn
cãi
và
nghi
vấn.
Thực
sự,
đối
với
những
vấn
đề
siêu
hình
và
tin
ngưỡng,
cứ
vào
xu
thế
của
thời
đại,
chắc
nhiều
nghi
vấn
đã
đề
xuất.
Trong
bản
tiểu
sử
của
Hoằng
ở
Cao
Tăng
truyện
dẫn
trước,
Huệ
Hạo,
khi
nói
"dân
ở
xóm
đều
thấy
Hoằng
minh
vàng
sắc
vàng,
cỡi
một
con
nai
vàng,
đi
về
phía
tây
rất
gấp,
không
nghỉ
hỏi
han"
đã
viết:
"Tăng
và
tục
mới
hiểu
sự
thần
dị
của
ông"
-
đạo
tục
phương
ngộ
kỳ
thần
dị.
Đọc
câu
này,
ta
có
cảm
tưởng
là,
cả
những
nhà
tu
hành
lẫn
những
người
đời
trước
đó
không
tin
vào
những
sự
thần
dị,
mà
có
lẽ
Hoằng
đã
đem
quảng
bá,
do
niềm
tin
Tịnh
độ
và
phương
pháp
Quán
kinh
đem
lại...Chắc
họ
không
tin
những
thứ
thần
dị
như
thế.
Cho
nên,
bầu
không
khí
tín
ngưỡng
và
tri
thức
bao
trùm
Hoằng
là
đầy
dẫy
những
nghi
vấn
và
không
tin.
Có
thể
chính
nó
đã
nuôi
dưỡng
cho
những
suy
nghĩ
duy
lý
kiểu
của
Lý
Miễu
lớn
mạnh
lên,
để
có
đủ
sức
mạnh
đề
xuất
ra
những
tra
hỏi
độc
lập
của
mình
về
những
vấn
đề
căn
bản
của
tình
trạng
trí
thức
và
tôn
giáo
đương
thời.
Một
mặt,
Hoằng
có
thể
đã
tham
dự
vào
những
cuộc
bàn
cãi
và
qua
chúng
đã
để
lộ
ý
định
muốn
chứng
minh
sự
thật
của
những
gì
mình
tin
bằng
cái
chết
của
bản
thân
mình,
nên
những
đồng
đạo
của
Hoằng,
trong
đó
có
thể
có
Đạo
Cao
và
Pháp
Minh,
đã
ngăn
trở.
Mặt
khác,
Hoằng
muốn
làm
thí
nghiệm
với
chính
mình,
mà
kết
quả
chưa
có
gì
bảo
đảm
sự
thành
công
của
nó.
Có
lẽ,
vì
hai
lý
do
đó,
Hoằng
đã
lặng
lẽ
và
lén
lút
thực
hiện
cuộc
tự
thiêu
cuả
mình.
Lần
đầu,
cuộc
tự
thiêu
bất
thành,
nhưng
nửa
người
Hoằng
đã
bị
cháy.
Lần
thứ
hai,
Hoằng
mới
thành
công
và
đã
đạt
đến
những
thành
quả
bất
ngờ,
làm
sao
"cả
Tăng
lẫn
tục
mới
hiểu
ra
sự
thần
dị"
cuả
tín
ngưỡng
và
phương
pháp
Tịnh
độ.
Cho
nên,
dù
những
thần
dị
của
nó,
về
lâu
về
dài,
cái
chết
của
Đàm
Hoằng
đã
không
có
những
ảnh
hưởng
quyết
định.
Trước
mặt,
có
thể
nó
đã
làm
cho
cuộc
bàn
cãi
về
việc
thấy
Phật
của
sáu
lá
thư
chấm
dứt.
Tới
một
mức
độ
nhất
định,
nó
đã
xác
lập
tín
ngưỡng
Tịnh
độ
và
phương
pháp
quán
tưởng
nó
đã
xác
lập
tín
ngưỡng
Tịnh
độ
và
phương
pháp
quán
tưởng
niệm
Phật
tại
trung
tâm
Tiên
Sơn,
tuy
ta
hiện
chưa
thể
khẳng
định
tín
ngưỡng
và
phương
pháp
Tịnh
độ
là
do
Hoằng
du
nhập
vào
Tiên
sơn
hay
chúng
đã
có
mặt
tại
đó
và
Hoằng
đến
để
học.
Dù
với
trường
hợp
nào
đi
nữa,
thì
đây
chỉ
là
đóng
góp
ngắn
kỳ,
không
gây
ra
được
một
truyền
thống
vững
chắc,
một
học
phong
tự
tín
và
sáng
tạo.
Trong
khi
sống
dẫn
Tịnh
độ
vãng
sanh
truyện
nói
Hoằng
"không
làm
gì
khác"
ngoài
việc
tụng
kinh
Vô
lượng
thọ
và
Thập
lục
quán,
ta
có
thể
giả
thiết
Hoằng
đã
đóng
một
vai
trò
tích
cực
trong
việc
cổ
xúy
việc
học
tập
giới
luật,
tạo
cơ
hội
và
không
khí
để
sau
này
sản
sinh
được
những
người
như
Đaọ
Thiền.
Đóng
góp
đây
của
Hoằng
phải
nói
là
có
giá
trị,
nhưng
cũng
không
dài
hơi,
bởi
vì
không
dựng
nên
một
tư
trào
nghiên
cứu
và
học
tập
có
phê
phán
luật
tạng.
Nhưng
đó
cũng
là
những
sự
thần
dị
cuối
cùng.
Xu
thế
của
cả
đời
lẫn
đạo,
cả
Tăng
lẫn
tục,
tuy
"hiểu
được
sự
thần
dị"
không
đặt
hy
vọng
và
niềm
tin
của
nó
vào
những
thần
dị
như
thế.
Chúng
không
đại
biểu
cho
một
tư
trào
đi
lên,
một
ý
thức
đang
vươn
lên
trổi
dậy,
tra
hỏi
và
đặt
vấn
đề
với
tất
cả
những
gì
đang
lưu
hành.
Cái
chết
của
Đàm
Hoằng
vừa
là
một
chứng
minh
vừa
là
một
báo
hiệu
cho
sự
cáo
chung
cuả
một
thời
đại
Phật
giáo.
| Mục lục | I
|
II
|
III
| IV
|
IVb
|
V
|
VI
|
VII
|
VIII
|
VIIIb
|
IX
|
IXb
|
X
|
XI
|
XII |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường