ĐẠO
PHẬT VÀ DÒNG SỬ VIỆT
Hòa Thượng Thích Đức Nhuận
Bìa
của Họa Sĩ Phượng Hồng,
Trình Bày: Duy Nhiên, Phật Học Viện Quốc Tế California Hoa Kỳ
ấn hành 1998
---o0o---
ĐẠO
PHẬT THỜI KỲ
TỰ
CHỦ NHÀ ĐINH (968-980)
VÀ
TIỀN LÊ (981-1009)
Vạn thắng vương Đinh Bộ Lĩnh
sau khi đã dẹp xong loạn thập nhị sứ quân. Năm 968, Đinh
Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, lập nên
nhà Đinh, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở
Hoa Lư, lấy niên hiệu là Thái Bình Nguyên Niên, nhằm xóa
hẳn vết tích thống trị của hoàng đế phong kiến Trung Hoa,
nêu cao ngọn cờ thống nhất độc lập quốc gia, lập
triều chính, vua liền nghĩ đến việc chỉnh đốn hàng ngũ
Giáo Hội Tăng Già và định phẩm trật cho các tăng sĩ lỗi
lạc hữu côngtham dự quốc chính, nên đã tặng chức Khuông
Việt Thái sư cho ngài tăng thống Ngô Chân Lưu, ban chức Tăng
Lục Đạo sĩ cho Pháp sư Trương Ma Ly, và thiền sư Đặng
Huyền Quang làm Sùng Chấn Uy nghi.
Về sinh hoạt chính trị, văn
học trong nước lúc bấy giờ đều do các bậc tăng già hữu
học nhận lĩnh trông coi. Đạo Phật Việt được vương
triều công nhận là quốc giáo kể từ nhà Đinh.
Lịch Sử Việt Nam, tập
1, viết về Phật giáo thời nhà Đinh:
"Trong buổi đầu thời
kỳ độc lập, Phật giáo là tôn giáo chiếm ưu thế trong xã
hội. Trong nước nhiều chùa tháp được xây dựng. Riêng ở
Hoa Lư, năm 973, Nam Việt vương Đinh Liễn là con trai trưởng
của Đinh Tiên Hoàng, cho dựng 100 cột đá khắc kinh Phật (gọi
là kinh tràng). Các nhà sư là tầng lớp có học thức, có uy
tín và ảnh hưởng trong xã hội. Ngoài văn học dân gian,
lực lượng sáng tác văn học lúc đó chủ yếu cũng là các
nhà sư. Những tác phẩm văn học thành văn của giai đoạn này
còn lại đến nay là một số bài thơ chữ Hán của các nhà
sư như Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, v.v. (Sđd, trang
150).
Sau
nhà Đinhlà
nhà Tiền Lê, các tăng sĩ vẫn được trọng dụng. Vua Lê Đại
Hành đã triệu thỉnh Khuông Việt Thái sư làm cố vấn và
thiền sư Pháp Thuận lo việc ngoại giao; đồng thời triều
đình cũng cho thiết lập các tự viện, và năm 1008 vua sai
sứ là các ông Minh Xưởng, Hoàng Thành Nhã qua Trung Hoa thỉnh
Đại tạng kinh. Đây là lần đầu tiên nước ta sai sứ đi
thỉnh kinh.
Năm
Thiên Phúc thứ VII (986), sứ nhà Tống là Lý Giác sang nước
ta
vua nhờ ngài Khuông Việt Thái sư giữ việc ngoại giao để
ứng tiếp với sứ giả. Còn thiền sư Pháp Thuận cải trang
làm chú lái đò cho sứ giả. Tình cờ có đôi ngỗng bơi trên
mặt nước, Lý Giác vốn có tài văn thơ, liền tức cảnh:
Nga
nga lưỡng nga nga
Ngưỡng
diện hướng thiên nha.
Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời
Chú
lái đó - tức thiền sư Pháp Thuận - đã ứng đối:
Bạch
mao phô lục thủy
Hồng
trạo bãi thanh ba.
Lông trắng phơi
giòng biếc
Sóng xanh chân
hồng bơi
Bản
dịch của THÍCH MẬT THỂ
Sư giả nghe xong lấy làm
ngạc nhiên và kính phục, không ngờ nước Việt lại có
lắm nhân tài. Qua những lần tiếp đãi lịch sự của một
thiền sư (Khuông Việt Thái sư đại diện cho triều đình) đối
với sứ giả một nước lớn là Trung Hoa, Lý Giác càng lúc càng
tỏ ra kính trọng vua nước ta, nên ông đã viết tặng bài thơ:
Hạnh ngộ minh thời tân
thịnh du
Nhất thân lưỡng độ
xứ Giao Châu
Đông đô tái biệt tâm lưu
luyến
Nam Việt thiên trùng
vọng vị hưu
Mã đạp yên vân xuyên lãng
thạch
Xa từ thanh chướng
phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng
viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến
thiềm thu.
Thiền sư Mật Thể đã dịch
bài thơ ấy ra tiếng Việt:
May gặp minh quân giúp việc
làm
Một mình hai lượt sứ
miền Nam
Mấy
phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa
nhàm
Ngựa đạp mây bay qua suối
đá
Xe vòng núi chạy tới giòng
lam
Ngoài trời lại có trời
soi sáng,
Vầng nguyệt trong in ngọn sóng
đầm.
Câu thứ bảy của bài thơ tác
giả có ý xưng tụng vua nước Việt cũng như vua của họ.
Thật là thần tình, chỉ do khẩu khí thơ văn xướng họa mà
đã làm chuyển đổi được vận mệnh của cả nước đang
từ thế yếu sang hẳn một thế mạnh. Và, vì cảm mến đức
hóa của người xưa, Lê Quí Đôn, nhà bác học thế kỷ XVIII,
đã hết lời ca tụng hai vị thiền sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp
Thuận:
"Câu thơ của thiền sư
Pháp Thuận, làm cho sứ giả nhà Tống phải kinh dị; điện
từ của đại sư Ngô Chân Lưu đã nổi danh một thuở (Sư
Thuận thi ca, Tống sứ kinh dị, Chân Lưu từ điệu, danh
chấn nhất thời) -
Thiền Dật -
Thiền sư Pháp Thuận được
vua Lê tôn trọng như bậc quốc sư, vua thường hỏi ngài về
những việc bình trị quốc gia và ngôi cửu ngũ dài vắn ra
sao? - Thiền sư trả lời bằng một bài thơ:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Vận nước như dây quấn
Trời Nam mở thái bình
Niết bàn trong điện ngọc
Đây đó hết đao binh
Các vị quốc sư, thiền sư đã
đóng góp không nhỏ cho công trình dựng nước và giữ nước,
các ngài đã khai hóa nền văn học quốc gia, đã giáo hóa
toàn dân. Vốn saün có tinh thần yêu nước cao độ, nhân
dân ta lại được thấm nhuần giáo lý Giác Ngộ Giải Thoát
của Đạo Phật và đã lấy đó làm chất men cho cuộc nổi
dậy, chống lại sự thống trị của người phương Bắc; giành
lấy quyền độc lập tự chủ cho quốc gia kéo dài hơn 5
thế kỷ, kể từ thời nhà Đinh trở về sau (968 - 1504).
TÌM
HIỂU THÊM
Từ trước năm 441 TL, cõi Giao
Châu bị người phương Bắc đô hộ; trong giai đoạn gian nan
này Đạo Phật đã cùng với người bản địa nỗ lực
phấn đấu: bằng mọi cách quyết giành lấy quyền độc
lập tự do cho quốc gia Việt; nên năm 542, ngươì anh hùng
họ Lý (Lý Bí) quê ở Long Hưng (Thái Bình) đã cùng với toàn
dân đứng lên làm cuộc khởi nghĩa: đánh đuổi tên Thái thú
bạo tàn nhà Lương là Tiêu Tư và bè lũ về Tàu, tự xưng là
LÝ NAM ĐẾ (Vua Nước Nam), thiết lập một triều đình Tự
Chủ ở phương Nam, đặt quốc hiệu là VẠN XUÂN, có nghĩa là
nước Việt bền vững dài lâu, đồng thời sáng lập một ngôi
chùa lấy tên là KHAI QUỐC (Mở Nuớc). Sau Lý Phật Tử lên
kế vị năm 571 - 603 (mà lịch sử gọi là Hậu Lý Nam Đế),
ở ngôi 31 năm. Dưới triều đại Lý Phật Tử, Ngài
Tỳ-Ly-Đa-Lưu-Chi, người Nam Ấn Độ sang Tây Thiên Trúc để
khảo cứu Đạo Phật rồi qua cõi Đông Đô, vào Trung Hoa, đến
Trường An năm 574; cách sáu năm sau (580) thì ngài qua đất
Giao Châu, trụ trì chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), để truyền bá
Thiền Học và dịch kinh "Tổng Trì".
Năm 603, nhà Tuỳ cử Lưu Phương
đem quân theo đường tây bắc xuống xâm lăng nước ta. Lý
Phật Tử chặn đánh quân Tuỳ ở núi Ô Long (thuộc tỉnh Tuyên
Quang), nhưng quân Tuỳ quá mạnh; quân ta chống không lại.
Giặc tiến vây thành Cổ Loa, bắt Lý Phật Tử đưa về Tàu,
rồi bặt vô âm tín, không biết sau đó sống chết ra sao? Nước
ta từ đó, lại một lần nữa bị nội thuộc hết nhà Tuỳ
đến nhà Đường (từ năm 603 đến năm 906) cộng 304 năm.
Niên hiệu Khai Hoàng thứ XIV
nhà Tuỳ (594) Ngài Pháp Hiền họ Đỗ, quê ở Chu Diên (Sơn Tây),
khi mới xuất gia, thụ giới với đại sư Quán Duyên ở chùa
Pháp Vân. Đệ nhất Thiền tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi khi mới
thấy Pháp Hiền thì nhìn chăm chăm vào mặt mà hỏi:
- Chú họ gì?
Pháp Hiền đáp:
- Hoà thượng họ gì?
Thiền sư lại hỏi lại:
- Chú không có họ à?
- Sao lại không có? Nhưng đố
Hòa thượng biết?
Thiền sư liền quát lên:
- Biết để làm gì?
Ngài Pháp Hiền chợt hiểu ý
Đệ nhất thiền tổ Tỳ-Ly-Đa-Lưu-Chi, liền sụp xuống lạy
xin theo làm đệt tử và sau được truyền tâm ấn.
(Đoạn văn đối thoại trên
dẫn theo sách Đại Nam thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục.
Microfilm Ecole francaise D'Extrême Orient A -2767. No/Aout 1954)
Trong giai đoạn này, các
thiền sư là gạch nối giữa kẻ thống trị (Trung Hoa) và người
bị trị (Việt Nam), mà không gặp bất cứ một trở ngại nào,
cho nên: một mặt, đối với kẻ thống trị thì khuyến cáo
họ thực hiện hạnh từ bi, biết tôn trọng nhân phẩm con người
mà đừng gây khổ đau cho nhau; mặt khác, đối với đồng bào
đồng chủng đương bị áp bức bởi nỗi khổ của người dân
mất nước, thì truyền đạt tư tưởng "giác ngộ,
giải thoát và tự chủ" để kích động lòng yêu nước,
tạo chất men cho công cuộc giành quyền tự chủ dưới các
triều đại: Ngô Vương (939 - 944); Đinh Tiên Hoàng (968 - 980);
nhà Tiền Lê (980 - 1009).
Sự trao đổi văn hóa Phật giáo
và các kiến thức tổng quát giữa hai nước Việt - Hoa mỗi
ngày một trở nên thắm thiết tốt đẹp: vào thời đại
Tuỳ - Đường, các thiền sư đất Giao Châu sang thuyết pháp
trong cung vua là chuyện thường tình, rồi sau ở lại bên đó.
Ngược lại, cũng có các vị thiền sư và trí thức Trung Hoa
qua Giao Châu hoằng đạo. Các thiền sư Ấn Độ qua lại
giữa hai nước Việt - Hoa cũng thường ghé lại Giao Châu. Đạo
Phật tại Giao Châu buổi ấy, nhiều lúc long thịnh hơn hẳn
Trung Hoa. Các vua Văn Đế (nhà Tuỳ), Cao Tổ (nhà Đường)
đều hướng về Đạo Phật Việt, cúng dường những hòm (rương)
lễ vật và xá lợi; đồng thời còn truyền lệnh cho các
quan lại phải phụng mệnh thánh chỉ tạo dựng lại chùa, tháp
ở Giao Châu. Tuy nhiên, về phương diện giáo pháp chính
truyền thì Đạo Phật Việt lại trực tiếp thụ nhận tinh
hoa giáo lý do chính các nhà sư Ấn độ truyền vào. Các
thiền sư Giao Châu vừa thông hiểu Phạm văn và cả Hán văn
nên đã giúp các sư Ấn độ những phương tiện cần thiết
để tới Trung Hoa giảng đạo hoặc ngược lại, đón nhận các
thiền sư Ấn Độ từ Trung Hoa vào Giao Châu.
Hiểu đặc tính văn hóa phương
Bắc không ai khác hơn là các thiền sư đất Giao Châu. Ngay chính
bên Trung Hoa, hay nơi nước Việt cũng vậy, các thầy đi
hoằng hóa giữa hai nước, thường đem tư tưởng "Tự
Chủ" của Đạo Phật phổ biến trong quần chúng nhắm
chống lại tư tưởng nô dịch của người phương Bắc muốn
đồng hóa các dân tộc nhỏ bé. Hay nói rõ hơn là, các sư
Việt Nam đã chịu ảnh hưởng trực tiếp nguồn văn hóa
Phật giáo Ấn Độ khai hóa cho mình.
Luận cứ trên đây được
chứng minh cụ thể bằng sự trỗi dậy của LÝ NAM ĐẾ năm
542, lập nên nhà Tiền Lý độc lập đầu tiên ở nước ta;
kế KHÚC THỪA DỤ (thuộc quý tộc) bằng cách tự xưng tiết
độ sứ mà nhà Đường sau đó bất đắc dĩ phải thừa
nhận; và cuộc khởi nghĩa năm 939 của NGÔ QUYỀN là những
sợi dây nối kết giữa giới quí tộc (nhưng bất lực trước
thời cuộc lúc ấy.) với giới bình dân (chưa ý thức rõ
vai trò của mình) mà điểm tựa chính yếu phải nhờ vào
giới trung gian thứ ba là các thiền sư, vốn rất khôn khéo
một cách tế nhị đã kết hợp nổi hai giới (quí tộc và bình
dân) gần lại với nhau: tạo thành phong trào lớn mạnh mà năm
938, nhân dân ta, dưới sự chỉ đạo của ngô quyền, đã
chiến thắng đạo quân hung hãn do thái tử Hoàng Thao chỉ huy
bị chết trên sông Bạch Đằng, khiến cho vua tôi nhà Nam Hán
khiếp sợ, không dám coi thường người Việt nữa. Kể từ
đấy chấm dứt nạn đô hộ của người phương Bắc trên
đất nước ta suốt một nghìn không trăm ba mươi mốt (1031)
năm.
Có điều này thiết tưởng người
Việt cũng cần tìm hiểu là: Vị sơ tổ của Đạo Phật
Việt Nam khác với vị sơ tổ của Thiền Tông Việt Nam. (Có
lẽ) Đạo Phật Việt không hẳn chịu ảnh hưởng của dòng
Thiền Tỳ-Ni-Đà-Lưu-Chi chỉ mới hiện diện trên đất Giao
Châu vào năm 580 - tức cuối triều đại Lý Phật Tử (Hậu
Lý Nam Đế) đương trị vì nước ta - Khoảng 603 - 604 ở
Giao Châu (buổi ấy) đã có quan thái thú là LƯU PHƯƠNG, dâng
sớ về nhà Tuỳ, tâu rằng:
"Cõi Giao Châu ngày nay dân
chúng rất tôn sùng Đạo Phật lại có nhiều vị danh tăng giáo
hóa nên bốn phương thảy đều qui y"
Như vậy là chỉ có khoảng 23
hay 24 năm mà "bốn phương thảy đều qui y". Hơn nữa,
chỉ trong một thời gian ngắn sau này (618) nhà Tùy đổ, nhà
Đường lên thay, thì ở Giao Châu đã có rất nhiều thiền sư
biết chữ Phạm và cả chữ Nho, cả thảy có sáu ngài xuất
dương du học tại Ấn Độ. Như vậy, có thể khẳng định
rằng: Trước khi Đệ nhất thiền tổ Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi tới
nước ta truyền bá Thiền học thì Đạo Phật Việt đang trên
đà phát triển rực rỡ.
Và, trước cả ngài Mâu Bác,
chắc chắn phải có các thiền sư khác đã có mặt tại Giao
Châu. Ngài Mâu Bác là một trong bốn vị đến nước ta vào
cuối thế kỷ II. Nhưng ngài Mâu Bác, khi đến Giao Châu với
người mẹ, thì tại nơi đây đã có Đạo Phật cũng như
nền tín ngưỡng dân gian đều đã xuất hiện trên đất Giao
Châu.
Ngài Mâu Bác là người Trung
Hoa, thông hiểu Lão giáo, Nho giáo của người Trung Hoa nên chưa
chắc là ngài đã gây được sự hưng thịnh của Đạo Phật
Việt. Thật rõ ràng nếu muốn tìm hiểu vị Sơ tổ của
Phật giáo Việt Nam thì điều rất hữu lý là phải tìm từ
năm 111 tr TL, hoặc từ năm 194 là năm Mâu Bác qua Giao Châu
trở về trước. Mà vị sư tổ đó phải là người Ấn Độ,
và là vị đã gây ý thức giác ngộ tinh thần tự chủ cho người
Việt quật khởi để tự cường !
Đạo Phật Việt, ở thời
kỳ này còn có Tông VÔ NGÔN THÔNG. Tông này rất chú trọng
đến vấn đề hoằng hóa truyền thừa, ít khi có sự cẩu
thả trong khi truyền pháp hoặcấnchứngchoai. Chính ngài Nam
Nhạc, khi sắp tịch, có dạy: «D ¹J ¤W ®Ú ·V ¤Å »´ ³\ "Phi
ngộ thượng căn thận vật khinh hứa: nghĩa là không
gặp các bậc thượng căn thì chớ có truyền bậy! Ngài Vô
Ngôn Thông qua Việt Nam năm 820, cách rất xa ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi
(580). Do đó sự giáo hóa của ngài chắc sẽ chẳng gây được
ảnh hưởng bao nhiêu, trong một thời gian quá ngắn, hầu giúp
tạo sự lấy lại độc lập cho quốc gia Việt, dưới triều
Ngô Quyền. Ở đây có thể tạm kết luận: Đạo Phật Việt
trong thời kỳ đầu truyền bá chính pháp tại Văn Lang - Âu
Lạc (rất có thể) từ đời Hùng Vương hoặc ít ra cũng từ
trước kỷ nguyên Tây lịch.
Lịch Sử Việt Nam,
tập 1, nhận định: dưới hai triều đại nội thuộc Tùy -
Đường (từ năm 603 đến năm 906) Đạo Phật ở nước ta
rất hưng thịnh.
"Dưới thời Tùy Đường,
hai phái Thiền tông của Phật giáo Trung Quốc được du nhập
vào nước ta. Phái thứ nhất (do Tỳ-Ni-Đà-Lư-Chi cầm đầu)
truyền bá vào cuối thế kỷ VI, trung tâm là chùa Pháp Vân (Thuận
Thành, Hà Bắc). Phái thứ hai (do Vô Ngôn Thông cầm đầu)
truyền bá vào đầu thế kỷ IX, trung tâm là chùa Kiến Sơ (Phù
Đổng, ngoài thành Hà Nội).
"Lúc này ở nước ta đã
có nhiều chùa lớn (88 chùa ở Giao Châu), có chùa có số sư
tới vài trăm; đã xuất hiện nhiều cao tăng người Việt. Chùa
là một tổ chức trang viện, có nhiều ruộng đất và điền
nô. Như vậy ở nước ta bấy giờ đã hình thành một lớp tăng
lữ là tầng lớp trí thức trọng yếu. Nhiều vị sư đã vượt
biển sang Thiên Trúc cầu đạo, thỉnh kinh và sang Trường An
giảng kinh cho vua Đường" (Sđd, tr 127).
Theo sử gia Trần Văn Giáp
khảo cứu trong cácsách cho biết là "về đời Đường có
ba đoàn truyền giáo ở nước ta. Đoàn thứ nhất có ba người
Tàu; đoàn thứ hai cũng có ba người Tàu và một là người
Trung Á; đoàn thứ ba: có sáu pháp sư An Nam mà bốn người
ở Giao Châu (Hà Nội và nam Định) và hai người ở Ái Châu
(Thanh Hoá bây giờ)" - Le Bouddhisme en Annam, trang 31 - Danh sách
ba đoàn truyền giáo, xem trang 55.
---o0o---
|
Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04 | 05 |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Cập
nhật : 01-02-2002