tước hữu ngũ sĩ
cư kỳ liệt”.
3Chúng tôi đề
nghị độc giả nên đọc thêm cuốn “Đạo Phật Với Con Người”
của HT. Tâm Châu.
1Cuộc Khởi Nghĩa
đầu tiên của hai chị em Bà Trưng chống quân Đông Hán vào
năm 40 của thế kỷ đầu Tây lịch là do các quan lại Trung
Hoa đã không biết tôn trọng quyền tự trị của dân tộc
Việt, mà chỉ chuyên chú vào việc khai thác kinh tế, làm giàu
cá nhân. Và cuộc khởi nghĩa thứ hai của bà Triệu, năm
248 Tây lịch, chống Đông Ngô, cũng vì Trung Hoa không muốn để
dân tộc Việt tự trị, hòng đồng hoá và tiêu diệt người
Việt mau hơn. Vì sự tồn tại của giống nòi, người Việt
đã phản tỉnh kịp thời, tìm phương đối phó lại với người
phương Bắc (Trung Hoa). Hai cuộc khởi nghĩa mang màu sắc
quí tộc Lạc hầu, Lạc tướng (đời Trưng) hay màu sắc bình
dân hứng khởi tình cảm (Bà Triệu, tức Triệu Thị Trinh) cũng
đã gây được cho lớp hậu tiến niềm phấn khởi tự tin:
giải phóng quốc gia khỏi gông cùm phương Bắc.
Nhưng từ khi vương
triều Bà Trưng đổ thì chế độ quí tộc Lạc hầu, Lạc tướng
cũng đổ theo. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu mang tính cách
quần chúng tự phát, vì các nhà quí tộc có uy tín đã bị
tru diệt cả rồi.
Như đã biết: Nước
Trung Hoa phần nhiều ít chú trọng tới phương Nam bằng phương
Bắc, và hễ bao giờ ở chính quốc có rối loạn thì sự cai
trị ở Giao Châu lại càng lỏng lẻo hơn và nhiều khi là không
cần thiết. Chỉ bao giờ chính quốc ổn định rồi thì người
Trung Hoa mới lại dồn lực quay về phương Nam để thắt
chặt thêm vòng xích đô hộ.
Các cuộc khởi nghĩa
của Việt Nam đều phải ăn nhịp với các sự biến động
tại chính quốc. Do đó có thể phân chia ý thức quốc gia
Việt Nam hay nói khác đi, sự đối kháng, sự bảo tồn văn hóa
của Việt Nam đối với văn hóa Trung Hoa qua năm thời kỳ:
1. THỜI KỲ ĐỐI
KHÁNG, tức là thời kỳ bắt đầu từ đời Hồng Bàng lập
quốc, từ thời Hùng Vương đến thời hai Bà Trưng.
2. THỜI KỲ THỎA
HIỆP, tức là thời kỳ bắt đầu từ Tích Quang, Nhâm Diên,
Sĩ Nhiếp. Lúc này nước Việt Nam có lác đác vài nhà trí
thức như Lý cẩm, Lý Tiến .v.v.. sang Trung Hoa du học, đã đổ
đạt và làm quan.
3. THỜI KỲ QUẬT
KHỞI, Nhà Tiền và hậu Lý Nam Đế (542 - 602) và họ Khúc
(906 - 923) đã mở màn cho thời kỳ chế độ tự chủ.
4. THỜI KỲ PHẢN TÆNH,
Nhà Ngô (939 - 965) có công phế bỏ thứ văn hóa nô dịch
của người phương Bắc. Tuy nhiên giai đoạn này mới chỉ là
“phản tỉnh” tự chủ mà thôi; cho nên trong nước mới phát
sinh nạn cát cứ không mấy tốt đẹp.
5. THỜI KỲ SÁNG
TẠO, ĐỘC LẬP, nhà Đinh (960 - 980) Tiền Lê (981 - 1009) đã
mở màn cho giai đoạn quốc gia, độc lập để sau này hai
triều đại Lý - Trần phát triển ý thức văn hóa quốc gia hùng
mạnh.
Nếp sống vĩ đại
của Phật giáo, vốn đã sinh hoạt mạnh mẽ ở Việt nam, qua
từng thời kỳ, và rất tế nhị, uyển chuyển để tuỳ duyên
tế độ sinh dân. Sang tới triều đại Lý - Trần là thời
kỳ Sáng tạo Văn Hóa Độc Lập của quốc gia dân tộc thì
Phật giáo công khai dấn thân hoạt động một cách đắc
lực hơn bao giờ hết.
Tại Việt Nam,
thời thượng cổ, vào giai đoạn thỏa hiệp văn hóa bắt đầu
từ Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, đã có một phong trào
chịu ảnh hưởng văn hóa phương bắc, chủ thuyết thần
phục Trung Hoa cùng tranh tốn với phong trào cự tuyệt văn hóa
“thiên triều”, chủ trương độc lập quốc gia, do các nhà
văn hóa thiền sư Việt nam trực tiếp thu nhận từ nguồn văn
hóa Đạo Phật dưới thời họ Lý, họ Khúc.
Thời quật khởi kéo
dài già nửa thế kỷ (542 - 602) cũng qua đi để nhường cho
thời kỳ phản tỉnh sáng tạo. Nhìn tổng quát, ta thấy tư tưởng
phương Bắc với ý định tiêu diệt các cơ sở tinh thần
Việt Nam, cho nên, sau khi nhà Đông Ngô sụp đổ thì nước ta
bị đặt dưới ách đô hộ của nhà Tấn. Nhà Tấn tan rã thì
Tống, Tề, Lương thay nhau tuần tự ngự trị đất nước
Việt. Nhà Tống vừa bị đổ (479 TL) thì nhà Tề kế vị, và
22 năm sau, nhà Lương hạ nhà Tề, rồi nắm độc quyền
thống trị nước Việt. Kể từ khi nhà Tống mất ngôi, nước
Trung Hoa rối lọan rất nhiều. Lúc này, vị quan cai trị Giao
Châu, là thứ sử Tiêu Tư, lợi dụng tình thế rối ren tại
chính quốc liền tung hoành hà hiếp vơ vét của cải người
dân thuộc quốc. Đây là cơ hội để người Việt có dịp
quật khởi, và cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế đã diễn ra
vào mùa xuân năm 542 (xem mục “Công Cuộc Dựng Nước Tời
Tiền Lý”).
3Theo PHẠM TIỆP,
một văn sĩ kiêm sử gia chính khách Trung Hoa đời Tống,
thời đại Nam - Bắc triều thế kỷ thứ V TL, tác giả sách
HẬU HÁN THƯ dẫn chứng ở q24, Mục mã Viện Liệt Truyện,
do Thượng Hải Trung Hoa Thư Cục, q5, tờ 8b ghi:
“viện tương lâu
thuyền đại tiểu nhị thiên dư sưu, chiến sĩ nhị vạn dư
nhân, kích Cửu Chân tặc Trưng Trắc dư đảng Đô Dương đảng,
tự Vũ Thiết chí Cự Phong, trảm hoặch ngũ thiên dư nhân;
Kiều Nam tức bình. Viện tấu ngôn: Tây Vu huyện, hộ hữu
tam vạn nhị thiên, viễn giới khứ Đình thiên dư lý, thỉnh
phân vi Phong Khê, Vọng Hải nhị huyện. Hứa chi. Viện sở
qua chiếp vi quận huyện, trí thành quách, xuyên cừ quán khái,
dĩ lợi kỳ dân, điều tấu Việt luật dư Hán luật hiện
thập dư sự; dữ Việt nhân thân minh cực chế, dĩ ước thúc
chi; tự hậu, Lạc Việt phụng hành Mã tướng quân cố
sự”.
Nghĩa là:
“viện đem lâu
thuyền (thuyền cao hai tầng), lớn nhỏ hơn hai vạn binh sĩ đánh
quận Cửu Chân dư đãng của Bà Trưng Trắc là bọn Đô Dương,
từ đất Vũ Thiết đến đất Cự Phong, vừa chém, vừa bắt
được hơn năm ngàn người; cõi Kiều Nam (tức Lĩnh Nam) đều
bình định. Viện tâu lên vua rằng: huyện Tây Vu (thuộc
quận Giao Chỉ), có ba vạn hai ngàn nhà, biên giới xa nhất, cách
Trung Hoa (huyện Đình) hơn ngàn dặm. Vậy xin chia làm hai
huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho lời tâu. Viện đi
qua xứ nào, liền đặt ra quận huyện, xây thành quách, đào
ngòi tát nước, để làm lợi cho dân. Có điều trần tâu
luật của người Việt, so sánh với luật Hán có hơn mười
điều. Rồi ban bố rõ phép cũ cho người Việt biết, để bó
thúc dân Việt. Từ đó về sau, dân Lạc Việt phải tuân theo
phép cũ của Mã Viện”. Dẫn theo sách Trung việt Pháp Luật
Tỷ Giảo, trang.
1HỔ THÍCH VĂN
TỔN, tập IV, Mục “Lăng Già Tông Khảo’, tác giả dẫn sách
Tục Cao Tăng Truyện, q212, kể sự tích thiền sư ĐÀM THIÊN,
đời Tuỳ, có thành lập một Đạo Tràng Thiền Định ở Tây
Kinh. Nhà học giả kiêm triết gia Hồ Thích viết về thiền sư
Thích Đàm Thiên như sau:
“Thiền sư Thích
Đàm Thiên, quê ở Thái Nguyên, chuyên nghiên cứu các kinh Hoa
Nghiêm, Duy Ma, Lăng Già.. khi gặp nạn nhà Bắc Chu hủy diệt
chính pháp, thiền sư đời đến phương Nam học thêm về Duy
Thức, Nhiếp Đại Thừa Luận (trong sách không thấy nói là
thiền sư đã tham học với vị nào.) và ngài rất tâm đắc
“ý chỉ” của hai bộ luận này. Sau thiền sư trở về
Bắc, rồi ở hẳn đây mở trường dạy về Nhiếp Đại
Thừa Luận, Khởi Tín Luận và Kinh Lăng Già. không bao lâu,
thiền sư trở thành một vị đại sư nổi tiếng đương
thời. Thiền sư hợp tác cùng vua Văn Đế nhà Tuỳ, khởi
sự chấn hưng Phật giáo, xây chùa, dựng tháp ở khắp trong
nước..
Thiền sư tịch năm
Đại Nghiệp thứ III 9607). Tác phẩm (của thiền sư) còn
truyền lại cho đời, có:
Nhiếp Luận Sớ 10
quyển.
Lăng Già và Khởi Tín
Sớ..
Qua đoạn văn trên:
chứng minh lời ngài Thông Biện dẫn chứng Sự tích đại sư
Đàm Thiên thuộc đời Tùy là chính xác, chứ không phải đời
Tề như tác giả sách PHẬT GIÁO VIỆT NAM từ khơiû nguyên đến
thế kỷ XIII đã khẳng định: “Đàm Thiên tịch vào khoảng
giữa 479 và 483, cuối triều đại nhà Tề” và. là một
lời “biện” của Thông Biện? - Bản dịch của Tuệ Sỹ,
ban tu thư viện Đại Học Vạn Hạnh 1968, xem các trang 49, 52.
2 Nguyên văn bản chữ Hán trong sách Đại Nam Thiền Uyển
Truyền Đăng Lục:
“. Án Đàm Thiên
pháp sư truyện, Tùy Cao Tổ vị chi pháp dã, Hậu viết: Trẫm
niệm Điều Ngự từ bi chi giáo, báo đức vô do. Vị
thiểm nhân vương, hoằng hộ Tam bảo, dĩ biến thu di thể xá
lợi, nhưng ư quốc nội, lập thụ bảo pháp, phàm tứ thập
cửu sở, biểu thế tân lương. Dư nhất bách ngũ thập tự
tháp. Ngoại các Giao châu chư xứ kiến lập. Ký tư phúc
nhuận, dĩ cập đại thiên. Nhiên bỉ tuy nội thuộc, do hệ cơ
mi, nghi tuyển danh đức sa môn vãng bỉ chư xứ hóa độ, linh
nhất thiết câu đắc Bồ Đề”.
Pháp sư viết:
“Giao Châu nhất phương đạo thông Thiên Trúc, Phật pháp sơ
lai Giang Đông vị bỉ; nhi Luy Lâu hựu trùng sáng hưng bảo sát
nhị thập dư sở, độ tăng ngũ bách dư nhân, dịch kinh
nhất thập ngũ quyền, dĩ kỳ tiên chi cố dã. Vu thời tắc dĩ
hữu Tỳ khưu danh: MA HA KỲ VỰC, KHANG TĂNG HỘI, CHI CƯƠNG LƯƠNG,
MÂU BÁC chi thuộc tại yên.
.Dữ Trung quốc vô
dị. Bệ hạ, thị phổ thiên, Từ phụ, dục bình đẳng thí,
khả độc khiển sứ tương, dật bỉ hữu nhân yên, bất tu vãng
hoá” (Sđd).
1 (Theo Maurice DURAND
nhận xét thì Lý Phật Tử có nghĩa là đồ đệ của Đức
Phật họ Lý, tên của vị anh hùng này chứng tỏ sức bành
trướng của Phật giáo thế kỷ thứ 6 thứ 7. Phật tử ở
ngôi mà năm 580 Vinitaruci (Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi) sang truyền bá
Phật giáo - phần phụ chú sách VĐUL - trg 157.
Việt Điện U Linh
của Lý Tế Xuyên viết vào đời Trần (1329):
“Lý Phật Tử
mất năm 603 Tây lịch, ở ngôi 30 năm”.
Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, theo bài tựa sách này hoàn thành
năm kỷ hợi, Hồng
Đức thứ X (1479). Bản khắc in năm 1697. Ngô
Sỹ Liên lại gán
cho Lý Phật Tử “đầu hàng” nhà Tùy là cố xuyên
tạc nhằm bôi nhọ
Phật giáo. Năm 603 con lý Phật Tử là Sư Lợi
đã nối nghiệp cha
trị vì. Năm 603 do tướng Lưu Phương (nhà
Tuỳ) điều động
đại quân đánh chiếm lấy bằng được nước Vạn
Xuân. Quân ta có
chống mà quân giặc quá mạnh và Sư Lợi đã bị
giặc bắt đưa về
Tàu. Sau đó không biết sống chết ra sao; chứ
không phải là “đầu
hàng” như sử thần Ngô Sỹ Liên đã viết trong
ĐVSKTT - ghi chú
của người viết -
1(GIẢ ĐẢO, tự Lãng
Tiên, trước đi tu làm tăng hiệu là Vô Bản, hay làm thơ, thường
gò từng chữ. Một hôm cỡi lừa đi ngoài đường, nghĩ được
hai câu thơ:Điều túc trì biên thụ, tăng sao nguyệt hạ môn.
Sau muốn đổi chữ sao ra chữ thôi, nhưng còn phân vân chưa
biết dùng chữ nào, rồi cứ một tay ra hiệu gõ cửa, một
tay ra hiệu đẩy cửa. Gặp quan Kinh triệu doãn là Hàn Dũ đi
qua, thấy thế, gọi lại hỏi và bảo nên để chữ sao. Từ
đó người ta gọi lối văn gọt dũa từng chữ là lối thôi
sao. Ông thi tiến sĩ không đỗ, làm chức Trường giang chủ
bạ. (Theo Đường Thi của Lệ thần TRẦN TRỌNG KIM)
2(chú thích của
dịch giả: Trên con đường về, mưa làm phai lạt mùi hương
của chiếc ấn ngài mang theo - áo và ấn đây là tùy thân
của tăng sĩ đắc truyền.)
3Biển vắng không
thuyền bè đi lại, làm sao tôi nhận được tin tức của ngài
sau này.
1Y Vương: Phật được
gọi là Y vương, vua của các thầy thuốc, chữa được mọi
tâm bệnh. Y vương ở đây có nghĩa là Phật Pháp. 2Hổ
Khê: pháp sư Tuệ Viễn ít khi đưa khách qua khỏi khe chảy
ngang trước núi. Pháp sư một lần cùng khách đàm luận về
Đạo Phật vì vui câu chuyện nên đã đi qua khỏi khe, có
một con hổ rống lên vì lấy làm lạ.
1Sử chép: “Khi
sinh ra ông có hào quang sáng khắp nhà, trên lưng có 3 nốt
ruồi, mắt sáng như điện, người xem tướng cho là điềm
lạ, bảo rằng ông sau này sẽ làm vua, nhân đấy đặt tên là
Quyền. Lớn lên ông làm nha tướng của Dương Đình nghệ,
Nghệ gả con gái cho, sai trấn thủ ở Ái Châu. “Vương
đã giết giặc trong nước để phục thù cho chúa, giết địch
bên ngoài để cứu nạn cho nước, dựng quốc độ, nối
lại chính thống, công nghiệp thật là to lớn lắm”.
2(Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh giặc ở Thái Bình, bị địch
thủ bắn chết, cháu là Ngô Xương Xí lên thay, nhưng không ai
phục tòng nữa. Thực chất tình trạng lúc ấy đã phân tán,
các tướng lĩnh mỗi người chiếm giữ một vùng. Sử gọi là
12 sứ quân:
1.Trần Lãm, chiếm
giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)
2.Kiều công Hãn, là
cháu nội của Kiều Công Tiễn, chiếm giữ Phong Châu (H.
Bạch Hạc)
3.Nguyễn Khoan,
chiếm giữ Tam Đới (H. Vĩnh Lộc)
4.Ngô nhật Khánh,
chiếm giữ Đường Lâm (Sơn Tây).
5.Lý Khuê, chiếm
giữ Siêu Loại (Thuận Thành)
6.Nguyễn Thủ
Tiệp, chiếm giữ Tiên Du (Bắc Ninh)
7.Phạm Bạch Hổ,
chiếm giữ Đằng Châu (Hưng Yên)
8.Lữ Đường,
chiếm giữ Tế Giang (H. Mỹ Văn) 9.Nguyễn Siêu, chiếm giữ Tây
Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông)
10.Kiều Thuận,
chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây) 11.Đỗ Cảnh Thạc,
chiếm giữ Đỗ Động (thuộc huyện Thanh Oai)
12.Ngô Xương Xí,
con rai Ngô Xương Ngập, rút về cố thủ Nông Cống (Thanh Hoá).
111.Đinh Tiên Hoàng
làm vua được 12 năm. Về sau chính vua và con cả là Nam Việt
vươngĐinh Liễn bị cận thần Đỗ Thích giết, rồi sau Đỗ
Thích cũng bị bắt và giết đi. Sấm truyền có câu:
Đỗ Thích giết hai
Đinh,
Nhà Lê hiện thánh
minh.
Tranh nhau, nhiều
kẻ chết,
Đường sá, người
vắng tanh”.
(Đỗ Thích thí
Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh. Cạnh đầu đa hoạch tử,
đại lộ tuyệt nhân hành). Đinh Tuệ, sáu tuổi, lên ngôi
vua. Mọi việc triều chính đều do Thập đạo tướng quân Lê
Hoàn cùng với Dương thái hậu đảm nhiệm. Các đại thần
trung thành với triều vua trước của dòng họ Đinh, như các
ông Nguyễn Bặc, Đinh Điền định thanh toán Lê Hoàn nhưng ngược
lại bị lê Hoàn phát giác và giết chết. Giữa lúc tình hình
trong nước rối loạn; bên ngoài nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo
đem quân sang định đánh lấy nước ta. Đứng trước tình
thế khó xử ấy, Lê Hoàn lại được Thái hậu tư thông, âm
mưu với nhau, họp cùng với Phạm Cự Lượng và quân sĩ, tôn
Lê Hoàn lên làm vua để đối phó với quân ngoại xâm; bảo
toàn nền độc lập tự chủ của quốc gia Đại Cồ Việt. Lê
Hoàn (tức Đại Hành hoàng đế) trị vì 24 năm thì mất. Người
con cả là Ngân Tích, không được tôn lập, trái lại, người
con thứ ba là Long Việt được vua cha ưu ái giao cho quyền bính
cai trị muôn dân. Mấy người con của Lê Hoàn tranh nhau
ngôi báu, nổi loạn, người thì chết, kẻ còn sống sót.
Long Việt chính thức lên ngôi chưa được ba ngày thì Long
Đĩnh sai người giết rôì kế vị. Ta cần nên nhớ điều này:
khi Long Việt bị hạ sát thì các quan đều hoảng hốt chạy
trốn hết, ngoại trừ Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ
Lý Công Uẩn là người rất trung và rất can đảm còn ở
lại trong triều.
Dưới thời Lê
Ngọa Triều, người ta phát giác ở châu Cổ Pháp (quê hương
Lý Công Uẩn) có cây đa bị sét đánh, ở ruột cây có
những hàng chữ:
“Thụ căn diểu
diểu
Mộc biểu thanh
thanh
Hòn đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Chấn cung hiện
nhật
Đoàn cung ẩn tinh
Lục thất niên
gian,
Thiên hạ thái bình”.
(Gốc cây sâu thăm
thẳm,
Ngọn cây cao xanh
xanh.
Cây “hòa đao”
rụng xuống
Mười tám hạt hình
thành
Hướng đông mặt
trời mọc,
Phía tây sao náu hình
Trong khoảng sáu
bảy năm
Thiên hạ sẽ thái
bình).
Đây là một
trong những bài thơ “Sấm” xuất hiện vào thời cuối Lê
đầu Lý. Lời giải thích của Ngài Vạn Hạnh đoán rằng:
“Câu thụ căn diểu diểu thì căn là gốc, diểu là yếu đồng
âm nên đọc là yểu (tức là non yểu). Câu mộc biểu thanh
thanh thì biểu là ngọn; ngọn là bề tôi. Chữ thanh đồng âm
với chữ thanh nên viết là thanh, tức là thịnh. Hòa đao
mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý (.) câu chấn cung
hiện nhật, thì Chấn là phương Đông, hiện là hiện ra,
nhật cũng giống như thiên tử. Câu Đoài cung ẩn tinh, thì Đoài
là phương Tây, ẩn cũng như lặn, tinh như thứ nhân. Mấy câu
đó ý nói vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh, họ Lê
mất thì họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra
thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất. Trải qua 6, 7 năm thì
thiên hạ thái bình = Theo trong ĐVSKTT, nguyên văn chữ Hán; Tăng
Vạn Hạnh tư tự bình viết:
Thụ căn diểu
diểu, căn giả bản dã; diểu yểu âm đồng; diểu đương tác
yếu. Mộc biểu thanh thanh, biểu giả mạt dã. Mạt do thần dã;
thanh thanh tương cận; thanh đương tác thanh, thịnh dã. Hòa đao
mộc: Lê tự, thập bát tử: Lý tự ( §õ ) Chấn cung hiện
nhật giả, chấn, đông phương dã; ẩn do một dã; tinh do
thứ nhân dã. Thử ngôn quân yểu thần thịnh; Lê lạc Lý thành;
đông phương xuất thiên tử, tây phương một thứ nhân. Kinh
lục thất niên gian nhi thiên hạ thái bình hĩ - dẫn theo sách
ĐVSKTT tập IV, phần chữ Hán, tr.
106 - Nhà xb/ KHXH -
Trong dân gian có ghi
câu chuyện: “Ở chùa Thiên Tâm, châu Cổ Pháp, có con chó đẻ
ra con chó trắng, lưng có lông đen, nổi lên hai chữ “thiên
tử”, người ta đồn rằng người sinh tuổi tuất sẽ được
đại quý. Quả nhiên vua Lý tức Lý Công Uẩn đẻ vào năm giáp
tuất, niên hiệu Thái Bình thứ 5”. Chép theo Việt Sử Tiêu
Án và trong Thiền Uyển Tập Anh có ghi lại bài thơ:
Tật Lê trầm Bắc
thủy,
Lý tử thụ Nam Thiên.
Tứ phương can qua tĩnh,
Bát biểu hạ hành
yên.
(Gốc Lê(1) chìm
bể Bắc,
Chồi Lý (2) mọc
trời Nam
Bốn phương tan giáo
mác,
Tám cõi được bình
an.
Bản dịch của Đoàn
Thăng - TVLT, tập I
Qua bài thơ sấm trên
cho ta thấy đây là điểm báo trước nhà
Lý sẽ lên thay
thế nhà Tiền Lê đã hết thời!. Hơn nữa, Long Đỉnh
ông vua cuối cùng dòng họ Lê lại rất bạc nhược về cả
tinh thần lẫn vật chất: Long Đỉnh là một con sâu rượu,
suốt ngày say sưa, cộng thêm sự hoang dâm vô độ. Về thể
chất thì Long Đĩnh gần như tê liệt toàn thân, đến nỗi
phải có cận thần khiêng ra long sàng để vua cứ nằm bàn
bạc việc nước với các quan (do đó có tên: Lê Ngọa
Triều); về tinh thần thì Long Đĩnh ở ngay giữa buổi chầu,
đông đủ văn võ bách quan, lại cho một thằng hề đứng bên
cạnh để pha trò, nhạo các đình thần. Đã vậy lại còn
chế ra rất nhiều kiểu hành tội các phạm nhân cực kỳ dã
man: những người bị đưa ra hành hình thường bị Long Đĩnh,
sai lấy cỏ gianh quấn vào người rồi đốt cho chết, hoặc
cho nhốt tội nhân trong chiếc cũi rồi đem thả xuống sông
cho nước cuốn trôi ra biển, hoặc bắt người bị tội trèo
lên cây cao rồi cho chặt gốc hoặc đánh bằng gậy, hoặc
cho rắn cắn chết. Long Đĩnh còn thích chọc tiết bò, lợn,
có lần sai lính bắt nhà sư Quách Ngang (vì ông dấy loạn
chống lại triều đình) đến chầu, hạ lệnh ngồi xuống,
rồi tự tay lấy mía róc lên đầu nhà sư, song chốc lát
lại giả vờ lỡ tay bổ dao. làm cho máu chảy xối xả để
mình cười một cách khoái trá! Đấy là chỉ mới kể có
yếu tố nhân sự có tính cách tranh chấp nội bộ cũng như dùng
hình luật để TRẤN ÁP. làm cho dân khiếp sợ!. chứ chưa nói
đến bất cứ thời nào và lúc nào, cả hai phương Bắc lẫn
phương Nam, luôn luôn có nạn ngoại xâm rình rập để thừa
dịp tràn vào chiếm đất đai. Nạn ngoại xâm đeo dọa và
nạn giết vua đoạt quyền, ở ngay trong nước, là hai ác
mộng chính của thời ấy. Nếu kể cả những điều phụ
nữa thì rất nhiều, nhưng đại khái thì hầu như chẳng bao
giờ Việt Nam thoát được cảnh trộm cướp thành đảng
của người phương Bắc lẫn người bản xứ trên miền thượng
du Bắc Việt, hoặc tại miền Hoa Nam, và ngay ở cả trong các
khu rừng núi rậm rạp, hiểm trở nội địa nữa.
Với sự vừa kể,
hẳn không thể chối cãi điều này: Lê Long Đĩnh, ông vua
cuối cùng, rất quái dị của dòng họ Lê, tất phải bị
thay thế, không do người này thì ắt phải do người khác. Đó
là lẽ dĩ nhiên phải xảy ra..
1.Khi sứ nhà Tống
là Lý Giác sang nước Việt, trong nước không có ai là nho
học lỗi lạc, nên vua phải nhờ hai vị Pháp Thuận và Khuông
Việt ra tiếp sứ, hai vị cùng Tống sứ làm thơ xướng
họa, Tống sứ cũng phải phục tài. Vậy thì dù chữ Hán,
truyền vào Việt Nam đã từ lâu, nhưng trong mười thế kỷ
Bắc thuộc cho đến ba triều độc lập Ngô, Đinh, Tiền Lê,
Nho học chưa đào tạo được một nhân tài bác học nào; người
giỏi lại xuất hiện ở Thiền môn.” Trích Việt Nam Văn
Học Sử Trích Yếu của nghiêm Toản.
---o0o---
|
Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04 | 05 |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Cập
nhật : 01-02-2002