LỜI NÓI ÐẦU (Tập
Một)
Văn học Abhidhamma có thể xem
là môn Tâm Lý Học của Phật giáo vì bốn vấn đề được đem ra giải thích cặn
kẽ hoàn toàn thuộc về con người và đặc biệt là phần tâm thức. Bốn pháp
được đề cập là Citta (tâm), Cetasika (tâm sở), Rùpa (Sắc) và Nibbàna (Niết
bàn). Tâm, Tâm sở, Niết bàn dĩ nhiên thuộc về tâm thức, nhưng Sắc pháp ở
đây nói nhiều về thân thể con người và sự liên lạc giữa thân thể ấy với
tâm thức. Ðạo Phật không bao giờ tách rời Tâm và Sắc vì cả hai đều tương
quan liên đới. Chia chẻ theo 2 pháp thời Nàma (danh) thuộc về Tâm pháp và
Rùpa (Sắc) thuộc về Sắc pháp. Nói đến 5 Uẩn, thời Rùpakkhandha (Sắc uẩn)
thuộc về Sắc pháp còn 4 Uẩn còn lại thuộc về Tâm pháp v.v...
Ðiểm nói bật nhất trong môn học
Abhidharma là sự phân tích rất tinh tế và tỉ mỉ các tâm và tâm sở, và theo
Pàli Abhidhamma, có đến 89 hay 121 tâm (Citta) và 52 tâm sở (Cetasika).
Ðúng với truyền thống "phân tích tông" (Vibhajavàda, một tên khác của
Thượng Tọa Bộ), Pàli Abhidhamma chia chẻ các loại tâm thành Dục giới tâm;
Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm, Siêu thế tâm (theo cảnh giới), hoặc thành
Bất thiện tâm, Vô nhân tâm, Tịnh quang tâm (theo khả năng hướng thiện hay
không hướng thiện), hoặc theo Thiện tâm, Dị thục tâm, Duy tác tâm (theo
khả năng tái sanh một đời sau hay không); hoặc theo Hữu nhân, Vô nhân tâm
(nếu đứng về phương diện căn nhân chi phối các tâm ấy) v.v... Phần tâm sở
lại tế nhị hơn, và chúng ta được biết khi nhãn thức khởi lên thời ít nhất
có 7 Biến hành tâm sở cùng khởi một lần, tức là Xúc, thọ, trưởng, tư, mạng
căn, nhứt tâm và tác ý. Còn tế nhị hơn là những băng thống kê tỉ mỉ tìm
tòi số lượng các tâm sở hiện hành trong một tâm và những tâm sở nào được
tìm thấy trong những loại tâm nào. Chúng ta không ngờ hỷ tâm sở có mặt
trong 51 tâm, xả tâm sở khởi lên trong 70 tâm, và một tâm giản dị như tiếu
sanh tâm cũng có đến 12 tâm sở cùng khởi lên một lần (xúc, thọ, tưởng, tư,
nhứt tâm, tác ý, mạng cặn, tầm, tứ, hỷ, tinh tấn, thắng giải). Một sự cống
hiến đặc biệt của Pàli Abhidhamma cho môn Tâm lý học là sự giải thích về
Cittavìthi hay lộ trình của tâm. Mỗi khi có một sự kích thích ở ngoài
ngang qua 5 căn thời cả một số tâm tiếp diễn liên tục, khởi lên, diệt
xuống lâu cho đến 16 tâm sát-na.
1. Bhavangacalana: Hữu phần chuyển động.
2. Bhavangupaccheda: Hữu phần dừng nghỉ.
3. Pancadvàràvajjana: Ngũ môn hướng tâm.
4. Cakkhuvinnàna: (Nhãn thức hay một trong 4 thức khác).
5. Sampaticchana: Tiếp thọ tâm.
6. Santìrana: Suy đạc tâm.
7. Votthapana: Xác định tâm.
8-14. Javana: Tốc hành tâm.
15-16. Tadàlambana: Ðồng sở duyên tâm.
Như vậy từ khi Hữu phần rung
động cho đến Ðồng sở duyên tâm có đến 16 tâm sát-na, và nếu chúng ta cộng
thêm một tâm sát-na nữa, thời gian cần thiết để đối tượng ở ngoài tiếp xúc
với nội căn, thời chúng ta thấy đời sống một lộ trình của tâm có đến tất
cả 17 tâm sát-na và có 7 loại tâm khởi lên rồi diệt xuống trong một lộ
trình (Từ Ngũ môn hướng tâm đến Ðồng sở duyên tâm). Thật là một sự khám
phá hy hữu, và sự phân tích thật vô cùng tế nhị và khúc chiết.
Tập Abhidhamma không những giải
thích sự diễn tiến của tâm thức khi bị kích thích bởi ngoại trần hay nội
tâm, ngang qua 5 căn hay ngang qua ý căn (Pavattana), mà còn miêu tả Kiết
sanh thức (Patisandhi) liên hệ từ đời này qua đời khác. Ở đây chúng ta
thấy rõ cả sự cố gắng để giải thích trạng thái tái sanh của con người,
những sức mạnh gì đã khiến con người sau khi chết phải đi đầu thai một đời
nữa để thỏa mãn sự đòi hỏi, sự tham sống của kiếp người. Vẫn biết vấn đề
này vượt ngoài sự nhận thức của con người vì chúng ta không nhớ đến khi
chúng ta lâm chung hay đi đầu thai, nhưng sự cắt nghĩa ở đây có thể xem là
hợp lý, khoa học nhất, dựa vào thực tế mà trình bày, và đây cũng là một sự
cống hiến đặc biệt nữa của Abhidhamma cho vấn đề sống chết của con người,
một vấn đề mà các nhà triết gia bao giờ cũng boăn khăn tìm hiểu.
Lama Govinda, một tu sĩ Phật
giáo người Ðức trong quyển The Psychological Attitude of Early Buddhist
Philosophy (Thái độ tâm lý của triết học đạo Phật nguyên thủy) đã xem văn
học Abhidhamma như môn tâm lý học và triết học của đạo Phật. Còn ông
Egerton C. Baptist trong quyển Abhidhamma for the Beginners (Abhidhamma
cho những người sơ cơ) thì so sánh môn học Abhidhamma như môn siêu hình
học của Phật giáo. Nếu siêu hình có nghĩa là vấn đề tìm hiểu Thượng đế và
vấn đề tạo thiên lập địa thì môn học Abhidhamma không thể là môn siêu hình
học, vì hai vấn đề này không được đề cập đến. Ðúng với truyền thống thực
tiễn của Kinh tạng không muốn đề cập đến những vấn đề không liên hệ với
đời sống thực tại, đối tượng của môn học Abhidhamma là vấn đề tâm linh và
hoàn cảnh thực tại của con người đang sống. Nhưng nếu chúng ta định nghĩa
siêu hình là những vấn đề vượt khỏi sự hiểu biết hiện tại cạn cợt và có
giới hạn của chúng ta, thời Abhidhamma có thể xem là môn siêu hình vì Sắc
giới tâm, Vô sắc giới tâm và Siêu thế tâm vượt ngoài sự hiểu biết hiện tại
của con người. Muốn chứng được Sắc giới tâm, phải tu các pháp thiền ở Sắc
giới, muốn hiểu Vô sắc giới tâm phải tu các pháp Thiền ở Vô Sắc giới, và
muốn đạt đến các quả thánh, phải tu quán (vipassanà) về Ba pháp ấn. Ở đây
chúng ta thấy rõ siêu hình không dựa trên lòng tin không bằng chứng vào
tưởng tượng và dự đoán mà chỉ là trạng thái tâm thức chưa được phát giác
ra, bởi vì kinh nghiệm cá nhân của con người chưa đạt tới, và khi đã đạt
tới, thời siêu hình đã trở thành kinh nghiệm cá nhân. Nói một cách khác,
đạo Phật không bác bỏ siêu hình, nếu phần siêu hình được phát giác trên
con đường kinh nghiệm cá nhân. Phần này chỉ bị bác bỏ khi nào chỉ được
hình thành trên con đường của tưởng tượng và dự đoán. Ở đây, theo tạng
Abhidhamma, siêu hình là một khái niệm hoàn toàn tương đối mà ranh giới
tùy thuộc ranh giới kinh nghiệm cá nhân của mình và tùy thuộc vào hình
thức và tầm lực của nhận thức. Ðức Phật nhiếp phục siêu hình với những vấn
đề nan giải của siêu hình, không phải chỉ không biết đến siêu hình, mà
chính với thái độ tích cực và thiết thực, nghĩa là nhờ ở sự tu tập và tiềm
lực của nhận thức, đức Phật thu nhỏ dần ranh giới của siêu hình, và như
vậy siêu hình trở thành kinh nghiệm.
Nói đến đạo đức học tức là giới
vức thứ ba của triết học, Abhidhamma cũng là môn luân lý học của đạo Phật,
vì tất cả lời dạy trực tiếp hay gián tiếp của đức Phật đều hướng con người
đến giải thoát và giác ngộ. Tiêu chuẩn đạo đức ở đây không phải là lời
phán xét của đức Phật, cũng không phải dựa vào truyền thống hay tập tục
của một thời đại nào. Tiêu chuẩn thiện ác ở đạo Phật tùy thuộc ở con người
và 12 Bất thiện trong tâm Abhidhamma được định nghĩa là những tâm khiến
con người đi xa đích giải thoát và giác ngộ, 18 Vô nhân tâm (ahetukacitta)
là những tâm lưng chừng, không tới cũng không lui, và 59 Tịnh quang tâm
(sobhanacitta) là những tâm khiến con người tiến dần đến mục tiêu giải
thoát và giác ngộ. Ở đây, chúng ta cũng phải nhận rõ thái độ của nhà triết
gia Ðông phương không những trình bày lý thuyết của mình mà còn phải sống
theo lý thuyết ấy trên thực tế và kinh nghiệm. Tri hành hợp nhất, trí đức
song tu là những tiêu chuẩn bất di bất dịch cho những triết gia Ðông
phương và do vậy đạo đức học không bao giờ rời khỏi phần triết học trong
tạng Abhidhamma. Tìm cho ra phần luận lý trong tạng Abhidhamma không phải
dễ dàng vì văn học Abhidhamma tuy đã có sự cố gắng hệ thống hóa những tư
tưởng chính của đức Phật, sự phát triển này về luận lý học chưa đến mực độ
trở thành một hệ thống riêng biệt về luận lý như Nhơn minh học (Hetuvidyà)
của Ðại thừa. Nhưng đạo Phật bao giờ cũng chú trọng đến lý trí, suy luận,
thực tu thực chứng lẽ dĩ nhiên bao giờ cũng kính trọng những nguyên tắc
căn bản của pháp suy luận và do vậy chúng ta có thể nói phần luận lý lúc
nào cũng tiềm tàng trong tạng Abhidhamma.
Một vấn đề nữa cũng rất quan
trọng trong khi đề cập đến Abhidhamma là sự liên lạc giữa Kinh tạng và
Luận tạng, và sự sai khác giữa hai tạng ấy. Dầu Kinh tạng là phần tử hấp
dẫn nhất trong Ba tạng, và được xem là nguyên thủy nhất, Kinh tạng vẫn là
sự sưu tầm những lời dạy của đức Phật cho từng trường hợp, từng hoàn cảnh,
từng cá nhân lẻ tẻ, nhiều khi không có liên hệ tương quan. Abhidhamma tạng
là cả một sự cố gắng hệ thống hóa những lý thuyết và phương pháp tiềm tàng
và rải rác trong Kinh tạng, và đặc biệt đặt những hệ thống ấy trên một bối
cảnh chung và nhờ vậy giúp chúng ta có một khái niệm tổng quát và quán
xuyến về đạo Phật. Chúng ta không thể lấy những điều kiện lịch sử để phán
đoán giá trị của Abhidhamma, vì rất có thể những phần tử quan trọng của
Abhidhamma được hình thành một lần với Kinh tạng. Phần lớn các nhà học giả
đều đồng ý rằng tạng Abhidhamma được tổ chức và phát triển từ các Matrikà,
nghĩa là những công thức đã có sẵn trong kinh tạng, và như vậy tạng
Abhidhamma vẫn có thể được xem là tạng có tánh cách nguyên thủy. Vả lại
chính trong Kinh tạng, cũng có những loại kinh hoặc bộ kinh mang nặng đặc
chất Abhidhamma hơn là Kinh tạng, như kinh Sangìtisutta trong bộ
Dìghanikàya và tập Niddesa trong bộ Khuddakanikàya. Và như Lama Govinda đã
nói, "chính trong thời đức Phật tại thế, vẫn không có một đạo Phật tuyệt
đối, một hình thức giáo điều của sự thật, mà chỉ có một sự hướng dẫn về
phương hướng và phương pháp có thể đưa đến sự tự chứng cá nhân. Khi nào
Abhidhamma còn phụng sự được lý tưởng này bằng cách chỉ cho chúng ta rõ,
một ít nét đại cương của tư tưởng Phật giáo, thì vấn đề tạng Abhidhamma
được kiết tập sớm hay muộn không có gì quan trọng cả".
Về phương pháp diễn đạt, tạng
Abhidhamma chú trọng đặc biệt về một hệ thống gọi là Patisambhidà (Vô ngại
giải hay Pratisamvit, một hệ thống của luận lý phân tích). Hệ thống này
được chia thành bốn ngành. 1) Phân tích về ý nghĩa (Nghĩa vô ngại giải,
Attha) của các danh từ (hay vật, vì danh từ định nghĩa sự vật). 2) Phân
tích về pháp (Dhamma, Pháp vô ngại giải). Chữ pháp được tập Vibhanga và
ngài Buddhaghosa, định nghĩa là sự hiểu biết về những nguyên nhân của sự
vật. 3) Phân tích về văn phạm (Từ vô ngại giải, Nirutti), 4) Phân tích về
Patibhàna (Biện vô ngại giải). Nhưng trong bộ luận chữ Hán Tsa-tsi, Attha
lại có nghĩa là sự hiểu biết về những danh từ riêng và chung, và Dhamma có
nghĩa là các Ðồng nghĩa. Trong tập Niddesa, các danh từ được giải thích
bằng một danh sách dài các chữ Ðồng nghĩa (Dhamma) và các chữ khác được
dùng những định nghĩa thông thường (Attha). Còn địa phương ngữ và những
hình thức đặc biệt cũng cần giải thích và đó chính là Nirutti. Ngoài ra,
còn có sự giải thích về giáo lý và ở đây cần phải có sức biện tài
(Patibhàna).
Một đặc tánh nữa của tạng
Abhidhamma mà các luận sư cho là rất đặc biệt là sự cố gắng của tạng
Abhidhamma giải thích sự vật theo đệ nhứt nghĩa đế (Paramatthasacca), chớ
không theo tục đế (Sammutisacca) như trong Kinh tạng. Như khi nói đến cái
bàn, là theo tục đế, nhưng khi nói đến những cơ năng, những đặc tánh tạo
thành cái bàn là nói đến Ðệ nhứt nghĩa đế. Trong Kinh tạng, đức Phật
thường dùng những danh từ đàn ông, đàn bà, hữu tình, tự ngã. Trái lại
trong Abhidhamma, những danh từ như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới
được dùng. Nói đến người thời có sự sai khác giữa đàn ông đàn bà, con nít
người lớn, người thông minh kẻ ngu dốt và như vậy nằm trong phạm vi Tục
đế. Khi nói đến năm uẩn hay mười hai xứ, thời không có sự phân biệt trên
và con người chỉ là sự tụ họp của năm uẩn hay năm pháp.
Khi chúng tôi bắt đầu dịch tập
này, chúng tôi gặp một sự khó khăn lớn là có nhiều danh từ chưa bao giờ
được dịch ra chữ Hán và như vậy chúng tôi phải tự dịch theo nghĩa, hoặc
dịch theo ý. Với những danh từ như Pìti (Hỷ), Vitakka (Tầm), Vicàra (Tứ),
thời không có gì khó khăn vì chữ Hán đã dùng nhiều lần. Nhưng Citavìthi
(Tâm lộ hay lộ trình của tâm), Parikamma (chuẩn bị), Upacàra (cận hành),
Anuloma (thuận thứ), Gotrabhù (chuyển tánh), Appanà (an chỉ) v.v... toàn
là những danh từ mới mẻ, phải tự dịch ra. Ðể tiện tìm hiểu và khảo cứu,
chúng tôi cho in hai tập ngữ vựng, Pàli - Việt và Việt - Pàli, toàn những
danh từ chuyên môn. Khi gặp chữ Pàli, muốn tìm chữ dịch ra tiếng Việt thì
tìm ngữ vựng Pàli - Việt. Khi gặp chữ Việt mà muốn tìm chữ Pàli tương
đương thì tìm ngữ vựng Việt - Pàli. Vì đây không phải là tự điển, nên
chúng tôi chỉ cho in những danh từ chuyên môn mà thôi.
Trong khi dịch và giải thích
tập này, chúng tôi chia mỗi đoạn văn thành bốn phần:
I. Pàli văn, tức là bản văn chính.
II. Thích văn, là dịch những chữ Pàli khó ra Việt văn.
III. Việt văn, là bản dịch Pàli văn ra Việt văn.
IV. Thích nghĩa, là giải thích đoạn văn trên.
Sự trình bày này giúp nhiều cho
những người mới biết riêng Pàli cũng như những ai muốn nghiên cứu sâu vào
vấn đề. Riêng đối với những người chỉ muốn hiểu tiếng Việt cũng có thể học
hỏi nghiên cứu không có gì khó khăn. Tập này cũng có dụng ý giúp cho sinh
viên Vạn Hạnh học chứng chỉ Abhidhamma và sinh viên Văn khoa Sài Gòn học
chứng chỉ Triết Ấn, vì khi nào có sách học thời rất dễ cho sự tìm hiểu và
chính nhờ sự hiểu biết về căn bản của tập này, sinh viên mới có sự hiểu
biết căn bản để nghiên cứu các tác phẩm khác.
Quyển Abhidhammatthasangaha này
là quyển sách căn bản cho những ai muốn tham học tạng A-tỳ-đàm và trở
thành quyển sách đầu giường cho chư Tăng Miến Ðiện, Tích Lan, Thái Lan
v.v... Không những tập này cho chúng ta những hiểu biết căn bản về môn học
Abhidhamma, tập này có thể xem là chìa khóa độc nhất mở cửa cho chúng ta
vào tham cứu bảy tập Abhidhamma chính thống, mà sự trình bày, cùng những
danh từ chuyên môn khó hiểu và khô khan đã làm chán ngán thất vọng những
kẻ sơ cơ muốn tìm hiểu tạng này. Ngài Anurudha đã thành công khi ngài chẩn
mạch được căn bệnh cổ truyền và khéo hệ thống hóa tư tưởng và triết học
Abhidhamma một cách gọn ghẽ súc tích, khiến cho tập này trở thành một
quyển sách đầu giường cho các Tăng ni Phật tử muốn nghiên cứu Luận tạng
A-Tỳ-đàm. Tập này đã được dịch ra tiếng Miên, Thái, Tích Lan, Miến Ðiện,
Ấn Ðộ, Anh, Pháp v.v... chỉ trừ có tiếng Việt và bản dịch này là để bổ
khuyết sự thiếu sót ấy.
Về phần giải thích, chúng tôi y
cứ vào hai bản Abhidhammatthasangaha của Ðại Ðức Narada, người Tích Lan và
Ðại Ðức Kashyap, Viện Trưởng Viện Phật Học Nalanda người Ấn. Ngài Narada
dịch rất sát nguyên văn và phần chú thích chú trọng nhiều về ngữ nguyên
các danh từ cùng những giải thích truyền thống. Ngài Kashyap trái lại dịch
rất thoát nguyên văn và thích nắm giữ những khái niệm chính của từng mục,
từng đoạn. Dung hòa hai phương pháp và kết nạp và trích lựa tinh hoa của
hai tập trên, tập "Thắng pháp Tập yếu" bằng tiếng Việt này là sự cố gắng
để phụng sự Phật học nước nhà nói chung và Ban Tu Thư Viện Ðại Học Vạn
Hạnh nói riêng. Chúng tôi cũng có hy vọng tập này sẽ mở đầu cho một sự so
sánh giữa tập Pàli Abhidhamma và Tạng Sanskrit Abhidhamma, và tập Pàli
Abhidhammatthasangaha và tập Sanskrit Abhidharmakosa, một sự so sánh rất
hào hứng, đầy những khám phá mới lạ và thích thú.
Tập Abhidhammatthasangaha có
đến 9 chương và chúng tôi dịch đến chương thứ V. Còn bốn chương sau, chúng
tôi sẽ cho dịch tiếp.
Mùa Phật Ðản 2510
Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh
-ooOoo-
LỜI NÓI ÐẦU
(Tập Hai)
Bản dịch quyển
"Abhidhammasangaha" (Thắng Pháp Tập Yếu Luận) tập II nay mới được in xong,
dầu chúng tôi dịch xong đã khá lâu, nguyên do chính vì vấn đề ấn loát khó
khăn, nhất là in chữ Pàli, vật liệu khan hiếm đắt đỏ, và trách nhiệm của
một vị Viện Trưởng khá đa đoan phiền toái.
Tập II này đề cập đến hai Thắng
pháp còn lại là Rùpa (Sắc) và Nibbana (Niết Bàn) được phân chia như sau:
Chương VI: Sắc Pháp
Chương VII: Các danh từ Abhidhamma phân loại theo Bất thiện, Thiện và
Bất thiện, liên hệ với Giác ngộ.
Chương VIII: Duyên khởi và Duyên hệ
Chương IX: Tu tập và đối tượng Tu tập,
Cũng như tập I, chúng tôi có in
bản chính Pàli, tiếp theo là Thích văn, Dịch văn và Thích nghĩa, chúng tôi
y cứ vào hai bản Abhidhammatthasangaha của Ðại Ðức Nàrada, Tích Lan và Ðại
Ðức Kashyap, Viện Trưởng Viện Ðại học Nalandà, Ấn Ðộ.
Chúng tôi gặp rất nhiều khó
khăn về các danh từ Abhidhamma chuyên môn, những danh từ chuyên môn có chữ
Hán tương đương thời chúng tôi dùng chữ Hán đã được Việt hóa, còn những
danh từ không có chữ Hán tương đương, chúng tôi phải tạm thời dịch theo
nghĩa để chờ đợi tìm được những danh từ chính xác hơn. Bao giờ cũng vậy,
đi tiên phong trong vấn đề nào cũng có những khó khăn trong bước đầu, và ở
đây tìm được những danh từ Việt hay Việt hóa sát nghĩa với nguyên văn là
cả một vấn đề thiên nan vạn nan. Chúng tôi sẵn sàng chấp nhận những khó
khăn ấy để mở đường cho những dịch phẩm về sau về Pàli Abhidhamma.
Sài Gòn, ngày 15 tháng 12 năm 1973
Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh
Ghi chú: Có thể tham chiếu thêm với:
1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản
dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy đủ các ký tự Pàli).
2) A Manual of Abhidhamma,
bản dịch Anh ngữ và chú thích của Hòa thượng Narada.
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09 | 10
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002