Lời mở đầu
Như danh từ hàm xúc ý nghĩa, Abhidhamma, Vi Diệu Pháp, là
Giáo Huấn Cao Siêu, vi diệu, thù thắng, của Ðức Phật. Sách
nầy trình bày phần tinh hoa của Giáo Pháp mà Ngài ban
truyền.
Giáo Pháp nằm trong tạng Kinh (Sutta Pitaka) là giáo huấn
thông thường, có tánh cách quy ước, chế định (vohāra
desanā). Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) là giáo huấn cùng tột
(paramattha desanā) rốt ráo. Không thể đổi thay hay biến
chuyển, không thể phân tách thêm được nữa.
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành
phần tâm linh và vật chất cấu tạo guồng máy phức tạp
của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ. Những
diễn tiến chánh yếu liên quan đến tiến trình sanh và tử
đều được giải thích tường tận. Những điểm phức
tạp và khó hiểu trong Giáo Pháp đều được rọi sáng. Con
Ðường giải thoát được chỉ vạch với những ngôn từ rành
rẽ.
Tâm lý học hiện đại, còn hạn định, vẫn nằm trong
phạm vi của Vi Diệu Pháp khi đề cập đến tâm, tư tưởng,
tiến trình tư tưởng và trạng thái tâm. Nhưng Vi Diệu Pháp
không chấp nhận có một linh hồn, xem như một thực thể
đơn thuần thường còn, không biến đổi. Phật Giáo dạy
một tâm lý học trong đó không có linh hồn trường cửu.
Tâm thức được định nghĩa. Tư tưởng được phân tách
và được sắp xếp thành loại trên bình diện luân lý.
Tất cả những trạng thái tâm, hay tâm sở, đều được
ghi rõ từng khoản. Thành phần cấu hợp của mỗi loại tâm
đều được trình bày tường tận với đầy đủ chi
tiết. Những tiến trình tâm phát sanh qua năm cửa giác quan
và cửa tâm (ý căn) được mô tả một cách vô cùng hứng
thú. Không có bản khái yếu tâm lý học nào giảng giải
tiến trình tâm được rõ ràng như vậy.
Những chặp tư tưởng Bhavaṅga (Hộ Kiếp) và Javana
(Tốc Hành) mà trong tâm lý học hiện đại không có gì tương
đương, chỉ được giải thích trong Vi Diệu Pháp. Người tìm
học hỏi và nghiên cứu khoa tâm lý sẽ đặc biệt thích thú
với đoạn nầy.
Người thông suốt Vi Diệu Pháp sẽ nhận thức một cách
hết sức rành mạch rằng luồng tâm trôi chảy như một dòng
suối, quan điểm mà vài tâm lý gia hiện đại như William
James cũng trình bày tương tợ. Ta phải thêm rằng người
học Vi Diệu Pháp có thể thấu hiểu đầy đủ lý Vô Ngã
(Anattā), giáo lý nòng cốt của Phật Giáo. Giáo lý nầy
rất quan trọng về cả hai phương diện: triết học và đạo
đức.
Hiện tượng chết, tiến trình tái sanh vào những cảnh
giới khác nhau mà không có gì di chuyển từ kiếp nầy sang
kiếp khác, giáo lý Nghiệp Báo và Tái Sanh mà ta có thể
kiểm chứng bằng những sự kiện hiển nhiên, tất cả đều
được giải thích đầy đủ.
Chứa đựng một kho tàng quý báu những chi tiết liên
quan đến phần tâm linh (nāma, danh) Vi Diệu Pháp cũng đề
cập đến yếu tố thứ nhì cấu thành con người -- phần
vật chất (rūpa, sắc). Những thành phần căn bản của
vật chất, những năng lực vật chất, đặc tánh của vật
chất, nguồn gốc của vật chất, sự liên quan giữa cơ
thể vật chất và tâm, sắc và danh, đều được mô tả.
Trong tập "Abhidhammattha Saṅgaha", Vi Diệu Pháp
Toát Yếu, cũng có trình bày vắn tắt Ðịnh Luật Tùy
Thuộc Phát Sanh (cũng được gọi là pháp Thập Nhị Nhân
Duyên, hay Thập Nhị Duyên Khởi), và tiếp theo sau là phần
mô tả pháp Tương Quan Duyên Hệ (những tương quan giữa nhân
và quả), không tìm thấy trong hệ thống triết học nào khác.
Nhà vật lý học sẽ không đào bới sâu vào Vi Diệu Pháp
để thâu thập một kiến thức thấu đáo và đầy đủ
về vật lý học.
Ta phải nói rõ rằng Vi Diệu Pháp không chủ trương trình
bày một kiến thức có hệ thống về tâm và vật chất. Pháp
nầy chỉ nghiên cứu hai yếu tố hổn hợp của cái được
gọi là chúng sanh, nhằm thấu triệt thực tướng của vạn
pháp. Dựa trên kiến thức ấy một triết học được phát
huy. Và, đặt nền tảng trên triết học nầy, một hệ
thống luân lý đạo đức được triển khai nhằm chứng
ngộ mục tiêu cứu cánh, Niết Bàn.
Cũng như Bà Rhys Davids nói rất đúng,
"Vi Diệu Pháp đề cập đến:
1. Những gì ta tìm thấy (a) bên trong ta, (b) quanh ta, và
2. Những gì ta khao khát thành đạt."
Trong Vi Diệu Pháp tất cả những vấn đề nào chỉ liên
quan đến các học giả và những nhà khảo cứu mà không liên
quan đến sự Giải Thoát, đều được thận trọng gác qua
một bên.
Tập "Abhidhammattha Saṅgaha", mà tác giả được
xem là Ngài Anuruddha Thera, một vị tỳ khưu người Ấn ở
Kanjevaram (Kañcipura), là bản toát yếu tóm lược Tạng
Diệu Pháp (Abhidhamma Piṭaka, thường được gọi là Tạng
Luận). Ðến nay sách nầy vẫn còn là bộ sách nhập môn Vi
Diệu Pháp thích ứng nhất mà khi đã vững vàng thấu
hiểu, ta có thể dễ dàng lãnh hội những nét đại cương
của Tạng Luận.
Ðể thật sự nắm vững ý nghĩa của Tạng Luận phải
đọc đi đọc lại nhiều lần, đọc một cách chuyên chú và
sáng suốt tất cả bảy bộ, cùng với những chú giải và
những chú giải của các chú giải ấy.
Vi Diệu Pháp không phải là một đề tài chỉ thỏa mãn
tạm thời người đọc thoáng qua.
Ðối với người minh mẫn sáng suốt thật sự muốn tìm
chân lý, Vi Diệu Pháp là một hướng dẫn thiết yếu, vừa
là một luận giải có tánh cách trí thức. Ở đây có
thức ăn để bồi dưỡng tinh thần các tư tưởng gia chân
chánh cũng như người hăng say nghiên cứu học hỏi nhằm tăng
trưởng trí tuệ và sống cuộc sống lý tưởng của người
Phật tử.
Tuy nhiên, đối với người nông cạn chỉ nhìn thoáng qua
trên bề mặt, Vi Diệu Pháp quả thật khô khan như cát, như
bụi.
Ta có thể nêu lên câu hỏi:
"Vi Diệu Pháp có quả thật tuyệt đối thiết yếu
để chứng ngộ Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo
không? Vi Diệu Pháp có thật sự tuyệt đối thiết yếu để
thấu đạt thực tướng của vạn pháp không?"
Vi Diệu Pháp chắc chắn là vô cùng hữu ích để thấu
đạt giáo huấn của Ðức Phật một cách đầy đủ và
chứng ngộ Niết Bàn, vì pháp nầy là chìa khóa để mở
cửa vào thực tại. Pháp nầy đề cập đến những thực
tại và lối sống thực tiễn cao thượng dựa trên sự
chứng nghiệm của các bậc đã thấu triệt và chứng đắc.
Thiếu kiến thức về Vi Diệu Pháp đôi khi ta thấy khó lãnh
hội ý nghĩa thật sự của một vài giáo huấn thâm diệu
của Ðức Thế Tôn. Abhidhamma, Vi Diệu Pháp, chắc chắn
rất hữu ích để khai triển Tuệ Minh Sát (Vipassanā).
Tuy nhiên chúng ta không thể khẳng định một cách quả
quyết rằng Vi Diệu Pháp tuyệt đối thiết yếu để thành
tựu Giải Thoát.
Hiểu biết thấu đáo và chứng ngộ là vấn đề thuần
túy cá nhân (sandiṭṭhika, mỗi cá nhân phải thấu triệt
chân lý và thành tựu giải thoát cho chính mình). Tứ Diệu
Ðế, nền tảng của giáo huấn mà Ðức Phật ban truyền, tùy
thuộc nơi tấm thân nhỏ bé nầy. Giáo Pháp không riêng
biệt với ta, không ở ngoài ta. Hãy nhìn trở vào trong. Hãy
tự tìm lấy ta. Chân lý sẽ tự nó bày trần, trải ra trước
mắt ta.
Phải chăng thiếu phụ Paṭācārā, vô cùng sầu lụy vì
mất tất cả những người thân yêu nhất trong đời, đã
chứng ngộ Niết Bàn trong khi rửa chân dưới suối, nhờ quán
niệm về những giọt nước từ chân rơi xuống gieo điểm
trên mặt nước rồi tan biến theo dòng?
Phải chăng Cūlapanthaka, người không thể học thuộc
một câu kinh trong thời gian bốn tháng trường đã thành
tựu Ðạo Quả A La Hán nhờ thấu hiểu bản chất vô thường
của một cái khăn tay sạch mà mỗi ngày ông đưa lên ngay
mặt trời để nhìn?
Phải chăng Upatissa, về sau trở thành Ðức Sāriputta, Xá
Lợi Phất, đã chứng đắc Niết Bàn khi chỉ nghe được phân
nửa câu kệ liên quan đến nhân và quả?
Ðối với vài người, chỉ một chiếc lá vàng rơi cũng
đủ để chứng đắc Ðộc Giác Phật.
Ðối với những vị thường xuyên suy gẫm sâu xa, một
chỉ dẫn nhẹ nhàng thoáng qua cũng đủ để khám phá
những chân lý vĩ đại.
Theo một vài học giả, Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) không
phải do Ðức Phật truyền dạy mà về sau, do các nhà sư uyên
bác soạn thảo và trau chuốt. Tuy nhiên, theo truyền thống,
chính Ðức Phật giảng dạy phần nòng cốt của Vi Diệu Pháp.
Các nhà chú giải ghi nhận rằng để tỏ lòng tri ân từ
mẫu -- lúc bấy giờ đã qua đời và tái sanh vào một
cảnh trời -- Ðức Phật thuyết giảng liên tiếp suốt ba
tháng cho vị Trời mà trước kia là mẹ Ngài cùng với chư
Thiên khác. Ðức Thế Tôn dạy Ngài Sāriputta những chủ đề
chánh yếu (mātikā) của giáo lý cao siêu cấp tiến như các
thiện pháp (kusalā dhamma), bất thiện pháp (akusalā dhammā) và
bất định pháp (abyākata) v.v... rồi Ngài Sāriputta giảng
rộng ra, gom lại thành sáu bộ sách của Tạng Luận (ngoại
trừ bộ Kathāvatthu, Thuyết Sự, những điểm tranh luận).
Rất khó mà tìm được một danh từ thích nghi để phiên
dịch một cách chính xác Phạn ngữ "Abhidhamma". Ở
đây xin tạm dịch là "Vi Diệu Pháp".
Trong Vi Diệu Pháp cũng có nhiều danh từ kỹ thuật không
thể được phiên dịch sang một từ ngữ khác mà khỏi làm
sai lệch ý nghĩa. Vài danh từ như tâm, ý chí, tác ý, trí
thức, tri giác v.v... được dùng trong triết học Tây Phương
với những ý nghĩa đặc biệt. Nơi đây xin quý vị đọc
giả cố gắng hiểu các danh từ kỹ thuật ấy theo nghĩa
của Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Ðể tránh hiểu lầm từ ngữ
theo lối hiểu biết quen thuộc từ xưa, các danh từ Pāli
được giải thích và giữ lại dùng ở đây, mặc dầu người
không quen thuộc với Pāli đôi khi thấy phiền phức. Trong
nhiều trường hợp các danh từ Pāli được chiết tự và
giải thích theo ngữ nguyên để được hiểu rõ ràng và chính
xác.
Ðôi khi danh từ Pāli được chọn dùng luôn mà không phiên
dịch để người đọc quen thuộc với những chữ ấy. Cũng
có khi người đọc gặp những danh từ không được thông
dụng như hoặc lậu, tâm hành, tâm quả v.v... nhưng rất
quan trọng trên phương diện Vi Diệu Pháp, ý nghĩa của
những danh từ nầy phải được thông suốt rõ ràng và chính
xác.
Trong khi soạn thảo bản dịch nầy, hai quyển "Buddhist
Psychology" của Bà Rhys Davids và "Compendium of
Philosophy" của Ông Shwe Zan Aung quả thật vô cùng
hữu ích. Mỗi khi cần, những đoạn trong hai quyển sách
nầy được trích dẫn và đăng nguyên văn cùng với lời
ghi chú về xuất xứ của nó.
Tôi chân thành tri ân hội Buddhist Publication Society đã tình
nguyện ấn hành bản duyệt lại lần thứ nhì nầy.
- Nārada
14-07-1978/ 2522
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002