(CITTA - SAṄGAHA - VIBHĀGO)
NHỮNG LOẠI TÂM VƯƠNG KHÁC NHAU
Câu kệ mở đầu:
1. Sammāsambuddhamatulaṁ
-- sasaddhammagaṇuttamaṁ
Abhivādiya bhāsissaṁ
-- Abhidhammatthasaṅgahaṁ. |
§1.
Tôi xin thành kính đảnh lễ đấng Toàn
Giác Vô Song, Giáo Pháp Tối Thượng và Giáo Hội Chúng Tăng Cao
Quý, và xin nói về những gì được chứa đựng
trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). |
Chú Giải:
1. Abhidhammattha-Saṅgaha, Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
là tựa của
quyển sách nầy. Theo đúng nghĩa của từng chữ, Abhidhamma là "Giáo Lý Cao
Siêu". Attha ở đây là "sự vật". Saṅgaha là một toát yếu, một quyển sách
khái lược bao gồm những nét đại cương. Tiếp đầu ngữ "abhi" được dùng
trong nghĩa ưu thắng, vĩ đại, tuyệt diệu, tối thượng, lỗi lạc v.v...
2. Dhamma, Pháp, là một danh từ có nhiều ý nghĩa, do căn "dhar",
nắm giữ, nâng đỡ. Ở đây danh từ dhamma, pháp, có nghĩa là giáo lý hay
lời dạy, giáo huấn. Theo sách Atthasālinī, "abhi" có nghĩa "atireka",
cao hơn, vĩ đại hơn, vượt lên trên -- hoặc "visiṭṭha", lỗi lạc, thù
thắng, đặc biệt, tối thượng.
Abhidhamma có nghĩa là Giáo Lý Cao Siêu, vì pháp nầy giúp thành tựu
Giải Thoát, hay bởi vì pháp nầy vượt lên trên, cao hơn giáo lý chứa đựng
trong Tạng Kinh (Sutta Piṭaka) và Tạng Luật (Vinaya Piṭaka).
Trong Tạng Kinh (Sutta Piṭaka) và Tạng Luật (Vinaya Piṭaka) Ðức Phật
dùng những danh từ tục đế, chế định, như người, thú, chúng sanh v.v...
Trong Tạng Diệu Pháp trái lại, mỗi sự vật đều được phân tách tỉ mỉ, và
Ngài dùng những danh từ trừu tượng. Vì để làm tỏ rạng phương pháp luận
giải nầy nên gọi là Abhidhamma, Giáo Pháp Cao Siêu, hay Vi Diệu Pháp.
Như vậy, trước tiên, vì thế ưu thắng của giáo lý hay vì pháp nầy dẫn
đến giải thoát, và vì phương pháp phân tách luận giải tuyệt hảo, pháp
nầy được gọi là Abhidhamma, Vi Diệu Pháp hay Thắng Pháp [1].
3. Abhidhamma Piṭaka, Tạng Diệu Pháp, thường gọi là Tạng Luận,
gồm bảy bộ là: Dhammasaṅganī, Vibhaṅga, Dhātukathā, Puggalapaññatti,
Kathāvatthu, Yamaka và Paṭṭhāna [2].
A. Dhammasaṅganī, "Phân Loại các Pháp", bộ Pháp Tụ. [3]
Bộ nầy chia làm bốn chương là:
a. Tâm Vương (Citta), b. Sắc (Rūpa), c. Tóm Lược (Nikkhepa), d.
Biện Minh (Atthuddhāra).
Bộ sách nầy giải thích 22 Tika Mātikās (đoạn kệ ba câu đi liền
nhau) và 100 Duka Mātikās (đoạn kệ hai câu đi liền nhau) bao gồm phần
tinh túy của Tạng Diệu Pháp. Phần lớn của bộ nầy giải thích ba câu đầu
tiên -- Thiện Pháp (Kusalā Dhamma), Bất Thiện Pháp (Akusalā Dhamma) và
Bất Ðịnh Pháp (Abyākatā Dhammā) [4].
Kể về lượng, bộ nầy hơn mười bhānavāras (bài), tức là hơn 104,000
chữ [5].
B. Vibhaṅga, "Những Tiết Mục", bộ Phân Tích.
Bộ nầy chia làm mười tám (18) mục.
Ba mục đầu, quan trọng hơn tất cả, đề cập đến Khandha (Uẩn),
Āyatana (Xứ) và Dhātu (Giới, hay các Nguyên Tố cấu thành vật chất,
sắc). Các mục khác đề cập đến Sacca (Ðế, chân lý), Indriya (Căn, những
khả năng kiểm soát), Paccayākāra (Duyên Khởi), Satipaṭṭhāna (nền tảng
của Niệm", hay Niệm Xứ), Sammappadhāna (cố gắng tột bậc, Chánh Cần),
Iddhipāda (phương tiện thành tựu, hay Thần Túc), Bojjhañga (những yếu
tố của trí tuệ, hay Giác Chi), Jhāna (Thiền), Appamaññā (Vô Lượng),
Magga (Ðạo), Sikkhāpada (Giới Luật), Paṭisambhidā (Tri Kiến Phân
Giải), Ñāṇa (Trí Tuệ), Khuddakavatthu (Ðề Mục Phụ Thuộc) và
Dhammahadaya (Tinh Chất Chánh Yếu của Chân Lý).
Phần lớn những tiết mục nầy gồm ba phần: giải thích theo Kinh
(Suttanta), giải thích theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) và giáo lý đại
cương (Pañhapucchaka).
Bộ nầy gồm ba mươi lăm bhānavāras (280,000 chữ).
C. Dhātukathā, "Luận Giải về các Ðại Nguyên Tố", bộ Chất Ngữ, hay
Giới Thuyết.
Sách nầy luận: các pháp nầy có nằm hay không nằm trong, liên hợp
hay tách rời ra không liên hợp, với các Uẩn (Khandha), các Xứ
(Āyatana) và các Giới, hay Ðại Nguyên Tố cấu thành sắc (Dhātu).
Bộ nầy gồm mười bốn chương, nhiều hơn sáu bhānavāras (48,000 chữ).
D. Puggalapaññatti, "Chỉ Danh Những Cá Tánh", bộ Nhân Chế Ðịnh, hay
Nhân Thi Thiết.
Về phương pháp trình bày, sách nầy giống như bộ Tăng Nhứt A Hàm
(Anguttara Nikāya) của Tạng Kinh. Thay vì đề cập đến các Pháp khác
nhau, sách nầy đề cập đến những loại có cá tánh khác nhau. Có mười
chương. Chương đầu đề cập đến những cá tánh đơn độc. Chương nhì các
nhóm có hai cá tánh. Chương ba, các nhóm có ba cá tánh v.v...
Kể về lượng, sách nầy hơn năm bhānavāras (40,000 chữ)
E. Kathāvatthu, "Những Ðiểm Tranh Luận", bộ Ngữ Tông, hay Biện
Giải.
Tác giả của bộ sách nầy được nói là Ðại Ðức Moggalliputta Tissa
Thera, được nổi tiếng thời Vua Dhammāsoka (A Dục). Chính Ngài chủ tọa
cuộc Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba tại Pāṭaliputta (Patna) vào thế kỷ
thứ III trước Dương Lịch. Tại hội nghị nầy bộ sách của Ngài
Moggalliputta được xếp vào Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma Piṭaka).
Bản Chú Giải của tập Atthasālinī ghi nhận rằng bộ nầy gồm một ngàn
(1,000) bài Kinh (Suttas): năm trăm (500) là chánh thống, còn năm trăm
không hợp với quy tắc chánh truyền. Về lượng, bộ nầy lối cỡ bộ Dīgha
Nikāya, Trường A Hàm.
Sách đề cập đến 216 điểm tranh luận, và chia làm 23 chương.
F. Yamaka, "Sách Gồm Những Câu Ðược Sắp Xếp Từng Cặp", bộ Song Ðối,
hay Song Luận.
Gọi như vậy vì theo phương pháp luận giải của sách nầy, suốt từ đầu
đến cuối, luôn luôn có hai câu đi đôi. Một câu hỏi và một câu đối lại,
(mệnh đề hoán vị). Thí dụ cặp đầu của chương đầu đề cập đến "Căn", hay
cội rễ, nguồn gốc, lập luận như sau: "Có phải tất cả các thiện pháp
đều là thiện căn không? Và có phải tất cả các thiện căn đều là thiện
pháp không?"
Bộ nầy chia làm mười chương là: Mūla (Căn, hay cội rễ), Khandha
(Uẩn), Āyatana (Xứ, hay thành phần có liên hệ đến giác quan, lục căn),
Dhātu (Giới, hay nguyên tố cấu thành vật chất, sắc), Sacca (Ðế, hay
chân lý), Saṅkhāra (vật cấu tạo, hay pháp Hữu Vi), Anusaya (Tiềm Thùy,
tâm tánh tiềm ẩn ngủ ngầm trong luồng nghiệp của chúng sanh), Citta
(Tâm Vương), Dhamma (Pháp), và Indriya (khả năng kiểm soát, cũng gọi
là Căn hay Quyền).
Sách gồm 120 bhānavāras (960,000 chữ)
G. Paṭṭhāna, "Sách Luận về Tương Quan Duyên Hệ", bộ Ðại Xứ, hay Nhân
Duyên Thuyết.
Ðây là quyển sách quan trọng nhất mà cũng to lớn nhất của Tạng Diệu
Pháp. Người nhẫn nại đọc sách nầy chỉ có thể khâm phục trí năng cao
thâm và tuệ minh sát sâu sắc của Ðức Phật. Chắc chắn rằng muốn làm nên
được một bản khái luận vừa thâm sâu vừa rộng rãi như vậy tức nhiên
phải là bậc trí thức kỳ tài xuất chúng.
Danh từ Paṭṭhāna gồm tiếp đầu ngữ "pa", có nghĩa là khác nhau, và
"ṭhāna", mối tương quan, hay duyên (paccaya). Gọi như vậy vì pháp nầy
đề cập đến 24 phương thức tương quan duyên hệ [6], những đoạn ba câu
(tika), và những đoạn hai câu (duka), đã nói đến trong bộ
Dhammasaṅganī. Ðây là phần tinh hoa của Tạng Diệu Pháp.
Ta có thể đoán được tầm quan trọng của bản khái luận nầy -- cũng
được gọi là "Mahā Pakaraṇa", quyển sách lớn, hay Ðại Tạng -- xuyên qua
những lời chú giải của tập Atthasālinī như sau: "Và trong khi Ngài suy
niệm về những tiết mục của bộ Dhammasaṅganī thân Ngài không có tỏa hào
quang. Cùng thế ấy, khi Ngài suy niệm về năm bộ kia (thân Ngài không
tỏa hào quang). Nhưng đến quyển Ðại Tạng, Mahā Pakaraṇa, khi Ngài bắt
đầu suy niệm đến 24 liên hệ tương quan phổ thông của duyên [7], sự
trình bày v.v... đức tánh Toàn Tri của Ngài chắc chắn đã tìm được cơ
hội trong đó [8]. (Vì lẽ ấy hào quang phát tủa ra từ thân Ngài).
Ghi chú:
[1] Xem The Expositor, Phần I, trang 3.
[2] Dhammasaṅgani - Vibhangañ ca - Kathāvatthu ca - Puggalaṁ
Dhātu - Yamaka - Paṭṭhānaṁ - Abhidhammo' ti vuccati.
[3] Xem quyển Buddhist Psychology (bản dịch bộ Dhammasaṅgani), của
tác giả Bà Rhys Davids và quyển Guide Through The Abhidhamma Piṭaka
của Ð.Ð. Nyanatiloka.
[4] Xem chú thích số 17 của chương nầy.
[5] Bhānavāra = 250 câu; 1 câu = 4 hàng; 1 hàng = 8 chữ. Như vậy, 1
bhānavāra gồm 8,000 chữ.
[6] Sẽ được giải thích trong một chương sau.
[7] Lúc ấy Nhứt Thiết Chủng Trí của Ðức Phật được phát huy tột độ.
[8] Muốn có đầy đủ chi tiết về bảy bộ sách của Tạng Diệu Pháp, xem
Guide Through The Abhidhamma Piṭaka của Ðại Ðức Nyanatiloka và bài
Giới Thiệu của tập Expositor, phần i, từ trang 5 đến trang 21. Cũng
xem Buddhist Psychology trang 135-193, Relations, Encyclopaedia of
Religion and Ethics và Lời Nói Ðầu của vị chủ biên bản Tikapaṭṭhāna
Text.
-ooOoo-
ABHIDHAMMATTHĀ
Ðề
Tài
2. Tattha vutt' ābhidhammatthā
-- catudhā paramatthato
Cittaṁ cetasikaṁ rūpaṁ
-- Nibbānam' iti sabbathā. |
§2.
Trong ý nghĩa cùng tột, đề tài của Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
ghi nhận trong tập nầy, được phân làm bốn tất cả: 1) Tâm vương,
2) Tâm sở, 3) Sắc, 4) Niết Bàn. |
Chú Giải:
4. Thực tại:
Có hai thực tại. Thực tại bề ngoài, hay tục đế, và thực tại cùng tột,
chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế. Thực tại bề ngoài là chân lý chế định,
quy ước, thực tại thông thường của thế gian (sammuti sacca). Thực tại
cùng tột là chân lý tuyệt đối, trừu tượng (paramattha sacca).
Thí dụ, mặt phẳng của cái bàn mà ta nhìn thấy là thực tại bề ngoài,
tục đế. Nhưng hiểu một cách rốt ráo, khi thấu đến ý nghĩa cùng tột của
nó, cái mặt bàn mà ta thấy bề ngoài bằng phẳng ấy gồm những năng lực và
những đặc tánh, hay nói cách khác gồm những rung động.
Trong sự giao dịch thông thường hằng ngày, nhà khoa học dùng danh từ
"nước", nhưng trong phòng thí nghiệm, nhà khoa học gọi là H2O.
Cùng thế ấy, trong Tạng Kinh (Sutta Piṭaka) Ðức Phật dùng danh từ thông
thường như người, đàn ông, đàn bà, chúng sanh v.v... nhưng trong Tạng
Diệu Pháp (Abhidhamma Piṭaka) Ngài dùng một lối diễn đạt khác. Ở đây
Ngài áp dụng phương pháp phân giải và dùng những danh từ trừu tượng như
Khandha (Uẩn, thành phần cấu tạo chúng sanh), Dhātu (Giới, những nguyên
tố, thành phần cấu tạo "sắc", phần vật chất của chúng sanh), Āyatana
(Xứ, thành phần có liên quan đến giác quan: lục căn, lục trần) v.v...
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) danh từ para- mattha có nhiều nghĩa.
Ðó là một danh từ kép gồm hai phần: parama và attha. "Parama" được giải
thích là cái gì không thể biến chất, không thể biến đổi hay trở thành
một cái gì khác (aviparīta), là trừu tượng (nibbaṭṭita); "Attha" là vật.
Vậy, paramattha là vật không thể biến chất, hay trừu tượng. Thực tại
trừu tượng được xem là gần ý nghĩa với danh từ paramattha nhất. Mặc dầu
ở đây dùng danh từ "không biến đổi" nhưng phải hiểu rằng không phải tất
cả paramatthas đều vĩnh viễn hay thường còn.
Thí dụ như một cái lọ bằng đồng. Ðó không phải là paramattha vì bản
chất của cái lọ đổi thay từng khoảnh khắc và chính nó cũng có thể được
nhồi nắn lại để trở thành một cái gì khác hơn cái lọ -- cái bồn chẳng
hạn. Cả hai vật ấy, cái lọ và cái bồn, đều có thể được phân tách và rút
gọn đến mức cùng tột thành những năng lực và những đặc tánh vật chất căn
bản mà Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) gọi là Rūpa Paramattha.
Những thực tại nầy cũng vô thường, phải biến đổi. Tuy nhiên, những
đặc tánh cá biệt của vật chất (sắc) ấy đồng nhất thể trong hai vật, cái
lọ và cái bồn. Nó vẫn giữ trọn vẹn thực chất của nó mặc dầu ta có thể
pha trộn cách nào. Do đó Bản Chú Giải định nghĩa parama là không biến
chất hay thực tại nguyên vẹn.
Danh từ 'attha' phù hợp một cách chính xác với Anh ngữ có nhiều ý
nghĩa "thing" (vật). Ở đây không thể dịch "attha" là "có nghĩa".
Có bốn paramatthas, hay thực tại trừu tượng như thế. Bốn thực tại nầy
bao gồm tất cả những gì tại thế và siêu thế.
Cái được gọi chúng sanh là tại thế. Niết Bàn là siêu thế. Chúng sanh
được cấu thành do hai phần: phần tâm linh (nāma, danh) và phần vật chất
(rūpa, sắc). Hiểu theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Rūpa hay Sắc bao hàm
cả hai ý nghĩa: đơn vị căn bản của vật chất và cũng là những biến đổi
vật lý. Vi Diệu Pháp liệt kê 28 loại vật chất, sẽ được đề cập đến trong
một chương sau. Nāma bao gồm cả hai, tâm vương và tâm sở. Chương 2 của
sách nầy sẽ đề cập đến các tâm sở ấy (cetasika). Có tất cả 52 tâm sở.
Vedanā, Thọ, là một. Saññā, Tưởng, là một tâm sở khác. 50 tâm sở còn lại
được gọi chung là Saṅkhāra, Hành. Cái chứa đựng những đặc tính tinh thần
ấy là Viññāṇa, Thức, hay tâm vương, đề tài của chương nầy.
Theo sự phân tách kể trên, cái được gọi là chúng sanh gồm năm nhóm,
hay năm Uẩn (Pañcakkhandhas, Ngũ Uẩn): Rūpa (Sắc), Vedanā (Thọ), Saññā
(Tưởng), Saṅkhāra (Hành), Viññāṇa (Thức).
Tâm Vương, Tâm Sở (ngoại trừ 8 loại tâm vương siêu thế và những tâm
sở phụ thuộc dính liền theo các tâm nầy) và Sắc, là Tại Thế (Lokiya).
Niết Bàn (Nibbāna) là Siêu Thế (Lokuttara). Chỉ có Niết Bàn là thực tại
tuyệt đối. Ðó là mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo. Tâm Vương, Tâm Sở và
Sắc được gọi là thực tại vì đó là những vật có hiện hữu (Vijjamāna
dhammā). Ngoài ra, ba pháp ấy không thể phân chia ra thêm được nữa,
không thể biến chất nữa, và là những vật trừu tượng. Ba pháp ấy liên
quan đến cái gì ở trong và ở quanh ta.
Paramattha, chân đế, hay thực tại đầu tiên là Citta (Tâm Vương). Danh
từ "citta" xuất nguyên từ căn "citi", có nghĩa suy nghĩ. Theo Bản Chú
Giải "citta", tâm vương hay thức, là cái gì hay biết (cinteti =
vijānāti), cái gì nhận thức trần cảnh, hay biết sự hiện hữu của một đối
tượng. Không phải cái gì suy nghĩ đến một đối tượng như danh từ nầy hàm
ý. Về phương diện Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Cittā, Tâm Vương hay Tâm,
có thể được định nghĩa là sự hay biết một đối tượng. Chỉ có sự hay biết
suông, không có cái gì chủ động như một linh hồn.
Citta, Ceta, Cittupāda, Nāma, Mana, Viññāṇa là những danh từ được xem
là đồng nghĩa trong Abhidhamma. Do đó, đứng về phương diện Vi Diệu Pháp,
Abhidhamma, không có sự khác biệt giữa tâm và thức [1].
Khi phân tách cái được gọi là chúng sanh làm hai phần, vật chất và
tinh thần, thì phần tinh thần hay tâm, được gọi là Danh (Nāma).
Khi phân cái được gọi là chúng sanh làm năm uẩn (Pañcakkhandha) thì
phần ấy được gọi là Thức (Viññāṇa). Còn danh từ Citta thì luôn luôn được
dùng khi đề cập đến những loại tâm khác nhau. Trong những trường hợp lẻ
loi, theo nghĩa thông thường của tâm, cả hai danh từ Citta và Mana
thường được dùng.
Ba thực tại kia sẽ được đề cập đến trong một phần sau.
Ghi chú:
[1] Trong bài giới thiệu tập Compendium, trang 2, Ông Aung viết:
"Theo sự định nghĩa của nhà Văn Phạm thì danh từ "Citta" (tâm) là
ārammaṇaṁ cinteti'ti cittaṁ (tư tưởng = nghĩ đến một đối tượng). ở
đây, chữ cinteti được dùng theo nghĩa bao quát nhất của nó là
vijjānāti (biết). Do đó tâm thường được định nghĩa là "cái gì hay
biết một đối tượng" ... Do sự định nghĩa nầy ta có định nghĩa của
chữ "viññāṇa", thức. Vậy, "Thức" có thể được định nghĩa là mối liên
quan giữa ārammaṇika (chủ thể) và ārammaṇa (khách thể)."
Xem Compendium trang 234. Không có lý do nào để phân biệt hai danh
từ citta và viññāṇa như vậy.
-ooOoo-
Catubbidha Cittāni
Bốn loại tâm vương
3. Tattha Cittaṁ tāva catubhidhaṁ hoti:
i. Kāmāvacaraṁ,
ii. Rūpāvacaraṁ,
iii. Arūpāvacaraṁ,
iv. Lokuttaraṁ c'āti. |
§3.
Trong đó (tức trong các tâm vương), đầu tiên có bốn
loại:
i. Tâm thuộc Dục Giới,
ii. Tâm thuộc Sắc Giới,
iii. Tâm thuộc Vô Sắc Giới, và
iv. Tâm Siêu Thế.
|
Chú Giải:
5. Kāmāvacara. Tâm Thuộc Dục Giới.
Kāma, ở thể chủ quan (subjective), là lòng khao khát, dục vọng. Ở thể
khách quan (objective) kāma là đối tượng của giác quan như sắc, thinh,
hương, vị, xúc. "Kāma" cũng có nghĩa là mười một cảnh giới trong Dục
Giới tức bốn cảnh khổ (Apāya), cảnh người (Manussaloka), và sáu cảnh
Trời Dục Giới (Sagga).
Avacara là cái gì linh động, di chuyển tới lui, hoặc thường xuyên
hiện hữu. Vậy "Kāmāvacara" là cái gì thường lui tới hay thường xuyên
hiện hữu trong Dục Giới, hoặc cái gì thuộc về giác quan và đối tượng của
giác quan. Thông thường, các loại tâm nầy phát sanh trong Dục Giới,
nhưng cũng có thể phát sanh trong các cảnh giới khác, khi tâm hay biết
một đối tượng của giác quan.
6. Rūpāvacara, Arūpāvacara, Tâm Thuộc Sắc Giới, Thuộc Vô Sắc Giới.
Cái gì thuộc về Thiền Sắc Giới và Thiền Vô Sắc (Rūpa và Arūpa Jhāna),
theo thứ tự, hoặc là cái gì thường lui tới hay thường hiện hữu trong
cảnh Sắc Giới và cảnh Vô Sắc Giới.
Rūpalokas là những cảnh giới mà người chứng đắc các tầng Thiền Sắc
Giới (Rūpajhānas) sẽ tái sanh vào.
Bây giờ, một câu hỏi có thể được nêu lên:
"Tại sao chúng sanh ở cảnh Sắc Giới nầy, lỗi lạc xuất chúng, đã có
một cơ thể vật chất rất tế nhị, mà còn gọi cảnh nầy là Rūpaloka, cảnh
"Sắc Giới"? Bản Chú Giải giảng rằng bởi vì chúng sanh tái sanh vào cảnh
giới ấy là những vị đã phát triển các tầng Thiền căn cứ trên những vật
dùng làm đề mục hành thiền như đất, nước v.v... (Rūpakasiṇas).
Arūpaloka là những cảnh giới không có cơ thể vật chất. Do năng lực
của Thiền, chỉ có tâm tồn tại trong cảnh nầy. Thông thường tâm và cơ thể
vật chất, danh và sắc, dính liền nhau, không thể tách rời ra. Nhưng, do
năng lực của ý chí, trong những trường hợp đặc biệt ngoại lệ, có thể
tách rời danh ra khỏi sắc, cũng như ta có thể giữ một khối sắt ở giữa
lừng, giữa không trung, nhờ một từ lực nào như nam châm chẳng hạn.
7. Lokuttara. Siêu Thế.
(Loka + Uttara). Ở đây "Loka" là ngũ uẩn. "Uttara" là ở trên, hay ở
ngoài, hay cái gì vượt khỏi lên trên. Ðó là tâm siêu thế, có thể giúp ta
vượt ra khỏi thế gian danh-sắc nầy. Ba cảnh giới đầu -- Tam Giới: Dục,
Sắc và Vô Sắc Giới -- được gọi là tại thế (Lokiya).
-ooOoo-
KĀMĀVACARA-CITTĀNI
TÂM
VƯƠNG THUỘC DỤC GIỚI
4.
Akusala Cittāni
Tattha katamā Kāmāvacaraṁ?
1) Somanassa-sahagataṁ, diṭṭhigatasampayuttaṁ asaṅkhārikam
ekaṁ.
2) Somanassa-sahagataṁ, diṭṭhigatasampayuttaṁ sasaṅkhārikam
ekaṁ.
3) Somanassa-sahagataṁ, diṭṭhigatavippayuttaṁ asaṅkhārikam
ekaṁ.
4) Somanassa-sahagataṁ diṭṭhigatavipayuttaṁ sasankhārikam
ekaṁ.
5) Upekkhā-sahagataṁ, diṭṭhigatasampayuttaṁ asaṅkhārikam ekaṁ.
6) Upekkhā-sahagatam, diṭṭhigatasampayuttaṁ sasaṅkhārikam
ekaṁ.
7) Upekkhā-sahagataṁ, diṭṭhigatavippayuttaṁ
asaṅkhārikam ekaṁ.
8. Upekkhā-sahagataṁ, diṭṭhigatavipayuttaṁ sasaṅkhārikam
ekan'ti
Imāni aṭṭha'pi Lobhasahagatacittāni nāma.
9) Domanassa-sahagataṁ, paṭighasampayuttaṁ asaṅkhārikam
ekaṁ.
10) Domanassa-sahagataṁ, paṭighasampayuttaṁ sasaṅkhārikam
ekan'ti.
Imāni dve'pi Paṭigha sampayuttacittāni nāma.
11) Upekkhā-sahagataṁ, vicikicchāsampayuttam ekaṁ.
12) Upekkhā-sahagataṁ, uddhaccasampayuttam ekan'ti.
Imāni dve'pi Momūhacittāni nāma
Icce'vaṁ sabbathā'pi dvādasākusala-cittāni samattāni.
Aṭṭhadhā lobhamūlāni -- dosamūlani ca
dvidhā
Mohamulāni ca dve'ti -- dvādasākusalā siyuṁ. |
§4.
Tâm Bất Thiện
Trong các loại tâm vương, tâm nào thuộc về Dục Giới?
Tâm Bắt Nguồn Từ Căn Tham
1. Một tâm, không bị xúi giục, đồng phát sanh cùng
thọ Hỷ, và liên hợp với tà kiến.
2. Một tâm, bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ Hỷ, và liên
hợp với tà kiến.
3. Một tâm, không bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ Hỷ, và
không liên hợp với tà kiến.
4. Một tâm, bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ Hỷ, và không
liên hợp với tà kiến.
5. Một tâm, không bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ
Xả, và liên hợp với tà kiến.
6. Một tâm, bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ Xả, và liên
hợp với tà kiến.
7. Một tâm, không bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ Xả, và
không liên hợp với tà kiến.
8. Một tâm, bị xúi giục, đồng phát sanh cùng thọ Xả, và
không liên hợp với tà kiến.
Tám loại tâm nầy bắt nguồn từ Căn Tham.
Tâm Bắt Nguồn Từ Căn Sân
9. Một tâm, không bị xúi giục, đồng phát sanh cùng
thọ Ưu, và có liên hợp với ác ý.
10. Một tâm, bị xúi giục, đồng phát sanh
cùng thọ Ưu, và có liên hợp với ác ý.
Hai loại tâm nầy liên hợp với ác ý.
Tâm Bắt Nguồn Từ Căn Si
11. Một tâm, đồng phát sanh cùng thọ Xả, và liên hợp
với hoài nghi.
12. Một tâm, đồng phát sanh cùng thọ Xả, và liên hợp với phóng
dật.
Hai loại tâm nầy bắt nguồn từ căn Si
mạnh mẽ.
Ðến đây chấm dứt tất cả mười hai loại tâm bất thiện.
TÓM LƯỢC:
Tâm bắt nguồn từ căn Tham, tám. Từ căn Sân, hai, và từ căn
Si, hai. Như vậy có tất cả mười hai loại tâm bất thiện. |
Chú Giải:
8. Akusala, Kusala, Vipāka, Kiriya, Bất Thiện, Thiện, Quả, Hành.
Trong một phần trước, tâm được rộng rãi phân làm bốn hạng -- tâm
thuộc Dục Giới, tâm thuộc Sắc Giới, tâm thuộc Vô Sắc Giới và tâm Siêu
Thế -- phù hợp với bốn cảnh giới mà trong ấy các loại tâm nầy được chứng
nghiệm.
Theo bản chất của nó, cũng có bốn loại tâm khác nhau:
a) Vài loại tâm là bất thiện (akusala) bởi vì bắt nguồn từ tham
(lobha), sân hay ác ý (paṭigha), và si (moha).
b) Ðối chiếu, có những loại tâm thiện (kusala) vì bắt nguồn từ
không-tham, tức quảng đại, bố thí (alobha), không- sân, tức thiện ý,
từ ái (adosa), và không-si, tức trí tuệ (amoha).
Các loại tâm bất thiện (akusala) được xem là không lành mạnh, bất
tịnh, vì tạo hậu quả không đáng được ưa thích, bất khả ái (aniṭṭha
vipāka). Các loại tâm thiện (kusala) là lành mạnh, thanh tịnh, vì tạo
hậu quả đáng được ưa thích, khả ái (iṭṭha vipāka). Cả hai, thiện
(kusala) và bất thiện (akusala), đều được gọi là Nghiệp (Kamma).
c) Những loại tâm phát sanh như hậu quả dĩ nhiên của tâm thiện và
bất thiện ấy được gọi là Vipāka, tâm quả, hay tâm dị thục. Phải biết
rằng cả hai loại tâm, Nghiệp (Kamma) và Quả (Vipāka), đều thuần túy
thuộc về tinh thần.
d) Loại tâm thứ tư được gọi là Kiriya, hay Kriyā, có nghĩa là
"không có hiệu lực về phương diện nghiệp báo", chỉ thuộc về cơ năng.
Loại tâm nầy thường được gọi là tâm "Hành", hay tâm "Duy Tác", trong ý
nghĩa có hành động mà không có quả của hành động, nói cách khác, là
"hành động không tạo nghiệp".
9. Mūla, Căn
Căn (Mūla) hay cội rễ, nguồn gốc từ đó phát sanh. Lobha (tham), dosa
(sân), và moha (si), là ba căn bất thiện. Ðối chiếu với ba căn nầy là ba
căn thiện: alobha (không tham), adosa (không sân), và amoha (không si).
Lobha, bắt nguồn từ "Lubh", bám chặt vào, hay cột lại, có thể được dịch
là "luyến ái", hay "bám níu". Vài học giả thích dùng danh từ "khát vọng"
hơn. ái dục cũng được dùng trong nghĩa tương đương với lobha.
Khi giác quan tiếp xúc với một đối tượng đáng được ưa thích, tức trần
cảnh khả ái, thông thường có sự luyến ái hay bám níu phát sanh. Ngược
lại, nếu đối tượng không đáng được ưa thích thì có tâm bất toại nguyện.
Trong Phạn ngữ (Pāli), sự bất toại nguyện ấy đuợc gọi là dosa hay
paṭigha. Dosa xuất nguyên từ căn "dus", không bằng lòng, không vui, bất
mãn, bất toại nguyện. Paṭigha do căn "paṭi", chống lại, và "gha", chạm
vào, đụng, tiếp xúc. ác ý, thù hận, cũng được xem như có ý nghĩa tương
đương với paṭigha.
Moha do căn "muh", lầm lạc, ảo tưởng. Ðó là trạng thái mê mờ, lầm
lạc, ảo tưởng. Chính moha bao trùm đối tượng như một đám mây mờ và làm
cho tâm mù quáng, không thấy rõ. Ðôi khi moha được phiên dịch là không
biết, si mê.
Theo Abhidhamma, moha (si) nằm trong tất cả các loại tâm bất thiện.
Lobha (tham) và dosa (sân) không phát sanh một mình mà luôn luôn phối
hợp với moha (si). Còn moha (si), thì có thể khởi sanh đơn độc một mình.
Do đó danh từ "momūha", si mê mạnh mẽ.
Ðối nghịch hẳn với ba căn trên có ba căn thiện (Kusala). Ba căn nầy
không những hàm xúc sự vắng mặt một số điều kiện bất thiện mà còn bao
hàm sự hiện hữu của những điều kiện có tánh cách "thiện" một cách tích
cực. Alobha không phải chỉ có nghĩa là không luyến ái (không tham), mà
cũng là quảng đại, bao dung, rộng rãi bố thí. Adosa cũng không phải chỉ
là không sân hay không thù hận, mà còn là thiện ý, thiện chí, hay tâm từ
(mettā). Amoha không phải chỉ là không si mê mà cũng là trí tuệ hay tri
kiến, minh mẫn sáng suốt (ñāṇa hay paññā).
10. Vedanā, Thọ
Vedanā, Thọ, hay cảm giác, là một trạng thái tâm (hay tâm sở) phổ
thông, chung nằm trong tất cả các loại tâm vương.
Ðại để có ba loại thọ là: somanassa, thọ hỷ, vui vẻ về tinh thần.
Domanassa, thọ ưu, sầu muộn, buồn phiền về tinh thần, và upekkhā, thọ vô
ký, bình thản, không vui không buồn, xả. Với dukkha, khổ, đau đớn về vật
chất và sukha, lạc, sung sướng vật chất, tính chung có tất cả năm loại
Thọ.
Somanassa là một danh từ trừu tượng gồm "su", tốt và "mana", tâm.
Ðúng theo ngữ nguyên, là trạng thái tốt đẹp của tâm, tức vui vẻ, hay thọ
hỷ. Cùng thế ấy, domanassa ("du", xấu và "mana", tâm), là trạng thái xấu
của tâm, tức buồn phiền, sầu muộn, hay thọ ưu. Loại thọ thứ ba là vô ký.
Danh từ "bình thản" được dùng ở đây trong ý nghĩa riêng biệt chớ không
có nghĩa là tâm chai đá, cứng đơ, không còn cảm xúc. Danh từ Sukha gồm
"su", dễ dàng, và "kha", gánh chịu hay chịu đựng. Cái gì có thể chịu
đựng dễ dàng là sukha, tức sung sướng, thọ lạc. Dukkha ("du" là khó), là
cái gì khó chịu đựng, tức đau đớn, thọ khổ. Cả hai cảm giác nầy thuộc về
vật chất.
Theo Abhidhamma, trong tám mươi chín (89) loại tâm vương chỉ có một
loại đồng phát sanh cùng thọ khổ, một loại cùng thọ lạc, và hai loại với
thọ ưu. Ngoài ra tám mươi lăm (85) loại tâm còn lại đều liên hợp với thọ
hỷ hoặc thọ xả.
Hỷ (somanassa), ưu (domanassa), và xả (upekkhā) thuần túy thuộc về
tinh thần. Lạc (sukha), và khổ (dukkha) hoàn toàn vật chất. Ðó là lý do
tại sao thọ xả, upekkhā, không thể đồng phát sanh cùng với "xúc giác".
Bởi vì, theo Abhidhamma, khi "xúc", hay có sự đụng chạm, tức nhiên phải
có hoặc thọ lạc (sukha), hoặc thọ khổ (dukkha) mà không thể vô ký hay
xả. [1]
11. Diṭṭhi, Tà Kiến
Danh từ Diṭṭhi nầy do căn "dis", có nghĩa thấy, tri giác, và thường
được dịch là quan kiến, sự tin tưởng, ý kiến v.v... Ði kèm với tĩnh từ
"sammā", sammā diṭṭhi là chánh kiến, hiểu biết chân chánh. Ði kèm với
"micchā", micchā diṭṭhi là tà kiến, hiểu biết lầm lạc. Ở đây danh từ nầy
được dùng đơn độc -- không có tĩnh từ kèm theo -- trong nghĩa tà kiến.
12. Saṅkhārika, Có Sự Xúi Giục
Ðây là một danh từ thuần túy kỹ thuật có một ý nghĩa đặc biệt trong
Abhidhamma. Saṅkhārika gồm "sam", tốt, và căn "kar", tác hành, chuẩn bị,
thực hiện, hoàn thành. Ðúng theo ngữ nguyên, danh từ nầy có nghĩa hoàn
thành, chuẩn bị, sắp xếp trước. Saṅkhārika là có sự xúi giục, từ bên
ngoài hay có sự toan tính chuẩn bị, từ bên trong. Cũng như chữ dhamma,
danh từ saṅkhāra có rất nhiều ý nghĩa, và nghĩa chính xác của nó phải
được hiểu tùy theo đoạn văn.
Trong Ngũ Uẩn (Pañcakkhandha), saṅkhāra, hành uẩn, là tên gọi chung
tất cả các tâm sở trừ hai, tâm sở thọ (vedanā) và tâm sở tưởng (saññā).
Trong Thập Nhị Nhân Duyên (Paṭicca Samuppāda) saṅkhāra, cũng đuợc gọi
là "hành", bao gồm tất cả những hành động thiện và những hành động bất
thiện, những tư tưởng xấu và tốt.
Khi saṅkhāra đuợc dùng trong nghĩa cái gì phải chịu vô thường, khổ
v.v... thì đó là những vật được cấu tạo, những vật tùy thế, hay các pháp
hữu vi, cũng gọi là hành.
Ở đây, khi danh từ nầy được dùng với "sa", thì có nghĩa là "cùng
chung với"; và khi dùng với "a" thì hàm xúc ý "không". Sa-saṅkhārika --
đúng ngữ nguyên là: "với sự cố gắng" -- cái gì bị xúi giục, xui khiến,
thúc đẩy, hay rủ ren, bởi tự chính mình hay bởi kẻ khác. Asaṅkhārika,
đúng ngữ nguyên, là "không có sự cố gắng", cái gì được làm một cách tự
động, hồn nhiên, không có sự xúi giục, không chịu ảnh hưởng từ bên trong
hay bên ngoài.
Thí dụ, nếu ta làm một hành động nào do người khác xúi giục, hoặc làm
sau khi suy xét, hay toan tính, hành động ấy là sa-saṅkhārika, "có sự
xúi giục". Trái lại, khi tự động làm một việc gì, hồn nhiên, mau lẹ,
không suy nghĩ hoặc dò xét, hay mưu tính trước, cũng không do ai xui
khiến, tức không có sự xúi giục, không chịu ảnh hưởng của ai hay của gì,
từ bên trong hay bên ngoài, hành động ấy là asaṅkhārika, "không có sự
xúi giục".
13. Vicikicchā, Hoài Nghi.
Ðây là một danh từ bao gồm cả hai tánh cách, luân lý và tôn giáo. Bản
Chú Giải nêu lên hai lối giải thích:
a) "Vici" = vicinanto, tìm kiếm, hay dò xét tìm hiểu. "Kicch" = mệt
mỏi, e ngại, bị phiền phức. Ðó là trạng thái phiền phức do bận rộn
thắc mắc, suy nghĩ.
b) "Vi", không có + Cikicchā, thuốc (của tri kiến). Vicikicchā là
cái gì không có thuốc của tri kiến (tức không được chữa trị bằng liều
thuốc hiểu biết).
Cả hai lối giải thích đều ám chỉ một trạng thái tâm bất định, bối
rối, phân vân [2]. Danh từ nầy bao hàm ý nghĩa hoài nghi, thắc mắc, ngờ
vực, bất định. Suy luận, hay tìm tòi để hiểu biết luôn luôn được Phật
Giáo khuyến khích. Phật Giáo không bao giờ khuyên dạy đức tin mù quáng.
14. Uddhacca, Phóng Dật.
Phạn ngữ nầy gồm "u", quá đổi và căn "dhu", chao động, cảm kích. Ðúng
theo ngữ nguyên, uddhacca là cảm kích, hay bị khích động quá độ. Ở đây
là trạng thái tâm bồn chồn, rối ren, không an nghỉ, nghịch nghĩa với tâm
an trụ, chăm chú vào một điểm. Tập Atthasālinī giải thích uddhacca là
trạng thái tâm xao lãng, băn khoăn lo âu, hay bối rối, không yên.
15. Kusala và Akusala, Thiện và Bất Thiện.
Ðoạn nầy đề cập đến các loại tâm bất thiện (Akusala). Akusala trực
tiếp nghịch nghĩa với Kusala.
Sách Atthasālinī giải thích ngữ nguyên của danh từ Kusala như sau
[3]:
(i) "Ku", xấu + căn "sal", lay chuyển, run rẩy, tiêu diệt. Cái gì lay
chuyển, tiêu diệt điều bất thiện, hay điều đáng khinh miệt, là kusala.
(ii) "kusa" + căn "lu", cắt đứt. "Kusa" do "ku", xấu và căn "si", nói
dối. Cái gì gian dối một cách đáng khinh miệt là kusa, tật xấu. Kusala
là cái gì cắt đứt tật xấu.
(iii)
a- "ku" bất thiện, xấu + căn "su", suy giảm. Cái gì làm suy giảm,
hay tiêu diệt điều bất thiện là "kusa", tri kiến hay trí tuệ. Kusa,
theo ngữ nguyên như được giải thích trên + căn "lu", cắt đứt. Cái gì
cắt đứt (điều bất thiện) bằng trí tuệ là kusala.
b-. "Kusa", như giải trên + căn "la", lấy. Cái gì bị trí tuệ bám
lấy là kusala.
(iv) Loại cỏ kusa có hai bề lưỡi đều sắc bén nên cắt đứt tay bằng cả
hai bề. Cùng thế ấy, kusala cắt đứt cả hai phần của dục vọng -- phần đã
phát sanh và phần chưa phát sanh.
Về ý nghĩa bao hàm của danh từ nầy, sách Atthasālinī ghi [4]: "Chữ
kusala có nghĩa 'mạnh khoẻ' (ārogya), 'vô tội' (anavajja), 'thông minh'
(cheka), 'có khả năng tạo quả an vui' (sukhavipāka)".
Ngoại trừ "thông minh", tất cả ba nghĩa kia đều có thể áp dụng cho
danh từ kusala.
Kusala là tinh khiết hay lành mạnh, hiểu theo nghĩa "tránh khỏi những
chứng bệnh vật chất và tinh thần do dục vọng gây nên".
Kusala là vô tội, hiểu theo nghĩa "tránh khỏi tội lỗi do dục vọng tạo
duyên gây nên, do những ảnh hưởng xấu của dục vọng, và sức nóng của dục
vọng".
Ở đây sukhavipāka, quả an vui, không nhất thiết phải là thọ lạc, sung
sướng về vật chất. Quả vui ở đây là trạng thái dịu dàng, thoải mái, tiện
nghi thơ thới -- cả vật chất lẫn tinh thần.
Sách Atthasālinī lại có ghi rằng kusala được dùng trong nghĩa "đã
được hoàn thành với trí tuệ" (kosalla- sambhūtaṭṭhena; kosallaṁ vuccati
paññā). Xét theo những ý nghĩa khác nhau của danh từ, kusala có thể được
hiểu là: lành mạnh, tinh khiết, trong sạch, hay thiện. Vài học giả thích
phiên dịch kusala là tinh xảo, khéo léo. Do đó, Akusala là bất tịnh,
không tinh khiết, hay bất thiện. Kusala và Akusala tương đương với tốt
và xấu, đúng và sai.
16. Làm thế nào xác định rằng một hành động là thiện (kusala) hay bất
thiện (akusala)? Dựa trên tiêu chuẩn đạo đức nào? [5]
Một cách vắn tắt, cái gì liên hợp với ba căn (mūla) bất thiện
(akusala) là bất thiện. Liên hợp với ba căn thiện (kusala) là thiện.
Cũng như hột giống được gieo trồng trên đất phì nhiêu sẽ sanh sôi nảy
nở, không sớm thì chầy, tùy theo bản chất riêng của nó.
Cùng thế ấy, hành động thiện và bất thiện sẽ tạo những hậu quả đáng
được ưa thích hay không đáng được ưa thích, hậu quả ấy được gọi là
Vipāka (Quả).
17. Kiriya hay Kriyā -- theo nghĩa từng chữ, kiriya hay kriyā là
hành động.
Ở đây, danh từ nầy được dùng theo nghĩa "hành động vô hiệu lực".
Kamma là nhân có hiệu lực tạo quả. Kiriya là nhân không có hiệu lực tạo
quả. Những hành động lành của chư Phật và chư vị A La Hán được gọi là
kiriya, hay kriyā, vì các Ngài không còn tích trử Nghiệp, Kamma. Các
Ngài đã vượt qua khỏi thiện và ác.
Trong Abhidhamma, Vipāka (Quả) và Kiriya (Hành) được gọi chung là
Abyākata (Bất Ðịnh), cái gì không tự biểu hiện trở lại như một hậu quả.
Vipāka là Abyākata (Bất Ðịnh), tức không tự biểu hiện trở lại như một
hậu quả, vì chính nó đã là quả. Kiriya là bất định vì không tạo quả.
18. Những Thí Dụ Dùng Ðể Giải Thích Mười Hai Loại Tâm Bất Thiện.
* Căn Tham
1) Một cậu bé bỗng dưng (không có sự xúi giục) ăn cắp trái táo một
cách vui vẻ (đồng phát sanh với thọ hỷ), thấy rằng việc làm ấy không có
gì là xấu (liên hợp với tà kiến).
2) Có bạn xúi giục, một cậu bé vui vẻ ăn cắp một trái táo, thấy rằng
việc làm ấy không có gì là xấu.
3) Một cậu bé bỗng dưng ăn cắp trái táo một cách vui vẻ, biết rằng
việc làm ấy là xấu (không liên hợp với tà kiến).
4) Có bạn xúi giục, một cậu bé vui vẻ ăn cắp trái táo, biết rằng việc
làm ấy là xấu.
5) Một cậu bé bỗng dưng ăn cắp trái táo một cách thản nhiên (tức ăn
cắp với thọ xả, không vui không buồn lúc ăn cắp) thấy rằng việc làm ấy
không có gì là xấu.
6) Có bạn xúi giục, cậu bé thản nhiên ăn cắp trái táo, thấy rằng việc
làm ấy không có gì là xấu.
7) Một cậu bé bỗng dưng ăn cắp trái táo một cách thản nhiên, biết
rằng việc làm ấy là xấu.
8) Có bạn xúi giục, một cậu bé thản nhiên ăn cắp trái táo, biết rằng
việc làm ấy là xấu.
* Căn Sân
9) Với lòng sân hận ta sát hại một người khác mà không có mưu tính
trước.
10) Với lòng sân hận, ta sát hại một người khác sau khi đã mưu tính.
19. Sát Hại
Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) hành động sát sanh luôn luôn được thực
hiện với tâm sân, ác ý, hay bất toại nguyện. Mặc dầu do nguyên động lực
nào thúc đẩy đi nữa, thông thường, khi giết là có ác ý. Ở đâu có ác ý
(paṭigha) là có buồn phiền (domanassa). Có buồn phiền là có ác ý, bất
toại nguyện (paṭigha), dưới một hình thức thô kịch hay vi tế.
Thí dụ như, không thể phân biệt được thế nào là đúng thế nào là sai,
một em bé vui vẻ giết một con kiến. Em không biết rằng mình đang tạo
nghiệp sát sanh mà chỉ vui chơi vậy thôi. Vậy, khi nhấn mạnh ngón tay
xuống giết con kiến em có ác ý đối với nó không? Có tâm sân hay tâm thù
hận trong trường hợp nầy không? Quả thật khó mà nói như thế. Vậy, ngay
lúc giết con kiến em chứng nghiệm loại tâm nào? Loại thứ chín (9) hay
thứ mười (10) ắt không thể được, bởi vì em chỉ vô tình và vui vẻ làm
hành động sát sanh ấy một cách thoáng qua. Có thể đó là loại tâm thứ ba,
bắt nguồn từ căn tham không?
Một người lớn đi săn, bắn chết thú, xem đó là một môn thể thao, hẳn
có loại tâm số 9 và số 10. Người ấy có ác ý, muốn giết chết con thú
trong lúc bắn.
Còn khoa giải phẩu sanh thể thì sao? Nhà bác học mạnh dạn giải phẩu
một con vật sống, hay giết con vật mà không chút chùng tay. Nguyên động
lực chánh của ông là nghiên cứu khoa học để làm dịu bớt sự đau khổ của
nhân loại. Tuy nhiên, vẫn có ý nghĩ sát hại.
Khi giết một con thú đang oằn oại khổ đau vì bị một vết thương, để
chấm dứt nỗi khổ đau của nó. Lúc giết, có ác ý không? Vì lòng bi mẫn ta
có thể làm như thế. Nhưng dầu sao, ngay lúc giết cũng có ác ý, vì lúc ấy
ta muốn nó chết, có một loại bất toại nguyện đối với con vật.
Nếu hành động tương tợ có thể được chứng minh là hợp đạo đức thì ta
phản đối được chăng hành động của người kia, với tâm trong sạch giết một
người khác vì người nầy đang mang một chứng bệnh không thể chữa trị?
Ðã có ghi rõ ở trên là nơi nào có ác ý là có buồn phiền.
Thí dụ như khi nghe tin thi rớt, ta buồn. Vậy, lúc ấy có tâm sân
không? Nếu suy xét tỉ mỉ ý nghĩa của danh từ paṭigha lời giải đáp sẽ trở
nên rõ ràng. Khi nhận một tin buồn, chắc chắn có một loại bất toại
nguyện. Trường hợp người khóc cái chết của thân nhân cũng cùng thế ấy.
vì đó là một diễn biến bất hạnh mà ta không thích đón nhận. Chư vị A Na
Hàm (Anāgāmi) và A La Hán (Arahant) không khi nào nghe buồn phiền hay
sầu muộn vì các Ngài đã tận diệt paṭigha, bất toại nguyện, hay dosa, sân
hận.
Khi Ðức Phật nhập Ðại Niết Bàn thì Ðức Ānanda vô cùng sầu muộn vì lúc
ấy Ngài chỉ đắc Quả Tu Ðà Huờn (Sotāpanna). Nhưng chư vị A La Hán và A
Na Hàm như các Ngài Kassapa và Anuruddha thì hành pháp Xả hoàn toàn,
không nhỏ một giọt nước mắt.
20. Thí Dụ Về Căn Si
11) Một người hoài nghi về sự hiện hữu của Ðức Phật, về hiệu năng của
Giáo Pháp vì si mê.
12) Một người có tâm phóng dật không thể chú tâm vào một đề mục.
Hai loại tâm nầy yếu ớt vì phát sanh do trạng thái mê mờ và hôn trầm
của tâm. Vì lẽ ấy cảm giác, hay thọ, liên hợp không thể là hỷ hay ưu, mà
chỉ là xả.
21. Mười Loại Bất Thiện Nghiệp liên quan đến mười hai loại tâm bất
thiện.
Mười loại bất thiện nghiệp tạo nên do thân, khẩu, ý:
THÂN: (1) Sát sanh (pāṇātipāta), (2) trộm cắp (adinnā- dāna), (3)
tà dâm (kāmesumicchācāra).
KHẨU: (4) nói dối (musāvāda), (5) nói đâm thọc (pisuṇavācā), (6)
nói thô lỗ cộc cằn (pharusa- vācā), (7) nói nhảm (samphappalāpa) .
Ý: (8) tham lam (abhijjhā), (9) sân hận (vyāpāda) và (10) tà kiến
(micchādiṭṭhi) [6].
Tất cả mười bất thiện nghiệp đều được tạo nên do mười hai loại tâm
bất thiện kể trên. Thông thường người ta phạm nghiệp sát sanh với loại
tâm số 9 và số 10. Nghiệp trộm cắp với tám loại tâm đầu tiên.
Nghiệp tà dâm cũng được tạo nên do tám loại tâm đầu tiên.
Người ta cũng có thể trộm cắp vì sân hận. Trong trường hợp nầy nghiệp
trộm cắp có thể được tạo nên do những loại tâm thứ 9 và thứ 10.
Nghiệp nói dối có thể do mười loại tâm đầu tiên. Nói đâm thọc, nói
lời thô lỗ cộc cằn, với các loại tâm số 9 và số 10. Nói nhảm, với 10
loại tâm đầu tiên. Tham lam phát sanh do tám loại tâm đầu tiên. Sân hận
do hai loại, tâm số 9 và số 10. Tà kiến do những loại số 1, 2, 5, 6. [7]
22. Sự Tận Diệt Các Loại Tâm Bất Thiện Do Bốn Hạng Thánh Nhân
Một vị Nhập Lưu (Sotāpanna -- Tu Ðà Huờn) tận diệt các loại tâm số 1,
2, 5, 6 và 11 vì Ngài đã cắt đứt hai thằng thúc (Saṁyojana, dây trói
buộc chúng sanh vào vòng luân hồi) là ảo tưởng liên quan đến tự ngã
(Sakkāyadiṭṭhi, thân kiến) và hoài nghi (Vicikicchā).
Một vị Nhứt Lai (Sakadāgāmi -- Tư Ðà Hàm), đã đắc tầng Thánh thứ nhì,
làm suy giảm năng lực của những loại tâm thứ 9 và thứ 10, vì Ngài chỉ
làm suy nhược hai thằng thúc Kāmarāga (luyến ái theo nhục dục ngũ trần)
và Paṭigha (bất toại nguyện).
Một vị Bất Lai (Anāgāmi -- A Na Hàm), đã đắc tầng Thánh thứ ba, tận
diệt luôn cả hai loại tâm kể trên vì đã hoàn toàn cắt đứt hai thằng thúc
ấy.
Một vị A La Hán (Arahanta) không còn loại nào trong mười hai loại tâm
bất thiện, vì Ngài đã tận diệt luôn 5 thằng thúc còn lại là: Rūparāga
(luyến ái theo các tầng Thiền Sắc Giới và cảnh Sắc Giới), Arūparāga
(luyến ái theo các tầng Thiền Vô Sắc và cảnh Vô Sắc Giới), Māna (ngã
mạn), Uddhacca (phóng dật) và Avijjā (vô minh).
(Sīlabbata parāmāsa = giới cấm thủ, hay dể duôi tin theo những nghi
thức lễ bái sai lầm, là một trong mười thằng thúc, không được nhắc đến ở
trên -- được tận diệt do một vị Nhập Lưu).
Ghi chú:
[1] Xem Upekkhā, chú giải số 42.
[2] Vicikicchā là trạng thái không thể quyết định chắc chắn một việc
gì là như thế nào. Buddhaghosa -- Majjhima Nikāya Commentary
[3] Xem The Expositor, phần i, trang 50.
[4] Xem Buddhist Psychology, Ixxxii.
[5] Xem quyển The Buddha and His Teachings, cùng tác giả (Ð.Ð.
Nārada), trang 293.
[6] a. Phủ nhận hậu quả của nghiệp (natthika diṭṭhi), b. Phủ nhận cả
hai, nhân và quả (Ahetuka) và c. Phủ nhận Nghiệp Báo (Akiriya Diṭṭhi).
Ðó là những nguyên nhân tạo nên tà kiến.
[7] Xem The Expositor phần I, trang 128-135.
-ooOoo-
Ahetuka CittĀni -- 18
18 loại tâm
vô nhân
5.
Akusala Vipāka Cittāni
(1) Upekkhāsahagataṁ Cakkhuviññāṇaṁ;
tathā (2) Sotaviññāṇaṁ, (3)
Ghāṇaviññāṇaṁ, (4) Jivhā- viññāṇaṁ,
(5) Dukkhasahagataṁ, Kāyaviññāṇaṁ,
(6) Upekkhāsahagataṁ Sampaṭicchanacittaṁ, (7) Upekkhāsahagataṁ
Santīraṇacittañ c'āti.
Imāni satta'pi Akusala Vipāka Cittāni nāma.
Kusala Vipāk'āhetuka Cittāni
(8) Upekkhāsahagataṁ kusalavipākaṁ Cakkhu-viññāṇaṁ;
tathā (9) Sotaviññāṇaṁ, (10) Ghāṇa-
viññāṇaṁ, (11) Jivhāviññāṇaṁ,
(12) Sukhasaha-gataṁ Kāyaviññāṇaṁ,
(13) Upekkhāsahagataṁ Sampaṭicchanacittaṁ, (14)
Somanassasahagataṁ Santīraṇacittaṁ, (15) Upekkhāsahagataṁ
Santīraṇa cittaṁ c'āti.
Imāni aṭṭha'pi Kusalavipāk'āhetuka cittāni nāma.
Ahetuka Kiriya Cittāni
(16) Upekkhāsahagataṁ Pañcadvārāvajjanacitaṁ; tathā (17)
Manodvārāvajjanacittaṁ, (18) Somanassa- sahagataṁ Hasituppādacittañ
c'āti.
Imāni tīṇi' pi Ahetuka-Kiriya Cittāni nāma.
Icc'evaṁsabbathā'pi aṭṭhārasāhetukacittāni samattāni
Sattākusalapākāni -- puññāpākāni
aṭṭhadhā
Kiriyāciṭṭāni tīṇī'ti -- aṭṭhārasa Ahetukā. |
§5
Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân:
(1) Nhãn thức, đồng phát sanh cùng thọ xả. Cùng thế ấy (2)
Nhĩ thức, (3) Tỷ thức, (4) Thiệt thức, (5)Thân thức, đồng phát
sanh cùng thọ khổ, (6) Tiếp Thọ Tâm, đồng phát sanh cùng thọ xả,
(7) Suy Ðạc Tâm, đồng phát sanh cùng thọ xả.
Bảy loại tâm nầy là tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân.
Tâm Quả Thiện Vô Nhân:
(8) Nhãn thức Quả Thiện, đồng phát sanh cùng thọ xả. Cùng thế
ấy, (9) Nhĩ thức, (10) Tỷ thức, (11) Thiệt thức, (12) Thân thức,
đồng phát sanh cùng thọ lạc, (13) Tiếp Thọ Tâm, đồng phát sanh
cùng thọ xả, (14) Suy Ðạc Tâm, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, (15)
Suy Ðạc Tâm, đồng phát sanh cùng thọ xả.
Tám loại tâm nầy là tâm Quả Thiện Vô Nhân.
Tâm Hành Vô Nhân:
(16) Ngũ Môn Hướng Tâm, đồng phát sanh cùng thọ xả.
Cùng thế ấy, (17) Ý Môn Hướng Tâm, (18) Tiếu sanh Tâm, đồng phát
sanh cùng thọ Hỷ.
Ba loại tâm nầy là tâm Hành Vô Nhân.
Như vậy chấm dứt, tất cả có mười tám loại Tâm Vô Nhân.
TÓM LƯỢC:
Bảy tâm Quả Bất Thiện. Tám tâm Quả Thiện. Ba tâm Hành. Tâm Vô
Nhân có mười tám. |
Chú Giải:
23. Hetu, Nhân
Hetu thường được dịch là "điều kiện tạo nhân". Trong những bài kinh
ta thường gặp các câu như "ko hetu ko paccayo", do nhân nào, do duyên
nào. Trong Vi Diệu Pháp, Abhidhamma, hai danh từ hetu và paccaya được
phân biệt rõ ràng và mỗi chữ có một ý nghĩa riêng biệt. Hetu là nguyên
nhân, hay căn cội, nguồn gốc từ đó phát xuất, chỉ sáu nhân (tham, sân,
si, và không tham, không sân, không si) đã được giải thích ở phần trên.
Paccaya là điều kiện hỗ trợ, hay duyên (upakāraka dhamma). Hetu như rễ
cây. Paccaya như nước, phân bón v.v...
Mười tám loại tâm kể trên được gọi là "Ahetuka" vì các loại tâm nầy
không có "nhân đồng phát sanh" (sampa-yuttaka hetu). Phải hiểu rằng chí
đến các loại tâm vô nhân (ahetuka citta) nầy cũng phải có một hiệu nhân
(nibbattaka hetu, nhân có hiệu lực, hay khả năng trổ quả). Ngoài ra, 71
loại tâm còn lại gọi là sa-hetuka, hữu nhân. Hai loại chỉ có một nhân,
sáu mươi chín loại có hai hoặc ba nhân.
24. Dvipañcaviññāṇa, Ngũ Song Thức
Ở đây có năm cặp tâm quả, thiện và bất thiện (tức năm tâm quả thiện
và năm tâm quả bất thiện) được liệt kê. Gọi như vậy bởi vì các loại tâm,
hay thức, nầy tùy thuộc ở năm giác quan. Những tâm nầy tương đối yếu ớt
nên chỉ phát sanh cùng thọ Xả, hay vô ký, ngoại trừ thân thức, phát sanh
cùng thọ Khổ hay thọ Lạc. Nên ghi nhận rằng trong Abhidhamma năm cặp tâm
nầy có khi được đề cập đến là "Dvipañcaviññāṇa" (Ngũ Song Thức). Còn hai
loại tâm Sampaṭicchana citta, Tiếp Thọ tâm, và Pañcadvārāvajjana citta,
Ngũ Môn Hướng tâm, được gọi là "Mano-Dhātu", Ý Giới, hay nguyên tố tâm,
và 76 loại còn lại là "Mano Viññāna Dhātu", Ý Thức Giới.
25. Sampaṭicchana, Tiếp Thọ Tâm,
Là khoảnh khắc lúc tâm tiếp nhận và thọ lãnh một đối tượng, trần
cảnh. Santīraṇa là lúc tâm dò xét, quan sát đối tượng, Suy Ðạc Tâm. Còn
lúc tâm hướng về đối tượng của một trong năm giác quan thì gọi là
Pañcadvārāvajjana, Ngũ Môn Hướng Tâm. Manodvārāvajjana, Ý Môn Hướng Tâm,
là lúc tâm hướng về đối tượng tinh thần. Pañcadvārāvajjana và
Manodvārāvajjana là hai chặp tư tưởng duy nhất thuộc về tâm hành (kriyā)
mà người không đắc Quả A La Hán có thể có. Tất cả các tâm hành khác
(Kiriya Cittas, cũng được gọi là tâm "duy tác", có làm mà không tạo
nghiệp) thì chỉ chư Phật và chư vị A La Hán có.
Chính Manodvārāvajjana citta, Ý Môn Hướng Tâm sẽ tác hành nhiệm vụ
quyết định (Votthapana), sẽ được đề cập đến trong phần sau.
26. Hasituppāda, Tiếu Sanh Tâm
Là một loại tâm riêng biệt của chư vị A La Hán. Nguyên nhân của sự
mĩm cười là một thọ Hỷ. Tùy tâm tánh mỗi người, mười ba loại tâm có thể
làm mĩm cười. Một phàm nhân tầm thường (puthujjana) có thể cười với một
trong bốn loại tâm bắt nguồn từ căn Tham đồng phát sanh cùng thọ Hỷ, hay
một trong bốn loại tâm Kusala Citta, Thiện, đồng phát sanh cùng thọ Hỷ.
Chư vị Nhập Lưu (Sotāpanna), Nhứt Lai (Sakadā- gāmi), và Bất Lai
(Anāgāmi) có thể mĩm cười với một trong hai loại tâm bất thiện không
liên hợp với tà kiến, đồng phát sanh cùng thọ Hỷ, hoặc một trong bốn tâm
Thiện (Kusala Cittas).
Chư vị A La Hán và chư Phật Ðộc Giác (Pacceka Buddha) có thể mĩm cười
với một trong bốn loại tâm Hành Ðẹp (Sobhana Kiriya Citta, Duy Tác Tịnh
Quang Tâm) hoặc Hasituppāda (Tiếu Sanh Tâm), tâm làm mĩm cười.
Chư Phật Chánh Giác (Sammā Sambuddho) mĩm cười với một trong hai tâm
Hành Ðẹp (Sobhana Kiriya Citta, Duy Tác Tịnh Quang Tâm) đồng phát sanh
cùng Trí Tuệ và thọ Hỷ. Trong Hasituppāda (Tiếu Sanh Tâm, hay tâm làm
mĩm cười) chỉ có niềm vui suông.
Sách Compendium of Philosophy viết rằng kinh điển Phật Giáo có ghi
nhận sáu phân hạng cười:
1. Sita, một nụ cười mĩm, biểu hiện nhẹ nhàng trên vẻ mặt.
2. Hasita, một nụ cười chỉ nhích môi vừa đủ hé cho người ta thấy chót
răng.
3. Vihasita, nụ cười khẽ phát ra một tiếng động nhỏ.
4. Upahasita, một nụ cười làm chuyển động đầu vai và tay.
5. Apahasita, một nụ cười làm chảy nước mắt.
6. Atihasita, bật cười lớn tiếng, ngả nghiêng ngả ngửa làm chuyển động
cả thân mình, từ đầu đến chân.
Vậy, cười là một hình thức diễn đạt của thân (kāyaviññatti) có thể,
hay không, phát sanh cùng với tiếng động (vacīviññatti). Người có văn
hóa giáo dục cười với hai hạng đầu. Người thường với hai hạng giữa, và
hạng chúng sanh thấp kém có hai lối cười xếp hạng sau cùng.
27. Tiến Trình Tâm
Tâm, chủ thể, tiếp nhận đối tượng từ bên trong hay bên ngoài.
Khi đang ngủ mê, tâm được gọi là an nghỉ, hay nói cách khác là ở
trong trạng thái Bhavaṅga. Chúng ta luôn luôn có một trạng thái tâm tiêu
cực như thế khi tâm không tương ứng với ngoại cảnh. Luồng Bhavaṅga (Hộ
Kiếp) ấy bị gián đoạn khi có một đối tượng nhập vào tâm. Lúc ấy tâm
Bhavaṅga rung động trong một sát na (chặp tư tưởng) và tan biến.
Kế đó Ngũ Môn Hướng Tâm (Pañcadvārāvajjana) khởi sanh và diệt. Ðến
giai đoạn nầy dòng trôi chảy tự nhiên bắt đầu bị kiểm soát và chuyển
hướng về đối tượng. Tức khắc sau đó nhãn thức [1] (Cakkhu Viññāṇa) khởi
sanh và diệt, nhưng không hiểu gì hơn ngoài sự thấy đối tượng. Tiếp theo
tác hành nầy của giác quan có một chặp tư tưởng tiếp thâu đối tượng đã
nhận (Sampaṭicchana) gọi là Tiếp Thọ Tâm. Rồi đến khả năng dò xét
(Santīraṇa, Suy Ðạc Tâm) trong chốc lát quan sát đối tượng đã tiếp thâu.
Sau đó đến giai đoạn nhận định gọi là Xác Ðịnh Tâm (Voṭṭhapana) phân
biện lựa chọn. Ðây là giai đoạn mà ý chí tự do góp phần của nó. Sau đó
là giai đoạn tâm lý cực kỳ quan trọng -- giai đoạn Javana, Tốc Hành, hay
Xung Lực. Chính ở giai đoạn nầy mà hành động được xét là thiện hay bất
thiện. Nghiệp được tạo ở giai đoạn nầy. Nếu nhận định chân chánh (yoniso
manasikāra, có sự chú ý chân chánh) Javana trở nên thiện. Nhận định sai
lầm (ayoniso manasikāra) luồng Javana trở nên bất thiện. Trong trường
hợp một vị A La Hán luồng Javana nầy không thiện, cũng không bất thiện,
mà chỉ thuộc về cơ năng, hành (kiriya, duy tác, chỉ có tác hành mà không
tạo hậu quả). Giai đoạn Javana nầy thường trôi chảy trong bảy sát na tâm
(chặp tư tưởng). Lúc lâm chung chỉ có năm chặp. Toàn thể tiến trình chỉ
tồn tại trong một thời gian cực nhỏ, chấm dứt bằng tâm ghi nhận, hay
Ðăng Ký Tâm (Tadālambana), kéo dài hai chặp.
Như vậy, hoàn tất trọn vẹn lộ trình một tư tưởng sau mười bảy chặp tư
tưởng, hay sát-na tâm [2].
Ba loại tâm Bhavaṅga là Vipāka (quả). Ba loại nầy hoặc là một trong
hai chặp tâm Suy Ðạc (Santīraṇa) đồng phát sanh cùng thọ Xả, đã được đề
cập đến trong phần trước, hoặc một trong tám loại tâm Quả Ðẹp (Sobhana
Vipāka Cittas), sẽ được mô tả trong đoạn 6.
Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm) là một tâm Hành (Kiriyā
Cittas). Pañca Viññāṇa (Ngũ Quan Thức) là một trong mười tâm Quả Thiện
và Bất Thiện (Kusala và Akusala Vipāka Cittas). Sampaṭicchana (Tiếp Thọ
Tâm) và Santīraṇa (Suy Ðạc Tâm) cũng là tâm Quả (Vipāka Cittas).
Manodvārāvajjana (Ý Môn Hướng Tâm), một tâm Hành (Kiriyā Citta) tác hành
như Xác Ðịnh Tâm (Votthapana). Ta có thể vận dụng tự do ý chí ở giai
đoạn nầy. Bảy chặp của luồng Javana tạo thành nghiệp (Kamma).
Ðăng Ký Tâm (Tadālambana) là một tâm Quả (Vipāka), một trong ba tâm
Suy Ðạc (Santīraṇa) hay một trong tám tâm Quả Ðẹp (Sobhana Vipāka
Cittas).
Như vậy, trong một tiến trình tư tưởng có nhiều chặp, và các chặp tư
tưởng nầy có thể là Nghiệp (Kamma), Quả (Vipāka), hay Hành (Kiriyā) [3].
Tiến Trình Tâm
Theo Vi Diệu Pháp, khi một đối tượng biểu hiện trước tâm xuyên qua
một trong năm cửa (ngũ môn), một tiến trình tâm diễn tiến như sau:
(Ðồ Biểu 1)
Sát-na tâm |
|
1 |
Atīta Bhavaṅga (Bhavaṅga vừa qua) |
2 |
Bhavaṅga Calana (Bhavaṅga giao động) |
3 |
Bhavaṅgupaccheda (Bhavaṅga dứt dòng) |
4 |
Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng
Tâm) |
5 |
Pañca Viññāṇa (Ngũ Quan Thức) |
6 |
Sampaṭicchana (Tiếp Thọ Tâm) |
7 |
Santīraṇa (Suy Ðạc Tâm) |
8 |
Votthapana (Xác Ðịnh Tâm) |
9 |
Javana (Xung Lực) |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
Tadālambana (Ðăng Ký Tâm) |
17 |
Ðồ Biểu 2
Citta - 89
Tâm |
Lokuttara - 8
Siêu thế |
Magga - 4
Đạo |
Phala - 4
Quả |
Arūpāvacara - 12
Vô sắc giới |
Kusala - 4
Thiện |
Vipāka - 4
Quả |
Kriyā - 4
Hành |
Rūpāvacāra - 15
Sắc giới |
Kusala - 5
Thiện |
Vipāka - 5
Quả |
Kriyā - 5
Hành |
Kāmāvacāra - 54
Dục giới |
Sobhaha - 24
Đẹp
|
Kusala - 8
Thiện |
Vipāka - 8
Quả |
Kriyā - 8
Hành |
Ahetula - 18
Vô nhân |
Ākusalavipāka - 7
Quả bất thiện |
Kusalavipāka - 8
Quả thiện |
Kriyā - 3
Hành |
Akusala - 12
Bất thiện |
Lobha - 8
Căn tham |
Paṭigha - 2
Căn sân |
Moha - 2
Căn si |
Ðồ Biểu 3
Citta - 89 (121)
Tâm |
Akusala - 12
Bất thiện |
Kusala - 21 (37)
Thiện |
Kāmāvacara - 8
Dục giới |
Rūpāvacara - 5
Sắc giới |
Arūpāvacara - 4
Vô sắc giới |
Lokuttara - 4 (20)
Siêu thế |
Vipāka - 36 (52)
Quả |
Kāmāvacara - 23
Dục giới |
Rūpāvacara - 5
Sắc giới |
Arūpāvacara - 4
Vô sắc giới |
Lokuttara - 4 (20)
Siêu thế |
Kriyā - 20
Hành |
Kāmāvacara - 11
Dục giới |
Rūpāvacara - 5
Sắc giới |
Arūpāvacara - 4
Vô sắc giới |
Ghi chú:
[1] Tức là, nếu đối tượng là một hình thể (rūpa hay sắc pháp). Chặp
tâm nầy tùy thuộc năm đối tượng của giác quan.
[2] Xem Compendium of Philosophy -- Introductory Essay trang 27-30.
[3] Xem Chương 4
==>xin xem tiếp
---o0o---
Mục lục
| 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | 06
| 07 | 08
| 09
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Source: BuddhaSasana (www.budsas.org)
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-09-2002