|
. |
Lá bối 1996
DUY BIỂU HỌC
Giảng luận
Thiền Sư Nhất
Hạnh
---o0o---
9.
KỆ THỨ 41
Quán chiếu tính y tha
Vô minh thành tuệ giác
Luân hồi và chơn như
Tuy hai mà thành một.
Nếu chúng ta sống có chánh niệm để có thể thấy được tính y tha
khởi trong lòng sự vật thì chúng ta có thể chuyển vô mình thành
tuệ giác được, đó là cái chìa khóa. Trong Duy Biểu học có giáo
lý về ba Tự tính. Tự tính là Svabhava, dịch tiếng
Anh là The Tue Nature, Self Nature. Tự tính tức là cái bản chất
của chính nó. Sự vật có tự tính của nó. Và tự tính đó là đối
tượng nhận thức của mình. Và chúng ta đã học tự tính đầu là
tự tính biến kế. Tự tính này không phải chính nó tự có mà
tại vì vô minh, tại vì sự ngu muội của chúng ta cho nên thực tại
mang màu sắc đó. Ví dụ chúng ta buồn, chúng ta nhìn mặt trăng
thì chúng ta thấy mặt trăng nó buồn. Tự tính là do tâm thức của
chúng ta tạo tác, gọi là tự tính biến kế (parikalpita).
Đó là những tạo tác của tâm, ý. Như khi mà chúng ta quan niệm
thế giới nó có sinh, có diệt, có thành, có hoại, có một, có
nhiều, có lui, có tới đó là chúng ta tạo tác ra những cái tính
chất của thực tại mà chính cái thực tại đó không có, gọi là tự
tính biến kế chấp. Và chúng ta bị giam hãm trong thế giới của vô
minh, sinh tử, vì chúng ta đã tạo ra cái thế giới mà chúng ta
tưởng là thực tại tự thân nhưng kỳ thực đó là thế giới biến kế
chấp.
Ngược lại thế giới biến kế chấp là thế giới Viên thành thật.
Thế giới Viên thành thật là thế giới không có sự tạo tác của tâm
ý, không có những khái niệm (conception). Đây thực sự là
tự tính của vạn pháp. Tự tính viên thành thật đích là tự tính
của vạn pháp trong đó không có sinh, có diệt, không có một,
không có nhiều, không có đi, không có tới, không có có và không
có không. Và tự tính thứ ba mà chúng ta gọi là tính y tha,
nói cho đủ là Tự Tính Y Tha Khởi. Y tha khởi tức là nương
vào những cái vật khác mà phát sinh, tiếng Phạn là paratantra.
Y tha khởi. tại vì tất cả mọi sự mọi vật đều nương vào những
những hiện tượng khác mà phát khởi. Ví dụ như bông hoa. Bông
hoa, tự tính của nó là y tha khởi. Y tha khởi tức là nương vào
những điều kiện khác mà có. Ví dụ như là hạt giống, đám mây, sức
nóng của mặt trời v.v… những cái đó đều gọi là tha. Tha tức là
những điều kiện khác. Y tha khởi cũng là tự tính của vạn vật. Và
nếu chúng ta biết quán chiếu tính y tha khởi của vạn vật thì
chúng ta có khả năng chuyển “Vô minh thành tuệ giác”.
Quán ở đây là nhìn, nhìn sâu và nhìn kỹ, nhìn vào trong lòng sự
vật. Chiếu là đưa ánh sáng tới để có thể nhìn. Nếu không có ánh
sáng thì không có nhìn. “Quán chiếu tính y tha” ở đây tức
là sử dụng Vô thường quán, sử dụng Vô ngã quán và
Nhân duyên quán. Vô thường quán nó là Vô ngã quán, và Vô
ngã quán cũng là Nhân duyên quán. Trước khi đi vào 50 bài tụng
thì chúng ta đã học về Tam pháp Ấn và chúng ta đã thấy rằng khi
mà chúng ta tiếp xúc được với vô thường và vô ngã của vạn pháp
thì chúng ta có thể tiếp xúc được tự tính niết bàn của vạn pháp.
Vô thường vô ngã là đứng về hiện tượng mà nói, còn Niết-bàn là
đứng về phương diện bản thể mà nói. Cho nên bài Tam Pháp Ấn rất
là quan trọng, nó là chìa khóa để mở ra Duy Biểu. Vô thường là
chìa khóa đầu, chúng ta dùng để mở cửa thực tại và Vô ngã là
đứng vè phương diện không gian. Tuy hai cái nhưng kỳ thực là
một, tại vì chúng ta đã học thời gian với không gian nó nương
vào nhau mà thành. Thời gian và không gian nó cũng là y tha
khởi. Thì chúng ta đã cũng có thể tạm nói rằng Vô thường, Vô ngã
là cái thấy của chúng ta đứng về phương diện hiện tượng
(phenomna). Còn Niết-bàn là đứng về phương diện bản thể. Có thể
nói Niết-bàn là tương đương với tự tính Viên thành thật, tức là
thực tại không sinh, không diệt, không tới, không đi, không một,
không nhiều, không có và không không. Và chúng ta muốn thực
chứng thực được được cái thức tại Niết-bàn thì trước hết chúng
ta phải tiếp xúc với thực tại Vô thường, Vô ngã nó tương đương
với tự tánh thứ hai là tự tánh y tha khởi. Như vậy cái tự tính
biến kế chấp nó nằm ở đâu? Tự tính biến kế chấp nằm ở cái chỗ là
chúng ta tin vào thường và ngã. Cái thấy của chúng ta là tin vào
thường và ngã. Đó là cái thấy thông tục của những người không có
tu học, của những người vô minh và thực tại đối với họ là có
thường và có ngã. Và khi mà thực tại hiển hiện ra cho họ như là
những cái gì có thường, có ngã thì thực tại đó mang màu sắc của
tự tính biến kế chấp. Vì vậy cho nên người tu học phải sử dụng
hai chìa khóa vô thường và vô ngã để bắt đầu nhìn sự vật bằng
con mắt quán chiếu vô thường, vô ngã, thì lúc đó là sử dụng cái
thấy của y tha khởi. Và cái phương pháp của mình là thắp ánh
sáng chánh niệm trong đời sống hàng ngày của mình. Mình nhìn cái
gì, nghe cái gì, tiếp xúc cái gì cũng dùng chánh niệm để có thể
thấy được tự tính y tha khởi ở trong những sự vật mà mình tiếp
xúc, dầu nó là thân thể, hay là hơi thở hay là cảm thọ, hay là
tâm hành, hay là thiên nhiên, núi, sông, cây, cỏ. Tiếp xúc và
nhìn vào bất cứ một hiện tượng nào cũng phải làm bằng chánh niệm
để có thấy được tính chất y tha của tất cả mọi vật. Như là bông
hoa, chúng ta đừng có nhìn thất niệm, chúng ta nhìn bằng chánh
niệm để có thể thấy được tự tính y tha của bông hoa. Nhìn vào
Mẹ, nhìn vào Cha, vào bạn bè, chúng ta cũng phải nhìn để thấy
được tính y tha. Em bé nó giỏi, nó ngoan là tại vì làm sao đó.
Chúng ta thấy được cái nguyên do, những cái gốc rễ của cái giỏi,
cái ngoan của em bé. Em bé mà hư hỏng, em bé mà du đảng, em bé
mà khó dạy thì khi chúng ta nhìn vào em bé chúng ta cũng thấy
được tự tính y tha khởi của em bé. Tức là những cái hoàn cảnh
gia đình, xã hội, học đường, bạn bè, tổ tiên của nó. Phải thấy
được nguyên do đã khiến em bé trở nên du đãng như vậy. Nhìn em
bé mà thấy được cái đó tức là chúng ta đã quán chiếu y tha khởi.
Còn nếu không có nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì
chúng ta nhìn cách khác và chúng ta chỉ có giận, có buồn, có
trách móc, có la rầy thôi chứ ta không hiểu; mà không có cái
hiểu thì không thể nào đạt tới cái chấp nhận, thương yêu và
chuyển hóa nó được. Cho nên nhìn những hiện tượng thiên nhiên
chúng ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi, nhìn
vào những hiện tượng con người chúng ta cũng phải nhìn bằng con
mắt quán chiếu y tha khởi.
Nhìn vào những hiện tượng tâm lý của chúng ta và của những người
khác chúng ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi.
Ví dụ người đó hay giận hay buồn và cái giận cái buồn đó làm cho
mình không có được an lạc lắm và mình trách người đó hay giận
hay buồn, nhưng mà nếu chúng ta nhìn cái giận, cái buồn của
người đó bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì chúng ta hiểu
được những gốc rễ gần và xa của cái tâm trạng đó là tự nhiên
chúng ta hiểu, chúng ta không còn trách móc người đó nữa mà
chúng ta có thể chấp nhận được người đó, thương người đó và giúp
đỡ người đó thì tự nhiên người đó và chúng ta cũng bớt khổ liền.
Hậu quả có thể có ngay được là do cái thấy về y tha khởi. Ví dụ
như khi mà chúng ta quắn chiếu cái hình phạt gọi là tử hình
(death penalty) bằng con mắt quán chiếu y tha khởi, thì chúng ta
thấy rằng áp dụng cái hình phạt tử hình không có đúng. Tại vì
con người làm ra cái tội ác đó có những nguyên do xa gần: có
những hạt giống trao truyền, những hạt giống được gieo trồng,
những hoàn cảnh xã hội, các nhà giáo dục, các nhà kinh tế, cha
mẹ, bạn bè, anh em đã không làm gì để giúp người đó có thể
chuyển hóa được; và vì vậy cho nên chúng ta tỏ ra sự bất lực của
chúng ta, chúng ta nghĩ rằng: để đối xử với người đó, để đối trị
với người đó chỉ có một phương pháp duy nhất là đem giết người
đó không muốn người đó đi mà thôi. Đó là sự thua trận của chúng
ta. Có thể người đó không muốn giết người, không muốn phá phách,
nhưng mà có cái sức mạnh gì nó lớn quá ở trong con người đó, nó
kéo người đó phải đi tới cái chuyện giết người, chuyện hãm hiếp,
chuyện này kia. Thành ra nếu mà nhìn vào sâu trong con người đó
thì thấy được tính y tha chúng ta có thể khởi được tâm từ bi mà
thông thường chúng ta không thể khởi được. Nhưng người mà cắt
xén chúng ta, giẫm đạp lên chúng ta như là giẫm đạp lên con
giun, con dế thì chúng ta không thể tha thứ được, chúng ta giận
hờn, chúng ta thù hận; nhưng mà nếu chúng ta có thể nhìn được
bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì chúng ta có thể thấy
rằng: nếu chúng ta được sinh ra, được lớn lên, được giáo dục
bằng những điều kiện của người đó thì chúng ta cũng sẽ làm như
vậy. Và cái hiểu đó đưa tới cho chúng ta một sự bao dung và
chúng ta không có giận, không có thù hằn người đó và trong tâm
của chúng ta nó nhẹ nhàng, chúng ta có thể chết một cách bình
yên hơn và ít thù hận hơn. Đó là kết quả thứ nhất.
Ngày xưa khi còn nhỏ, đọc kinh, tôi thấy trong những kiếp trước
của Bụt là những vị Nhẫn Nhục Tiên Nhân bị người ta đem thân thể
cưa ra mà vị Bồ-tát vẫn mĩm cười như thường, tôi nghĩ đây không
phải là người, mà là một vị Thánh. Làm sao mà người ta hành hạ,
người ta cưa thân xác mình ra như vậy mà mình vẫn tha thứ được?
Do vì có trẻ quá mình không hiểu. Tại vì trong con người của
người đó có con mắt quán chiếu, thấy được những cái nguyên do xa
gần đã đưa tới một chất liệu trong con người của Bồ-tát, gọi là
chất liệu đại bi, tức là xót thương lớn. Thành ra khi đối diện
với con người độc ác vô cùng đó mà chất liệu đại bi trong người
thì mình không có đau khổ, mình không có hờn oán và mình có thể
chết rất là an lành, mình có thể chết rất là an lành, mình có
thể tha thứ được cho người đó. Và vì vậy cho nên người nào không
có quán chiếu, và chưa nếm được chất liệu của đại bi thì không
thể nào hiểu được cai hành động của vị Tiên nhân nhẫn nhục kia.
Nhưng mà người nào đã có một chút ít từ bi, đã có một chút quán
chiếu, đã có thể hiểu và thương được những người độc ác thì
những người đó có thể hiểu được hành động của vị Bồ-tát đó. Ở
trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, thanh niên và các vị xuất
gia trẻ tuổi họ tham dự các công tác cứu trợ đồng bào, giúp đỡ
những nạn nhân chiến tranh, phát triển nông thôn, họ làm việc
trong những hoàn cảnh hết sức là khó khăn, thì có nhiều tác viên
vẫn chết trong sự hận thù trong sự đen tối. Mình đứng ở giữa để
làm công tác của tình huynh đệ thì mình có thể bị nghi kỵ, hiểu
lầm và nhiều tác viên của mình đã bị tàn sát trong hoàn cảnh đó.
Có một lần, một số tác viên của mình trong đó có một sư huynh
tên là Thật Trí - viết chữ giống hệt như Thầy đã chết. Thì lúc
đó Thầy đã đi ra ngoại quốc rồi và khi mà nhận được những cái
tin bị tàn sát, bị bắt cóc và thủ tiêu như vậy Thầy rất là đau
khổ và thương những tác viên của Thầy, không biết là đã có chất
lượng tha thứ trong người chưa. Nếu mà có thì trong khi chết
không có đau khổ lắm, còn nếu không có chất liệu đại bi mà chết
trong sự hờn oán thì rất là đau khổ. Cho nên Thầy mới viết bài
thơ “Dặn Dò”. Hồi đó Sư cô Chân Không cũng còn ở nhà, chị Nhất
Chi Mai, một trong sáu người Tiếp Hiện đầu tiên, người đã tự
thiêu cho hòa bình cũng đang còn ở nhà. Thì Thầy mới viết bài
“Dặn Dò” về để cho các tác viên quán chiếu. Tại vì Thầy rất
thương những người tác viên còn trẻ của mình trong đó có các chú
đi làm việc vì tình thương, vì đồng bào, vì đất nước có thể chết
trong sự tàn bạo, tỵ hiềm, cho nên Thầy quán chiếu rất nhiều và
Thầy làm ra bài thơ đó, gọi là bài thơ Dặn Dò, nếu mà em chưa
chết thì phải như thế này:
“Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng ta có mặt trời
Và giữa trưa đứng bóng
Rằng không bao giờ em thù hận con người
Dù con người có đổ chụp lên đầu em
Cả ngọn núi hận thù, tàn bạo
Dù con người giết em
Dẫm lên mạng sống em
Như là dẫm lên giun dế
Dù con người móc mật, mọi gan em
Đày ải em vào hang sâu tủi nhục
Em vẫn phải nhớ tới lời tôi căn dặn
Kẻ thù chúng ta không phải con người
Xứng đáng chỉ có tính xót thường
Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
Bởi vì không bao giờ oán hơn lên tiếng
Đối đáp với sự tàn bạo con người
Có thể ngày mai trước khuôn mặt bạo tàn
Một mình em đối diện:
Hãy rót cái nhìn dịu hiền từ đôi mắt
Hãy can đảm dù không ai hay biết
Và nụ cưòi em hãy để ở trong cô đơn,
Trong đau thương thắm thiết
Những người yêu em dù lênh đênh
Qua ngàn trùng sinh diệt
Vẫn sẽ nhìn thấy em
Tôi sẽ đi một mình
Và dầu tôi cúi xuống
Tình yêu bổng trở nên bất diệt
Đường xa và gặp ghềnh muôn dặm
Nhưng đôi vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn soi bước cho tôi”.
Nhất Chi Mai trước khi tự thiêu và kêu gọi hai phe lâm chiến
ngồi lại với nhau để chấm dứt chiến tranh, Chị có đọc hài đó hai
lần. Thì khi mà quán chiếu cái tính y tha và thấy được rằng con
người cũng là nạn nhân của gia đình, của xã hội, của hoàn cảnh
thì tự nhiên có cái hiểu, có cái hiểu thì tự nhiên có sự thương
xót và tha thứ. Và cái hiểu đưa tới cái thương. Thương
đây từ bi. Và khi mà có chất liệu từ bi thì mình không có
cái đau khổ và cái giận, và có tuệ giác. Những cái sợ, những cái
lo, những cái buồn, những cái thất vọng, những cái tuyệt vọng
tất cả những cái đó làm cho mình đau khổ. Nhưng mà nếu mình biết
quán chiếu tự tính y tha của cả mọi sự, mọi vật thì mình sẽ thấy
được, sẽ hiểu được và sẽ có đại bi, sẽ có chấp nhận, sẽ có
thương yêu và vì vậy cho nên mình sẽ không đau khổ. Có chất liệu
đại bi ở trong trái tim thì cũng giống là như có Cam lộ.
Có nước Cam Lộ thì mình sẽ không đau khổ, dầu người đó có phụ
bạc mình, dầu người đó phản bội mình, dầu người đó tàn sát mình,
mình vẫn có thể thương được như thường. Và vì vậy cho nên người
ta nói rằng đại bi là chất liệu của vị Bồ-tát. Có chất liệu đại
bi thì mình đã là vị Bồ-tát rồi, dầu là một vị Bồ-tát nhỏ, khi
chất liệu đại bi còn ít.
Khi mà mình đi thiền hành thấy được rằng chân mình sắp dẫm đạp
lên giun mà mình ngưng lại thì biết rằng trong con người mình đã
có chất liệu đại bi dù chất liệu đó đang còn nhỏ bé. Và nếu quán
chiếu, sống đời sống hằng ngày của mình cho tỉnh thức thì chất
liệu đại bi đó càng ngày càng lớn. Trong kinh Pháp Hoa có một
câu năm chữ tóm tắt lại cách sống đó là mắt thương nhìn cuộc
đời (từ nhãn thị chúng sanh), tức là mắt thương yêu
để nhìn cuộc đời: nhìn cây, nhìn đá, nhìn mây, nhìn trời, nhìn
người, nhìn thú vật, nhìn tất cả mọi hiện tượng trong cuộc sống
bằng con mắt thường là từ bi. Mà chúng ta biết rằng mắt thương
chỉ có được khi mà con mắt hiểu nó có. Hiểu nó sinh ra thương.
Và hiểu là gì? Hiểu là hoa trái của sự quán chiếu. Tức là sống
chánh niệm, nhìn mọi hiện tượng bằng con mắt quán chiếu của y
tha thì tự nhiên hiểu được. Hiểu được thì tự nhiên có con mắt
thương yêu. Vì vậy mắt thương có nghĩa là mắt hiểu. “Từ nhãn thị
chúng sanh” có nghĩa là Trí nhãn thị chúng sanh.
Nếu hiểu nó đưa đến thương tức là hiểu và thương là một.
“Quán chiếu tính y tha
Vô minh thành tuệ giác”
Cái không hiêu nó trở thành cái hiểu. Vô minh là cái
không hiểu, tuệ giác là cái hiểu, cái thấy, cái nhìn thông tục
của con người là cái nhìn thường và ngã, cái nhìn đó là cái nhìn
sai lầm, cái nhìn có tính cách biến kế. Nó là nền tảng của bao
nhiêu hiểu làm và bao nhiêu khổ đau: cái nhìn biểu lộ ra cái
sinh, cái diệt, cái có, cái không, cái một, cái nhiều, cái đi,
cái tới. Thì bây giờ muốn thoát khổ thì chúng ta phải dùng chìa
khóa vô thường, vô ngã. Vô thường và vô ngã không phải là những
lý thuyết mà là những chìa khóa, những phương pháp thực tập, gọi
là vô thường quán và vô ngã quán. Còn giáo lý vô thường và giáo
lý vô ngã chưa phải là tuệ giác về vô thường, vô ngã. Mình có
thể hiểu rất rõ, nói rất hay về vô thường, vô ngã thì cái đó mới
là giáo lý về vô thường và vô ngã thôi. Còn mình dùng chánh niệm
mà sống đời sống hàng ngày quán chiếu từng sự vật để chứng
nghiệm được cái tự tính vô thường, vô ngã của sự vật thì cái đó
gọi là tuệ giác vô thường, tuệ giác vô ngã. Ý niệm vô
thường, ý niệm vô ngã không phải là tuệ giác vô thường và tuệ
giác vô ngã.
Khi mà có tuệ giác vô thường và vô ngã rồi thì chúng ta thấy
được cái tính chất y tha khởi của sự vật. Khi mà tiếp xúc được
với tự tính viên thành thật của sự vật thì chúng ta tiếp xúc
được với Niết-bàn ngay trong giờ phút hiện tại. Niết-bàn không
phải làmột hiện tượng tương lai. Niết-bàn tức là tự tính viên
thành thật của sự vật mà chúng ta không có tiếp xúc được là tại
vì chúng ta kẹt vào thường và ngã. Nếu chúng ta quán chiếu sự
vật bằng vô thường quán và vô ngã quán thì chúng ta tiếp xúc với
Niết-bàn ngay bây giờ và ở đây.
Trước đây chúng ta có đem một ví dụ đồng France. Đồng France nó
có mặt trái và mặt phải và đồng France cả mặt trái, mặt phải đều
làm bằng chất liệu kim khí. Chúng ta ví dụ Vô thường là mặt trái
của đồng France, Vô ngã là mặt trái của đồng France và Niết-bàn
là chất kim khí của đồng France. Một bên đứng về phương diện
tướng, một bên đứng về phương diện thể. Vô thường và vô ngã là
tướng và Niết-bàn là thể. Nhưng mà khi chúng ta chạm vào mặt
trái hay chạm vào mặt phải của đồng France thì đồng thời chúng
ta chạm vào chất kim khí của đồng France. Và vì vậy cho nên khi
mà chúng ta chạm vào được cái tự tính vô thường, vô ngã của sự
vật thì chúng ta chạm ngay vào Niết-bàn. Cũng như khi chúng ta
quán chiếu tính y tha thì chúng ta chạm vào tính viên thành
thật. Vì vậy cho nên tự tính y tha, tự tính Niết-bàn tuy hai là
một chạm vào một cái là chạm vào cái kia. Cũng như là sóng và
nước. Mình chạm vào sóng thì mình sẽ chạm vào nước. Ở trong 30
bài tụng Duy Biểu có nói lên ý nghĩa nầy; Tự tính viên thành
thật là tự tính y tha khởi không phải khác mà không phải không
khác: “Cố thử giữ y tha, phi dị phi bất dị”. Hai
tự tính đó, tự tính viên thành của sự vật, tức là tự tính
Niết-bàn của sự vật, nó cũng là một với tự tính y tha khởi của
sự vật. Nhờ y tha khởi mà đi vào được viên thành thật. cũng
giống như là nhờ cửa mà mình đi vào được nhà và cửa cũng là nhà.
Ở đây chúng ta thấy rõ ràng cái chìa khóa của sự tu tập, con
đường tu tập. Tóm tắt lại mấy chữ thôi, từc là sống đời sống
hằng ngày như thế nào để thắp lên ánh sáng của chánh niệm. Lúc
ngồi thiền, lúc nấu cơm, lúc giặt áo, lúc lau nhà, lúc ăn cơm
phải làm tất cả những điều đó như thế nào mà có chánh niệm, mà
dùng chánh niệm đó làm ánh sáng để tiếp xúc với vạn sự, vạn vật
ở trong mình và xung quanh mình (tâm lý, sinh lý, vật lý) và
thấy được tính y tha của tất cả những gì mình tiếp xúc, ở trong
đó có bản thân mình. Thì đó là con đường duy nhất có thể giúp
mình chuyển vô minh thành tuệ giác, chuyển hận thù thành ra tình
thương, chuyển đau khổ thành ra hạnh phúc. Chỉ có một con đường
đó mà thôi!
“Luân hồi và chân như, tuy hai mà thành một”
Tại vì luân hồi có gốc rễ nơi ý niệm nhận thức về thường và ngã.
Luân hồi có gốc rễ ở nơi biến kế chấp, và vì vậy cho nên không
có tuệ giác, có nhiều vô minh. Và vô minh nó đưa tới luân hồi
khổ. Trong khi đó quán chiếu tự tính y tha khởi của vạn vật thì
chúng ta thấy được tự tính viên thành thật và cái nhìn của chúng
ta, cái hiểu của chúng ta đem tới sự giải phóng của chúng ta,
chúng ta không còn bị kẹt vào những ý niệm về thường, về ngã, về
có, về không, về sinh, về diệt, về một, về nhiều, về tới, về lui
nửa. Ví dụ như cái chết. Cái chết là một cái đe dọa thường
xuyên, nó thuộc về cặp sinh và diệt. Lâu lâu chúng ta nhớ rằng:
ngày mai chúng ta thế nào cũng phải chết. Và có
khi chúng ta không nhớ lại đi nữa thì cái ý niệm sợ chết, cái ý
niệm sợ chết nó vẫn thăm thẳm nó nằm trong chiều sâu tâm thức
của chúng ta và nó điều khiển một cách âm thầm những cách hành
xử của chúng ta trong ngày. Thì tu tập tức là dùng chánh niệm
soi vào trong thực tại để thấy rằng không có sinh và không có
diệt. Chúng ta đã nói nhiều lần rằng sinh tức là từ không có cái
gì cả mà mình thành một cái gì, không là ai cả mà trở thành một
người nào đó. Và diệt là từ cái chỗ mình là một người nào đó trở
thành không có cái gì hết. Ý niệm đó là ý niệm về sinh diệt. Và
nếu chúng ta dùng con mắt quán chiếu y tha khởi mà đi sâu vào
lòng sự vật thì chúng ta thấy rằng cái ý niệm về sinh và diệt đó
là một cái vô minh, một cái sai lầm. Không có cái sự thật
là từ cái không trở thành cái có được. Như nhà bác học
Pháp nói rằng là: “Không có gì sinh mà cũng không có gì diệt”,
đó là đứng về phương diện khoa học, người ta cũng nói vậy. Khoa
học người thấy như vậy huống hồ là trong đạo học nhờ quán chiếu
tính y tha. Và khi mà mình đập tan cái ý niệm về sinh và về diệt
rồi, thì cái sợ chết nó không còn ở trong người mình nữa, và tự
nhiên mình thảnh thơi, mình khỏe. Và cái luân hồi trở thành cái
chân như. Luân hồi tức là có sinh và có diệt. Và nó có tiếp tục
sinh và diệt. Nó chấm dứt nhưng mà nó không có mất đi cái gì
hết. Ví dụ như là không có sóng, nước nó vẫn còn hoặc là có sóng
thì có sóng mà mình vẫn không bị sóng, bị cái sợ hãi nữa mà mình
cỡi lên trên sóng mà đi. “Luân hồi và chân như, tuy hai mà
thành một”. Bài tụng này mình phải đọc chung với bài 40 thì
thấy trong đó có hai danh từ luân hồi và chân như.
Bài 40 thì nói tới Biến kế và viên thành,
đưa chúng ta từ biến kế sang viên thành.
“Biến kế huân vô minh
Kéo theo luân hồi khổ
Viên thành mở tuệ giác
Hiển lộ cảnh chân như”.
“Quán chiếu tính y tha,
Vô minh thành tuệ giác,
Luân hồi thành chân như
Tuy hai mà thành một”.
Ban đầu thấy có hai: một là vô minh và luân hồi, một là
viên thành và chân như.
Bây giờ cái thứ ba: y tha khởi, nó đi vào nó chuyển vô
minh thành tuệ giác, chuyển luân hồi thành chân như. Và vì vậy
cho nên luân hồi và chân như tuy hai mà thành một.
Có một vị đệ tử tới hỏi một Thiền sư đời Lý, thấy nói rằng tu
học thì phải tinh tấn để thoát ra sinh diệt. Vị thiền sinh hỏi:
“Bạch Thầy, đi tìm cái chỗ bất sinh bất diệt ở ở chỗ nào?”
Thầy nói:
“Tìm ngay ở cái chỗ sinh diệt đó”.
Nó có nghĩa là chân như, chẳng qua là cái luân hồi nó chuyển
thành thôi, không có cần phải bỏ cái gì hết. Chúng ta đi sang
bài 42.
KỆ THỨ 42
Trong rác có sẵn hoa
Trong hoa có sẵn rác
Hoa và rác không hai
Mê và giác tương tức.
Hình ảnh hoa và rác là để đem ra làm ví dụ cho
giác ngộ và mê mờ. Thường thường chúng ta cứ nghĩ
rằng: “Giác ngộ đâu có dính gì tới mê mờ đâu?”.
Và chúng ta có khuynh hướng cho mê mờ sang một bên, hai cái
không được dính với nhau! Nhưng mà thật sự giác có nghĩa là giác
cái gì? giác đối với mê mà có. Nếu không có mê thì không có
giác. Cũng như là một cây bút mình đưa lên và mình nói có phải,
có trái. Mình muốn cái phải tồn tại không hề có cái trái thì
không thể được. Hể có phải là có trái, có trái là có phải. Chính
vì vậy cho nên phải và trái tương tức. Cái phải chứa đựng cái
trái ở trong đó ở trong lòng nó, vì vậy cho nên nó mới gọi là
phải. Cái trái chứa đựng cái phải ở trong lòng nó và vì vậy cho
nên nó mới gọi là cái trái. Nó là y tha. Cái này do cái kia mà
thành, cái kia do cái này mà thành. Đó là tự tính y tha. Phải
thấy được điều đó. Cho nên nói rằng tôi muốn chấm dứt luân hồi
và tôi chỉ chấp nhận giá trị thôi thì câu nói đó chứng tỏ mình
chưa thấy được tự tính y tha.
Các vị Tổ đã nói nhiều lần rằng: Tịnh độ nó nằm ngay ở trong
tâm. Nếu cái tâm của mình thanh tịnh thì cõi này tự nhiên
thành tịnh độ. Và vì vậy cho nên cái chuyện bỏ một cái để chạy
theo một cái khác không phải là phương pháp của Phật học. Nó
trái chống hết với tất cả những giáo lý căn bản của đạo Bụt. Ví
dụ như giáo lý về vô tác. Vô tác tức là không có chạy theo một
cái. Khi mình chạy theo một cái có nghĩa là mình muốn bỏ một
cái. Ví như là mình muốn thành Phật chẳng hạn. “Tôi muốn
không làm phàm phu nữa, tôi muốn làm Phật thôi”. Thì đó
là một cái đòi hỏi chánh đáng của người tu. Người tu mà muốn
thành Phật là đúng rồi. Nhưng mà quan niệm đó nó chứng tỏ là
mình chưa tu. Tại vì đạo Bụt dạy rằng là mình phải thực tập vô
tác. Nếu mình muốn bỏ một cái gì mà mình đi kiếm một cái khác
thì mình tìm cái khác không được. Tại vì cái khác đó Bụt dạy là
phải tìm ở trong cái này. Cái Niết-bàn phải tìm ở trong cái luân
hồi. Cái nước phải tìm trong cái sóng. Và vì vậy cho nên chúng
ta có những câu nói khá phổ thông nhưng mà ít người hiểu được.
Phiền não tức Bồ đề. Phiền não tức là những tâm
trạng khổ đau của mình. Những tâm sở bất thiện: tham,
sân, si, mạn, nghi, kiến nó là Bồ đề đó. Vì vậy cho nên
muốn đi tìm bồ đề thì phải nắm lấy những cái phiền não đó mà
chuyển hóa, còn nếu không thì không có bồ đề đâu. Đó là giáo lý
tương tức.
Giác với mê một. Cũng như mình sắp chết khát mà người ta đưa một
ly nước ở trong đó có bùn, uống không được, mình biết rằng chỉ
uống được khi mà ly nước đó trong, nhưng mà nếu liệng ly nước
bùn đi thì không bao giờ có ly nước đó cả, phải tìm cách lọc ly
nước bùn đó để uống. Vì vậy cho nên tất cả những phiền
não, tất cả những cái gì có mặt hôm nay trong thế giới của chúng
ta, trong cái thân tâm của chúng ta, chúng ta chấp nhận hết để
chuyển hóa, chúng ta đừng có ý niệm trốn chạy để
tìm một cái khác: một cõi tịnh độ, một cõi thiên đường, nó nằm ở
một địa phương khác. Và như vậy thì mới đúng con đường
của Bụt dạy. Tại vì không những địa, thủy, hỏa, phong, không
gian, thời gian mà phương hướng nó cũng nằm ở trong thức. Và
chúng ta nghĩ rằng làtịnh độ nó nằm ở phía Tây nhưng mà chúng ta
không biết rằng phía Tây nó cũng nằm ở phía Đông. Tại vì phía
Tây không thể nào có được nếu không có phía Đông. Phía Đông và
phía Tây nó tương tức. Mình không có thể thoát khỏi cái mà mình
đang ghét được, chỉ có thể chuyển hóa nó thành ra cái thương mà
thôi. Khi làm vườn mà thấy được cái tương tức của sự vật có
nghĩa là khi có rác, mình giữ rác lại chuyển hóa rác để rác
thành hoa.
Những cái phiền não, những cái hoàn cảnh khổ nhục, đau thương
mình phải chấp nhận, mình phải nắm lấy và mình phải chuyển hó
tất cả những cái dó thành ra an lạc, thành ra giá trị, thành ra
hạnh phúc. Và vì vậy cho nên giác và mê tương tức. Nó có nghĩa
là chúng ta không phải bỏ một cái gì để tìm một cái khác. Giác
nó nằm trong mê. Bồ đề nó nằm trong phiền não. Nếu chúng ta nhận
thức được điều nay, chúng ta sẽ thấy được cái khác biệt giữa đạo
Bụt và một số rất lớn các tôn giáo khác. Trong đạo Bụt chúng ta
được Bụt dạy rằng: chúng ta phải chấp nhận cái bây giờ và ở đây.
Dầu cái bây giờ và ở đây nó chứa đựng những cái đau khổ, những
cái phiền não. Tại vì nếu không chấp nhận thì chúng ta đánh mất
cái chúng ta đang tìm. Vì cái giác nó được làm bằng cái mê. Cái
hạnh phúc được làm bằng cái khổ đau. Cái chân như được làm bằng
cái luân hồi, vì vậy cho nên chấp nhận cái bây giờ và cái ở đây
là cái điều kiện tiên quyết của sự thực tập. Mà chấp nhận được
rồi thì tự nhiên chưa thực tập mà bắt đầu có an lạc được rồi.
Ở đây chúng ta thấy rằng bài tụng thứ 42 đem cái ý niệm tương
tức ra áp dụng vào sự tu học. Tôi đã từng thấy những người tu
Tịnh độ 20, 30 năm nhưng mà vẫn không có đạt được, vẫn không có
nắm bắt được nguyên tắc này và cứ nghĩ rằng Tịnh độ là một cái
hoàn toàn khác biệt, xa cách không có dính líu tới cõi này. Và
sống trong cõi Ta-bà này có nhiều khổ đau, có nhiều bất như ý
thì sinh ra cái tâm chán ghét và chỉ mong cầu tới cõi kia thôi,
cái cõi nó nằm ở trong không gian, một cái không gian khác. Và
xét cho cùng thì thấy rằng quan niệm đó nó không có phù hợp với
giáo lý căn bản của đạo Bụt.
Trong trại học tập cải tạo, tất cả mọi người đều phải vâng theo
những cái điều mà ông linh gác, những ông cán bộ đưa ra. Nếu mà
mình cứ tiếp tục nghĩ rằng cái hạnh phúc của mình nó chỉ có được
khi mà rời cái trại học tập cải tạo này thì những giờ phút mình
ở trong trại học tập cải tạo này sẽ vô cùng đau khổ. Con người
đang ở trong trại học tập cải tạo mà nói rằng: “Bây giờ ta
đang ở trong trại học tập cải tạo, ta không có cơ hội để thoát
ra cái trại này bây giờ, vậy thì ta phải chấp nhận cái trại này
và làm cho cái trại này thành cái chỗ dễ chịu nhất mà ta có thể
làm” thì người đó bắt đầu có an lạc, có hạnh phúc. Người đó
có thể thực tập hơi thở, thực tập bước chân chánh niệm và người
đó có thể có được sức khỏe, và an lạc mà những người khác không
thể nào có. Đã có những người báo cáo rằng là trong trại tù họ
thực tập ngồi thiền để cho cái tâm nó yên , nhưng mà cán bộ thấy
mình ngồi thiền, họ không thích. Ngồi thiền, ngồi bất động nhắm
mắt lại và ngồi rất vững, nó giống như là một hình thái thách
đố. Mình phải co rúm người lại, mình phải tỏ ra sự sợ hãi thì
những người cai ngục mới hài lòng. Còn nếu mình ngồi thiền rất
vững, rất an lạc, dầu là mình có quyền trong cái thời gian không
có đi làm việc ở ngoài mình ngồi, nhưng mà điều đó cũng được họ
nhìn như là một cái hình thức thách đố: “Tôi không sợ anh, tôi
vẫn có an lạc ở trong trại.” Và cho nên những người đó không có
được quyền ngồi thiền ngay ở trong cái phòng giam của mình. Thì
những người đó đợi đến khi họ tắt đèn dậy ngồi thiền. Và khi mà
ngồi trong tư thế kiết già thì tự nhiên cái thế giới của khổ đau
nó biến thành cái thế giới của sự an lạc. Và dầu không có ở
trong cái tư thế kiết già đi nữa mà nằm xuống cho thẳng và tâm
nó khoan khoái là đã đỡ khổ hơn những người khác rất nhiều rồi.
Cho nên chấp nhận cái bây giờ và ở đây không có nghĩa là bó tay
chịu chết. Chấp nhận cái bây giờ và ở đây là để mình có thái độ
khôn ngoan, để có một cái thấy sâu sắc và để cái khả năng chuyển
hóa được tới chưng nào hay chừng đó cái hoàn cảnh trong đo mình
đang sống. Và đó đích thực là sự tu học. Còn nếu mình cứ nghĩ
rằng: sau này thoát ra khỏi trại cải tạo về nhà, mình sẽ không
có lo danh lợi, mình sẽ lập một cái chùa, cái am mình tu thì đợi
như vậy không bao giờ tới cả. Mình phải thực tập ngay trong cái
giờ phút hiện tại và ngay ở đây. Cho nên cái điều mình được học
ở đây trước tiên là phải chấp nhận cái bây giờ, ở đây và chuyển
hóa. Chúng ta đi sang bài 43.
KỆ THỨ 43
Không trốn chạy sinh tử
Quán chiếu cần niệm lực
Thấy được tính y tha
Là chứng nhập tương tức.
“Không trốn chạy sinh tử”. Đây là một kết luận tất yếu
của những bài tụng trước. Tại vì bất sinh bất diệt nằm ở trong
sinh tử, vì vậy cho nên mình trốn chạy sinh tử là không bao giờ
mình nắm cái bất sinh bất diệt. Đó là nguyên tắc tương tức. “Không
trốn chạy sinh tử, quán chiéu cần niệm lực”. Đây là những
bài tụng rất thực tế. Công việc của quán chiếu, cần phải có năng
lực và năng lượng, đó là chánh niệm, gọi là niệm lực. Nếu không
có niệm lực thì không làm ăn gì cả. Cho nên phải tập như thế nào
để trong đời sống hằng ngày mình tạo ra được cái niệm lực. Cũng
như một cái máy điện nó tạo ra được điện. Thì có điện mới có ánh
sáng, mới có thể nấu cơm được, mới có thể làm nhiều việc khác.
Và vì vậy cho nên chánh niệm là cái năng lượng cần có để làm
công việc này, tức là công việc quán chiếu.
Sống chánh niệm và quán chiếu mọi sự vật ở trong ta và xung
quanh ta và khi mà chúng ta chứng nhập được tính y tha là chúng
ta chứng nhập được tính tương tức, tương nhập của mọi sự, mọi
vật, tức là tự tính Niết-bàn. Vì vậy Niết-bàn không phải là bây
giờ không có và sẽ có trong tương lai. Niết-bàn nằm ở trong cái
bây giờ và cái ở đây. Nó nằm trong cái bàn, nó nằm trong cái
ghế, nó nằm trong cái nhà, nó nằm trong cái núi, nó nằm trong
đám mây, nó nằm trong mỗi tế bào cơ thể của chúng ta. Và nếu
chúng ta đưa ngón tay ra cho khéo, chúng ta sờ mó thì chúng ta
tiếp xúc được với Niết-bàn. Và ngón tay đó là y tha khởi, tức là
vô thường quán và vô ngã quán. Vô thường quán, vô
ngã quán mở cửa Niết-bàn, nó khiến chúng ta có thể sờ mó được tự
tính Niết-bàn của sự vật. Có thể là trong những tôn giáo khác,
họ cũng có ý niệm về Niết-bàn nhưng mà họ có thể gọi Niết-bàn là
Thượng đế hay Niết-bàn là nước Chúa. Nhưng mà có những nhà thần
học nói nước Chúa nó nằm ở đây trong lòng mình có thể tiếp xúc
bất cứ lúc nào thì Niết-bàn nó cũng vậy. Niết-bàn là tự tính
viên thành của tất cả vạn sự vạn vật, nó có ngay bây giờ và ở
đây. Nhưng mà tại vì chúng ta bị kẹt về ý niệm thường và ngã cho
nên chúng ta không sờ mó được. Vì vậy cho nên sử dụng vô
thường quán, vô ngã quán, y tha khởi quán thì chúng ta
có thể sờ mó được Niết-bàn ngay trong hiện tại. Sờ mó được
Niết-bàn tức la thoát ra được sanh tử ngay bây giờ, ở đây. Sờ mó
được sóng thì đồng thời sờ mó được nước. “Không trốn
chạy sanh tử, quán chiếu cần niệm lực, thấy được tính y tha, là
chứng nhập tương tức”. Niệm lực là một trong năm lực.
Lực tức là năng lượng, energy. Lực thứ nhất là niềm
tin, gọi là Tín lực. Lực thứ hai là Tấn lực.
Tấn tức là sự hăng hái, nồng nhiệt, mong cầu, ý chí.
Niệm lực là thứ ba. Lực thứ tư là Định lực và
thứ năm là Tuệ lực. Và chúng ta biết rằng trong năm lực.
Niệm lực là căn bản. Tín là faith, tức là minh có niềm tin. Mình
tin là mình có thể sờ mó được tới cái chân như Niết-bàn, viên
thành thật đó. Và đây không phải là một niềm tin mù quáng. Tại
vì năm lực nên được vẽ thành vòng tròn. Tín, đưa tới sự tinh
tấn. Khi mà mình không có tin gì hết thì mình rã rời tay chân,
cho nên muốn có năng lượng để làm cái gì thì phải có một niềm
tin. Tin ở bản thân tin nơi tuệ giác của mình, tin nơi tuệ giác
của Bụt. Thì niềm tin đó đưa lại cho chúng ta rất nhiều năng
lượng, năng lượng đó gọi là tấn. Rồi chúng ta mới chế biến năng
lượng đó thành ra chánh niệm. Mà hễ có niệm tức là chúng ta có
định. Chúng ta sống trong chánh niệm thì đi tới, đi lui, làm cái
này, làm cái khác, nhìn người này, thấy người kia đều ở trong
định hết. Định tức là định quán chiếu. Lúc này là chúng ta có
khả năng thấy được tính y tha của sự vật xung quanh ta và trong
ta. Và nếu chúng ta định ít thì thấy được y tha của một cái rồi
thì mất luôn đi vào thường và ngã liền. Mà tuệ giác nó giúp cho
tín tâm của chúng ta vững hơn. Và vì vậy năm cái đó nó cũng
tương tức. “Thấy được tính y tha, là chứng nhập tương tức”.
Tương tức, tức là cái này là cái kia, cái này có trong cái kia.
KỆ THỨ 44
Nương hơi thở chắnh niệm
Tưới hạt giống bồ đề
Chánh kiến là đóa hoa
Nở trên vùng ý thức.
Đối tượng của niềm tin là hạt giống hiểu, hạt
giống Bồ đề nó nằm ở trong tâm thức của chúng ta. Đây không phải
là niềm tin không căn cứ, một niềm tin vu vơ, không kiểm chứng.
Tại vì hạt giống của hiểu và thương
nằm trong tâm thức của tất cả chúng ta. Hạt giống đó gọi là hạt
giống Giác ngộ. Hạt giống Bồ đề.
Boddhi có nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ, nó cùng là một với chánh
niệm. Khi mà chúng ta tin tưởng vào khả năng giác ngộ của chúng
ta như là Bụt đã khai thị, thì phương pháp của chúng ta là dùng
hơi thở để nuôi dưỡng chánh niệm và chánh niệm đó là thức nước
tưới rất mầu nhiệm. Nó tưới lên hạt bồ đề càng lớn. Cho nên ở
trước tôi có nói rằng: Nếu chúng ta trong một cộng đồng tu học
mà muốn lớn lên, muốn có cái tuệ giác đừng có ốm yếu, nghèo khổ,
muốn cho tuệ giác và hạnh phúc lớn lên thì chỉ chúng ta phải
tưới cái tuệ giác đó, cái hạnh phúc đó. Mà cái chất liệu để tưới
là chánh niệm. Thành ra đi, đứng, nằm ngồi, nói chuyện trong tất
cả những công tác đó là phải có chánh niệm. Mình tin rằng mỗi
ngày mình đều phải lớn lên. Còn nếu không, mình còn đi, và không
có lớn lên. Và lớn lên được là nhờ chánh niệm, biết sống chánh
niệm mỗi ngày. Mình phải tin tưởng như vậy và mình kiểm chứng
cái tin tưởng của mình. “Nương hơi thở chánh niệm, tưới hạt
giống bồ đề”. Hạt giống bồ đề ở trong mình, tức là hạt giống
nó hiểu nó đưa tới hạt giống thương, hạt giống bừng tình. Bừng
tỉnh tức là chợt hiểu. Và chỉ có chánh niệm mới làm được chuyện
đó. “Chánh kiến la đóa hoa, nở trên vùng ý thức”. Ở đây
chúng ta đề cập tơi tám con đường tám sự hành trì chân chánh gọi
là Bát Chánh Đạo. Chánh kiến tức là sự hành trì
chân chánh đầu tiên, tức là cái thấy đúng với sự thật (right
understanding). Chánh kiến là tuệ. Nhưng mà tuệ này không phải
là cái tuệ mà nó nằm ở trong alaya thức. Tại cái này là cái thấy
rõ ràng, cái thấy ở trên ý thức. “Chánh kiến là đóa hoa,
nó nở trên vùng ý thức”. Đây là thức alaya, ở đây
chúng ta có hạt giống bồ đề, hạt giống hiểu, hạt giống thương
yêu. Ở trên này chúng ta có thức thức bảy và thức thứ sáu và năm
thức khác. Thức thứ sáu đóng vài trò của người làm vườn, và vì
vậy cho nên nó phải tưới tẩm những hạt giống này. Người làm vườn
thì phải tưới những những hạt giống và chúng ta có những hạt
giống của bồ đề, hạt giống của hiểu, của thương, chúng ta phải
tưới. Người làm vườn phải tin tưởng ở nơi đất, đó là tin. Người
làm vườn phải siêng năng tưới tẩm, gọi là tấn. Người làm vườn
phải tưới hằng ngày bằng chánh niệm mà muốn tưới hằng ngày thì
phải chuyên tâm, mà cái gì cũng là để tưới những hạt giống. Tôi
ăn cơm, tôi uống nước, tôi đi thiền hành, tôi rửa nồi, tôi nấu
cơm, tất cả những cái đó là để tưới tẩm những hạt giống bồ đề ở
trong tôi. “Lên non vùi hạt bồ đề, xôn xao để lại dưới kia
bụi hồng”, không lo những chuyện khác chỉ lo một chuyện thôi
là vùi hạt bồ đề xuống và tưới thôi. Thì tự nhiên mai mốt cái
hạt này nó lớn lên và tự nhiên nó nở một bông hoa ở trong vùng ý
thức, tự nhiên sự giác ngộ bừng ra mà mình không cần phải kêu
gọi. Ví dụ như là trong thiền viện mỗi khi Thầy cho mình một bài
học, một bài tập, một công án thì cái công án đó mình phải vùi ở
trong đất của tàng thức. Còn cái công án đó mình giữ trong thức
thứ sáu thì mình chỉ có cái cách là đánh bóng chuyền với công án
đó thôi, đó không phải là tu học. Dùng cái trí năng mình để mà
mình suy nghĩ công án đó không phải là tu, chỉ có thể nói thôi,
lý luận thôi. Thành ra khi mình tiếp nhận một công án hay một đề
tài tu học thì mình phải đem cái đó mà vùi xuống đất của alaya
thức; Tôi gởi bạn, bạn giữ giùm cho tôi, nuôi nấng cái đó cho
tôi. Sau khi vùi cái hạt giống bồ đề đó rồi thì mình phải tưới.
Mỗi ngày đi, đứng, nói cười làm việc phải có chánh niệm tưới cái
đó, chỉ tưới thôi. Chỉ cần có chánh niệm thôi thì tự nhiên alaya
có khả năng nuôi dưỡng, làm lớn lên và một ngày nào đó tự nhiên
mình thức dậy hoặc mình nghe câu nói gì tự nhiên bừng ra cái
hiểu biết, đó gọi là giác ngộ, đó gọi là Satori
theo người Nhật. Satori có nghĩa là ngộ. Ngộ là tự
nhiên hiểu được. Có những điều mình mờ mịt không biết
bao nhiêu năm, tự nhiên một buổi sáng thức dậy hay nghe một
tiếng động gì dó, mình bừng tĩnh và hiểu được cái đó. Cũng như
tụng kinh, có những kinh tựng mười năm, hai mươi năm tự nhiên có
một buổi đó, đọc tới câu đó, mình hiểu. cái đó là tuệ giác,
là đóa hoa nở trên vùng ý thức. Trước đó mình cứ nghĩ rằng tụng
mười năm rồi, mình không thấy chuyện gì hết. Tại vì mình không
có tưới, mình chỉ tụng không thôi. Trong khi mình tụng, mình
phải có ý thức những câu mình tụng và mình phải dồn chánh niệm
vào, thì tự nhiên một bữa đó, đọc cái câu đó mình hiểu. Biết bao
nhiêu câu kinh, mình đọc qua mà không hiểu gì hết. Như là mình
đi vào trong rừng tìm bông hoa Ngọc Lan. Nó có nhiều bông hoa
lan rất là đẹp, sờ sờ đó mình đi ngang mình tìm mà không thấy.
Ăn thua là có chánh niệm. Trong đời sống hàng ngày mình phải có
chánh niệm và mình tưới những hạt giống ở trong tàng thức của
mình bằng chánh niệm. Trong đời sống hàng ngày mình phải có
chánh niệm và mình tưới những hạt giống ở trong tàng thức của
mình bằng chánh niệm, thì một ngày nào đó không tìm nó cũng hiển
hiện ra. “Chánh kiến là đóa hoa, nở trên vùng ý thức”.
Vùng ý thức là thức thứ sáu. Khi mình học về con đường bát
chánh, tám sự hành trì chân chánh, mà mình nói chánh kiến là sự
khởi đầu của tu học cũng không đúng lắm. Chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh
niệm, chánh định. Thì thường thường mình nói là phải có cái
thấy chân chính rồi mới bắt đầu tu được, nhưng mà kỳ thực cái
này cũng là hoa trái. Mình bắt đầu bằng một cái thấy nhỏ bé như
vậy đó, rồi mình mới tu tập theo những cái đó nhưng mà càng tu
tập thì những cái này nó làm cho cái thấy của mình càng ngày
càng lớn. Và cái thấy dó càng ngay càng lớn thì những hành trì
khác của mình cũng càng ngày càng lớn. Vì vậy cho nên chánh kiến
đồng thời nó vừa là nhân, nó vừa là quả. Cái thấy của mình nó
giúp cho mình tu đúng nhiều hơn hay đúng ít. Và những sự tu học
của mình giúp cho chánh kiến của mình càng lớn lên. Chánh kiến
là hoa trái của sự tu học chứ không phải chỉ là cái vốn liếng
ban đầu thôi. Và vì vậy cho nên càng tu tập chánh niệm, chánh
định, chánh tinh tấn (cái này nó có ngũ lực ở trong) thì
cái thấy này của mình nó càng sáng và cái thấy đó ở đây có thể
gọi là đóa hoa, mà alaya thức nó cống hiến cho chúng ta. Nó cống
hiến ở trên bình diện ý thức. Ở dưới này nó có hoa rồi, nhưng mà
dưới này có hoa rồi thì tự nhiên ở trên này thế nào cũng có hoa.
“Nương hơi thở chánh niệm tưới hạt giống Bồ đề”, đây là những
pháp hành trì rất là thực tiễn. “Chánh kiến là đóa hoa, nở
trên vùng ý thức”. Chánh kiến càng lớn thì hành trì càng
giỏi. Hành trì càng giỏi thì chánh kiến càng lớn.
KỆ THỨ 45
Như ánh sáng mặt trời
Chiếu soi loài cây cảnh
Chánh niệm khi thắp lên
Chuyển hóa mọi tâm hành.
Hai câu đầu là ví dụ nói về mặt trời và loài thực vật. Mặt trời
- hình như không có làm việc gì nhiều, ngoài cái việc soi chiếu
loài thảo mộc. Nó không có làm gì cả, nó chỉ soi chiếu thôi.
Nhưng mà chính nhờ sự có mặt của mặt trời mà loài thảo mộc nó
lớn lên được. Cái màu xanh của loài thảo mộc là do mặt trời hiến
tặng. Những loài thảo mộc mà lớn lên được, làm hoa, làm trái đều
là do ánh sáng của mặt trời cả. Cố nhiên nó có những tăng thượng
duyên khác như là mưa, như là phân v.v… nhưng mà mặt trời nó rất
quan trọng. Mặt trời là một nguồn năng lượng nó giúp tất cả mọi
loài sinh trưởng và chúng ta biết rằng mặt trời là một nguồn
thực phẩm của chúng ta. Mặt trời nuôi chúng ta bằng năng lượng
của nó. Tại vì không có mặt trời cây cỏ không có mọc được. Những
người ăn thịt thì họ cũng ăn mặt trời là tại vì thú vật nó ăn
cây cỏ và mình ăn thú vật thì cũng là mình ăn mặt trời như
thường.
Ngày xưa mình nói là “Trời che đất chở”, đất chở thiệt,
nhưng mà trời không những che mà còn nuôi mình nữa. Quán chiếu
rất rõ thì thấy mặt trời là cha đi làm về nuôi con. Tất cả chúng
ta dù ăn chay hay ăn măn cũng ăn mặt trời hết. “Như ánh sáng
mặt trời, chiếu soi loài cây cảnh” Nó chỉ làm công việc duy
nhất là chiếu soi thôi nhưng mà nó nuôi hết. “Chánh niệm khi
thắp lên, chuyển hóa mọi tâm hành”. Khi mà chúng ta thắp
chánh niệm lên chúng ta có vùng năng lượng đó có khả năng chuyển
hóa mọi tâm hành. Tâm hành tức là tâm sở
(cita samkara), tức là những hoạt động của tâm ý.
Chánh niệm là những tâm hành trong những tâm hành mà niệm là
một tâm sở được liệt vào trong năm tâm sở biệt cảnh (dục,
thắng giải, niệm, định, huệ). Vậy thì niệm chẳng qua là một
tâm hành thôi. Chúng ta đã học tương tức rồi, một tâm hành nó
chứa đựng những tâm hành khác ở trong nó. Tâm hành này nó ngộ
nghĩnh lắm. Khi mà nó phát hiện, nhất là khi nó mạnh, thì nó
chuyển hóa được tâm hành khác cũng như là ánh sáng mặt trời nó
chuyển hóa các loài cỏ cây và nó thay đổi bộ mặt của sự sống,
của trái đất. Ở Hòa Lan trồng nhiều hoa Tulipe. Ở Việt nam chúng
ta có hoa Sen. Buổi sáng thức dậy, những bông tulipe, những bông
sen úp lại và khi mặt trời lên thì nó chiếu vào những bông
tulipe, bông sen, đó là công việc của mặt trời. Chánh niệm cũng
làm như vậy. Nó không làm gì hết. Ánh sáng nó chỉ chiếu thôi.
Nhưng mà ánh sáng mình có thể hiểu nó như là một nguồn năng
lượng. Khoa học nói rằng ánh sáng được làm bằng những hạt nhỏ
gọi là những quang tử (proton) và những cái quang tử đó làm ra
năng lượng và ánh sáng. Nó không phải đi xung quanh bông sen mà
chơi. Nó không có đi xung quanh mà nó đi vô. Tại những hạt quang
tử đó thắm vào trong từng cánh sen đi vào bông sen, tức là tiếp
xúc nguồn năng lượng khác. Và chúng ta đã học trong bài đầu là
khi mà hai nguồn năng lượng tiếp xúc nhau thì sẽ có một hiện
tượng xảy rra. Hiện tượng đó có thể là tích cực hay tiêu cực.
Một hai giờ đồng hồ sau thì những quang tử đó vào trong bông sen
khá nhiều rồi và nó có cái sức mạnh chuyển hóa, nó làm cho bông
sen từ từ hé ra, nở ra. Phải có mặt trời lên nó mới nở. Vậy thì
năng lượng của mặt trời chuyển hóa tất cả mọi loài cây cỏ. Các
loài cây cỏ đó gọi là photosensitive. Tất cả mọi loài
thảo mộc đều có khả năng tiếp nhận ánh sáng mặt trời. Thì tâm
hành cũng vậy. Tâm hành cũng như một loài cây cỏ. Tất cả những
tâm hành đều có khả năng tiếp nhận cái năng lượng của chánh niệm
và thay đổi hết. Cho nên khi thắp lên ánh sáng chánh niệm thì
tâm hành nào khởi lên cũng lãnh cái năng lượng của chánh niệm.
Chánh niệm là mặt trời. Khi mà mình thắp được cái mặt trời chánh
niệm ở trong ý thức thì bất cứ một tâm hành nào mà khởi lên đây
thì nó sẽ tiếp xúc. Nó sẽ chuyển hóa. Buồn thì có buồn nhưng mà
phải có chánh niệm. Giận thì giận đi nhưng mà phải có chánh
niệm. Tôi đang thở vào và biết rằng tôi đang giận. Tức là ban
đầu mình giận thì chưa có niệm. Mà khi mình tu tức là cái giận
nó khởi lên mình không có đập lại cái giận mà mình mời chánh
niệm lên để săn sóc cái giận đó của mình. Cho nên mới nói rằng
tôi đang giận và tôi biết rằng tôi đang giận. Tức là có chánh
niệm nó cùng ở chung với cái giận. Và nếu mà nuôi chánh niệm
được lâu thì cái giận sẽ được chuyển hóa. Nó chuyển hóa ít hay
nhiều tùy theo cái sức mạnh của chánh niệm lớn hay nhỏ. Thành ra
tất cả những bí quyết của sự tu học là thắp lên một mặt trời
chánh niệm ở trong vùng ý thức cho đến khi những tâm hành khác
phát hiện lên thì nó được tưới tẩm và có chánh niệm đứng ra để
săn sóc, để đỡ đầu, để chuyển hóa. Cho nên không có chánh niệm
thì mình lưu lạc, mình trôi lăn theo sinh tử mà có chánh niệm
thì bắt đầu có hướng đi được chuyển hóa.
Phương pháp tu không phải là đánh dẹp những tâm niệm phiền não,
không phải đuổi nó đi. Tại vì đuổi nó đi thì nó đi đâu. Nó đi
xuống dưới này (alaya) chớ nó đi đâu. Mà càng ép thì nó càng
lớn, thành ra đừng có đuổi nó đi. Chấp nhận nó và dùng ánh sáng
chánh niệm để mà xúc tiếp. Xúc tiếp thì nó tạo ra những sự
chuyển hóa. Hôm trước Sư anh Từ Chơn có hỏi câu: “Những hạt
giống đau khổ mà mình tiếp nhận từ hồi thơ ấu thì mình phải làm
thế nào để chuyển hóa?” Thầy có trả lời nhưng mà trả lời
chưa đủ. Câu trả lời của Thầy là: Cứ để nó nằm yên ở dưới đó và
mình cứ tiếp xúc và gieo trồng những hạt giống an lạc, hạnh phúc
thì tự nhiên những hạt giống an lạc, hạnh phúc lớn lên nó sẽ
tới, nó sẽ chuyển hóa dùm. Và đó là chuyển gián tiếp. Thức thứ
sáu gởi những người bạn đi và những người bạn đó tới chuyển hóa
dùm những cái hạt giống đau khổ kia. Phương pháp thứ hai là
phương pháp mỗi khi hạt giống đó hiện lên thì mình phải đón tiếp
nó bằng ánh sáng chánh niệm và mỗi khi nó chạm ánh sáng chánh
niệm thì nó yếu đi một chút. Nó yếu đi một chút, lạ kỳ vậy đó,
đừng có đuổi nó. Mà có chánh niệm thì nó ló đầu ra thì mình biết
nó là cái gì. Không có chánh niệm, thì nó ló đầu ra mười lần,
trăm lần một ngày mình cũng không có nhận diện được. Mình không
có nhận diện được rằng đó là những hạt giống đau khổ mà đã gieo
trồng vào trong con người của mình khi mình còn là em bé. Có
chánh niệm thì mình có thể nhận diện nó ra được, mà nhận diện nó
rồi thì mời chào nó và cho nó ở lại trong cái phòng khách này.
Nó muốn ngồi chơi với mình bao lâu cũng được với điều kiện là
mình có ngọn đèn chánh niệm ở đó. Nó ngồi càng lâu càng tốt nếu
mà có chánh niệm, tại vì ngồi càng lâu thì cái sức chuyển hóa
càng dài. Như là mặt trời, nếu không có mây được hai giờ đồng
hồ, thì hai giờ đồng hồ những cái bông hoa tiếp nhận được năng
lượng mặt trời.
Không có sợ. Trong kinh có nói tới điều tâm niệm mà Bụt dạy cho
Thầy, các Sư cô làm mỗi ngày để mà quán chiếu, để mà chuyển hóa
cái sợ. Thường chúng ta có năm cái sợ:
1) Sợ già. Mai mốt tôi già, tôi đi lụm khụm rồi có ai đỡ tôi
không.
2) Sợ bệnh.
3) Sợ chết.
4) Sợ phải xa cách những người mình thương và những cái gì mình
thương.
Những cái sợ đó nó luôn luôn nó nằm ở dưới này. Mình có cố đè
xuống, mình có cố quên thì nó cũng nằm ở dưới này.
5) Sợ là không biết mình phải đi đâu.
* Có năm điều quán niệm như thế này:
1. Tôi thế nào cũng già. Tôi không thể nào tránh được cái
già. Mỗi ngày, người tu phải đọc câu đó. Nghĩa là mỗi ngày ông
Thầy tu phải mời cái hạt giống sợ già đi lên, mà biết rằng mời
nó lên phải tiếp nó bằng chánh niệm. Thành ra các Sư cô, Sư chú
có thể đưa năm cái điều quán niệm này vào trong nghi thức tụng
niệm mỗi buổi sáng và một người đọc cũng được (I am of the
nature to giow old. I an not escape old are). Phương pháp Bụt
dạy chúng ta quán chiếu cái sợ chúng ta có thể hiểu được dễ dàng
dưới ánh sáng Duy Biểu học. Tức là mỗi ngày chúng ta phải mời
cái hạt giống đó lên mà không có chánh niệm thì chúng ta khổ
lắm, chúng ta không tự làm chủ. Và vì vậy cho nên chúng ta phải
thắp sáng chánh niệm: tôi thế nào cũng phải già. Tôi biết rằng
tôi không thể nào tránh khỏi cái già.
2. Tôi thế nào cũng bệnh. Tôi không thể nào không bệnh.
Tôi không thể tránh khỏi bệnh.
3. Tôi thế nào cũng chết. Tôi không thể nào tránh khỏi
chết.
4. Những điều tôi thương và những điều tôi trân quý ngày
hôm nay một mai thế nào cũng phải từ giã.
5. Tôi sinh ra từ hành động của tôi. Chỉ có hành động của
tôi đi theo tôi mà thôi.
Không có cái gì đi theo tôi hết dầu là người Cha, người Mẹ,
người yêu hay là con cái, hay là quyền hành, hay là tiền bạc,
không có gì đi theo tôi hết chỉ có nghiệp, tức là hành
động, đi theo tôi thôi, và người tu sĩ hay là thực tập đạo giải
thoát sáng nào cũng mời nó lên, mỉm cười và nó là ta biết các
ngươi nằm ở trong đó, mời các ngươi lên đây chơi. Và mỗi ngày
như vậy chiếu một ít ánh sáng chánh niệm vào thì nó yếu từ từ.
Và một ngày nào đó, nó sẽ được chuyển hóa. Những niềm đau của
chúng ta mà chúng ta sợ nó, chúng ta phải làm như vậy thì nó mới
chuyển hóa được. Nếu chúng ta không làm như vậy thì nó có thể có
những phương pháp khác, nhưng mà chúng ta làm được cả ba phương
pháp thì rất hay.
Phương pháp thứ nhất là gieo trồng và tưới tẩm
những hạt giống hạnh phúc để những hạt giống này tới chuyển hóa
dùm những hạt giống đau khỏ. Chúng ta khỏi đụng chạm tới tiếp
xúc.
Phương pháp thứ hai là chánh niệm suốt ngày để khi
nào nó ló đầu lên là mình nhận diện nó. Nó ló đầu lên hoài nhưng
mà mình không biết đó thôi. Ví như mình đi vào trong restaurant,
nhìn một vòng ròi cuối cùng rồi mình chọn cái bàn ở góc đó mình
ngồi, trong khi đó nó có nhiều chỗ. Nếu mình có chánh niệm mình
sẽ buồn cười mình hỏi: “Tại sao mình chọn cái bàn đó mình không
chọn cái bàn này?” Tất cả đều nằm sẵn ở trong, nó an bày, nó đã
viết sẳn rằng mình chọn cái bàn đó. Chúng ta có những cái tập
khí như vậy. Ngồi trong phòng học cũng vậy. Tại sao quý vị tới
mà không ngồi chỗ này, mà ngồi sau đó? Tất cả những cái đó đều
đã viết sẳn trong alaya thức của mình hết. Đó là trường hợp “cái
đó” nó phát hiện mà nếu có chánh niệm thì mình biết: “À, đúng
cái chỗ này là cái chỗ mình muốn rồi mà mình phải nhìn kỹ tại
sao mình ưa nhìn chỗ đó”. Nó phải có lý do mà hạt giống đó trao
truyền. Những con chim đã bị thương một lần rồi thì mỗi khi nó
thấy một cành cây cong nó không muốn tới đậu vì cành cây cong
làm cho nhớ tới cây cung đã bắn mũi tên vào nó. Chim bị tên thì
thấy cành cây cong cũng sợ. Hồi thơ ấu mình có thể đau khổ bởi
những cái này cái khác. Rồi bây giờ đây những cái hạt giống đau
khổ đó nó còn, thành ra mình tiếp xử với sự sống hiện tại trên
cơ bản những đau khổ những hạt giống đau khổ đó nó còn, thành ra
mình tiếp xử với sự sống hiện tại trên cơ bản những đau khổ
những hạt giống đó. Và vì vậy cho nên trong đời sống hằng ngày
những hạt giống đau khổ trong quá khứ của mình, cái mặc cảm này
kia, kia nọ nó xuất đầu lộ diện nhiều lần lắm, nhưng mà tại vì
chúng ta không thắp mặt trời chánh niệm cho nên chúng ta không
thấy đó thôi. Vì vậy cho nên phương pháp thứ hai là sống
chánh niệm suốt ngày đến khi những hạt giống đó ló đầu ra
chúng ta nhận diện được: “À, mày đó hả, tao biết”. Thì tự nhiên
nó mất đi sức mạnh của nó. Tại vì nó là một vùng năng lượng mà
chánh niệm là một vùng năng lượng khác mà hai cái vùng năng
lượng gặp nhau một cái là nó có sự chuyển hóa. Cái buồn, cái sợ
đều là năng lượng và khi màtiếp xúc với năng lượng chánh niệm đó
thì có chuyển hóa.
Phương pháp thứ ba là khi chánh niệm chúng ta vững rồi
thì chúng ta đừng có đợi nó lên, chúng biết rằng nó ở dưới thành
“mời anh lên chơi,tôi rảnh”. Những cái sợ, những cái
buồn, những cái thất vọng, những cái ước mơ không thành tựu của
mình làm cho mình nuối tiếc đau khổ, mời nó lên! “Bây giờ đây
tôi rảnh, mời anh lên chơi. Hai đứa mình ngồi nói chuyện, mình
là bạn cũ với nhau lâu đời rồi”. Phải thắp đèn lên cho đàng
hoàng, mời lên. Thì đó là trường hợp năm cái sợ mà Bụt dạy mình
làm. Đối diện trực tiếp với nó và đừng coi nó như kẻ thù, nó là
mình. Cái hạnh phúc của mình là mình. Cái đau khổ của mình cũng
là mình. Cái thương của mình là mình. Cái giận của mình cũng là
mình. Thành ra mình phải đối xử với tất cả những cái tâm hành đó
với cái thái độ bất nhị. Còn thái độ đánh đuổi, kỳ thị nó không
phải là bất nhị. Và tu học không phải biến mình thành ra bãi
chiến trường: phe chánh đánh với phe tà. Có thể là trong những
truyền thống khác, họ nghĩ là tu học tức là chia con người mình
ra thành hai phe: một phe chánh và một phe tà. Phe chánh đánh
phe tà. Nhưng mà trong đạo Bụt, cái mà mình gọi là phe tà chính
là mình và mình phải chăm sóc cái đó, mình phải chấp nhận cái
đó. Tại vì phiền não tức là bồ đề. Mình phải chấp nhận cái phiền
não và phải chăm sóc cái phiền não để mà chuyển hóa cái phiền
não. Không phải là vấn đề đánh. Càng đánh thì nó càng mạnh. Càng
đè ép thì nó càng lớn. Ở đây mình thấy rất rõ cái nguyên tắc
tương tức, bất nhị củasự tu học.
Thứ nhất là nhờ những hạt giống tốt nó chuyển hóa giùm.
Thứ hai là nhận diện chúng khi mà chúng xuất hiện ở trên bình
diện của ý thức (thức thứ sáu)
Thứ ba mời nó lên.
Có ba phương đó để đối phó với những hạt giống khổ đau ở trong
người của mình mà nếu làm được cả ba cái thì rất vững. Thường
khi mà người ta khổ quá gần chết chìm rồi, chưa thực tập chánh
niệm, niệm lực yếu, thì chưa nên làm cái thứ ba. Làm cái thứ
nhất thật nhiều. Rồi khi mà cái thứ nhất làm được khá rồi, năng
lượng chánh niệm đã khá nhiều rồi thì lúc đó ráng làm cái thứ
hai, tức là ráng nhận diện cái đau khổ khi mà nó xuất đầu lộ
diện. Nhận diện được chừng nào thì những cái đau khổ yếu đi
chừng đó. Và khi mà mình biết rằng mình có đủ sức mạnh rồi thì
mình có đủ sức mạnh rồi thì mình mời nó lên. Giống như mình biết
trong vườn mình có cái lỗ, dưới đó có con rắn. Mình biết rằng
mình chưa có khả năng bắt con rắn đó thành ra mình lấy cục đá,
mình chận lại đừng có cho nó lên. Rồi mình đi học : “Bây giờ,
tôi có một con rắn độc ở dưới đó, phải làm thế nào?” Khi mình
học, mình đã mạnh, vững chãi, thực tập xong rồi thì mới bê cục
đá đó ra, rồi mới mời nó lên, nếu không thì nó cắn chết. Cái
niềm đau trong tiềm thức của mình cũng vậy. Mỗi khi nó lớn quá,
mỗi khi nó lên một cái, mình tê liệt, mình không làm ăn gì được
hết. Thành ra không có nên mời nó lên sớm. Không có mời niềm đau
của mình lên sớm mà mình phải thực tập phép thứ nhất, thực tập
phép thứ hai. Khi mình mạnh rồi, mình biết ở dưới đó con rắn bị
giam nhiều ngày ở dưới đó yếu rồi thì lúc đó mình mời nó lên.
Mời nó lên thì nắm cổ được nó. Cái niềm đau của mình cũng như
vậy.
Chúng ta học lại:
“Như ánh sáng mặt trời, chiếu soi loài cây cảnh, chánh niệm
khi thắp lên, chuyển hóa mọi tâm hành”.
Chuyển hóa chứ không phải là tranh đấu với nó hay tiêu diệt nó.
Thành ra quý vị thấy rằng qua bài tụng này của Duy Biểu học,
chúng ta thấy được giáo lý bất nhị, giáo lý tương tức, cái
phương pháp bất bạo động trong sự tu học cũng như là trong hành
động hàng ngày.
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10
---o0o---
-
Vi tính
Nguyên Trang. Trình bày: Linh Thoại
-
Cập nhật: 8-1-2005
|
|