|
. |
Lá bối 1996
DUY BIỂU HỌC
Giảng luận
Thiền Sư Nhất
Hạnh
---o0o---
4.
KỆ THỨ 16
Hạt giống của vô minh
Của Triền sử, ái nhiễm
Quấy động thành vọng thức
Khi danh sắc hiện hành.
Ta có hạt giống của vô minh. Vô minh là sự thiếu sáng
suốt, hiểu lầm, hiểu sai nên ta có nhiều hạt giống vô minh lắm
chứ không chỉ một hạt. Chúng ta hiểu lầm thế giới, hiểu lầm làm
con người, hiểu lầm các loài động vật, các loài cây cỏ. Chúng ta
hiểu lầm bản thân của chính chúng ta. Những hạt giống về vô minh
(ignorance hay lack of understanding)
đó có thể là những hạt giống sẵn có hay những hạt giống trao
truyền. Ta có thể tiếp nhận những hạt giống vô minh từ tổ tiên,
từ xã hội trao truyền. Gần mực thì đen. Nếu chúng ta ở gần những
người có nhiều thù hận, nhiều hiểu lầm và chia rẽ thì chúng ta
sẽ tiếp nhận những hạt giống thù hận đó. Đó là những hạt giống
vô minh được trao truyền bởi những người sống xung quanh đó.
Hạt giống của vô minh, của triền sử, ái nhiễm. Triền sử dịch
là samyojana hay nội kết. Nội kết êm ái hay không êm ái cũng là
triền sử cả. Nó có hai tác dụng trói ta lại gọi là
triền và tác dụng thứ hai là nó đẩy chúng ta làm
những việc mà ta không muốn làm gọi là sử (sai sử). Nhiều
khi mình biết cái đó không có lợi cho mình cho bạn mình mà vẫn
cứ làm. Đó là vì mình bị sai sử. Không có tự do, bị trói
(triền). Ví dụ mình bị sự sai sử của ma túy (tập khí của ma
túy). Hạt giống đó nằm trong tâm. Vì thân cũng là tâm. Thân là
biểu hiện của tâm. Ta biết a lại gia thức nó biểu hiện thành thế
gian: khí thế gian (sông núi vạn vật bao quanh mình) và
tình thế gian (con người của mình). Thành ra hạt giống ma
túy nó được trồng vào trong thân và trong tâm. Và khi đã được
trồng vào rồi thì nó ma đưa lối, quỷ dẫn đường, cứ như những
chốn đoạn trường mà đi. Tức là những chỗ có hút xách.
Cũng như một người con trai bất đầu yêu cô nào đó thì hạt giống
nội kết êm ái cứ trồng vào thân và tâm người đó. Thành ra bữa
nào cũng đi về con đường đó. Hôm nào có chút thì giờ rảnh đều đi
về con đường đó, con đường đi về nhà nàng đó. Mà đi như vậy
không phải cố tình đâu. Đôi khi anh chàng biết rất rõ là đi
ngang cũng không thấy được mặt tại vì đi ngang cô ta đang ở
trong phòng chứ chứ đâu có hiện ra cho mình thấy nhưng mà triền
sử nó cứ đeo mình đi vậy thôi... Sức mạnh mà nó đẩy mình đi là
nội kết, nội kết êm ái. Hạt giống của ái nhiễm. Do nhiễm mà bị
dính những gì không trong sáng, không tự do, không hạnh phúc.
Tất cả những hạt giống vô minh, triền sử dó nó nằm sâu trong
thức a lại gia, nó tạo thành một sức mạnh, một nguồn năng lượng,
quấy động và khiến cho a lại gia trở thành vọng thức.
Vọng thức tức là nhận thức trong đó có sự mê, vọng, sai lầm.
Vọng sai lầm, ngược với chân. Chân là sự thật, vọng là giả. Ví
dụ ngoài vườn có tàu lá chuối lấp lánh dưới ánh trăng. Mình thấy
rõ tàu lá thật mầu nhiệm thì đó là chân. Còn cũng tàu lá lấp
loáng mà mình tưởng là thoáng thấy một bóng trắng mặc áo dài tha
thướt đi lại. Dó chỉ là bóng ma của vọng tưởng của mình. Vọng
thức là nhận thức của mình sáng tạo ra những hình ảnh không phù
hợp với sự thật. vọng thức là trong chúng ta có một nguồn năng
lượng tập hợp bởi hạt giống của vô minh, của triền sử, của ái
nhiễm, nó quấy động và nó làm cho a lại gia trở thành vọng
thức.. khi có vọng thức rồi thì nó sẽ phát hiện ra danh
và sắc (nama rupa). Danh là tâm lý, sắc
là sinh lý. Ta biết rằng con người là một tập hợp ngũ
uẩn. Con người là một thôi. Nếu mà chia ra thì ta có thể chia
hai hay chia năm. Chia hai thì danh (tâm lý) và sắc (sinh lý).
Chia năm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức… Sắc là sắc, là danh, là
thọ, tưởng, hành và thức.
Học tới câu thứ tư của bài tụng này khi danh sắc hiện hành
thì ta tự nhiên nghĩ đến đạo lý mười hai nhân duyên. Mười
hai hữu chi, Bhavanga. Chi thứ nhất là vô minh. Thứ
hai là hành. Hành là sức mạnh tạo ra vọng thức, tạo ra
vấn đề, tạo ra bất an, tạo ra ham muốn, tạo ra sự chạy theo mà
cái gốc của nó là vô minh triền sử và ái nhiễm. Khi nào mà trong
lòng mình trong con người mình mà có hành thì mình biết là mình
sẽ phải chạy, chạy theo cái gì đó, phải làm cái gì đó. Có cái
lực nó thúc đẩy mình bên trong. Vô minh tạo ra hành. Ví dụ như
mình hiểu lầm người nào đó thì có cái nguồn năng lượng bực bội
giận hờn sinh ra. Nguồn năng lực bực bội giận hờn là hành. Trước
đó mình khỏe ru, nhẹ nhàng… Vô minh sinh hành. hành sanh thức.
Có thức nên phân biệt là tôi bị anh đó khinh khi, xài xể. Anh đó
với tôi là khác. Cái đó là thức, tức là phân biệt. Thức đây là a
lại gia. Mà a lại gia này là vọng thức ô nhiễm, rồi thì thức
sẽ đưa tới danh và sắc. Thức ở ngoài đời không có nghĩa rộng
như trong Duy Biểu học. Thức đây trước hết là thức a lại gia.
Sinh lý và Tâm lý gọi là danh (tâm lý) và sắc (sinh lý). Khi đó
thì danh và sắc hiện hành. những hạt giống của sinh lý và tâm lý
nó hiện hành. Vì vậy, nên mình có đủ sắc thọ tưởng hành thức.
Khi đọc bài kệ thứ 16 này mình nhớ tới mười hai hữu chi: vô
minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc
duyên lục nhập, lục nhập duyên…
KỆ THỨ 17
Nương vào A lại gia
Phát hiện thức mạt na
Tác dụng là tư lương
Níu lấy tàng làm ngã
Thức mạt na này cũng được phát sinh từ thức gốc. Thức gốc là căn
bản thức, là A lại gia thức. Thành ra thức này không phải là một
thực tại độc lập. Thức này cũng chuyển hiện từ thức A-lại-da, nó
nương trên thức a lại gia phát hiện nên được gọi là chuyển thức.
Chuyển thức (pravritti vijnama) là một nhận thức được sinh khởi,
chuyển hiện từ thức căn bản. Chúng ta có 7 chuyển thức (evolving
consciousness) và một căn bản thức. Mạt na là thức mà đồng thời
cũng là căn. Căn của nó là a lại gia. Nó nương vào a lại gia, nó
khởi, và thành ra chuyển thức. Rồi căn cứ trên trung tâm
mạt na làm căn ta có thức thứ sáu là ý thức. Ý thức lấy
mạt na làm căn cứ. Thành ra thường ta gọi mạt na là ý căn.
Có sáu căn: mắt, mũi, lưỡi, thân và ý (ý đây là ý căn
là mạt na). Khi ta nói đến sáu thức thì có: nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Sáu căn
đó chạm với sáu trần là: sắc thanh hương vị xúc pháp
thì nó sinh ra sáu thức. Ý là ý căn cũng là thức mà ta
không gọi gọi là ý thức. Manas là một chữ rất quan trọng.
Thường nói tới thức, ta nói đến chủ thể và đối tượng của thức.
Ta nói tới thức với ý niệm, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận
thức, tức là hai phần. Nhưng trong Duy Biểu học thì thức có ba
phần: kiến phần, tướng phần và tự thể phần. Phần (bhaga). Khi ta
nói về thức thường nói có hai phần: chủ thể và đối tượng. Nghe
thì phải nghe gì, thấy thì phải thấy cái gì chứ không thấy suông
được. Nên điều mình phải ghi tâm khắc cốt là thức nó bao gồm cả
chủ thể và đối tượng. Nếu không có đối tượng thì cũng không có
thức.
Triết học Tây phương có thuyết hiện tượng luận của Hussert rất
thiết thực luôn nhấn mạnh về điều đó nghĩa là ý thức thì phải ý
thức về một cái gì. Conscience dst toujours conscient de quelque
chose. Trong đạo Bụt, Duy Biểu cũng nhấn mạnh về các điều đó.
Giận là giận ai, buồn là buồn ai, buồn gì, lo là lo gì, suy nghĩ
là suy nghĩ cái gì. Tất cả những cái đó là thức. Không có thể
thức khi không có đối tượng. Khi mà hai cái xáp vào nhau, căn và
trần thì nó sinh ra thức. Hai cái đi đôi như hình với bóng. Hai
cái đó đồng thời phát sinh nhưng có nhiều người cứ nghĩ là thức
có phân nửa thôi (chủ thể) và khi ra nó gặp cái này thì biết cái
này, gặp cái khác thì biết cái khác. Đó là một cái tập quán sái,
nó làm cho ta không hiểu duy biểu. Trong Ba Mươi Bài Tụng có
câu: “Thị chư thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt”.
nghĩa là những thức đó nó chuyển biến ra phân biệt và bị phân
biệt, nghĩa là chủ thể phân biệt và bị phân biệt là đối tượng.
Danh từ chủ thể và đối tượng là những danh từ triết học bây giờ.
Trong danh từ cổ điển Duy Thức Học thì có danh từ: kiến phần
(darsanabhaga chủ thể nhận thức), tướng phần (nimittabhaga
đối tượng). Nhưng trong Duy Biểu học, quý Thầy có nói tới
phần thứ ba coi như là căn bản thì gọi là tự thể phần (svabhavikabhaga).
Ba phần đó giúp cho mình hiểu được rằng trong mỗi hiện tượng tâm
lý nó có chủ thể, đối tượng và bản chất của thức làm nền tảng
cho hai phần kia. Ví dụ như chúng ta đem cái dĩa này ra làm hai
phần: mặt lưng và mặt bụng. Mặt lưng không thể nào có được nếu
không có mặt bụng. Mặt bụng không thể nào có được nếu không có
mặt lưng. Đó là kiến phần và tướng phần nhưng còn phần thứ ba
nữa là bản chất của cái dĩa, cái chất sành, kaolin làm ra dĩa.
Nếu không có chất kaolin làm ra dĩa thì không có phần kiến cũng
không có phần tướng. Phần thứ ba mà gọi là phần cũng chưa đúng
hẳn. Ý muốn nói cái gì cũng có bản chất của nó. Cái bản chất đó
nó chứa đựng tất cả mọi cái không phải là kiến phần và tướng
phần mà thôi.
Trong tám thức và năm mươi mốt tâm sở cái nào cũng có ba phần:
kiến phần, tướng phần và tự chứng phần. Chứng có nghĩa chứng
minh rằng tôi là nguồn gốc của hai phần đó. Không có tôi thì
không có gì cả. Hai cái đó mà không có thì tôi cũng không có
luôn. Ba cái cùng có, nương vào nhau mà có như một nhóm cây lau
chống đỡ nhau. Kiến phần, tướng phần và tự thể phần trình bày ra
để ta có được cái thấy, cái nhận thức. Còn như nếu mình chia
từng phần ra làm từng phần là mình phản lại thâm ý của của người
trình bày. Tại vì một phần nó chứa cả hai phần kia. Nghe pháp
thì phải thực tập đừng có bị động. Thầy nói cái gì mình phải
nhìn sâu và hiểu được xuyên qua lời nói. Cũng như hồi nảy Thầy
nói: Bây giờ ta rời lãnh vực thức thứ tám để sang thức thứ bảy,
thì mình phải có phản ứng đó liền thì cái học mới đi tới nơi tới
chốn. Cái học này là cái học hành. Vậy thì thức A lại gia cũng
có ba phần. Phần là kiến, một phần là tướng và một phần là tự
thểâ phần…
Bên phần tướng này ta thấy gì? ta thấy sự biểu hiện của thế
giới, của căn thân. Biểu hiện a lại gia, là thế giới tánh cảnh,
độc ảnh và đới chất, mười tám giới hình thành. Là anh chàng
tướng phần này: khí thế gian là thiên nhiên, tình thế gian gồm
các loài chúng sanh và con người trong đó có mình. Và tất cả
những gì mình nhận thức đều căn cứ trên cái tướng phần a lại
gia. Tướng phần này có thể dịch là object. Kiến phần
là subject. Tướng phần của a lại gia là sự biểu hiện
của thức a lại gia thành ra thế giới loài người, loài vật, cây
cỏ. Tất cả những gì thuộc về đối tượng nhận thức của mình là
tướng phần của a lại gia. Thành ra kiến phần là nó ôm, nó duy
trì lại. Trong này vừa có chủng tử vừa có hiện hành. Những hạt
giống trong này là do thức a lại gia giữ gìn và những cái hiện
hành mà mình nhận thấy như là sông núi, chị Ngọc Tuyền… những
hiện tượng đó đều phát hiện từ thức a lại gia. A lại gia là tác
dụng của duy trì và làm biểu hiện ra. Biểu hiện a lại gia là thế
giới tánh cảnh, độc ảnh cảnh và đới chất,
mười tám giới hình thành. Thức thứ bảy là mạt na cũng phát hiện
từ tự thể phần của thức a lại gia và nó biểu hiện ra thành thức
thứ bảy gọi là mạt na. Chúng ta đừng kỳ thị quá, nói cái tướng
nó khác với tự thể ví dụ nói cái lưng của cái đĩa nó khác với
cái chất đất sét làm ra cái đĩa là sai lắm. Cũng như cái bụng
của cái đĩa không phải là cái lưng cũng sai lắm. Vì vậy cho nên
tất cả những cái chủng tử những hiện hành nó chỉ nằm ở gốc tướng
phần mà thôi. Kiến cũng là tướng, tướng cũng là tự thể phải
không? phải tập như vậy mới được. Nếu không thì không thể hiểu
được. Đây là vấn đề thực tập. Nghe và hiểu nếu không thì bị kẹt.
Chính nhiều Thầy hồi xưa viết sách về duy thức cũng bị kẹt chứ
đừng nói học viên bình thường. Mạt na là một chuyển thức, có gốc
rễ từ thể a lại gia, phát hiện ra thành một tác dụng nhận thức
và đối tượng của nó là kiến phần của a lại gia. Nó ôm lấy một
phần của a lại gia và nó cho đó là người yêu của nó. Nương vào a
lại gia phát hiện ra thức mạt na, tác dụng là tư lương, níu lấy
tàng làm ngã. Tư lương là chữ mà các Thầy đọc như vậy. Thật ra
phải đọc là tư lượng. Tư là suy tư, lượng là đo lường tính toán.
Anh chàng này chỉ làm cái việc đó thôi. Đó là tôi, anh đừng chen
vào, anh đừng đụng tới. Cái đó gọi là tư lượng. Mentation,
Cogitating, Cogitation. Đêm ngày mạt na chỉ làm việc ôm ghì, níu
lấy thôi. Đối tượng của mạt na không phải là tướng phần của thức
a lại gia mà nó ôm kiến phần của a lại gia. Cố nhiên kiến thì
cũng ôm tướng phần. Trong kiến có tướng. Nhưng mà ở đây nói rất
rõ là cái chủ thể của a lại gia. Và đây là đối tượng của mạt na,
níu lấy chéo áo của a lại gia và biến thành ra một đối tượng. Và
đối tượng đó là ngã “níu lấy tàng làm ngã”.
KỆ THỨ 18
Đối tượng của mạt na
Là ngã tướng đới chất
Phát sinh từ giao thoa
Giữa ý và tàng thức.
Tam cảnh: Tánh cảnh (the realm of things in themselves),
Đới chất cảnh (the realm of representations) và Độc
ảnh cảnh (the realm of mere images). Cảnh của thức thứ tám
là Tánh cảnh. Nó duy trì, nuôi nấng, và biểu hiện bằng cách trực
tiếp, ngay thẳng, không suy luận gì cả. Đối tượng nhận thức của
mạt na là Đới chất cảnh. Là cảnh do dựa vào tánh cảnh mà tạo ra
vẽ riêng theo ý mình. Đó không là tự thân của tánh cảnh. Đó là
một sáng tạo phẩm của bản thân mình căn cứ trên tánh cảnh. Thành
ra đối tượng của sự yêu thương, ghì chặt của mạt na không phải
là bản thể của a lại gia mà nó là một hình ảnh do mạt na tạo ra
từ sự biến kế, níu kéo của mình.
Giống hệt như trong trường hợp yêu thương của nam nữ. Nhiều khi
mình không yêu người đó. Mình tạo ra một hình ảnh của người đó
và yêu cái hình ảnh đó. Và chính trong cái yêu đó, do vọng thức
mà có nhiều vô minh cho nên sau mới khổ. Từ từ sống chung, đi
chơi với người đó rồi mới khám phá ra những cái ngược lại với
hình ảnh của mình tạo ra liền đem tới sự đau khổ. Đối tượng của
mạt na, là ngã tướng, đới chất phát sinh từ giao thoa giữa ý và
tàng thức. Tức là sự động chạm giữa mạt na và tàng thức. Sự giao
thoa giữa hai nguồn năng lượng tạo ra một đối tượng và đối tượng
đó là đối tượng của mạt na. Nó không là tàng thức nhưng nó có
chút bản chất của tàng thức, đèo theo một chút chất liệu của
tàng thức. Đới tức là quảy theo, đèo theo, mang theo, mang theo
có hơi hưởng của bản chất. Đó là người trong mộng. Người trong
mộng làm cho mình khổ, cho nên “làm sao giết được người trong
mộng”. Người trong mộng có tính cách hôn mê. Mạt na làm suốt
ngày suốt đêm. Mạt na làm việc có tính chất hôn mê trong đó có
hơi nhiều. Ý là một chữ rất hay để dịch qua mạt na. Ý cũng có
nghĩa là yêu “ý trung nhân” tức là người trong ý của mình, người
yêu. Bây giờ mà nói tôi yêu anh thì nói “ngã ý trung nễ” phải
không? trong bài dịch về tám thức Thầy dịch là the lover. Tại vì
trong những bài tụng của Thầy Huyền Trang. Thầy dịch về ý như
vầy “Đới chất hữu phú thông tình bản”. Đối tượng của thức
thứ bảy là đới chất cảnh và tính chất của nó là hữu phú tức là
bị che mờ. Thức đó là thức bị che mờ nên mới yêu kiểu đó. Và cái
hình ảnh của người yêu, cái đối tượng của nhận thức nó liên hệ
tới tình và bản. Bản là căn bản thức, thức thứ tám malavijnana,
nó cũng liên hệ tới mạt na là người tình. Thông là liên hệ. The
object of manas is the realm of representations. The nature of
that consciousness to the lover (manas) and the base (alaya).
Because alaya vijnana sometime called the root consciousness.
The encounter between the base consciousness and the manas bring
about the object created by manas and this object is linked in
one hand to the lover (manas) and on the other hand oh the alaya
vijnana.
Thầy Huyền Trang có dùng chữ tình. Tình là thức thứ bảy, tình
nhân. Loài người có khi gọi là loài hữu tình. Các loài khác cũng
gọi là hữu tình. Có những loài đất đá khoáng chất thì
người ta gọi là vô tình. Không chắc “Làm sao em biết
bia đá không đau”. Vì đều có tình. Nó cũng là thức. Đối
tượng của mạt na là ngã tướng đới chất. Ngã tướng
là do mạt na tạo ra, căn cứ trên chất liệu a lại gia. Đối tượng
đó không phải tự thân a lại gia mà được phát sinh từ sự giao
thoa giữa a lại gia và thức thứ bảy. Ví dụ như cánh tay của tôi
đây, nó phát sinh từ thân thể tôi và trở lại ôm thân thể tôi.
Vấn đề là cánh tay này có thể tiếp xúc trực tiếp với thân thể
tôi không, hay là nó tạo ra một hình ảnh của thân thể tôi để nó
chỉ tiếp xúc một phần thôi. Tại vì thiếu chánh niệm, thiếu sự
sáng suốt thì bàn tay mình có rờ vào thân thể mình cũng không
xúc tiếp được với thực thể của thân thể mình. Thức mạt na cũng
vậy. Nó xuất phát từ bản thể của a lại gia thì chúng ta thấy gốc
rễ bản chất của mạt na nằm ở tàng thức “hạt giống của vô minh
của triền sử ái nhiễm, quấy động thành vọng thức khi danh sắc
hiện hành”. Khi nhìn vào hiện tượng mạt na chúng ta nhìn sâu
và chúng ta có thể nhận diện được những hạt giống những tính
chất nằm trong hạt giống này vô minh, triền sử, ái nhiễm… Nhìn
cái này thấy được cái này, như là nhìn vào trái chanh thì thấy
được cây chanh. Nhìn vào hoa cải thì thấy được hạt cải, lá cải.
Vì vậy cho nên mạt na nó có tính cách hữu phú là bị cái màn mờ
ám nó ngăn che. Ta sẽ hỏi mạt na như vậy là một tên tà giáo ta
phải loại trừ mạt na ra phải không? Thật ra trong mạt na nó cũng
chứa đựng a lại gia, nó chứa đựng đủ thứ trong đó có Phật tánh,
như trong rác chứa đựng hoa vậy. Trong này có tất cả mọi cái.
Tại vì tất cả mọi thứ, mọi tâm vương, tâm sở đều có tính cách
tương tức, tương nhập vừa có tính chất chung và riêng. Vì vậy
cho nên tuy mạt na bị che lấp nhưng mà trong mạt na mình thấy
được sự có mặt của mọi thứ khác nữa. Ví dụ như bông hoa mình
thấy mặt trời, phân bón, đất. Tại vì một cái đó mang theo tất cả
các cái khác. Một là tất cả phải tập nhìn như vậy. Nếu không thì
mình bắt đầu phàn nàn “anh chàng mạt na này thiệt à, mình khổ là
vì nó! Thôi nó đi đâu cho rảnh mắt mình. Trong thực tập đạo Phật
không có kể thù là vậy. Kẻ thù là do mình. Mình chịu trách nhiệm
về người đó. Đối tượng của mạt na là ngã tướng, đới chất. Ngã
tướng là image of itself. Nhưng nó chi là đới chất cảnh thôi.
Đới chất cảnh theo danh từ triết học ngoài đời nó gọi là ý
tượng. Đó chỉ là những ý tượng tức là những hình tượng trong ý
mình thôi. Chứ sự vật ở ngoài, ở nơi sự vật nó không như vậy.
Representations danh từ này ông cố đạo Berkelay chủ trương Duy
tâm luận nhưng mình mượn đỡ danh từ ý tượng để cho người Tây
phương hiểu được đưói chất cảnh là gì. Tới đây quý vị cần thấy
thêm nữa.
Trong Duy Biểu học nó có ý niệm gọi là bốn duyên và các học phái
khác cũng vậy đó là bốn điều kiện:
1/ Nhân duyên là Hetupratyaya ví dụ hạt lúa
là nhân duyên làm ra cây lúa. Hetu là nhân. Nhân chữ Hán viết có
chữ đại bên trong và vây quanh bởi một cái ô vuông. Tức là tuy
bị giam hãm trong cái vỏ nhỏ xíu nhưng nếu đủ nhân duyên thì nó
sẽ trởi thành rất lớn.
2/ Tăng thượng duyên tức là adhipatipratyaya tức là những
điều kiện giúp vào cho nhân duyên phát triển. Ví dụ như nắng,
mưa, đất… đối với hạt lúa để giúp hạt lúa thành cây. Có những
thuận tăng thượng duyên và nghịch tăng thượng
duyên. Không phải lúc nào cũng nghịch tăng thượng duyên
cũng xấu. Ví dụ có người sắp lầm lỗi nhưng nhờ nghịch tăng
thượng duyên nên không làm bậy được. Vì vậy nghịch tăng thượng
duyên rất lợi lạc.
3/ Sở duyên là alambanapratyaya. Sở duyên là đối tượng
của nhận thức. Không có sở duyên thì không có nhận thức. Vì vậy
điều kiện sở duyên là điều kiện thiết yếu cho thức. Tại vì thức
mà không có sở duyên, không có đối tượng thì không gọi là thức
được. Phải có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Vậy thì
thức mạt na có nhận duyên từ tự thể phần. Nhưng nó nhờ kiến phần
của a lại gia làm đối tượng rồi nó tạo ra sở duyên của nó. Nhưng
mà kiến phần này không là đối tượng trực tiếp, không là sở duyên
trực tiếp của mạt na. Mạt na nương vào kiến phần của alaya mà
tạo ra một sở duyên của riêng mình. Đây là người trong mộng (tri
giác sai lầm) chứ đâu phải là người thật, không là kiến phần a
lại gia thật. Ta nên biết kiến phần của a lại gia đóng vai tăng
thượng duyên, duyên thứ hai, nhưng điều kiện để mạt na có thể
căn cứ trên những điều kiện rồi tạo ra sở duyên của mình. Ta nhớ
lại hồi Cấp Cô Độc đi về Vương Xá và thấy người anh rể đang dọn
nhà dọn cửa để thỉnh Bụt tới thọ trai. Ông thấy lần này sao mà
anh rể mình lơ là với mình qua. Sau khi biết lý do vì người anh
bận thỉnh Bụt và Tăng đoàn tới thọ trai, cấp cô độc nghe tin đó
bỗng trong tâm phát sinh một hình ảnh về Bụt và yêu Bụt liền.
Cấp Cô Độc chưa hề tiếp xúc với tánh cảnh về Bụt đâu. Hình ảnh
trong tâm Cấp Cô Độc trước nhất là một hình ảnh đới chất, là một
ý tượng về Bụt. Ý tượng đó là sở duyên. Sở duyên này nó dựa trên
tăng thượng duyên kia (những lời của người anh, cách người anh
chuẩn bị…)
Sau này là để tử Bụt, Cấp Cô Độc có thể tiếp xúc trực tiếp với
tánh cảnh của Bụt và sở duyên của ông về Bụt càng ngày càng
sáng, càng đúng, English: For a thing is born, that thing needs
4 kind of cause. Manas has been born from a coverted seed in
alayavijanana (first cause: hetupratyaya). There are other
conditions like the subject part of alaya and manas bent on that
part (second kind of cause: adhipatipratyaya) and basing on that
created its alambanapratyaya object of consdiousness (third kind
of cause). So the darsanabhaga (subject of consciousness of
alaya) is the condition favorable to the fabrication of the
beloved one (the wrong perception) of manas, the converted
reality. The beloved one of manas is the almbanapratyaya, the
object of knowing, that beloved one favorable to that kind of
creation.
4/ Đẵng vô gián duyên nghĩa là nó đều đều, liên tục,
không dứt đoạn. Trong lòng hiện hữu của các hiện tượng cần có sự
liên tục, không gián đoạn, đó là một điều kiện quan trọng
samanantarapratyaya this condition is also important. This is
called the continuity, the immediacy. Without that, there will
not be a fruit. Because this flower of this previous moment. If
there is no continuation no immediacy, then nothing is possible.
Like the electricy in the computer. If electricy was cut then
all will be erase.
Đây là bốn điều kiện mà mình phải tập để thấy sự hình thành của
vạn vật. Tại vì mình nghe nó nhân quả nhưng mà nhân quả của mình
hơi quá đơn sơ. Nhân duyên là hạt giống từ đó phát sinh mà một
nhân duyên thì không có gì phát sinh cả. Vì vậy phải có tăng
thượng duyên thuận và nghịch như mặt trời mưa và nắng.
Thứ ba là sở duyên. Sở duyên là điều kiện, đối
tượng, điều kiện tất yếu để có nhận thức. Đó là đối
tơnựg của nhận thức. Giận thì giận “ai” mới được, buồn
hay thương “ai” mới được. “Ai” đó là đối tượng. Thành ra
mấy nhà chính trị có khi họ phải tự tạo ra đối tượng kẻ thù để
ho người ta ghét người ta ta tức là quên những lỗi lầm của chánh
quyền này. Nhân duyên. Tăng thượng duyên. Và sở duyên
duyên. Chữ duyên thứ ba là điều kiện, chữ duyên thứ hai là
đối tượng nhận thức và cuối cùng và đẳng vô gián duyên là
đều đều không dứt đoạn. Tại vì không có sự liên tục thì
không có gì thành cả. Tôi của giờ phút này mà nếu không có tôi ở
giờ phút trước thì tôi của giờ phút này không có được.
Ta ôn lại. Từ một hạt giống hay những hạt giống trong tư thế a
lại gia mà ta vừa nhận diện được nghĩa là những hạt giống của vô
minh, của triền sử, ái nhiễm nó quấy động thành vọng thức cho
nên có một đợt sống từ biển cả trỗi dậy. Đợt sống đó tên là mạt
na.
Trong kinh nhiếp Đại Thừa luận cũng như kinh Lăng Già có ví dụ
tàng thức là biển cả và các chuyển thức là những đợt sóng. Và vì
vậy cho nên mạt na là một chuyển thức phát sinh từ biển a lại
gia. Mình nhận diện được gốc rễ của mạt na. Mạt na cúi xuống
nhìn vào a lại gia gới sự trìu mến và sáng tạo ra một đối tượng
và ôm lấy. Vậy nên alaya bị níu áo và không được giải thoát. Đối
tượng của mạt na được tạo nên bởi sự giải thoát giữa mạt na và
alaya và đối tượng này không là tánh cảnh, không là bản chất của
thực tại mà nó là cái được tạo tác ra bởi cái chủ thể của mạt na
hay alaya; và có dính líu với một chút bản chất nên gọi là đới
chất cảnh.
Ý tượng. Điều quan trọng là học tới đâu mình nắm được tới đó
thôi. Có những câu hỏi trong đầu có tánh cảnh trí thức, phân
tích, ráng đừng hỏi. Ráng nuôi những câu hỏi đó. Trong khi mình
nghe giảng mình phải thực tập an trú trong chánh niệm và nhất là
dùng năng lượng của mình hiểu được thì bài giảng tới mình sẽ hơi
bị lạc tông. Rồi khi nghe những bài pháp thoại kế tiếp từ từ
mình sẽ tự khám phá ra câu trả lời.
“Đối tượng của Mạt na
Là ngã tướng đới chất
Phát sinh từ giao thoa
Giữa ý và tàng thức”
Chúng ta đang nói về đối tượng của thức Mạt na, tức là thức thứ
bảy, và công dụng của Mạt na là tư lượng. Tư lượng là tác dụng
của đo lường, suy nghĩ. Và tác dụng đo lường và suy nghĩ này là
một loại trực giác. Nhưng trong cái trực giác đó có yếu tố sai
lầm. Thức Mạt na phát sinh từ Alaya va nó níu lấy Alaya làm một
phần đối tượng của nó. Nhưng mà đối tượng của nó không phải là
tự thân của Alaya mà là một loại đối tượng phát sinh từ xúc
chậm, từ sự giao thoa giữa Alaya và mạt na, đó là đối tượng đới
chất.
Đới chất có nghĩa là không phải tự thân của bản chất, nhưng nó
mang theo một ít chất liệu của bản chất, gọi là đới chất. Và đêm
ngày mạt na cứ níu lấy cái đó, cho cái đó là cái ta của mình,
đối tượng yêu thương của mình, đi theo để mà bảo vệ để mà giữ
gìn, để mà bám víu. Vì vậy cho nên đối tượng của Mạt na không
phải là tánh cảnh, tức là thực tại bản thân mà chỉ là đới chất
cảnh. Tức là một đối tượng được tạo ra sự giao thoa giữa hai
bên.
Không thực là bản chất, nhưng nó dính tới bản chất. “Đối
tượng của Mạt na là ngã tướng đới chất”. Ngã tướng tức là
một cái ta, đối tượng về một cái ta, và đối tượng đó là một đối
tượng đới chất, là một ý tượng - nói theo danh từ triết học bây
giờ - (representations chứ không pahỉ là réalité). Chúng sinh
đối tượng đó nó phát sinh từ giao thoa giữa mạt na và thức thức
tám.
Tới đây chúng ta nên nhắc một điều căn bản, tưc là tâm thức
chúng ta có nhiều tác dụng.khi mà chúng ta học tơi bài học thứ
18 này thì chúng ta chỉ mơi học qua thức thứ 8 Alaya, và chúng
ta đang học thức thứ bảy, thức mạt na. Thức có nhiều tác dụng
(functions). Và chúng ta biết rằng trong tâm lý học, mỗi cái,
mỗi cái tác dụng tâm lý được coi như là một thực tại tâm lý.
Thành ra khi mà chúng ta chia ra làm tám thức và chúng ta thấy
có tám tác dụng tâm lý. Và vì vậy cho nên chúng ta nói có tám
thức, nhưng thực sự cái đó mình có thể hiểu là tám tác dụng của
thức. Còn nếu như mình chia ra làm tám cái độc lập khác nhau.
Tức là mình đã đi ngược lại với cái tinh thần đạo Bụt rồi, tức
là trong tám cái đều có dính líu tới nhau cả. thành ra khi mình
nói thức thứ tám và thức thứ bảy, mình có khuynh hướng nghĩ rằng
hai cái đó là hai cái khác nhau nhưng mà kỳ thực tuy là mình
phân tích để mà tìm hiểu như vậy nhưng mà mình phải thấy rằng
giữa cái này và cái kia nó có liên hệ mật thiết, “mình với
ta tuy hai là một, ta với mình tuy một mà hai”.
Ví dụ như có một người là Thầy Nhất Hạnh. Thì trông con người
của ổng, nó có một nhà nghệ sĩ, ổng làm thơ, ổng viết văn, ổng
trồng rau, cắm hoa. Rồi có một nhà đạo sĩ trong đó, thì trong đó
có tác dụng của một nghệ sĩ, có tác dụng của một đạo sĩ. Trong
con người đó còn có con người chiến sĩ, và còn có nhiều nữa. Có
nhiều mặt của một con người nữa. Một người không có chịu thua,
một người luôn luôn phấn đấu, một người muốn thực hiện một cái
gì đó. Trong mỗi con người chúng ta đều có ít nhất là ba cái
mặt. Đứng về phương diện nghệ sĩ mình có thể phân tích, mình có
thể hiểu mình, mình sẽ tiếp xúc con người chiến sĩ trong đó. Như
vậy không có nghĩa rằng người nghệ sĩ nó là một người độc lập
với người chiến sĩ. Đây chỉ là những mặt khác nhau của một con
người. Vì vậy cho nên khi mà mình học về tám thức, mình phải nhớ
như vậy.
Tám thức đó không phải là tám phạm vi riêng biệt với nhau, không
có dính líu với nhau. Những công dụng khác nhau của thức được
gọi bằng một cái tên riêng, nhưng mà cái thực tại này cũng liên
hệ tới thực tại khác. Và tuy rằng là tám mà là một, tuy rằng một
mà là tám. Vì vậy cho nên khi ta nói drằng cái công dụng đầu
tiên của thức là tàng, chúng ta nghĩ tới thức thứ tám vì thức
thứ tám là tàng thức. Rồi bây giờ chúng ta đi sang công dụng thứ
hai của thức là tư lượng, thì chúng ta nghĩ tới thức thứ bảy. Vì
vậy cho nên tư lượng là một cái tác dụng thức hai của thức. Và
cố nhiên là cái công dụng này, cái tác dụng này có liên hệ tới
cái tác dụng kia và nó chịu ảnh hưởng cái tác dụng kia. Cái con
người của nhà đạo sĩ nó có liên hệ tới con người của nhà nghệ sĩ
và nó có liên hệ tới con người của nhà chiến sĩ. Tại vì nhà đạo
sĩ chân chính thế nào cũng có con người của chiến sĩ ở trong. Mà
con người của nhà chiến sĩ chân chính thế nào cũng có con người
của nhà đạo sĩ ở trong.
KỆ THỨ 19
Vì sáu chuyển thức khác
Đóng vai nhiễm tịnh y
Vừa thẩm lại vừa hằng
Hữu phú mà vô ký.
Chúng ta biết rằng thức thứ bảy được gọi là chuyển thức, chuyển
thức tức là một cái thức được chuyển hiện từ căn bản thức,
(pravrtti vijnana). Thức căn bản như là biển cả,
mà chuyển thức cũng giống như những đợt sóng nó phát sinh từ
biển cả. Vậy thì ngoài thức thứ bảy chúng ta còn có những chuyển
thức khác, và còn có sáu chuyển thức nữa, tức là thức thứ sáu, ý
thức và năm thức đầu là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức
và thân thức. “Vì sáu chuyển thức khác đóng vai nhiễm tịnh y”.
Nhiễm tịnh y là một danh từ mới. Nhiễm tịnh y thức
là cái căn bản của sự nhiễm và tịnh. Y tức là chỗ
y cứ, tức là nền tảng, tức là căn bản. Tiếng Phạn là saraya. Tức
là thức thứ bảy này nó là một nền tảng tịnh và nhiễm cho các
thức khác, cho sáu thức khác. Mà tất cả những thức kia cũng đều
được phát sanh từ thức căn bản. Bảy chuyển thức đó là Mạt na,
ý thức, nhãn, tỷ, thiệt, thân thức. Trong bảy chuyển thức đó
thì thức thứ bảy nó làm nền tảng cho sự nhiễm tịnh của thức thứ
sáu và năm thức khác.
Nền tảng nhiễm tịnh là sao? Là những thức khác, nó
dơ bẩn hay trong sạch đều có liên hệ đến thức thứ bảy. Vì vậy
thức thứ bảy là nền tảng nhiễm tịnh của sáu thức đầu. Nếu mà
thức thứ bảy bị che lấp quá nhiều, bị u mê quá nhiều thì thức
thứ sáu và năm thức đầu bị nhiễm nhiều. Nếu mà thức thứ bảy được
giải thoát nhẹ nhàng hơn thì sáu t hức khác cũng được nhẹ nhàng
hơn, giải thoát hơn. Cho nên gọi là nhiễm tịnh y.
Địa vị của người yêu (mạt na) ở trong này rất là quan trọng, yêu
mà yêu một cách mê mờ, một cách ngu si thì tất cả đều lãnh đủ
hết. Tại vì ý (mạt na) tức là người yêu cho nên cái chất liệu
của si mê của thức thứ bảy nó càng lớn chừng nào thì chất liệu,
si mê ở thức thứ sáu và năm thức khác càng lớn chừng đó. Khi mà
thức thứ bảy càng được cởi mở chừng nào, được rộng rãi thế nào
thì thức thứ sáu và các thức trước cũng được hưởng chừng đó. Cho
nên thức thứ bảy gọi là nhiễm tịnh y là nền tảng của ô nhiễm hay
là thanh tịnh của của sáu thức trước ở trong con người của chúng
ta, nó có phần lý trí và tình cảm. Chúng ta thường nói rằng:
lý trí dẫn đạo cho hành động và khi mà chúng ta thấy
, hiểu thì chúng ta cứ làm theo đó. Nhưng mà sự thực có khi
không phải như vậy. Cái lý trí nhiều khi yếu hơn. Chúng ta thấy
như vậy, chúng ta hiểu như vậy nhưng mà chúng ta không làm theo
như vậy là tại vì các tình cảm trong chúng ta nó mạnh hơn. Điều
đó chứng tỏ rằng thức thứ bảy rất mạnh, nó làm chỗ y cứ, làm nền
tảng cho hành động.
“Vì sáu chuyển thức khác, đóng vai nhiễm tịnh y, vừa thẩm lại
vừa hằng, hữu phú mà vô ký”. Thẩm tức là tư lượng, tức là
luôn luôn có sự thẩm sát, có sự so đo, có tính toán, reflecting
(cogito). Tiếng Anh có thể dịch là mentation. Thẩm tức là có suy
nghĩ, có đo lường, có tính toán ở trong gọi là thẩm.
Thức thứ tám, nó không thẩm. Nó không có tác dụng thẩm, nó chỉ
có tính hằng và chuyển thôi. Vừa chuyển lại vừa hằng. Anh chàng
này cũng hằng, tức là anh chàng cũng có mặt ở đó hai mươi bốn
giờ trong một ngày, permanent. Thẩm là reflecting. Hằng là
always. Thành ra thức này với thức thứ tám có một cái giống
nhau: hai chàng đều là hằng cả. Vì thức thứ sáu không có hằng.
Thức thứ sáu ban đêm khi nằm ngủ mà không có mơ tức là nó đi
nghỉ. Nó không có hằng. Ban đêm mà ngủ ngon không có mộng thì
thì thức thứ sáu được nghỉ ngơi, khỏi làm việc, nó không hiện
khởi. Thành ra thức thứ sáu không có hằng. Trong khi đó thì thức
thứ tám luôn luôn có hằng. Tại vì thức thứ tám mà không có hằng
thì trong khi ngủ mình sẽ chết. Thức thứ bảy cũng vậy. Khi mà
mình chết rồi thức thứ tám và thức thứ bảy còn y nguyên. Nó
hằng. Nhưng mà thức thứ sáu nó lặn đi. Nó sẽ trở về cái hạt
giống của nó, nó không có biểu hiện. Thành ra thức thứ bảy này
nó vừa thẩm lại vừa hằng. Thẩm ở đây có nghĩa là tư lượng. Tư
lượng ở đây tức là níu lấy cái đối tượng đó, cho cái đó là ngã
là người yêu của mình, là cái quan hệ nhất ở trên đời, còn những
cái khác không quan hệ. Ví dụ như cảm tưởng cái thân của mình là
quan hệ nhất. Còn những cái gì xảy ra trong xã hội thì không
quan trọng. Ví dụ như là có giặc giã ở bên Yougoslavie, cái đó
không quan trọng, không có dính tới mình, hay là những cánh rừng
lớn đang bị đốn ở Nam Mỹ, cái đó không có liên hệ gì tới mình,
hay là thiên hạ xài xe hơi quá nhiều, làm ô nhiễm quá nhiều
không khí của trái đất, cái đó không quan trọng gì với mình. Thì
cái cảm tưởng, cảm giác, sự tính toán đó có thể là sự tính toán,
sự tư lượng của thức thức bảy cũng có sự sai lầm ở trong đó,
thiếu tính chất tí tuệ trong đó. Vì bất cứ cái gì xảy ra trong
thiên nhiên và trong thế giới đều có động tới sự an toàn của cái
ngã của mình nhưng mà mình cứ nghĩ rằng những cái đó không phải
là ngã, cái này mới là ngã, thì cái đó là thiếu trí tuệ. Vì vậy
cho nên thức này bị che lấp một phần rất quan trọng. Cho nên ở
đây gọi là hữu phú. Hữu phú tức là bị che lại.
Vừa thẩm lại vừa hằng, hữu phú mà vô ký. Vô ký có nghĩa
là không thiện mà cũng không ác. Ở đây chúng ta thấy có một sự
giống nhau giữa thứ thứ bảy và thức thứ tám. Bởi vì thức thức
tám cũng vô ký. Thứ thứ tám không phải thiện cũng không phải ác.
Cái kho chứa của chúng ta không phải thiện cũng không phải ác và
thức thứ bảy cũng vậy, không phải thiện cũng không phải ác.
Nhưng có sự khác nhau thức thứ tám là vô phú, tức là không bị
ngăn che. Trong khi đó thức thứ bảy bị ngăn che, có lẽ tại vì
anh chàng này si tình cho nên gọi là có ngăn che. Hữu phú mà vô
ký. Trong khi đó thức thứ tám là vô phú và vô ký.
Học tới đây rồi mới thấy vai trò quan trọng của thức thứ sáu. Vì
chính thức thứ sáu đóng vai trò đem đuốc mà soi để chúng ta thấy
được tình trạng hiện thời ở trong bản thân của thức thứ bảy và
thức thứ tám. Và vì vậy cho nên ánh sáng chánh niệm mà thức thứ
sáu đem tới mới có thể đóng được vai trò mà chúng ta trông đợi,
tức là vai trò làm cách mạng. Tại cuộc cách mạng trong sự tu học
là nhằm tới mục đích thay đổi tận gốc rễ cái tình trạng ở trong
thức thứ bảy và thức thứ tám. Sự thay đổi đó gọi là sự thay đổi
tận gốc chứ không phải là sự thay đổi trên mặt, cái thay đổi tận
gốc đó gọi là chuyển y. chuyển y tiếng phạn là Paravriti asraya.
Asraya là y, pdravriti là chuyển. Chữ y dịch là căn bản. Chuyển
y tức là thay đổi tận gốc rễ. Chuyển tức là làm cách mạng, là
đảo ngược lại, làm thay đổi như là chuyển hóa. Còn asraya là y,
tức là chuyển hóa nhưng không chuyển hóa cái bề mặt, chuyển hóa
tận gốc rễ của nó gọi là chuyển y. Transformation at the base.
Và chính thức thứ sáu này có nhiệm vụ đem ánh sáng tới để chiếu
rọi trong căn nhà của thức thứ bảy và thức thứ tám, để chúng ta
thấy được tình trạng của căn nhà đó. Và chỉ có ánh sáng của
chánh niệm mới tạo ra được ý thức, mới tạo ra sự thay đổi. Vì
vậy cho nên, tuy rằng thức thứ tám và thức thứ bảy rất quan
trọng trong sự tu học nhưng mà dầu sao hai thức đó vẫn đóng vai
trò thụ động. Vì vậy cho nên hai thức đều được gọi là vô ký cả.
Nó không đóng vai trò thiện và ác, nó đóng vài trò thụ động. Thụ
động nhưng không có nghĩa là không làm việc. Làm việc rất giỏi.
Ví dụ như đất chẳng hạn. Đất ruộng, đất vườn đâu có làm việc
theo cái kiểu của người làm vườn. Đất nó không tự cày, không có
tự bừa, không có tự bón phân, không cứ tự làm cỏ. Nhưng mà nếu
không có đất thì người làm vườn chịu chết. Tuy vậy nếu người làm
vườn có làm hết mình mà đất không có sự làm việc của đất thì
cũng không đi đến đâu. Tại vì sau khi người làm vườn đã cày, đã
bừa, đã xới, đã gieo hạt, đã tưới, thì lúc đó đất nó làm việc
một cách tự nhiên. Nó cống hiến hoa trái. Ở đây thức thứ tám
cũng vậy. Thức thứ tám nó làm việc, ví dụ như khi mình tới Làng
Hồng để tu học, thì mình phải đem theo thức thứ sáu và thức thứ
tám. Tức là phải đem theo đất theo. Tại vì nếu mà Thầy cho mình
những bài pháp thoại, Thầy tặng cho mình những hạt giống của
Phật pháp, những pháp môn tu học thì mình tiếp nhận bằng thức
thứ sáu, mình phải có chỗ để gieo hạt giống đó vào, chỗ để gieo
những hạt giống Phật Pháp là thức thứ tám, tức là đất. Khi một
vị Thiền Sư trao cho một thiền sinh một công án, thì công án đó
người đệ tử không thể nào giữ ở trong trí tuệ và trí năng của
mình được. Trí năng là thức thứ sáu. Ví dụ thiền sinh nói như
thế này: “Anh hãy cho tôi biết cái mặt mũi của anh nó như thế
nào trước khi mẹ anh ra đời?” Thì đó là một công án được nêu
ra hay là Thầy cho một công án rằng: “Cái tất cả nó đi về cái
một, vậy thì anh cho tôi biết cái một nó đi về đâu?”. Đó là
những công án cổ điển. Khi mà người thiền sinh tiếp nhận những
công án, người đó phải đem vào trong con người mình và vùi chôn
công án đó vào trong miếng đất của thức thứ tám, và ngày đêm
dùng chánh niệm để tưới tẩm, để vun bón. Đi có chánh niệm, ngồi
có chánh niệm, ăn có chánh niệm, uống có chánh niệm, và phải có
đức tin ở thức thứ tám. Thức thứ tám nó làm việc ngày đêm. Người
thiền sinh đi ngủ rồi nó vẫn làm việc. Một ngày nào đó, người
thiền sinh thức dậy hoặc là đi vấp một cái thì tự nhiên nó bừng
nở. Hoa trái của sự giác ngộ là do thức thứ tám nó làm ra. Vì
vậy cho nên mình phải có đất. Mình phải tin cậy vào đất và tuy
rằng thức thứ tám nó không có làm việc theo kiểu thức thứ sáu,
nhưng mà công tác nó rất là quan trọng. Những hạt giống Phật
Pháp mà Thầy trao, mình phải biết chôn vùi trong thức thứ tám.
Nếu mà mình chỉ biết sử dụng thức thứ sáu để làm thay thể thao
với Phật pháp, để chơi cái trò thể thao với những hạt giống Thầy
trao thì mình không đi đến đâu cả. Điều này có nhiều người hay
làm lắm. Nhưng điều mình đã được học với Thầy ở trong kinh ,
mình chỉ sử dụng thức thứ sáu thôi. Tức là mình suy nghĩ, mình
đàm luận, mình nói ra để chơi thôi, chứ mình không biết đem
những hạt giống Phật pháp đó chôn vùi ở trong thức thứ tám, và
đừng có suy nghĩ quá về cái đó, chôn vào, vùi nó vào trong thức
thứ tám, và bằng đời sống hằng ngày của mình, bằng chánh niệm
của mình, đi, đứng, nằm, ngồi, nấu cơm, bửa củi, mình tưới tẩm
những hạt giống đó. Thì thức thứ tám, miếng đất của mình, nó sẽ
làm cho hạt giống kia nức mầm và ngày mai mình sẽ có hoa trái
của sự giác ngộ.
Thành ra những người nào mà tu với thức thứ sáu, làm tất cả mọi
cái với thức thứ sáu thì không bao giờ thành công được. “Lên
non vùi hạt bồ để, xôn xao để lại dưới kia bụi hồng” tức là
lên non mình phải vùi hạt bồ đề, không có
được sử dụng như một trái túc cầu mà chơi với hạt bồ đề dó bằng
trí năng của mình, mình phải ươm hạt bồ đề đó vào trong đất tàng
thức, thì mai này mơi có hoa trái của sự giác ngộ. Vì vậy cho
nên thức thứ bảy là vô ký và thức thứ tám cũng là vô ký. Vô ký
không có nghĩa là không làm việc. Nó làm việc khác hơn thức thứ
sáu. Thành ra trong bốn câu của bài kệ thứ 19 này, chúng ta thấy
được rất nhiều dữ kiện của thức thứ bảy. “Vì sáu chuyển thức
khác đóng vai nhiễm tịnh y” nó là nền tảng của sự thanh tịnh
và sự ô nhiễm của sáu thức đầu. Nó nặng nề thì sáu thức đầu nó
nặng nề, nó nhẹ nhàng bớt đi thì sáu thức đầu nhẹ nhàng bớt đi.
Đó là vai trò nhiễm tịnh y của thức thứ bảy: vừa thẩm lại vừa
hằng. Thức này ngày đêm đều làm công việc níu lấy thức thức
tám và cho đó là cái ngã của mình. Và trong nhận thức đó có
nhiều sai lầm. Và công việc tư lượng dó, làm cả ngày cả đêm
không bao giờ ngừng nghỉ, cho nên gọi là hằng. “Vừa thẩm lại
vừa hằng, hữu phú và vô ký” nó bị che lấp, tuy nhiên nó có
tính cách vô ký và nhờ đó nên nó mới chuyển hóa được. Cũng như
đất vậy. Đất có thể mọc gai góc, nhưng đất có thể mọc thành hoa
trái rất thơm tho. Đất là vô ký. Thức thứ bảy cũng vô ký như
thức thức tám.
KỆ THỨ 20
Tương ưng năm biến hành
Bốn phiền não và Tuệ
Cùng các thứ đại tùy
Đều hữu phú, vô ký
Năm biến hành tức là năm tâm sở biến hành xúc, tác ý, thọ,
tưởng và tư. Thì tác dụng tư lượng của thức thứ bảy được
biểu hiện trong năm tâm sở biến hành. Nó thường xuyên xúc,
tác ý, thọ, tưởng, tư. Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư này
làm cái công việc níu lấy tàng. Cho đó là cái ta của mình. Chúng
ta biết rằng năm tâm sở biến hành là năm tâm sở có mặt trong tất
cả các thức, cho nên gọi nó là biến hành. Biến hành (Universal)
tương đương với bốn tâm sở phiền não. Bốn phiền não
đó là ngã si, ngã mạn, ngã kiến, ngã ái. Ngã si
tức là một quan niệm sai lầm về ngã. Si là hiểu lầm. Ví dụ
như mình nói rằng: tôi là thân thể này, là cảm thọ này, tri giác
này còn những cái gì không phải là thân thể này, là cảm thọ này,
là tri giác này không phải là tôi. Cái đó là một ngã si, tại vì
cái tôi này nó liên hệ đến tất cả vạn hữu, vạn vật. Chỉ nắm lấy
một phần rất nhỏ, và tạo ra cái bóng dáng của thực tại đó mà cho
là cái ta, thì cái ta đó không phải là cái ta chân thật, cho nên
mới gọi là ngã tướng, đới chất mà không phải là tánh cảnh, gọi
là ngã si (Ignorace à propos du moi). Ngã kiến tức
là những cái thấy sai lạc về ngã (atman drsti). Ngã kiến tức là
những cái nhận thức về ngã, cho rằng có một cái ngã độc lập,
thường tại có một cái ngã có thể tồn tại ngoài những cái khác
gọi là ngã kiến. Ngã mạn tức là thái độ cho rằng mình là
giỏi hơn, hay hơn, đẹp hơn, quan trọng hơn (arrogance). Ngã
ái tức là mình yêu mình nhiều quá mình bị dính vào mình
nhiều quá, mình nói ra cái gì, mình làm cái gì, tất cả những cái
mình nói, mình làm, mình suy nghĩ đều mang nặng cái tính chất
ràng buộc vào cái ta của mình gọi là ngã ái. Bốn anh chàng đó nó
có mặt luôn ở trong thức thứ bảy. Bốn phiền não là bốn anh chàng
đó nó có mặt luôn ở trong thức thứ bảy. Bốn phiền não là bốn anh
chàng đó: ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã
ái. Tuệ ở đây tức là một trong năm tâm sở biệt
cảnh (the five narticulars). Năm tâm sở biệt cảnh là dục,
thắng giải, niệm, định và tuệ. Tuệ ở dây là một cái
thấy mà không chắc cái thấy này là cái thấy đúng. Mình
thấy cái gì đó, mình níu lấy cái đó, mình cho là chân lý tuyệt
đối thì cái đó là một trong những tâm sở của thức thứ bảy và
tương ứng với thức thứ bảy và cái đó là thấy rằng đó là cái quan
trọng nhất. Đó là người yêu của mình, đó là tất cả cuộc đời của
mình. Đó là cái tuệ và cố nhiên cái tuệ đó cũng bị hữu phú.
Tất cả những tâm sở của thức thứ bảy đều hữu phú và đều vô ký
có nghĩa là có thể bị mê mờ nhưng chuyển hóa được. Vậy thì
chữ tuệ ở đây có nghĩa là một trong năm cái tâm sở biệt cảnh.
Năm tâm sở biến hành là năm tâm sở phổ biến cho tất cả các thức.
Còn năm tâm sở biệt cảnh thì không phổ biến cho tất cả các thức.
Tuy nhiên ở thức thứ bảy có tâm sở tuệ. Tức là mình cho
cái thấy đó là mình, đó là người yêu của mình, là quan trọng
nhất, là cái vật duy nhất cần bảo vệ, cần đeo đuổi, thì đó là
một thứ tuệ bị che lấp “Cùng tám thứ đại tùy”. Đại tùy có
nghĩa là những tâm sở tùy phiền não. Chúng ta có nhiều tâm sở
(51 cái). Loại tâm sở đầu là tâm sở biến hành (the
five unversals). Rồi đến thứ hai là tâm sở biệt cảnh
(the five particulars). Rồi chúng ta có những tâm gọi là
thiện tâm sở. Thiện tâm sở có 11. Rồi đến những
tâm sở phiền não, thứ là bất thiện tâm sở.
Trong phiền não tâm sở có chia làm hai loại: một là phiền não
căn bản và hai là tùy phiền não. Sáu căn bản phiền
não gồm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến
Phiền não căn bản là những cái tâm trạng nặng nề, độc hại nhất
có khi gọi là độc tố. Ví dụ như là tham, sân, si gọi là tam độc,
ba độc ở trong con người mình. Nhưng mà ở đây có tới sáu chất
độc. Mình cho mình là số một thì đó là ngã mạn. Mình
nghi ngờ người khác, mình nghi ngờ tất cả mọi cái thiện chí trên
đời, mình nghi ngờ tất cả mọi giáo lý, mọi con đường thì đó cũng
là một cái độc tố rất lớn. Và kiến tức là mình có những cái thấy
sai lầm, những cái thành kiến thì sáu cái đó gọi là tâm
sở phiền não căn bản. Cái thứ nhất trong này dịch là
covetousness cái thứ hai dịch là hatred, cái thứ ba
dịch là ignorance; cái thứ tư dịch là arrogance;
cái thứ năm dịch là doubt; cái thứ sáu dịch là false
view, tức là những cái thấy sai lầm.
Và tiếp theo là những phiền não, nó không phải căn bản mà là thứ
yếu nên gọi tùy phiền não gọi là hatred affiction.
Căn bản tức là basic. Phiền não là affiction. Thì những phiền
não tùy thuộc, những phiền não nhẹ hơn gọi là tùy phiền não. Mà
tùy phiền não được chia làm ba loại, gọi là 8 đại tùy,
trung tùy và tiểu tùy.
Ở đây thức thứ bảy nó tương ưng với tám đại tùy, tức là phẩn
(anger), hận (enmity), phú (concealment),
não (affiction), tật (envy), xan (parsimony),
cuống (dêcp-tion), siễm (fraudulence). Thì xin quý
vị tham khảo bản này, nó có tên của tất cả các tâm sở ở trong
này. Và hôm nay mình chỉ biết rằng là thức thứ bảy tương ưng với
tám đại tùy phiền não. Xin đại chúng học thuộc tên của các tâm
sở phiền não và tâm sở thiện phiền não.
5 biến hành: xúc, tác ý, thọ, tưởng tư.
5 biệt cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, tuệ.
11 Thiện: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cân, khinh
an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.
Bất thiện: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, phẩn, hận, phú,
não, tật, xan, cuống, siễm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, trạo cử,
hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất
chánh tri.
Học thuộc lòng. Mình học nhiều bài hát không có giá trị gì cả.
Mà còn thuộc huống là mấy cái bịnh muôn đời này của mình, rất
cần biết và gọi tên nó mỗi khi nó ló đầu ra.
Tất cả các phiền não đó đều theo thức thứ bảy. Những phiền não
đó đều hữu phú và đều vô ký. Thành ra những tâm sở khi mà nó
tương ứng với một tâm vương, tức là một cái thức thì nó mang
tính chất đường lối của thức đó. Thành ra xúc ở thức thứ tám thì
khác; mà xúc ở thức thứ bảy thì khác; xúc ở thức thứ sáu nó
khác; xúc ở thức thứ năm cũng khác. Phải hiểu như vậy. Cho nên
khi mình nói thức thứ bảy nó tư lượng, nói nó suy nghĩ thì suy
nghĩ ở thức thứ bảy khác với cái suy nghĩ ở thức thứ tám. Nói là
thức thứ bảy nó đo lường, nó cân nhắc nhưng mà cái đo lường và
cái cân nhắc ở thức thứ bảy khác với sự đo lường và cái cân nhắc
ở thức thứ tám. Chúng ta đọc lại bài kệ thứ hai mươi:
“Tương ưng năm biến hành, bốn phiền não và tuệ, cùng tám
thứ đại tùy, đều hữu phú vô ký”.
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 | 04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10
---o0o---
-
Vi tính
Nguyên Trang. Trình bày: Linh Thoại
-
Cập nhật: 8-1-2005
|
|