|
. |
Lá bối 1996
DUY BIỂU HỌC
Giảng luận
Thiền Sư Nhất
Hạnh
---o0o---
6.
KỆ THỨ 26
Ý thức thường hiện hành
Trừ trong trời vô tưởng
Trong hai định vô tâm
Ngủ say và bất tỉnh.
Chúng ta biết rằng thức thứ sáu không phải như thức thứ tám và
thức thứ bảy, vận hành một cách liên tục ngày và đêm không ngừng
nghỉ. Thức thứ tám và thức thứ bảy là hằng, còn thức thứ sáu thì
không hằng. Và trong bài kệ thứ 26 này, chúng ta thấy có những
trường hợp mà trong đó thức thứ sáu không có vận hành, không có
hiện hành, không có hoạt động.
Trường hợp thứ nhất là khi chúng ta sinh một cõi trời vô tưởng.
Cõi trời vô tưởng là một cõi trong đó không có tri giác, không
có tưởng (perception). Hoặc là khi chúng ta đi vào trong trạng
thái tam muội. Tam muội tức là định. Hai trạng thái tam muội,
gọi là vô tâm tam muội, ở trong trạng thái đó thì ý thức không
làm việc gì nữa. Đó gọi là vô tưởng định và diệt tận định. Vô
tâm tức là acitta. Acitta, a là không, cittta là tâm. Hai cái
định mà trong đó chúng ta không còn tri giác nữa, không còn nhận
thức cái này cái kia nữa. Tuy nhiên các thức khác như thức thứ
bảy và thức thứ tám vẫn vận hành như thường, vẫn có sinh mạng
như thường nhưng mà sự tiếp nhận những hình ảnh, những ý tưởng
bên ngoài không còn nữa, không có tri giác. Thì những định đó
gọi là tam ma bạt đề (samapati) dịch là đẳng trí. Đẳng có nghĩa
là đều đều, liên tục, giống nhau, không có phân biệt. Chữ sama
hay samata nó có nghĩa là đều, có nghĩa là equalité, nó có nghĩa
là không có phân biệt, không có kỳ thị.
Trì tức là nó duy trì giữ gìn cho lâu dài. Đẳng tức là nó cứ
bằng bằng như vậy, nó cứ liên tục như vậy. Vì vậy cho nên chữ
định, samapatti cũng chỉ cho một thứ định, một trạng thái tâm lý
của mình ở trong định mà mình duy trì được tình trạng bình thản,
lặng lẽ, không có chênh lệch và kéo dài thì gọi là samapatti,
dịch là tam ma bạt đề, Hán Việt là đẳng trí. Đó là
hai định vô tâm, acitta samapatti. Trong hai định này thì thức
thứ sáu, tức là ý thức, nó không có hoạt động, nó ngưng hoạt
động. Định thứ nhất là vô tưởng định (vô tưởng tam muội, vô
tưởng tam ma bạt đề, asamjniaka samapati) khi đi vào định này
thì không có tri giác nữa. Vẫn có mặt đó nhưng mà ngưng tri giác
đi, thành ra có súng nổ mình cũng không biết. Và cái ta ma bạt
đề thứ hai gọi là diệt tận định (nirodha samapatti). Không có
tri giác mà cũng không có cảm thọ nữa gọi là diệt thọ tưởng
đinh. Chữ nirodha này có nghĩa là diệt, tức là sự chấm dứt. Vậy
thì, trừ khi mình sinh trên cõi trời vô tưởng, trừ khi mình đi
vào trong vô tưởng định và diệt tận định. “Trong hai định vô
tâm, ngủ say và bất tỉnh”. Ngủ say tức là trạng thái ngủ mà
không có mộng. Tại vì khi mà mình ngủ mà có mộng thì lúc đó ý
thức còn hoạt động, thức thứ sáu còn hoạt động, nhưng khi ngủ
say mà không có một thì lúc đó ý thức được nghỉ ngơi. Và trường
hợp kế tiếp là trường hợp bất tỉnh (coma), “bất tỉnh nhân sự”.
Vì vậy cho nên có năm trường hợp mà trong đó ý thức không có làm
việc và sinh lên cõi trời vô tưởng, hai định vô tâm, ngủ say và
bất tỉnh.
Ý thức thường hiện hành, trừ chân trời vô tưởng, trong hai
định vô tâm, ngủ say và bất tỉnh”. Và bài kệ này nó chỉ
chứng tỏ một điều là thức thứ sáu là thẩm mà không phải là hằng.
Nó chỉ thẩm sát, có tư duy nhưng mà nó không có liên tục như là
thức thứ tám và thức thứ bảy. Bấy giờ chúng ta đi sang bài kệ
thứ 27.
KỆ THỨ 27
Năm trạng thái ý thức
Là tán vị, độc đầu
Trong định hoặc điên loạn
Cùng trường hợp ngũ câu.
Thức thứ sáu có năm hình thái hoạt động. Khi mà nó hoạt
động với năm thức trước, gọi là ý thức ngũ câu. Chữ câu
này có nghĩa là chung. Chữ ngũ này có nghĩa là năm cái, chung
với năm cái. Ví dụ như là khi mình nhìn một cái bông hoa thì tác
dụng của nhận thức của mình là nhãn thức, nhưng mà mình để ý vào
chuyện đó, thì ý làm việc chung với nhãn. Ý thức làm việc chung
với nhãn thức, thức đó là ngũ câu.
Còn khi mà mình nhìn bông hoa mà cái ý mình để chỗ khác thì là
hai anh chàng đó làm việc riêng. Nhãn thức nhìn bông hoa, còn ý
thức suy nghĩ chuyện khác, đó không phải là ngũ câu, đó không
phải là trường hợp cộng tác giữa thức thứ sáu và thức thứ năm.
Ví dụ như đi học bằng xe đạp mà mình học bài chưa thuộc và sợ
Thầy rầy. Mình vừa đạp xe vừa ôn bài. Vì vậy nên ý thức của mình
nó bận làm việc riêng, nó làm việc độc lập. Trong khi đó nhãn
thức nó làm việc độc lập, và nhãn thức đủ sức để hướng dẫn mình
đạp xe đúng đường. Gặp xe hàng lớn, mình đủ sức tránh đi. Và đi
vào trường học có những luống hoa thì xe đạp đi vòng theo luống
hoa rất là đúng. Thành ra chúng ta thấy rằng hai thức nó làm
việc riêng. Nhãn thức, tức là cái thấy, nó làm việc riêng. Và
cái ý thức nó làm việc riêng. Khi mà nó làm việc chung thì gọi
là ngũ câu ý thức.
Vậy thì chánh niệm có thể được thể hiện trong khi ý thức nó làm
việc chung với năm thức kia và có khi nó làm việc một mình thì
đều có chánh niệm cả. Ví dụ như mình nhìn một bông hoa và mình
để ý tới bông hoa, đó là trường hợp ngũ câu, phải không? và có ý
thức chánh niệm thì bông hoa nó hiện rõ ra, hiện rõ ràng ra hơn.
Còn khi năm thức kia nó không có làm việc, ví dụ như là mình có
một cái tư tưởng giận hờn nó nổi lên, nó không có dính líu tới
năm thức cả thì trường hợp ý thức hoạt động độc lập, nếu mà mình
có chánh niệm, biết rằng mình đang giận thì trong trường hợp đó
ý thức làm việc riêng nó cũng có thể có chánh niệm được. Trường
hợp mà riêng như vậy thì gọi là ý thức độc lập.
Độc là độc lập. Ý thức độc lập hay là ý thức độc đầu.
Chúng ta thử vẽ bức tranh thứ sáu và chúng ta thử vẽ năm bức
kia, tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân
thức. Trường hợp mà nó làm việc chung gọi là ý thức ngũ câu. Tức
là nhãn thức làm việc chung với ý thức. Trường hợp nó làm việc
riêng gọi là độc đầu, ý thức độc lập. Trong khi chúng ta ngồi
thiền, chúng ta thường muốn đóng năm giác quan lại để chúng ta
đem hết năng lượng của ý thức tập trung ở giữa. Chúng ta muốn
thực hiện trường hợp ý thức độc đầu. Và vì vậy cho nên
khi những hình ảnh, những âm thanh ở ngoài đi vào chúng ta không
có tiếp nhận nó. Cái ý thức này hoạt động độc lập. Khi mà chúng
ta suy nghĩ chuyện này chuyện khác, lo lắng, buồn phiền, nghĩ
ngơi, tưởng tượng tùm lum hết mà không có cộng tác với cái thấy,
cái nghe, cái ngửi, cái nếm và cái xúc chạm thì lúc đó ý thức
hoạt động độc lập nhưng mà gọi là ý thức tán vị. Vị
tức là cái vị trí, trong cái thế đứng. Tán tức
là nó phân tán, nó tán loạn. Cái này mình hay mắc
phải lắm. Ý thức của mình hay tán vị lắm, suy nghĩ mông lung,
nghĩ quanh nghĩ quẩn, nghĩ lên, nghĩ xuống, nghĩ ra, nghĩ vào,
không bao giờ ngừng nghĩ tại vì ý thức tán vị. Nhưng mà khi ta
biết sử dụng hơi thở, đem tất cả năng lượng ý thức về một mối,
không suy nghĩ nữa, duy trì năng lượng của ý thức trên một đối
tượng thì gọi là ý thức trong định gọi là định trung ý thức.
Một là ý thức Ngũ câu, là ý thức làm việc
chung với năm thức cảm giác. Hai là thức độc đầu
tức là ý thức làm việc một mình. Ba là ý thức tán vị,
ý thức trong trường hợp không có ý định. Bốn là ý thức
trong định, và cố nhiên là khi có chánh niệm thì chúng
ta có định. Chánh niệm càng mạnh càng sáng, định càng vững. Ở
đây là một trạng thái ý thức rất có lợi làm chúng ta cần thực
tập hàng ngày. Trường hợp thứ năm là ý thức điên loạn
(loạn trung ý thức), tức là cái đầu của mình nó mad, nó
điên, nó không có định, cái này bắt đầu mắc bệnh tâm thần, bất
thường. Vì vậy cho nên ý thức của chúng ta, nó làm việc trong
năm trường hợp: trường hợp ngũ câu, trường hợp độc đầu,
trường hợp tán vị, trường hợp trong định và trường hợp điên
loạn.
Bây giờ chúng ta trở lại thức thứ tám, tức là alaya thức. Alaya
thức - như đã nói, tất cả các thức và tất cả các tâm sở - nó
được chia làm ba phần. Ba phần nhưng là một. Một phần là kiến,
tức là chủ thể. Một phần là tướng, tức là đối tượng. Và
một phần là tự thể. Chúng ta hãy nhớ lại đồng France.
Đồng France có mặt trái, mặt phải và cái chất kim khí làm ra
đồng France. Phải nhớ như vậy, chứ đừng có tưởng là mình có thể
chia ba cái đó, mỗi cái nó đi một ngã thì không có được. Thức
thứ bảy phát sinh từ những cái vô minh, từ những cái thèm khát,
những cái ước vọng ở trong con người mình. Nó có những hạt giống
và bắt rễ từ những hạt giống đó, một hình tướng sinh khởi. Phát
sinh từ tự thể phần của alaya, thức mạt na quay trở lại níu lấy
alaya, níu lấy kiến phần và do sự giao thoa giữa thức thứ bảy và
thức thứ sáu đó mà tạo được một hình ảnh, đối tượng của sự bám
víu của thức thứ bảy, một hình ảnh gọi là đới chất. Đây là người
yêu, đây là người bị yêu. “Bị yêu” chứ không phải là “Được yêu”.
Và vì vậy cho nên thức thức bảy dựa trên thức thứ tám để phát
sinh. Và khi phát sinh rồi nó níu lấy thức thứ tám làm đối
tượng, và nó cứ ôm lấy thức thứ tám để làm đối tượng. Thành ra
thức thức tám trở thành một nạn nhân, một đối tượng. Căn cứ trên
thức thứ bảy phát sinh ra một thức khác gọi là thức thức sáu, là
ý thức (mano vijnana). Và chính cái thức thứ sáu, mà chúng ta
vừa mới học, chúng ta biết rằng thức thứ sáu nó dựa trên mạt na
và nó có thể hoạt động riêng biệt hoặc là hoạt động chung với
năm thức trước.
KỆ THỨ 28
Năm thức cảm giác sinh
Dựa trên dòng ý thức
Phát hiện riêng hoặc chung
Như sóng nương trên nước.
Năm
thức này gọi là năm thức đầu hoặc năm thức cảm giác. Năm thức đó phát sinh
dựa trên dòng ý thức. “Phát hiện riêng hoặc chung, như sóng nương trên
nước”.
Có thể nói là thức thứ sáu là nước và năm thức trước là sóng. “Năm
thức cảm giác sinh, dựa trên dòng ý thức, phát hiện riêng hoặc
chung, như sóng nương trên nước”. Phát hiện riêng hoặc chung
có nghĩa là khi nhận thức nó phát hiện một mình, nó làm việc với
ý thức thôi, và bốn thức kia không phát hiện thì gọi là riêng,
tức là có khi nhìn mà không cần nghe. Trong trường hợp đang coi
triển lãm, thích một bức tranh, mình dùng nhãn thức để mà thưởng
thức bức tranh và đem tất cả ý của mình để hướng về bức tranh,
như vậy mình đóng cửa bốn thức cảm giác kia, tại vì mình thích
cái này quá, thành ra trong này có định và mình đóng cửa bốn cái
cảm giác kia. Có một người bạn đến sau hỏi: “Anh đến hồi nào
vậy?”. Mình không có nghe, tức là cái tai không có làm việc.
Người đó đưa tay vỗ mình cũng không có biết nữa, tại vì mình
đang hoàn toàn bị thu hút vào bức tranh đó. Trong trường hợp đó
nhãn thức làm việc riêng, phát hiện riêng.
Còn khi mà các cháu coi phim trên máy truyền hình thì cố nhiên
phải dùng cả mắt và cả tai. Tại vì mắt đang nhìn hình ảnh ông đó
đang cầm súng, và tai để nghe ông ta hét và ông ta bắn súng. Và
như vậy là phát hiện chung.
“Năm thức cảm giác sinh, dựa trên dòng ý thức, phát hiện riêng
hoặc chung”. Có khi năm thức hoạt động chung một lần, có khi năm
thức hoạt động riêng biệt. và khi chúng nó hoạt động chung một
lần thì cái sức định của nó không có vững, không có nhiều. Ví dụ
như là mình có một bình điện mà mình mắc vào năm cái bóng điện
hay là năm chục cái bóng điện thì cố nhiên là bóng điện đó nó
thiếu điện nó yếu đi, và nếu mình gỡ bốn mươi chín cái bóng điện
kia ra thì cái bóng này tự nhiên nó sáng ra. Và vì vậy cho nên
cái năng lượng của ý thức nó có hạn. và nếu mình đem xài nhiều
chuyện quá thì không có chuyện nào vững chãi hết. Mình phải tập
trung ý lại một chỗ thì mình mới có đủ năng lượng.
Do đó khi mà chúng ta muốn nhìn hay là muốn nghe hay là muốn
ngửi một cái gì mà để thấy rõ được, có cái tri giác thật thâm
sâu, thật vững chãi thì chúng ta thường đóng cửa những cái thức
cảm giác khác chỉ để cho một cái thức cảm giác làm việc thôi. Và
khi chúng ta đang muốn quán chiếu một cái điều gì thì chúng ta
quay về trung tâm của ý thức và làm việc có ý thức trong định
rất vững chãi. “Phát hiện riêng hoặc chung, như sóng nương
trên nước”. Sóng tức là năm thức cảm giác, còn nước là thức
thứ sáu.
KỆ THỨ 29
Tánh cảnh và hiện lượng
Có ba tánh đầy đủ
Nhờ vào tịnh sắc căn
Và cảm giác trung khu.
Đây là nói về phạm vi nhận thức của năm thức. Năm thức nếu mà
hoạt động độc lập thì có thể đạt đến tánh cảnh. Trong trường hợp
năm thức cộng tác với thức thứ sáu, nếu hoạt động trực tiếp cũng
có thể đạt tới tánh cảnh. Và cái hình thái nhận thức của năm
thức là hiện lượng, tức là nhận thức trực tiếp gọi là
pratyaksa pramana bài 29 này phải chú ý lắm mới được, tại có
liên hệ tới tất cả các thức. “Tánh cảnh và hiện lượng, có ba
tánh đầy đủ”. Tức là có tính cách thiện, có tính cách ác và
có tính cách vô ký. “Nhờ vào tịnh sắc căn, và cảm giác trung
khu”. Tịnh sắc căn tức là hệ thống thần kinh cảm giác. Tịnh
sắc có nghĩa là vật chất nhưng là thứ vật chất vi tế, gọi là
tịnh. Ví dụ như con mắt của mình, nó là căn, nhưng nó không phải
là tịnh sắc căn mà nó là thô sắc căn. Nó là con mắt, nó là căn
cứ phát sinh ra cái thấy. Nhưng cái phần mình thấy là phần thô.
Còn nằm sâu ở trong phần căn thô nó có cái căn rất vi tế gọi là
tịnh sắc, đó là thần kinh thị giác, những dây thần kinh thị giác
nằm ở trong đó, cũng thuộc về căn nhưng mà căn vi tế gọi là căn
tịnh sắc. “Cảm giác trung khu” tức là trung khu cảm giác.
Khi mà con mắt tiếp nhận một cái hình ảnh của cái hoa, thì hình
ảnh của cái hoa đó gây ấn tượng trong võng mô của mình. Tịnh sắc
căn truyền cái hình ảnh đó vào trung tâm cảm giác ở trong óc,
cái đó gọi là trung khu cảm giác. Bây giờ chúng ta ôn lại ý niệm
về hiện lượng, về tánh cảnh. Hiện lượng là nhận thức trực tiếp
không có qua trung gian suy luận. “Tánh cảnh và hiện lượng”.
Đây là nói về năm thức của cảm giác. Câu này có ý nghĩa là năm
thức của cảm giác chỉ dùng một hình thái nhận thức gọi là hiện
lượng thôi. Tức là nó nhận thức trực tiếp không qua trung gian
suy luận và vì vậy cho nên thỉnh thoảng nó có thể đạt tới tánh
cảnh. Nhưng mà khi nó cộng tác với thức thứ sáu và thức thức sáu
đem tới yếu tố phân biệt, đem tới yếu tố danh ngôn ý niệm và so
sánh thì đó không còn là tánh cảnh nữa và trở
thành đới chất cảnh, ví dụ một em bé hay một người
lớn nhìn một cái gì đó nhìn một cách rất là vô tâm, ở trong cái
nhìn đó không có sự so sánh, không có những kỷ niệm vui buồn,
không có đưa những hạt giống trong tiềm thức ra, trong Alaya
thức ra để so sánh, để phán đoán thì trong cái nhìn đó,
trong cái nhìn vô tâm, trong cái nhìn hiện lượng thì hình ảnh
của tánh cảnh có thể đạt tới được. Trong giây phút đầu mà chưa
có sự so sánh chưa có danh từ, chưa có kỷ niệm, chưa có sự phối
hợp với những chủng tử từ ở trong người của mình thì lúc đó năm
thức có thể đạt tới hiện lượng. Mà khi thức thứ sáu nó xen vào
nó đưa những kỷ niệm những cái kinh nghiệm, những cái vui buồn
những cái so sánh của nó vô thì hiện lượng không còn nữa, không
còn là tánh cảnh nữa. Chúng ta nhớ rằng thức thứ tám nó cũng là
hiện lượng và nó cũng đạt được tánh cảnh. Chủ thể của thức thứ
tám, hình thái nhận thức của thức thứ tám là tánh cảnh. Nhưng mà
thức thứ bảy không phải như vậy. Thức thứ sáu cũng không phải
như vậy. Thức thứ bảy không phải như vậy là vì thức thứ bảy nó
bị che lấp, và vì vậy cho nên nó không là chân hiện lượng, nó là
tợ hiện lượng. Thức thứ sáu có ba lượng. Nó có hiện lượng, tỷ
lượng. Và có phi lượng. Còn năm thức đầu trong trường hợp không
có suy tư, trong trường hợp độc lập có thể đạt tới tánh cảnh.
Chúng ta có thể nhớ tới cái câu mà Bụt nói từ trước là tưởng tức
là hồi tưởng. Tri giác tức là nhớ lại và so sánh với những cái
kinh nghiệm, cảm giác của mình có sẵn trong con người của mình.
Vì vậy cho nên cái hình ảnh kia là hình ảnh từ trong con người
tạo ra. Ví dụ mình nghe cái tên một người, ví dụ cái tên người
đó là Nguyễn Văn A nhưng mà có thể chúng ta đã có những cảm
nghĩ, những cái kinh nghiệm, những đau khổ, những vui buồn có
liên hệ tới cái tên Nguyễn Văn A. Và Nguyễn Văn A đó là Nguyễn
Văn A “của ta”, của niềm đau “của ta”, của nỗi khổ “của ta”, của
hạnh phúc “của ta”, nó có sẵn có trong. Thành bây giờ chúng ta
nghe Nguyễn Văn A một cái thì biết bao nhiêu cái ở trong này nó
trỗi dậy. Và cái nhận thức của ta về Nguyễn Văn A là cái nhận
thức lấy từ cái trong người của ta ra nhiều hơn là cái thực tại
bản thân mà chúng ta muốn nhận thức. Và vì vậy cho nên cái tri
giác của chúng ta, cái nhận thức của chúng ta tùy thuộc rất
nhiều ở những cái hạt giống có sẵn trong thức alaya. Và
vì vậy cho nên khi mạt na tham dự vào và đưa những cái
này lên để so sánh, để suy tư, thẩm sát thì hình ảnh không còn
là hình ảnh chân thật của tự thân nữa và hình ảnh đã được nhuộm
bởi những cái tình cảm, những cái kỷ niệm, những cái thấy, những
cái biết có sẵn của mình và cái sự vật mình không có đạt tới cái
tự thân của nó được, nó không còn là tánh cảnh. Nhưng mà khi
chúng ta nhìn cái hoa hay cái màu trời xanh hay bất cứ một cái
gì đó mà chưa có sự tham dự của ý thức với những cái kho kỷ
niệm, những cái kho kinh nghiệm thì chúng ta đạt tới tánh cảnh,
hồn nhiên như em bé mới sanh ra. Nói như vậy không có nghĩa năm
thức đầu có khả năng làm chuyện đó. Thức thứ sáu nó cũng có khả
năng làm chuyện đó. Tại vì thức thức sáu có ba hình thái nhận
thức: một là hiện lượng, hai là tỷ lượng, ba là phi lượng. Tức
là thức thứ sáu có khi cũng sử dụng trực giác được, và nó không
có đem những kinh nghiệm, những đau buồn, những cái suy xét có
sẵn để mà tô lên cái hình ảnh của thực tại nó có thể. Tại vì
chúng ta học về thức thứ sáu, chúng ta nói rằng: Tiếp xúc
với ba cảnh, Thông ba tánh ba lượng. Đó là bài thức 24,
tức là thức thứ sáu cũng có thể đạt tới bản chất của tánh cảnh.
Thức thứ sáu khi đem cái kho kỷ niệm và kinh nghiệm của mình ra
để mà nhận thức thì đạt tới đới chất mà thôi. Vậy thì chúng ta
ôn lại là thức thứ sáu có thể đạt tới tánh cảnh nhưng mà thường
thường cái cảnh mà nó đạt tới là đới chất và độc ảnh. Cái kho
độc ảnh nó nằm ở đây. Trong giấc mơ, chúng ta trở về lục lọi
trong cái kho đó và chúng ta dùng những hình ảnh độc ảnh để tạo
ra giấc mơ trong đó chúng ta sống. trong trường hợp chúng ta sử
dụng trực giác, không có sự suy nghĩ, và nếu trực giác của chúng
ta đúng, là chân hiện lượng thì chúng ta đạt được tới tánh cảnh.
Nhưng mà thỉnh thoảng trực giác đó sai, thì cái đó gọi là tợ
hiện lượng. Chỉ trong trường hợp chân hiện lượng, chúng ta mới
đạt được tánh cảnh thôi. Nhưng mà thường thường cái thế giới mà
chúng ta nhận thức là thế giới đới chất cảnh. Tại vì thế giới
đới chất là thế giới nó có đèo theo một chút bản chất của thế
giới tánh cảnh thôi, ngoài ra chúng ta dùng những kinh nghiệm,
những kỷ niệm, những kiến thức, những cái thấy của chúng ta và
chúng ta tô màu. Thành ra thế giới trong đó chúng ta sống là một
thế giới nặng về đới chất. Ví dụ như khi chúng ta nhìn bông hoa
này, mà nếu chúng ta nhìn một cách trực tiếp và vô tư, không có
vui, buồn, kỷ niệm thì chúng ta đạt tới tánh cảnh của bông hoa,
nhưng mà khi chúng ta bắt đầu đem tâm niệm sự so sánh và phân
biệt của chúng ta, gọi là vikalpa, tức là đem cái nước
sơn ở dưới này lên sơn. Vikala có khi dịch là phân biệt và tạo
tác ra. Tạo tác có nghĩa là mình đặt ra. Ví dụ như Làng Hồng là
một thực tại và chúng ta muốn biết Làng Hồng trong tự thân của
thực tại của nó thì có thể chúng ta có những ý niệm về Làng
Hồng, chúng ta nghe nói về Làng Hồng, chúng ta có những buồn
đau, giận ghét, kỷ niệm cho nên khi chúng ta tới Làng Hồng, thì
trước hết rằng chúng ta có hy vọng đạt tới một phần tánh cảnh
của Làng Hồng, tức là tự thân của Làng Hồng,. Nhưng mà chúng ta
tạo ra một đới chất cảnh về Làng Hồng của đới chất nhiều hơn là
tánh cảnh. Cũng như mình nói là “người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ”, cái cảnh đó tô màu sự buồn vui của mình. Buổi
khuya ra nhìn trăng, đôi khi mình thấy khỏe, mình thấy nhẹ nhàng
hay là mình thấy buồn rầu thì tất cả những cái màu sắc đó là do
cái tâm của mình đem ra để nhuộm cái cảnh. Ví dụ mình thấy người
đó thì mình không có hạnh phúc hay là mình có hạnh phúc, thì cái
có hạnh phúc hay không có hạnh phúc đó nó tùy thuộc ở chất liệu
trong tâm mình. Có người thấy người đó thì không có buồn nhưng
mà tại sao mình thấy người đó mình lại buồn? Thì cái buồn từ
người đó đi ra hay từ mình đi ra? Nó tự mình đi ra. Và do đó cho
nên thế giới của chúng ta trong đó đang sống là thế giới nặng nề
về đới chất. Và tuy rằng trên nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
tới thế giới của thực tại thân của tánh cảnh, nhưng mà nếu chúng
ta bị giam hãm nhiều quá trong thế giới đới chất thì chúng ta
khó có cánh cửa để đi ra thế giới của bản chất. Năm anh chàng
này mà nếu không có bị anh chàng thứ sáu úp chụp lên những cái
màu sắc của kỷ niệm, của vui buồn, của thương ghét thì năm anh
chàng này đạt tới tánh cảnh. Nhưng mà khi chúng ta đưa yếu tố
chánh niệm vào ý thức thì chúng ta có thể bắt đầu thay đổi. Khi
mình thấy mình nghe một cái gì đó, rồi cái thấy cái nghe của
mình đó nó tự nhiên nó đưa tới cho mình những cái cảm thọ hoặc
là vui, hoặc là buồn, thì có chánh niệm, mình mới có cơ hội đặt
câu hỏi: “Cái này là cái gì? Đới chất hay là thế giới tánh
cảnh. Có phải thực tại nó ở ngoài như vậy không? hay là chính
mình tạo ra cái thực tại đó?” và khi mà mình bình tĩnh: “Tại
mình”, thì mình bắt đầu thấy. Ví dụ mình đi vào cái tiệm bán
áo. Người ta trưng bày năm sáu chục cái áo thành một hàng, mình
đi ngang qua mình nhìn. Muốn chọn một cái áo, mình có cảm tưởng
rằng mình là một con người tự do, cái nào đẹp thì mình nói: “Tôi
muốn cái này tôi sẽ mua cái này” giống như là tất cả đều tùy
thuộc vào cái tánh cảnh ở ngoài: nó đẹp thì mình cho là nó
đẹp. Nhưng mà mình không có ngờ rằng tất cả đều được sắp
đặt sẵn. Ở đây ý niệm về đẹp, xấu của mình, nó có sẵn rồi. Mình
đi ngang qua cái áo đó thì mình “dính” mà không phải cái
áo đó có mủ mít, mà chính là cái mủ mít nó nằm trong này, cái
tâm thức của mình, đi ngang đó thì dính. Vì trong tàng thức của
mình, mình đã được giáo dục, mình đã được kinh nghiệm, mình đã
được nhiều cái huân tập. Và theo cái thấy đó, theo kinh nghiệm
đó, theo nhận thức đó thì cái đẹp nó phải là như vậy thì mới
đẹp. Và khi đi ngang qua cái áo đó, mình nói: “Cái này, tôi
muốn cái này, cái này đẹp”. Thì cái đẹp đó là một thực tại
khách quan hay là một cái thực tại chủ quan? Nếu có chánh niệm
thì mình có thể đạt được câu hỏi, mình mỉm cười “Đẹp tức là
nó đẹp với ai?”. Bây giờ mình đi tới cái chỗ hơi khó một
chút, là cái chỗ ở trong và ngoài. Nếu mà chúng ta học kỹ những
bài cũ thì chúng ta có cơ hội hiểu. Ví dụ đây là nhãn thức. Khi
mà chúng ta nhìn một cái đỉnh núi có tuyết. Cố nhiên nhìn với
cái nhìn tánh cảnh thì chúng ta thấy chúng ta đạt tới cái bản
chất của nó. Khi mà hình ảnh của chúng ta là hình ảnh là hình
ảnh đới chất đó thì chúng ta không có đạt tới tánh cảnh mà chúng
ta chỉ tạo tác ra hình ảnh và chúng ta biết rằng hình ảnh đó có
nương tựa trên một ít chất của tánh cảnh. Và khi mà trong mộng
ta thấy hình ảnh đó từ khi tỉnh dậy chúng ta biết rằng hình ảnh
từ ở trong này. Nhưng mà trong trường hợp chúng ta đang tỉnh
táo, chúng ta đang ngắm một cái núi tuyết thì chúng ta đặt câu
hỏi: “Cái núi tuyết đó nó có ngoài chúng ta hay là nó có ở
trong lòng chúng ta?” Tính cách khách quan của thế giới thực
tại, tức là ngoài tâm của mình, ngoài thức của mình nó có một
thế giới độc lập không? Vấn đề được đặt ra như vậy thì Duy Biểu
dạy chúng ta biết rằng cái núi của tánh cảnh, theo nguyên tắc,
chúng ta có thể đạt tới được trong trường hợp chúng ta không có
nặng nề. Nó có liên hệ tới thức thứ tám. Trong khi chúng ta học
về thức thứ tám, chúng ta biết rằng thức thức tám nó có tác dụng
giữ gìn năng lượng và làm biểu hiện ra ba thứ. Một là căn thân,
hai là thế giới, ba là những cái thức. Vậy thì chúng ta biết
rằng cái núi mà chúng ta đang nhìn, chúng ta đạt tới cái đới
chất của nó hay cái tánh cảnh của nó? Cái núi đó nó là biểu hiện
của thức alaya. Tại vì thức alaya có hai công dụng là
duy trì và biểu hiện. Và cái thế giới tánh cảnh đó là
cái biến tướng của thức alaya. Và cái thức alaya mình gọi là
cộng biểu và tự biểu. Núi này là một hình ảnh vừa
cộng vừa tự biểu. Đây là chỗ khó của Duy Biểu học. Trong khi
chúng ta học về thức thứ tám thì chúng ta đã nhấn mạnh khá nhiều
nếu mà chúng ta nhớ thì bây giờ chúng ta có cơ hội hiểu. Và vì
vậy cái núi kia nó không có tính cách hoàn toàn khách quan là
tại vì sao vậy? Nếu chúng ta nhớ cái đoạn mà chúng ta đã học một
kỳ rồi là một hình ảnh cây đèn cầy và nó tạo ra hai ba vùng ánh
sáng của nó. Và một cây đèn khác nó cũng tạo ra hai ba vùng ánh
sáng của đó. Thì chúng ta biết rằng cái vùng ánh sáng này vừa có
tính cách cộng biểu vừa có tính cách tự biểu. Ánh sáng của nó
phát ra cũng là ánh sáng của cây đèn kia phát ra. Cái vùng này
vừa có tính cách cộng biểu vừa có tính cách tự biểu. Vùng này
cũng có nhưng mà nó khác nhau. Vậy thì cái núi kia, cái núi gọi
là Purine là một phát hiện, là một biểu hiện của tâm thức cộng
đồng, của alaya cộng đồng. Và đối với những người sống ở vùng đó
thì tính cách tự biểu nó nhiều hơn cộng biểu. Cũng như tịnh sắc
căn, thần kinh hệ của mắt tôi có đó, có liên hệ tới anh. Tại vì
nếu tôi lái xe không cẩn thận thì anh có thể chết, nhưng mà nó
liên hệ tới tôi nhiều hơn và thần kinh thị giác của tôi nó có
tính cách tự biểu nhiều hơn là cộng biểu. Cái gì cũng có tự có
cộng hết. Thì cái núi kia cũng vậy. Trái đất nó cũng vậy. Ví như
đất nước Việt Nam đó cũng là một cái hình ảnh cộng biểu, một
phát hiện cộng đồng của tâm thức tất cả mọi người. Nhưng mà đối
với người Việt thì nó nặng về tự biểu và đối với người bên Úc
thì nó nặng về cộng biểu hơn vì vậy cho nên cái núi này là một
hình ảnh phát hiện ra từ tâm thức cộng đồng. Chúng ta có một độc
ảnh của hòn núi đó, chúng ta cất gì ở đây, và khi chúng ta đến
chân núi chúng ta nhìn lên, có thể là chúng ta có một hình ảnh
đới chất về hòn núi đó. Tức là chúng ta có đạt tới một phần bản
chất của nó nhưng mà nặng về đới chất. Khi nào mà những cái đau
buồn, những cái kỷ niệm, những cái thành kiến trong chúng ta
sạch đi thì từ từ chúng ta đạt tới tánh cảnh. Cái tướng phần của
alaya thức là nó như vậy. Thành ra, khi nào mà tôi rờ cái bàn
này, tôi nhìn bông hoa này, tôi uống nước trà này, thì tất cả
những cái này, cái nhà này, tất cả những cái người mà ngồi trong
phòng tôi đều nằm trong phạm vi tướng phần của alaya thức. Nhưng
không phải alaya hoàn toàn tự biểu, nó là một thứ sản phẩm cộng
biểu và tự biểu như nhau. Chúng ta sẽ lập lại dưới một hình thức
khác. Vậy thì khi thức thứ sáu nhận thức một đối tượng, ví dụ
như đối tượng đó là một trái núi, thì đối tượng đó nó lấy tướng
phần của thức alaya làm duyên ít nhất đó là Tăng thượng duyên.
Thức thứ sáu nó được phát hiện từ thức alaya, tại vì nó là một
chuyển thức. Chúng ta ta có bảy chuyển thức đều phát hiện từ
thức alaya. Và vì vậy cho nên ở đây là nhân duyên (hetu
pratyaya). Khi nó phát hiện ra rồi thì nó có đối tượng của
nó, đối tượng của nó gọi là sở duyên duyên và cái tướng
phần này, cái kiến phần này, cái mạt na này đều là những điều
kiện nó giúp cho hai cái đó phát triển được, cái đó gọi là tăng
thượng duyên. Cái hạt giống ở trong tàng thức là nhân
duyên. Đối tượng nhận thức của mình là sở duyên
duyên, và những điều kiện khác giúp vào là Tăng
thượng duyên. Còn cái duyên thứ tư nữa là sự liên tục,
tức là cái trước nó đưa tới cái sau, nếu không có cái trước thì
không đưa tới cái sau được. Cũng như khi mà một con voi đang đi
mình quay phim. Mình lấy hình ảnh trước rồi mới có hình ảnh sau
và hình ảnh sau và hình ảnh sau nữa. Giá dụ cái hình ảnh trước
không có thì hình ảnh sau cũng không có. Hình ảnh đằng trước đó
là đẳng vô gián duyên.
KỆ THỨ 30
Tâm sở là biến hành
Biệt cảnh, thiện, đại tùy
Trung tùy hai phiền não
Và cả tham, sân, si.
Tức là những tâm sở mà nó cộng tác với năm thức cảm giác đó là
năm tâm sở biến hành, rồi đến năm tâm sở biệt cảnh,
rồi đến 11 tâm sở thiện, 8 tâm sở đại tùy, 2 tâm sở trung tùy
và trong đó có cả tham, sân, si nữa. Tức là năm thức đầu,
nếu mà nó cộng tác với thức thứ sáu thì nó có thể trôi nổi theo
thức thức sáu, do đó cho nên nó có những tâm sở đó đi theo. Còn
nếu trong trường hợp đạt tới tánh cảnh hoạt động trong giây phút
đầu và nó chỉ cần năm tâm sở biến hành thôi, tức là xúc, tác
ý, thọ, tưởng và tư. Những tâm sở bất thiện có những
cái căn bản gọi là căn bản phiền não và ngoài những căn bản
phiền não nó còn có những phiền não phụ thuộc gọi là tùy phiền
não. Và tùy phiền não chia làm ba hạn: một là tiểu tùy,
hai là trung tùy và ba là đại tùy.
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10
---o0o---
-
Vi tính
Nguyên Trang. Trình bày: Linh Thoại
-
Cập nhật: 8-1-2005
|
|